Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

PHỐI hợp các lực LƯỢNG xã hội TRONG GIÁO dục CHÍNH TRỊ, tư TƯỞNG CHO cán bộ, CÔNG CHỨC cấp xã ở HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH sơn LA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.02 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

PHAN VĂN MÙI

PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC
CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
Ở HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

Chuyên ngành: Giáo dục và Phát triển cộng đồng
Mã số: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Hồng

Hà nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các số liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận án là trung thực. Kết quả
nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố trước
đó.
Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn

Phan Văn Mùi



LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân thành
nhất tới PGS.TS Nguyễn Văn Hồng, người đã trực tiếp hướng dẫn, định hướng
cho tôi trong quá trình nghiên cứu; hỗ trợ về mọi mặt để tác giả hoàn thành Luận
văn này.
Xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Phòng
Sau Đại học, cùng các cán bộ, giảng viên của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho học viên trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.
Trân trọng cảm ơn Ban Thường vụ, Ban chấp hành Đảng ủy huyện Mường
La và các xã đã hỗ trợ, giúp đỡ để tác giả hoàn thành công trình nghiên cứu khoa
học của mình.
Xin được bày tỏ lòng tri ân đến gia đình, người thân và bạn bè đã động
viên, chia sẻ, khích lệ tác giả trong suốt thời gian học tập và hoàn thành Luận
văn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Tác giả Luận văn

Phan Văn Mùi


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Đọc là

CB

Cán bộ


CC

Công chức

VC

Viên Chức

CBCC

Cán bộ công chức

CBCC CX

Cán bộ công chức cấp xã

BCH

Ban Chấp hành

UBND

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1


1. Lí do chọn đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu

2

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

2

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

.

5. Giả thuyết khoa học

3

6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

3

7. Phương pháp nghiên cứu

4

8. Cấu trúc của luận văn


5

3

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI
TRONG GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CẤP XÃ

6

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

6

1.2. Một số khái niệm cơ bản

8

1.2.1. Giáo dục

9

1.2.2. Tư tưởng chính trị

10

1.2.3. Cán bộ công chức cấp xã

17


1.3. Phối hợp các lực lượng xã hội giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công
chức cấp xã

24

1.3.1. Vai trò, ý nghĩa, mục đích giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức
cấp xã

24

1.3.2. Chủ thể giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã

26

1.3.3. Khách thể giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã

26

1.3.4. Nội dung giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã

26

1.3.5. Phương pháp giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã

28

1.3.6. Hình thức giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã

28



1.3.7. Phối hợp các lực lượng xã hội giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công
chức cấp xã

32

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến phối hợp các lực lượng xã hội giáo dục chính trị
tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã

33

Tiểu kết chương 1

33

Chương 2. THỰC TRẠNG PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI TRONG
GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP
XÃ Ở HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

35

2.1. Khái quát về điều kiện kinh tế - xã hội

35

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

35


2.1.2. Điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội

35

2.1.3. Cơ cấu tổ chức hành chính của cấp ủy, chính quyền huyện Mường La hiện
nay.

37

2.2. Thực trạng phối hợp các lực lượng xã hội giáo dục chính trị tư tưởng cho
cán bộ công chức cấp xã

42

2.2.1. Nhận thức của đảng viên, cán bộ viên chức về giáo dục chính trị tư tưởng
cho cán bộ công chức cấp xã

42

2.2.2. Thực trạng phối hợp về nội dung giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ
công chức cấp xã tại đảng bộ huyện Mường La.

44

2.2.3. Thực trạng phối hợp về phương pháp GDTTCT cho CBCC cấp xã

46

2.2.4. Thực trạng phối hợp về hình thức GDTTCT cho CBCC cấp xã


47

2.2.5. Thực trạng phối hợp đánh giá hiệu quả GDTTCT cho CBCC cấp xã

48

2.5.2. Công tác tổ chức thực hiện

51

2.2.6. Đánh giá chung thực trạng phối hợp các lực lượng xã hội giáo dục chính
trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã

55

2.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động phối hợp các lực lượng xã
hội giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã

60

Tiểu kết chương 2

62


CHƯƠNG 3. ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI
TRONG GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CẤP XÃ Ở HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

63


3. 1. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp

63

3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa

63

3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn

64

3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả

65

3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ

65

3.1.5. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi

66

3.2. Các biện pháp phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục chính trị tư
tưởng cho cán bộ công chức cấp xã ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La

66


3.2.1. Biện pháp 1. Nâng cao nhận thức của CB, CC cấp xã về vai trò, ý nghĩa,
tầm quan trọng của giáo dục chính trị tư tưởng cho CB, CC cấp xã.

66

3.2.2. Biện pháp 2. Phối hợp các lực lượng xã hội đổi mới về nội dung, chương
trình giáo dục tư tưởng phù hợp với tình hình mới và phù hợp với đặc điểm của
CB, CC, VC ở huyện Mường La tỉnh Sơn La

69

3.2.3. Biện pháp 3. Phối hợp các lực lượng xã hội đổi mới phương pháp giáo
dục , nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên của cơ sở ở huyện Mường La
tỉnh Sơn La hiện nay.

71

3.2.4. Biện pháp 4. Phối hợp các lực lượng xã hội nhằm phát huy tính tích cực, ý
thức tự học tập, rèn luyện của cán bộ cấp cơ sở huyện Mường La tỉnh Sơn La
hiện nay

72

3.2.5. Biện pháp 5. Phối hợp các lực lượng xã hội trong công tác kiểm tra, đánh
giá chất lượng giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã ở huyện
Mường La, tỉnh Sơn La.

73

3.2.6. Biện pháp 6. Nâng cao chất lượng sinh hoạt tư tưởng chính trị cho cán bộ,

công chức cấp xã thông qua sinh hoạt chi bộ; thông qua các cuộc họp, các buổi
sinh hoạt định kì hay đột xuất

74

3.3. Mối liên hệ giữa các biện pháp

76

3.5. Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biên pháp đề xuất

77


3.5.1. Mục đích của khảo nghiệm

77

3.5.2. Nội dung và phương pháp khảo nghiệm

77

3.5.4. Kết quả khảo nghiệm về tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp đề
xuất

78

Tiểu kết chương 3

83


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

84

1. Kết luận

84

2. Khuyến nghị

85


MỞ ĐẦU
2. Lí do chọn đề tài
Trong sự vận động của mỗi quốc gia, cán bộ luôn giữ vị trí, vai trò đặc
biệt quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Để lãnh đạo thắng lợi sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, Đảng ta đã tiến
hành công cuộc đổi mới nhằm nâng cao năng lực, sức chiến đấu và đặc biệt là
lòng tin yêu của nhân dân. Công cuộc đổi mới đòi hỏi chúng ta phải có một
chương trình hành động toàn diện cho mọi ngành, mọi lĩnh vực. Trong đó có
nhiều lĩnh vực còn xa lạ hoặc hoàn toàn mới mẻ với chúng ta. Điều đó đòi hỏi
phải có một đội ngũ cán bộ đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức và kiến
thức sâu về , cần phải có sự khái quát, phân tích bằng tư duy lý luận thì mới có
thể nhận thức và giải quyết được.
Hơn nữa, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã và
đang thu được nhiều thành tựu quan trọng, tạo tiền đề vững chắc để đất nước
bước vào một giai đoạn phát triển mới. Trong tình hình đó, đòi hỏi Đảng, Nhà
nước và mọi cán bộ, đảng viên phải tích cực đổi mới về tư duy, nâng cao trình

độ của mình. Đặc biệt, người cán bộ cơ sở phải có trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, trình độ , phẩm chất đạo đức cách mạng…
Hiện nay, tình hình thế giới và trong nước đang có nhiều diễn biến phức
tạp, để giữ vững lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chính quyền cần đặc
biệt chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên nói chung và cán bộ cấp xã nói
riêng có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, không dao động trước mọi biến cố phức tạp, có đủ năng lực
thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước;
có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tôn
trọng tập thể, gắn bó với nhân dân. Đây là vấn đề có ý nghĩa thời sự cấp thiết
hiện nay.
Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đội ngũ cán bộ cấp xã, phường, thị trấn ở nước ta nói
5


chung và ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La nói riêng vẫn còn yếu và hạn chế ở
nhiều mặt như: bản lĩnh chính trị, trình độ nhận thức chính trị, năng lực tổ chức
quản lý, năng lực chỉ đạo hoạt động thực tiễn, phẩm chất đạo đức cách mạng,…
Nhiều cán bộ được đề bạt, bổ sung vào những vị trí khác nhau nhưng chưa được
đào tạo cơ bản về chuyên môn cũng như . Do đó, khi xử lý công việc còn tùy
tiện, kinh nghiệm, giáo điều, chưa vận dụng đúng đường lối, chủ trương, quan
điểm của Đảng vào thực tiễn của địa phương. Để khắc phục tình trạng trên cần
phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến cán bộ cấp cơ sở trong đó vấn đề có ý
nghĩa cấp bách là phải đổi mới, tăng cường hơn nữa công tác đào tạo, nâng cao
trình độ nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng,… cho
họ trong quá trình hoạt động thực tiễn ở địa phương.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng và đề ra các
giải pháp cụ thể thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục cho đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt lý luận và thực

tiễn nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xuất phát từ những yêu cầu cả về mặt lí luận và thực tiễn trên, nhằm góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác kiểm tra, giám sát trong đảng,
tôi chọn đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình với tiêu đề: “Phối hợp các
lực lượng xã hội trong giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp
xã ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng hoạt động giáo dục chính trị
tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã; tôi đề xuất một số biện pháp phối hợp
các lực lượng xã hội trong giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp
xã ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra như trên, đề tài dự kiến sẽ tập
trung vào các nhiệm vụ sau:
3.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng cho
6


cán bộ công chức cấp xã.
3.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng
cho cán bộ công chức cấp xã ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
3.3. Đề xuất một số biện pháp phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo
dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã ở huyện Mường La, tỉnh
Sơn La”.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục chính trị tư tưởng cho cán
bộ công chức cấp xã ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La”.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục chính trị tư tưởng

cho cán bộ công chức cấp xã ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La”.
5. Giả thuyết khoa học
Hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã ở
huyện Mường La, tỉnh Sơn La mặc dù đã có những tiến bộ, song còn nhiều hạn
chế: về nội dung, hình thức, phương pháp thực hiện. Việc phối hợp các lực
lượng xã hội đối với công tác này chưa được thực hiện thường xuyên, liên tục.
Nếu có những biện pháp phù hợp, phối hợp được các lực lượng cộng đồng tham
gia giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã ở huyện Mường La,
tỉnh Sơn La thì hiệu quả công việc này được nâng lên.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu đề xuất biện pháp phối hợp các lực lượng xã
hội trong giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã ở huyện
Mường La, tỉnh Sơn La”
6.2. Giới hạn địa bàn nghiên cứu
7


Tác giả nghiên cứu đề tài trên địa bàn huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
6.3. Giới hạn khách thể điều tra
Số lượng dự kiến: 120 người bao gồm: Bí thư, phó bí thư đảng ủy cơ sở;
Ban tuyên giáo, đảng viên.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp như: Phân tích, so sánh, hệ
thống hóa, tổng hợp các tài liệu đề cập tới hướng nghiên cứu của đề tài nhằm
tìm ra cơ sở lí luận cho đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Đây là phương pháp chủ yếu, được sử dụng với mục đích khảo sát thực

trạng hoạt động giáo dục, phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục chính trị
tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La”.
- Phương pháp quan sát
Quan sát hoạt động xã hội của đảng viên, cán bộ, quan sát thực hiện
nhiệm vụ đảng viên, cán bộ trong thực thi nhiệm vụ công chức tại đảng bộ các
xã tại huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
- Phương pháp chuyên gia
Thông qua phương pháp này để nắm bắt các quan điểm về phối hợp các
lực lượng xã hội trong giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã
ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La
7.3. Phương pháp xử lí số liệu bằng thống kê toán học
Sử dụng phần mềm SPSS để xử lý các dữ liệu, các thông tin trong quá trình
nghiên cứu, điều tra, thu thập từ các phương pháp trên.
8. Cấu trúc của luận văn
8


Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung chính của luận văn gồm 03 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận về phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục
chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã.
Chương 2: Thực trạng phối hợp các lực lượng xã hội trong giáo dục
chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
Chương 3: Đề xuất một số biện pháp phối hợp các lực lượng xã hội trong
giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức cấp xã ở huyện Mường La,
tỉnh Sơn La

9



CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG XÃ
HỘI TRONG GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG CHO CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Giáo dục nói chung và giáo dục cho cán bộ cấp cơ sở nói riêng là một
vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến ở những mức độ khác nhau. Đó là
những nguồn tư liệu quý báu giúp tác giả tham khảo, kế thừa trong quá trình
nghiên cứu, hoàn thiện luận văn của mình. Những công trình đó có thể chia
thành 2 nhóm như sau:
* Nhóm các công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ cấp cơ
sở:
- Đề tài cấp bộ năm 2004: “Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay (qua khảo sát ở một số tỉnh, thành phố phía
Bắc nước ta)” do tiến sĩ Trần Hậu Thành (Phân viện Hà Nội, Học viện chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh) làm chủ nhiệm đề tài.
- Vũ Ngọc Am: Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ
cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia năm 2003; Một số vấn đề về đổi mới phương pháp
giáo dục , Nxb Thông tấn 2009.
- Đề tài: Nâng cao chất lượng công tác đào tạo trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình giai đoạn 2013 - 2020. Cơ quan chủ trì đề tài: trường Chính trị tỉnh Ninh
Bình, chủ nhiệm đề tài: Phạm Thị Thủy - 2013. Đề tài này đề cập đến một số
vấn đề lý luận, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công tác đào
tạo trên toàn tỉnh Ninh Bình giai đoạn hiện nay.
- Đỗ Cao Quang: Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã miền núi hiện nay, Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, năm 1996. Luận văn này đã cung cấp một cách tương đối đầy
đủ về nâng cao trình độ tư duy của cán bộ cấp cơ sở, nhưng chưa đầy đủ, đang
mang nặng khái quát và nêu lên nhữnng đặc thù khó khăn của miền núi, như văn
hóa, trình độ, yêu cầu…
10



- Đề tài luận án tiến sĩ Chính trị học của tác giả Cẩm Thị Lai (2012): “Đào
tạo, bồi dưỡng , hành chính cho đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã ở các tỉnh
Tây Bắc giai đoạn hiện nay”. Trong công trình này, tác giả đã phân tích và làm
rõ thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp
xã ở các tỉnh Tây Bắc trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, đề xuất những giải pháp
chủ yếu đẩy mạnh công tác giáo dục hành chính cho đội ngũ cán bộ chuyên
trách cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc đến năm 2020.
Những công trình này đã khảo sát, đánh giá thực trạng và nhu cầu đào tạo,
bồi dưỡng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã. Trên cơ sở đó, xây dựng phương
hướng và đề xuất những giải pháp cơ bản để đổi mới phương pháp nhằm nâng
cao chất lượng giảng dạy cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chuyên trách cấp xã ở
nước ta hiện nay.
Ngoài ra, còn rất nhiều công trình và bài viết đăng trên các báo, tạp chí có
liên quan đến đề tài như: Đề tài 0206 - KHXH: “Giải pháp nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ cấp huyện thuộc diện Tỉnh ủy quản lý trong thời kỳ phát triển
mới của tỉnh Hà Tĩnh”. Cơ quan chủ trì đề tài: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, chủ
biên: Nguyễn Thiện Tháng 6/2016; Chương trình bồi dưỡng chuyên đề:
Phương pháp giảng dạy dành cho giáo viên giảng dạy tại Trung tâm bồi
dưỡng chính trị cấp huyện, Nxb Lao động xã hội, năm 2008. Những công trình
này đã làm rõ công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo trong tình hình
mới. Từ đó đưa ra các phương pháp cụ thể, nâng cao hiệu quả chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng trong thời gian tới.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về địa bàn huyện Mường La tỉnh Sơn
La
Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào cụ thể và toàn diện về
phối hợp các lực lượng xã hội giáo dục tư tưởng chính trị cho cán bộ, công chức
cấp xã trên địa bàn huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Tuy nhiên, ở địa bàn tỉnh Sơn
La và huyện Mường La cũng đã có một số công trình, đề cập đến một số khía

cạnh khác nhau có liên quan đến công tác này.

11


- Lịch sử đảng bộ tỉnh Sơn La (biên soạn và xuất bản Chính trị quốc gia
phối hợp cùng Ban Thường vụ tỉnh ủy Sơn La);
- Ban Thường vụ tỉnh ủy Sơn La (chủ biên), (2017); Những sự kiện lịch
sử đảng bộ tỉnh Sơn La (1992-2015),…
- Ban Thường vụ Huyện ủy Mường La (chủ biên); Địa chí Mường La
- Ban Chấp hành Huyện ủy Mường La (chủ biên); Lịch sử Đảng bộ huyện
Mường La (1930 – 2015)
Do giới hạn về phạm vi nghiên cứu, cho nên đến nay chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách chi tiết đầy đủ có hệ thống về giáo dục chính trị tư
tưởng cho cán bộ cấp xã ở các huyện, thành phố của tỉnh Sơn La. Nhận thức
được tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả giáo dục cho cán bộ cấp cơ sở,
xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của huyện Mường La tỉnh Sơn La hiện nay. Vì
vậy, luận văn này tôi tập trung làm rõ thực trạng công tác giáo dục tư tưởng
chính trị cho cán bộ cấp cơ sở huyện Mường La, tỉnh Sơn La, từ đó đề xuất các
giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức
cấp xã nói riêng và nâng cao chất lượng cán bộ đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ
công việc đặt ra.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
Lịch sử xã hội loài người từ khi phân chia giai cấp đến nay là lịch sử đấu
tranh giai cấp. Trong cuộc đấu tranh đó, các giai cấp đều tiến hành giáo dục
chính trị tư tưởng, coi đó là vũ khí sắc bén, một phương thức hữu hiệu nhằm
giáo dục, truyền bá hệ tư tưởng của mình, làm cho nó trở thành hệ tư tưởng
thống trị trong toàn xã hội để bảo vệ lợi ích và duy trì sự thống trị của chủ thể hệ
tư tưởng. Ở Việt Nam, thuật ngữ “giáo dục chính trị tư tưởng” đã được sử dụng
rất phổ biến trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, những tài liệu

sách báo ở nhiều lĩnh vực,…
Tuy nhiên cho đến nay, khái niệm về giáo dục chính trị tư tưởng ở Việt
Nam vẫn chưa được xác định rõ. Việt Nam tiếp cận vấn đề giáo dục chính trị tư
tưởng như một công cụ, một phương thức để đưa yếu tố tự giác vào phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thông qua hoạt động
12


của đội tiền phong của giai cấp – đó là Đảng Cộng sản. Với hướng tiếp cận đó
cho thấy, giáo dục chính trị tư tưởng luôn gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp và
đấu tranh dân tộc.
Để hiểu rõ khái niệm giáo dục chính trị tư tưởng, cũng như cấu trúc của
khái niệm giáo dục chính trị tư tưởng, ta cần làm rõ một số khái niệm như:
Chính trị, tư tưởng và một số vấn đề có liên quan đến công tác tư tưởng.
1.2.1. Giáo dục
Theo từ điển Giáo dục học thì giáo dục được định nghĩa như sau: “Giáo
dục là hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác
động nhằm truyền thụ bằng tri thức và khái niệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống
bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng giúp hình thành và phát
triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị
cho đối tượng tham gia hoạt động sản xuất và đời sống xã hội” (Bùi Hiền,
2002).
Theo TS. Phạm Đình Nghiệp: “Giáo dục là hình thái xã hội, là quá trình
tác động có mục đích, có kế hoạch, ảnh hưởng tự giác chủ động đến con người
đưa đến sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức nhân cách” (Phạm Đình
Nghiệp, 2004).
Còn theo quan điểm triết học của TS. Trần Sỹ Phán: “Giáo dục là một quá
trình hai mặt, một mặt đó là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục (sự
tác động của giáo dục tri thức, văn hóa nhân loại thông qua nhà sư phạm đến đời
sống của học sinh, sinh viên); mặt khác (và chủ yếu hơn là) thông qua sự tác

động này mà làm cho đối tượng tự biến đổi bản thân mình, tự hoàn thiện, tự
nâng mình lên qua giáo dục” (Trần Sỹ Phán, 1999).
Qua các định nghĩa, khái niệm, quan điểm của các nhà khoa học ta thấy
được, giáo dục là một hoạt động của xã hội loài người và nó mang tính tất yếu,
bởi thông qua hoạt động này loài người mới có thể tiếp tục tồn tại, cải hoá thế
giới và phát triển, hoàn thiện mình trong đời sống xã hội. Giáo dục có nội hàm
rất rộng, nên được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa rộng, giáo dục
được hiểu là quá trình trao đổi và chuyển giao tri thức của con người theo một
13


quy củ đã được định sẵn. Hiểu theo nghĩa hẹp, giáo dục là một quá trình hình
thành nên nhân cách của con người dưới ảnh hưởng của hoạt động có mục đích
của nhà giáo dục.
Về bản chất: “Giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống hoạt động và giao
lưu cho đối tượng giáo dục, nhằm giúp họ nhận thức đúng tạo lập tình cảm và
thái độ đúng, hình thành những thói quen hành vi văn minh trong cuộc sống, phù
hợp với chuẩn mực xã hội” (Phạm Viết Vượng, 1996).
Từ nội hàm và bản chất của giáo dục, ta thấy được, để hình thành nên
nhân cách của một con người theo đúng như chuẩn mực xã hội, nhà giáo dục
phải có cả một hệ thống các phương diện để giáo dục, chính vì vậy, giáo dục có
rất nhiều phương diện hợp thành: Giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức,
giáo dục pháp luật, giáo dục kinh tế, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thường thức,
giáo dục sinh thái, giáo dục về giới… Như vậy, có thể thấy, giáo dục chính trị tư
tưởng là một phương diện hợp thành không thể thiếu khi đào tạo giáo dục một
con người.
1.2.2. Tư tưởng chính trị
1.2.2.1. Chính trị
Từ điển Triết học Liên Xô năm 1975 định nghĩa: Chính trị là “sự tham gia
vào các công việc của Nhà nước, việc quy định những hình thức, nhiệm vụ, nội

dung hoạt động của Nhà nước lĩnh vực bao hàm các vấn đề về chế độ nhà nước,
quản lý đất nước, lãnh đạo các giai cấp, vấn đề đấu tranh đảng phái,… những lợi
ích căn bản của các giai cấp và những quan hệ qua lại của các giai cấp biểu hiện
ra trong chính trị. Chính trị cũng biểu hiện những quan hệ giữa các dân tộc và
giữa các quốc gia”.
Từ điển Bách khoa Việt Nam xem “Chính trị là toàn bộ những hoạt động
có liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng
lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là vận động giành chính quyền, duy trì và sử dụng
quyền lực Nhà nước, sự tham gia vào công việc Nhà nước, sự xác định hình
thức tổ chức, nhiệm vụ và nội dung hoạt động của Nhà nước”(Từ điển Bách
khoa Việt Nam, 1995). Có thể thấy, các định nghĩa trên đã tiếp cận chính trị ở
14


những mặt khác nhau, nhưng nhìn chung, các định nghĩa đã nêu lên được bản
chất của chính trị là tính giai cấp, mối quan hệ và mục tiêu của các giai cấp, các
lực lượng chính trị trong việc giành chính quyền, điều khiển Nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, bản chất của chính trị suy
cho cùng là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Lênin chỉ rõ: “Chính trị là sự biểu
hiện tập trung của kinh tế… chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so
với kinh tế” (Lênin, 1977). So với kinh tế, chính trị không thể không chiếm vị trí
hàng đầu, vì khi giải quyết vấn đề kinh tế, giai cấp cầm quyền phải định hướng
vào việc bảo vệ và phát huy quyền lực chính trị của giai cấp đó. Xét về tương
quan, kinh tế phải được coi là tính thứ nhất, chính trị là tính thứ hai. Chính trị
tuy là tính thứ hai, nhưng nó phải có vị trí ưu tiên so với kinh tế, vì quyền lực
chính trị là tiền đề xuất phát để đi tới giành quyền lực kinh tế vì quan điểm chính
trị về kinh tế và hoạt động kinh tế suy cho cùng phải nhằm đảm bảo và bảo vệ
định hướng chính trị, khi giải quyết các vấn đề kinh tế phải luôn luôn xuất phát
từ các quan điểm chính trị.
Tuy nhiên, không vì thế mà chính trị được ưu tiên hoá vì mỗi vấn đề đều

có tính hai mặt của nó. Trong lĩnh vực chính trị, cái thúc đẩy hoạt động chính trị
làm tăng tính tích cực chính trị, chi phối các quan hệ chính trị, nổi lên thực chất
của các quan hệ đó là lợi ích chính trị. Nếu nhu cầu là những đòi hỏi của con
người muốn có những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển thì lợi ích là
cái thỏa mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu. Lợi ích là nhân tố của quá trình hoạt
động thực tiễn xã hội của con người hướng tới một cái gì đó có ý nghĩa đối với
họ. Về phạm vi cấp độ chủ thể, thì có lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích tập
đoàn, lợi ích quốc gia,…
Căn cứ vào lĩnh vực mà lợi ích hướng tới thì có: lợi ích kinh tế, lợi ích
tinh thần,…
Như vậy, có thể thấy, nhu cầu chính trị là những đòi hỏi của chủ thể muốn
có môi trường, điều kiện chính trị đáp ứng sự phát triển nhiều mặt của mình. Đối
tượng của nhu cầu chính trị là quyền lực chính trị và những nhân tố của quyền
lực đó.
15


Do vậy, lợi ích chính trị là những nhân tố, những hình thức, những điều
kiện chính trị thỏa mãn được nhu cầu chính trị của chủ thể. Xét sâu xa, mọi lợi
ích chính trị đều nhằm đạt đến lợi ích kinh tế. Bởi các nhu cầu về lợi ích kinh tế
luôn đòi hỏi một cách khách quan việc thực hiện chúng thông qua những điều
kiện hình thức và phương pháp của chính trị. Và như vậy, các nhu cầu và lợi ích
kinh tế phản ánh bằng nhu cầu và lợi ích chính trị. Điều này cho thấy để hiểu
được lợi ích chính trị “chủ thể phải có một trình độ nhận thức chính trị”. Để
nhận thức được và tiến tới hiện thực hóa lợi ích chính trị, các cấp độ chủ thể
trước hết phải xác định được mục tiêu lý tưởng chính trị với tư cách là sự thể
hiện lợi ích chính trị.
Trong hệ thống chính trị “các nhân tố có vai trò tiêu biểu trong việc thực
hiện lợi ích chính trị là Nhà nước và Đảng chính trị”. Các tổ chức chính trị xã
hội hoạt động với tư cách là hình thức và phương tiện để thực hiện lợi ích chính

trị của chủ thể và là đại diện lợi ích chính trị của họ. Tuy nhiên, chính trị là một
lĩnh vực có đặc điểm phức tạp và tinh vi không phải ai có nhu cầu và lợi ích ở
lĩnh vực kinh tế hoặc ở các lĩnh vực khác là có thể trở thành nhu cầu lợi ích
chính trị tương ứng hoặc giống nhau giữa các chủ thể. Để đạt được mục đích đó
đòi hỏi các giai cấp phải tiến hành công tác giáo dục chính trị nhằm nâng cao
giác ngộ chính trị cho quần chúng làm cho quần chúng nhận thức đầy đủ về mục
đích, đường lối, nhiệm vụ của cách mạng, từ đó, tổ chức quần chúng thực hiện
đường lối và những nhiệm vụ nhất định theo yêu cầu nhiệm vụ của mỗi giai
đoạn cách mạng. Điều đó có nghĩa là, làm cho hệ tư tưởng chính trị của giai cấp
thống trị giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, nhằm duy trì và
bảo vệ chế độ kinh tế hiện đang tồn tại. Hoặc ngược lại, nó hướng dẫn cuộc đấu
tranh để xóa bỏ cái trật tự thống trị xã hội đang có nhưng đã lỗi thời, kìm hãm sự
phát triển của lịch sử và cùng với nó là xóa bỏ tình trạng kinh tế tương ứng
nhằm giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp.
Bởi vậy, đối với quần chúng nhân dân phải có một quá trình giáo dục
mang tính tự giác về nhận thức nhu cầu và lợi ích chính trị. Đồng thời, tiến đến
làm cho họ xác định được vị trí của mình bên cạnh các chủ thể chính trị khác,
16


nâng cao tính tích cực trong hoạt động thực tiễn chính trị. Điều đó sẽ góp phần
hình thành những yếu tố cơ bản của tư tưởng chính trị hay nói rộng hơn là của
văn hóa chính trị trong nhân cách văn hóa của mỗi con người.
Như vậy, công tác chính trị là hoạt động của chủ thể chính trị vì thực hiện
mục đích, cương lĩnh, nhiệm vụ của mình mà tiến hành hoạt động thực tiễn tác
động đến nhân dân nhằm nâng cao giác ngộ, nhận thức chính trị cho nhân dân.
1.2.2.2. Tư tưởng
Triết học giản yếu năm 1987 định nghĩa: Tư tưởng là hình thức phản ánh
thế giới bên ngoài trong đó bao hàm sự ý thức về mục đích và triển vọng của
việc tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới bên ngoài… mọi tư tưởng đều được

rút ra từ khái niệm. Chúng là sự phản ánh đúng đắn hay xuyên tạc hiện thực…
Từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1994 cho rằng: Tư tưởng là quan điểm
và ý nghĩa chung của con người đối với hiện thực khách quan, đối với xã hội
(nói tổng quát), do đó, có tư tưởng tiến bộ, tư tưởng lạc hậu.
Từ những quan điểm trên cho thấy, cái chung nhất của tư tưởng là sự phản
ánh khái quát hiện thực khách quan trong ý thức biểu hiện những lợi ích của con
người, của giai cấp và của xã hội. Đó là ý thức phản ánh xã hội dưới dạng khái
quát, phản ánh lợi ích của mỗi con người, mỗi tập đoàn, mỗi giai cấp, mỗi dân
tộc, mỗi thời đại nhất định. Sự phản ánh đó có thể đúng và chưa đúng, thậm chí
có thể sai. Vì vậy, có tư tưởng tiến bộ thúc đẩy sự phát triển của xã hội và ngược
lại. Do đó, trong xã hội có giai cấp luôn có sự đấu tranh giữa các giai cấp về mặt
tư tưởng để truyền bá tư tưởng của giai cấp mình nhằm mục đích tập hợp quần
chúng giác ngộ họ theo quan điểm tư tưởng của giai cấp mình, tạo nên sức mạnh
hành động giành thắng lợi trong đấu tranh giai cấp.
Nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực chính trị tư tưởng chủ
yếu là cuộc đấu tranh giữa hai ý thức hệ tư tưởng: Hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị và hệ tư tưởng của giai cấp bị trị.
Vậy, hệ tư tưởng là quá trình phát triển của tư tưởng xã hội được các nhà
tư tưởng của các giai cấp khái quát hóa, hệ thống hóa tư tưởng của giai cấp mình
thành lý luận và học thuyết chính trị - xã hội, là cơ sở để vạch ra cương lĩnh,
17


đường lối cũng như các chủ trương, chính sách của các giai cấp; đồng thời nó
còn là vũ khí lý luận sắc bén để đấu tranh chống lại hệ tư tưởng của giai cấp đối
lập. Trong đó, mỗi cá nhân, con người, trong mỗi thời đại nhất định có một bộ
phận tự nhận thức nhưng phần lớn do giáo dục truyền bá phổ biến của chủ thể hệ
tư tưởng.
Hệ tư tưởng là sự phản ánh của lợi ích giai cấp dưới hình thức lý luận, cho
nên nó mang bản chất giai cấp. Vì vậy, quá trình tư tưởng cũng bị chi phối bởi

lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Trong lịch sử xã hội loài người, các giai cấp
thống trị, thông qua đội ngũ những nhà tư tưởng nhằm biến hệ tư tưởng của giai
cấp thống trị thành hệ tư tưởng thống trị xã hội đứng lên bảo vệ và xây dựng chế
độ hiện tồn. Sự tác động của chủ thể hệ tư tưởng đến các quan hệ tư tưởng và
quá trình tư tưởng để đạt mục đích đặt ra chính là công tác tư tưởng.
Công tác tư tưởng là một quá trình liên tục gồm nhiều khâu, nhiều bộ
phận kế tiếp nhau, trong đó có ba quá trình cấu thành (ba hình thái cơ bản): Quá
trình sáng tạo hệ tư tưởng để đề ra đường lối, chính sách (công tác lý luận); quá
trình truyền bá hệ tư tưởng, đường lối, chính sách (công tác tuyên truyền); quá
trình biến hệ tư tưởng, đường lối, chính sách thành hiện thực (công tác cổ động).
Ngoài ba hình thái cơ bản trên, trong mỗi hình thái đó lại có nhiều lĩnh
vực công tác khác có tính chuyên sâu phù hợp với tính chất, đối tượng tác động,
mục tiêu của nhiệm vụ… nhằm đạt hiệu quả cao trong hoạt động thực tiễn của
công tác tư tưởng. Trong đó, công tác giáo dục chính trị tư tưởng thuộc hình thái
của công tác tuyên truyền.
Theo Đại học Bách khoa toàn thư Liên Xô: Theo nghĩa rộng, tuyên truyền
là sự truyền bá những quan điểm, tư tưởng về chính trị, triết học, khoa học, nghệ
thuật… nhằm biến quan điểm, tư tưởng ấy thành ý thức xã hội, thành hành động
cụ thể của quần chúng. Theo nghĩa hẹp, tuyên truyền là truyền bá những quan
điểm lý luận nhằm xây dựng cho quần chúng một thế giới quan nhất định phù
hợp với lợi ích của chủ thể tuyên truyền và kích thích những hoạt động thực tế
phù hợp với thế giới quan ấy (Đào Duy Quát, 2010).

18


Như vậy, công tác tuyên truyền theo nghĩa hẹp chính là tuyên truyền tư
tưởng, tuyên truyền chính trị mà mục đích của nó là hình thành trong đối tượng
tuyên truyền một thế giới quan nhất định, một kiểu ý thức xã hội nhất định và cổ
vũ tính tích cực của con người. Công tác tuyên truyền là một hình thái, một bộ

phận cấu thành của công tác tư tưởng, và trong công tác tư tưởng của Đảng và
Nhà nước ta, công tác tuyên truyền là hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của
Nhà nước và những tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại…làm cho chúng
trở thành nhân tố chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội, động
viên, cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2.2.3. Giáo dục tư tưởng chính trị
Qua tìm hiểu những khái niệm trên, ta thấy, thuật ngữ chính trị tư tưởng là
từ ghép chính trị và tư tưởng được sử dụng ở đây như một bổ ngữ của công tác
giáo dục nhằm phân biệt rõ nội dung của giáo dục.
Về bản chất của giáo dục chính trị tư tưởng là quá trình tác động có mục
đích, có hệ thống của một Đảng, một giai cấp, một tổ chức vào quần chúng,
nhằm giác ngộ nâng cao nhận thức tư tưởng của họ về quan điểm, đường lối
chính trị, để quy tụ, tập hợp quần chúng tham gia vào quá trình đấu tranh giành
và bảo vệ, thực thi quyền lực chính trị, đáp ứng thỏa mãn các nhu cầu về lợi ích.
Từ sự phân tích trên, có thể rút ra kết luận, giáo dục chính trị tư tưởng ở
nước ta hiện nay được tiến hành dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
do đó nội dung của nó phải đạt được mục đích cơ bản là truyền bá, giáo dục chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần làm cho nó trở thành hệ tư
tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, giúp cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân xây dựng thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn, nhân
sinh quan cộng sản, để từ đó khắc phục những tư tưởng lạc hậu, nâng cao nhận
thức chính trị. Đồng thời, nhằm giáo dục đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, làm cho họ ngày càng nắm chắc và biết vận
dụng vào thực tế cuộc sống, thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ chính trị,
19


cổ vũ, động viên khơi dậy nhiệt tình cách mạng, tinh thần tự giác và tính tích

cực trong quá trình cải tạo, xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, chủ thể của giáo dục chính trị tư tưởng của nước ta hiện nay là
Đảng Cộng sản Việt Nam, mà trực tiếp là cấp uỷ đảng các cấp và các cơ quan
chức năng như Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương, Ban Tuyên giáo tỉnh, các
ngành, các địa phương, các cơ quan chính trị trong lực lượng vũ trang. Ở cấp
huyện có Ban Tuyên giáo quận, huyện và các trung tâm bồi dưỡng chính trị,…
Còn đối tượng của giáo dục chính trị tư tưởng là cán bộ, đảng viên và nhân dân
nói chung.
Tóm lại, có thể xác định khái niệm giáo dục chính trị tư tưởng như sau:
Đó là quá trình tác động vào nhận thức của khách thể những vấn đề cơ bản về
chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, thông qua một hệ thống các biện
pháp, nhằm từng bước xây dựng thế giới quan và phương pháp luận khoa học
đúng đắn, nâng cao bản lĩnh chính trị, thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
1.2.3. Cán bộ công chức cấp xã
1.2.3.1. Cán bộ
Trong từ điển Tiếng Việt cán bộ được hiểu như sau: Cán bộ là người làm
công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước, đảng và đoàn thể.
Khoản 1, điều 4 của Luật cán bộ công chức quy định: “Cán bộ là công
dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo
nhiệm kỳ trong cơ quan của đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước” [].
Theo quy định này thì tiêu chí xác định cán bộ gắn với cơ chế bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ. Những người đủ các
tiêu chí chung của CBCC mà được tuyển vào làm việc trong các cơ quan của

20



Đảng, Nhà nước , tổ chức chính trị - xã hội thông qua bầu cử, phê chuẩn, bổ
nhiệm giữ chức vụ chức danh theo nhiệm kỳ thì được xác định là cán bộ.
1.2.3.2. Công chức
Khái niệm công chức gắn liền với sự ra đời công chức ở các nước tư bản
phương Tây. Từ nửa cuối thế kỷ XIX , tại nhiều nước đã thực hiện chế độ công
chức thời gian tương đối lâu. Công chức được hiểu là những công dân được
tuyển dụng và bổ nhiệm vào giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở
của Nhà nước ở trung ương hày địa phương, ở trong nước hay nước ngoài đã
được xếp vào một ngạch và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [6,9]. Mỗi
quốc gia có những quan niệm và định nghĩa khác nhau về công chức.
Ở nước Pháp, công chức được hiểu là: “Công chức là những người được
tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc trong các công sở gồm các cơ quan hành
chính công quyền và các tổ chức dịch vụ công cộng do nhà nước tổ chức, bao
gồm cả trung ương và địa phương nhưng không kể đến các công chức địa
phương thuộc hội động thuộc địa phương quản lý [7,22].
Ở nước Trung quốc, công chức được hiểu là: “Công chức nhà nước là
những người cong tác trong cơ quan hành chính nhà nước các cấp, trừ nhân viên
phục vụ. Công chức được phân thành 2 loại:
Công chức lãnh đạo là những người thừa hành quyền lực nhà nước. Các
công chức này được bổ nhiệm theo các trình tự luật định, chịu sự điều hành của
Hiến pháp, Điều lệ công chức và Luật tổ chức của chính quyền các cấp
Công chức nghiệp vụ là những người thi hành chế độ thường nhiệm, do
cơ quan hành chính các cấp bổ nhiệm và quản lý căn cứ vào Điều lệ công chức.
Họ chiếm tuyệt đại đa số trong công chức nhà nước, chịu trách nhiệm quán triệt,
chấp hành các chính sách và pháp luật. [7,28]
Ở Việt Nam, công chức là một thuật ngữ được dùng từ rất sớm trong quản
lý nhà nước. Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã quy định chế độ công chức Việt Nam. Tại điều 1, khái
21



×