Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Xây dựng và sử dụng phiếu học tập trong dạy học chương 5 chăn nuôi trâu, bò sinh sản môn chăn nuôi trâu, bò trường trung học nông nghiệp hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 106 trang )

LỜI CẢM ƠN
Bằng lòng biết ơn sâu săc tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo
trong khoa Sư phạm và Ngoại ngữ trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tận
tình giúp đỡ tôi trong quá trình làm khóa luận tốt nghiệp. Đặc biệt tôi xin chân
thành cảm ơn Th.S Nguyễn Công Ước đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành

1


MỤC LỤC

2


DANH MỤC CAC CHỮ VIẾT TẮT
Kí hiệu

Đọc là

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

PPDH

Phương pháp dạy học


PTDH

Phương tiện dạy học

PHT

Phiếu học tập

KN

Kỹ năng

SGT

Sách giáo trình

NXB

Nhà xuất bản

3


DANH MỤC CÁC BẢNG

4


DANH MỤC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ


5


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1.1 Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay
Giáo dục luôn là vấn đề hàng đầu được Đảng, Nhà Nước và toàn thể xã
hội quan tâm. Xuất phát từ sự phát triển của xã hội đòi hỏi giáo dục phải có
những bước cải tiến mới. Giáo dục nước ta đã và đang có những biến chuyển sâu
sắc về mọi mặt như: Xây dựng và hoàn thiện bộ chính sách, đổi mới phương pháp
dạy học, đầu tư trang thiết bị dạy học mới, đào tạo đội ngũ cán bộ giáo viên.
Mục tiêu GD phổ thông đã được nêu trong Luật Giáo dục năm 2005 là:
“Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe và
nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Vì thế công tác dạy và học đã đặt ra
yêu cầu phải rèn luyện cho người học năng lực tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi kiến
thức, tự giải quyết mâu thuẫn xảy ra trong quá trình học tập, tiếp thu kiến thức cũng
như mẫu thuẫn giữa lượng kiến thức quá lớn trong khi quỹ thời gian học tập của các
em lại có hạn. Đổi mới giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của người học là yêu cầu của thời đại, là yêu cầu cấp bách nhất cho sự
nghiệp giáo dục, từ đó phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Trong bối cảnh của việc đất nước hội nhập toàn cầu với sự bùng nổ của
khoa học công nghệ đòi hỏi người lao động không những có trình độ học vấn
cao, năng lực chuyên môn giỏi mà còn phải thực sự năng động, sáng tạo trong
mọi hoàn cảnh, phải có năng lực tự học, tự rèn luyện kĩ năng thực hành đáp ứng
nhu cầu học tập suốt đời. Vì thế vai trò của giáo dục là việc thức tỉnh năng lực
sáng tạo của mỗi người để tạo ra những con người mới có năng lực tư duy độc
lập, có năng lực tìm kiếm tài liệu, nghiên cứu tìm hiểu, lĩnh hội tri thức và cập
nhật thông tin một cách nhanh chóng.


6


1.1.2. Xuất phát từ đặc điểm môn học Chăn nuôi trâu bò ở trường Trung
học Nông nghiệp Hà Nội
Chăn nuôi của nước ta đã phát triển nhanh về số lượng và chất lượng sản
phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội về thịt, trứng, sữa. Chăn nuôi
trâu, bò đã có nhiều cơ hội tốt để phát triển và tăng trưởng về số lượng đàn và
cải tiến về chất lượng giống. Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê: Tại
thời điểm 1/10/2012, cả nước có 2,63 triệu con trâu, bằng 96,89% so với
1/10/2011; 5,2 triệu con bò, bằng 95,5% so với cùng kì năm trước. Đàn bò sữa
vẫn trong xu hướng phát triển tốt, đạt 167 nghìn con, tăng 17% so với thời điểm
1/10/2011. Tuy nhiên, theo Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch 8 tháng năm
2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (ngày 25/08/2013) thì tình
hình chăn nuôi trâu bò có xu hướng giảm do diện tích chăn thả bị thu hẹp. Ước
tính tổng đàn trâu cả nước giảm 2,5%, đàn bò giảm 3% so với cùng kì năm
2012. Điều này đặt ra cho người chăn nuôi cần có những biện pháp kĩ thuật tác
động hợp lí giúp ổn định về số lượng đàn giống và nâng cao sản lượng.
Môn Chăn nuôi trâu bò đã và đang được giảng và dạy trong khối ngành
chăn nuôi. Về kiến thức, môn Chăn nuôi trâu, bò kiến thức bao gồm cả kiến thức
cơ sở và kiến thức kĩ thuật, Trong đó có rất nhiều kiến thức áp dụng vào thực tế
nên tương đối khó với các em học sinh. Muốn để các em có thể ghi nhớ, nắm bắt
kiến thức một cách cụ thể, vận dụng một cách sáng tạo và đúng yêu cầu kĩ thuật
vào trong thực tiễn thì giáo viên phải không ngừng trau dồi kiến thức chuyên
môn, đổi mới PPDH tăng hứng thú học tập cho HS. Ngày nay khoa học phát
triển mạnh mẽ các PTDH ngày càng được hoàn thiện tạo điều kiện cho HS độc
lập trong việc lĩnh hội tri thức. Vì vậy, GV phải lựa chọn phương tiện dạy học
sao cho phù hợp với PPDH nhằm nâng cao tối đa chất lượng dạy và học.
Sử dụng PHT trong DH giúp phát huy được năng lực học tập tích cực, khả năng

độc lập suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo cũng như khả năng làm việc phối hợp, làm
việc nhóm, nâng cao năng lực tư duy phát triển tinh thần làm việc nhóm và có
7


trách nhiệm với công việc của bản thân. DH có sử dụng PHT kết hợp với một số
PPDH tích cực khác được coi là một biện pháp dạy học hợp lí và đem lại kết quả
cao.
Xuất phát từ thực tế đó, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Xây dựng và sử
dụng phiếu học tập trong dạy học chương 5- Chăn nuôi trâu, bò sinh sản- môn
Chăn nuôi trâu, bò trường Trung học Nông nghiệp Hà Nội”.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xâydựng và sử dụng phiếu học tập trong dạy học chương 5, môn chăn
nuôi trâu, bò ở trường Trung học Nông nghiệp Hà Nội nhằm phát huy tính tích
cực trong học tập của người học, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn
Chăn nuôi trâu, bò.
1.3. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Xây dựng và sử dụng PHT hợp lý sẽ phát huy tính chủ động, sáng tạo của
HS. Từ đó nâng cao chất lượng và kết quả học tập.

8


PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
2.1.1. Trên thế giới
PPDH tích cực xuất hiện từ khá lâu, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
nhiều nhà giáo dục lỗi lạc như : Petxtacoghi, Dixtervec, John Dewey đã đề cập
đến việc giảng dạy, giáo dục hướng vào hoạt động tích cực, chủ động của người
học. Tư tưởng này một thời đã trở thành trào lưu rộng lớn và được gọi dưới

thuật ngữ chung là “Cách tiếp cận vào người học”. Nổi bật trong trào lưu này là
hệ tư tưởng của John Dewey(1859 – 1952), – nhà giáo dục, triết học thực dụng
người Mỹ. Ông cho rằng:” Việc dạy học phải kích thích được hứng thú, phải để
học sinh độc lập, tìm tòi, thầy giáo là người thiết kế, người cố vấn”. Nhưng ông
chưa đề cập đến “người thiết kế và người cố vấn” phải làm gì để HS có thể chủ
động, tìm tòi được nguồn kiến thức mới.Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến
vai trò của người thầy và những công cụ hỗ trợ HS trong học tập.
Trong cuốn “Phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh như thế
nào”, I.F.Khar-la-mốp (1979) cho rằng học tập là quá trình nhận thức tích
cực trong đó có bước ôn tập kiến thức đã học, đào sâu, hệ thống hoá kiến thức.
Việc học tập ở nhà của HS hay việc ôn tập bài cũ có ý nghĩa tích cực không chỉ
với việc phát huy tính tích cực của HS mà còn giúp các em củng cố, nắm vững
kiến thức. GV cần lựa chọn nội dung, tổ chức các hoạt động ôn tập sao cho HS
biểu lộ tính sáng tạo, đi tới hiểu và nắm vững kiến thức, ví dụ như làm bài
tập thực hành, trả lời câu hỏi, viết bài mô tả ngắn gọn về sự kiện lịch sử, dẫn ra
các ví dụ hoặc sự kiện để chứng minh một kết luận nào đó... Ông cũng cho rằng
HS phải tự khám phá kiến thức cho bản thân dù chỉ là “khám phá lại”. Sự khám
phá này phải thông qua việc sử dụng các bài tập chứ không phải là học thuộc
lòng.

9


Trong quá trình nghiên cứu về các PPDH tích cực các nhà nghiên cứu đã
tập trung nghiên cứu về tính tích cực hóa trong quá trình DH, chú ý đến sự hứng
thú, những sáng kiến, nhu cầu của HS trong học tập bằng nhiều phương pháp
khác nhau như: sử dụng bộ tư liệu DH, sử dụng bài tập, DH giải quyết vấn đề,
DH theo dự án, DH có sử dụng PHT,… để tăng cường khả năng tự học, tìm hiểu
và sáng tạo của HS, giúp HS tự vận động trau dồi kiến thức thông qua hoạt động
tích cực của bản thân. Theo đó, vai trò của người GV là người tổ chức, hướng

dẫn, dẫn dắt và giúp đỡ HS hướng hoạt động học tập của mình vào sự phát triển
trí tuệ, nhân cách, năng lực, tăng cường khả năng tích cực hóa trong quá trình
học tập hình thành tri thức cho bản thân. (Nguyễn Duy Bắc (2012), Phát triển
Giáo dục – Đào tạo và Khoa học – Công nghệ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Chuyên đề Giáo dục Đào tạo và Khoa học công nghệ,
Tạp chí xây dựng Đảng, ngày 5/9/2012).
Như vậy, tư ̀ các tài liệu giáo dục học chúng tôi nhận thấy các tác giả
nước ngoài đã tập trung nghiên cứu giải quyết những vấn đề chung về việc phát huy
tính tích cực của HS thông qua những công cụ hỗ trợ học tập của GV.
2.1.2. Ở Việt Nam
PPDH tích cực là một trong những xu hướng đổi mới GD quan trọng hiện
nay của nền GD Việt Nam. Đó là việc đổi mới PPDH theo hướng tăng cường
thực hành, giúp người học biết cách tự học và hợp tác trong học tập, tích cực
chủ động, sáng tạo trong phát hiện và giải quyết vấn đề, chiếm lĩnh tri thức mới.
Ở nước ta, việc áp dụng các PPDH tích cực đã được hình thành và có chủ trương
phát triển từ những năm 60 của thế kỷ XX nhằm đào tạo ra những con người ưu
tú, những lao động có khả năng tư duy độc lập, sáng tạo cao và được coi là một
trong những phương hướng của cái cách GD tiểu học, được triển khai một cách
mạnh mẽ ở các trường THPT từ những năm 1980. Hiện nay, trong các nhà
trường từ bậc phổ thông đến bậc đại học đều đang chú trọng đổi mới cách dạy,
cách học, đa dạng hóa các hình thức tổ chức DH và sử dụng các PTDH hiện đại,
10


áp dụng các PPDH tích cực nhằm phát huy tốt vai trò chủ đạo của người dạy và thúc
đẩy hoạt động học của người học. (Nguyễn Thị Ngọc Thúy (2004), Giáo dục học đại
cương, Bài giảng khoa Sư phạm & Ngoại ngữ, trường ĐHNN Hà Nội).
Trong bài viết “Phiếu học tập – phương pháp dạy học có sử dụng phiếu
học tập” của tác giả Nguyễn Thị Dung được đăng trên thông tin khoa học giáo
dục số 45/1994; “Phương pháp sử dụng phiếu học tập trong dạy học Địa lí lớp

10 nhằm phát huy tính tích cực và độc lập của học sinh” của tác giả Đậu Thị
Hòa, Tạp chí giáo dục số 195/2008, cho biết: Phiếu học tập là công cụ để giáo
viên tổ chức hoạt động khai thác và lĩnh hội kiến thức theo hướng định trước của
giáo viên. Đây là các nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho đề tài.
2.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.2.1. Khái niệm về phương pháp dạy học, phương tiện dạy học
2.2.1.1 Khái niệm về PPDH
Đã có nhiều khái niệm về PPDH như:
1. N.M. Veczilin và V.M. Coocxunskaia: “Phương pháp dạy học là cách
thức thầy truyền đạt kiến thức, đồng thời là cách thức lĩnh hội của trò”.
2. Nguyễn Ngọc Quang (1970): “PPDH là cách thức làm việc của thầy và
của trò trong sự phối hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho
trò tự giác, tích cực, tự lực đạt tới mục đích dạy học”.
3. Đặng Vũ Hoạt (1971): “PPDH là tổ hợp các cách thức hoạt động của
thầy và trò trong quá trình dạy học, được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của
thầy, nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học”.
4. Đinh Quang Báo (2000): “PPDH là cách thức hoạt động của thầy tạo ra
mối liên hệ qua lại với hoạt động của trò để đạt mục đích dạy học”
5. Trần Bá Hoành (2002): “PPDH là con đường, cách thức GV hướng dẫn,
tổ chức chỉ đạo các hoạt động học tập tích cực, chủ động của HS nhằm đạt các
mục tiêu dạy học”.
Từ các định nghĩa trên có thể nêu ra mấy nhận xét sau:
11


- PPDH gồm hoạt động của thầy và hoạt động của trò
- Hai hoạt động này có sự tác đông qua lại lẫn nhau
- Trong đó thầy có chức năng chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức hoạt động học
tập của trò.
- Trên cơ sở đó trò tích cực, chủ động lĩnh hội tri thức cần thiết

- Kết quả tương tác giữa hoạt động của thầy và của trò trong quá trình dạy
học là đạt được các mục tiêu dạy học đề ra.
=> Đó chính là bản chất của PPDH.
Như vậy, PPDH là cách thức hoạt động của thầy và trò trong mối liên hệ
qua lại, thầy giữ vai trò chủ đạo, điều khiển, chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức các
hoạt động học tập của trò một cách tích cực, chủ động nhằm đạt các mục tiêu
dạy học đề ra.
2.2.1.2. Khái niệm PTDH
PTDH là tập hợp những đối tượng vật chất được người thầy giáo sử dụng
với tư cách là phương tiện điều khiển hoạt động nhận thức của HS; được HS sử
dụng như là nguồn tri thức phong phú, sinh động giúp lĩnh hội tri thức và rèn
luyện kỹ năng, kỹ xảo. PTDH giúp GV có thêm điều kiện thuận lợi để tổ chức
cho HS nắm tri thức mới, điều khiển hoạt động của HS, kiểm tra đánh giá kết
quả học tập thuận lợi và có hiệu suất cao hơn.
(Giáo trình lý luận dạy học – Nguyễn Thị Ngọc Thúy – Khoa SPNN)
2.2.2. Khái niệm phiếu học tập
Đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu và đưa ra định nghĩa về PHT:
Theo Trần Bá Hoành (1996), phiếu hoạt động học tập, gọi tắt là PHT, còn
gọi là phiếu hoạt động hay phiếu làm việc: “Đây là những tờ giấy rời, in sẵn
những công tác độc lập hay làm theo nhóm nhỏ, được phát cho HS tự lực hoàn
thành trong một thời gian ngắn của tiết học. Mỗi PHT có thể giao cho HS một
vài nhiệm vụ nhận thức cụ thể nhằm dẫn tới một kiến thức, tập dượt một kỹ
năng, rèn luyện một thao tác tư duy hoặc thăm dò thái độ trước một vấn đề”.
12


Theo Đặng Thành Hưng (2002): “PHT là một trong những phương tiện
dạy học cụ thể, đơn giản và có khả năng tương thích rất cao với tuyệt đại đa số
người học thuộc mọi lứa tuổi và trong lĩnh vực học tập. Đó là văn bẳn bằng giấy
hoặc dạng giấy do GV tự làm, gồm một hoặc một số tờ , có vai trò học liệu để

bổ sung cho sách và tài liệu giáo khoa quy định, có chức năng hỗ trợ học tập và
giảng dạy vừa như công cụ hoạt động, vừa như điều khiển hoạt động của người
học và người dạy, mà trước hết như một nguồn thông tin học tập”.(Nguồn: Thiết
kế và sử dụng PHT trong dạy học hợp tác)
Nội dung của PHT được thể hiện bằng nhiều dạng ngôn ngữ khác nhau:
Chữ viết, chữ in hoa thông thường, con số, biểu tượng logic như hàm số, biểu
thức, phương trình, bảng và ma trận, biểu mẫu thống kê, đồ họa, tranh vẽ, ảnh và
các loại ký hiệu, biểu tượng khác.
Sử dụng PHT dạy học là một kỹ thuật dạy học trực tiếp, được áp dụng
trong đa số những chiến lược và biện pháp dạy học hợp tác, dạy học theo nhóm,
dạy học tìm tòi và giải quyết vấn đề, dạy học theo dự án và chủ đề tích hợp và
nói chung trong các mô hình dạy học hiện đại, hướng vào nguwoif học. Sự kết
hợp kỹ thuật này với những kỹ thuật dạy học khác trong các kiểu PPDH dựa vào
người học và hoạt động của người học là một trong những hướng nghiên cứu
quan trọng nhằm đổi mới quá trình dạy học hiện nay.
Dạy học bằng phương pháp tích cực, hoạt động của HS chiếm tỉ trọng cao
so với GV cả về thời gian và cường độ làm việc trên lớp. PPDH sử dụng PHT
giao cho cả lớp hoặc từng nhóm vừa bắt buộc HS phải hoàn thành yêu cầu và
đạt được nhiệm vụ nhận thức, tự lực hoạt động trên đối tượng theo chỉ dẫn thông
qua việc hoàn thành PHT trên lớp. GV vừa tổ chức, điều khiển, chỉ đạo các hoạt
động học tập của HS, vừa có thể là trọng tài về kiến thức, trọng tài về đánh giá
từng HS, yêu cầu HS hoàn thành nhiệm vụ

13


Như vậy PHT là phương tiện giao tiếp của GV với từng HS tạo được mối
liên hện thường xuyên giữa GV- HS và giữa HS- HS thông qua quá trình thảo
luận hoặc báo cáo kết quả để đạt được các nhiệm vụ nhận thức
HS


GV

Kiến
thức
Kỹ năng
PHT

Sơ đồ 2.1: Mối liên hệ
2.2.3 Cấu trúc chung của PHT
Theo Trần Bá Hoành (1996), PHT bao gồm các phần sau:
 Phần chính: bao gồm phần chỉ dẫn và phần nội dung công việc phải
làm của HS.
- Phần chỉ dẫn nhiệm vụ cho HS (điều kiện để HS hoàn thành): Phần
nêu những nhiệm vụ cụ thể mà HS cần hoàn thành hay điều kiện để HS có thể
hoàn thành PHT. Có thể là một câu mệnh lệnh, một sơ đồ, tranh vẽ, bảng số liệu,
thí nghiệm,…để HS căn cứ vào đó để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra.
- Phần công việc phải làm của HS: Phần này có thể là một khoảng trống,
một bảng so sánh, một sơ đồ câm hoặc một bảng dữ kiện thiếu,…
 Phần phụ kèm theo: họ tên (nhóm), số thứ tự phiếu,thời gian làm, mục
tiêu của PHT.

14


2.2.4. Chức năng của PHT
Trong quá trình giảng dạy và học tập, căn cứ vào nội dung bài học và sự
sáng tạo đầu tư của GV thì PHT có rất nhiều kiểu loại và hình thức khác nhau,
nhưng nhìn chung chúng đều có những chức năng giáo dục tương đối chung và có
thể nhận biết được. Theo đó, các loại PHT có hai chức năng chính cơ bản như sau:

 Chức năng cung cấp thông tin và sự kiện
Theo Đặng Thành Hưng (2004): “Trong PHT có thể là văn bản, biểu số
liệu, hình ảnh, sơ đồ,…tóm tắt hoặc trình bày những cấu trúc nhất định một số
lượng thông tin, dữ liệu hoặc sự kiện xuất phát cần thiết cho người học”. Những
thông tin, sự kiện này là những thông tin, sự kiện không có trong SGK nhưng có
liên quan tới bài học, GV có thể cung cấp những thông tin này hoặc giới thiệu cho
HS cách tự tìm thông tin, từ đó yêu cầu HS phân tích để rút ra những tri thức cần
cho bài học, hoặc để minh họa làm sáng tỏ thêm kiến thức cho bài học.
Trong dạy học hợp tác, người học có thể nghiên cứu những tư liệu này theo phương
thức cá nhân trong nhóm, hoặc cộng tác với nhau trong nhóm trên cơ sở phân chia
dữ liệu thành những bộ phận khác nhau cho mỗi thành viên. Nếu lượng dữ liệu cần
phải lớn và đa dạng thì người ta tách PHT thành hai phần tương đối riêng nhau.
Lúc đó những loại phiếu thực hiện chức năng cung cấp thông tin được gọi là phiếu
sự kiện. Nguồn của các thông tin này có thể là sách báo, tạp chí, mạng internet,…
 Chức năng công cụ hoạt động và giao tiếp
Theo Đặng Thành Hưng (2004): “PHT còn nêu lên những nhiệm vụ học
tập, những yêu cầu hoạt động, những hướng dẫn học tập, những công việc và
vấn đề để người học thực hiện giải quyết. Thông qua nội dung và tính chất này
nó thực hiện chức năng công cụ hoạt động và giao tiếp trong quá trình hoạt động
học tập của người học”. Đây là chức năng quan trọng và được lưu ý, nhấn mạnh
hơn chức năng cung cấp thông tin và sự kiện vì nguồn thông tin và sự kiện học
tập ngày nay rất phong phú và không khó tìm kiếm đối với HS.

15


Theo Nguyễn Đức Vũ (2011) cho rằng: “PHT chứa đựng các câu hỏi, bài
tập yêu cầu hoạt động, những vấn đề và công việc để HS giải quyết hoặc thực
nghiệm, kèm theo hướng dẫn, gợi ý cách làm. Thông qua các nội dung này, PHT
thực hiện chức năng là công cụ hoạt động và giao tiếp trong quá trình học tập

của HS”.
Khi chức năng này được trình bày riêng, không lẫn vào với các phiếu sự
kiện thì phần PHT đó được gọi là phiếu làm việc. Như vậy, phiếu làm việc cũng
là một trường hợp cụ thể của PHT thực hiện chức năng công cụ, trực tiếp hỗ trợ
các hoạt động và quan hệ giữa người dạy và người học (GV- HS), tương tác và
chia sẻ giữa người học với nhau và với GV. (Đặng Thành Hưng, 2004).
Như vậy, ngoài chức năng cung cấp thông tin và sự kiện, PHT còn thực
hiện một chức năng quan trọng hơn đó là công cụ hoạt động và giao tiếp. PHT là
công cụ để HS hoạt động theo hình thức cá nhân hay hoạt động theo nhóm. PHT
hỗ trợ các hoạt động và quan hệ của người học, tương tác chia sẻ giữ người học
với nhau và với GV.
2.2.5. Vai trò và ý nghĩa thực tiễn của việc sử dụng PHT
 Vai trò cơ bản của sử dụng PHT trong DH
Theo Đặng Thành Hưng (2004), vai trò cơ bản của việc sử dụng PHT
trong DH đó là:
- Sử dụng PHT phát huy trí lực của HS: phát triển các kỹ năng: Phân
tích, so sánh, suy luận, đề xuất giả thuyết, ký năng quy nạp, khái quát hóa như
các PPDH tích cực khác.
- Phát huy tối đa công tác độc lập trong nhận thức của HS.
- Khả năng kết hợp với các PPDH khác là rất lớn: có thể sử dụng PHT
trong dạy học trực quan, thuyết trình, thực hành, vấn đáp, thảo luận,…
- Kích cỡ phiếu nhỏ gọn, dễ sử dụng.
- Trong một thời gian ngắn có thể kiểm tra được số lượng lớn HS.

16


 Ý nghĩa thực tiễn của việc sử dụng PHT trong DH
Theo quan điểm DH hiện nay kết hợp giữa sử dụng phương tiện dạy học
với PPDH tích cực để góp phần nâng cao hiệu quả trong DH thì phương tiện dạy

học giữ vai trò là công cụ trợ giúp cho GV truyền đạt tri thức trong dạy học,
cung cấp kiến thức mới, kiểm tra đánh giá và điều khiển hoạt động nhận thức
trong học tập của HS.
PHT là một dạng phương tiện dạy học vô cùng hiệu quả, sử dụng PHT là
một kỹ thuật DH được trực tiếp áp dụng trong DH theo nhóm, DH tìm tòi giải
quyết vấn đề, DH theo dự án, DH tích hợp và trong các mô hình Dh hiện đại
hướng vào người học, DH lấy người học là trung tâm. Sự kết hợp giữa sử dụng
phương tiện dạy học là PHT với các loại phương tiện dạy học khác trong các
PPDH tích cực nhằm đạt được mục tiêu đổi mới quá trình DH, đổi mới GD hiện
nay. (Đặng Thành Hưng, 2004).
2.2.6. Các dạng PHT thường được sử dụng
Theo Trần Bá Hoành (2000): Trong dạy học nói chung có 6 loại PHT
thường được sử dụng, đó là:
 PHT phát triển kỹ năng quan sát
Đây là PHT mà GV có thể sử dụng hình vẽ trong SGK, hình tự vẽ hoặc tự
lâp sơ đồ, cho HS quan sát vật thật, vật mẫu trên màn hình đèn chiếu, tranh ảnh,
quan sát thực tế,… để từ đó rút ra kết luận mới cho bài học. Qua PHT này giúp
các em biết cách quan sát phương tiện trực quan để tìm ra kiến thức mới cần lĩnh
hội. Quan sát nhiều lần sẽ hình thành cho HS một kỹ năng quan sát để giải quyết
một nhiệm vụ mới.
 PHT phát triển kỹ năng so sánh
PHT phát triển kỹ năng so sánh là những PHT thường được sử dụng để
củng cố bài và kiểm tra. Muốn hoàn thành PHT dạng này HS phải trải qua phân
tích, tổng hợp, khái quát hóa các đặc điểm của vấn đề sau đó rút ra đặc điểm

17


giống và khác nhau giữa chúng. Qua việc hoàn thành PHT dạng này sẽ dần hình
thành cho HS một ký năng so sánh, giải quyết nhirjm vụ mà GV đề ra.

 PHT phát triển kỹ năng phân tích
PHT phát triển kỹ năng phân tích là PHT yêu cầu phân tích một vấn đề,
một SĐ, một quan điểm, một hình vẽ,… mà HS phải hiểu được kiến thức của
vấn đề mới có khả năng hoàn thành chính xác yêu cầu của PHT. GV có thể sử
dụng PHT này để dạy bài mới, củng cố kiến thức và kiểm tra kiến thức.
 PHT phát triển kỹ năng quy nạp, khái quát hóa
PHT phát triển kỹ năng quy nạp, khái quát hóa là PHT có thể sử dụng để
dạy bài mới, củng cố khắc sâu kiến thức bài học. Qua việc hoàn thành PHT dạng
này sẽ hình thành cho HS phương pháp tổng hợp đi từ cái riêng, cái đơn lẻ đến
cái chung, cái trừu tượng khái quát.
HS lĩnh hội tri thức mới khi tự mình đưa ra nhận xét, tự mình kết luận. Từ
đó hình thành cho HS kỹ năng quy nạp, khái quát hóa một vấn đề.
PHT này gồm hai dạng:
- Đưa ra bảng số liệu yêu cầu HS nhận xét, kết luận.
- HS nghiên cứu tài liệu, đưa ra sơ đồ tóm tắt nội dung nghiên cứu.
 PHT phát triển kỹ năng suy luận, đề xuất giả thuyết
PHT phát triển kỹ năng suy luận, đề xuất giả thuyết là PHT mà GV đưa ra
yêu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi HS phải vận dụng kiến thức đã biết, đã tìm hiểu để suy
luận hay do GV cho HS quan sát sơ đồ, hình vẽ rồi từ đó đề xuất giả thuyết.
 PHT phát triển kỹ năng vận dụng kiến thức
PHT phát triển kỹ năng vận dụng kiến thức là PHT yêu cầu HS ứng dụng
kiến thức đã học về một vấn đề này để giải quyết một vấn đề khác, vận dụng
kiến thức đã học vào thực tiễn và giải thích chứng minh một vấn đề. Dạng PHT
này có thể sử dụng với nhiều đối tượng HS khác nhau cho kết quả đa dạng.

18


PHIẾU
HỌC

TẬP

Phát triển
kỹ năng
quan sát

Phát triển
kỹ năng
phân tích

Phát triển
kỹ năng
so sánh

Phát triển
kỹ năng
quy nạp,
khái quát
hóa

Qua

Qua

Qua

Qua

Qua


Qua

Qua

Qua

Qua

Qua

Qua

Qua

quan

quan

phân

phân

so

so

tóm

rút ra


suy

đề

chứng

vận

sát

sát

tích

tích

sánh

sánh

tắt

nhận

luận

xuất

minh,


dụng

hình

mẫu

một



hai

hai

một

xét,

một

giả

giải

kiến

vẽ,

vật


quan

đồ,

quan

quá

đoạn

kết

vấn

thuyết

thích

thức

điểm,

hình

điểm,

trình,

SGK


luận

đề

một

vẽ

hai

hai

sơ đồ

vấn

học

sự

đề

thuyết

vật

sơ đồ

Phát triển
kỹ năng

suy luận,
đề xuất
giả thuyết

Phát triển
kỹ năng
vận dụng
kiến thức

thực
tiễn

Sơ đồ 2.2: Các dạng PHT
2.2.7. Các hình thức sử dụng PHT
Trong quá trình giảng dạy của GV cần xác định đúng thời điểm cũng như
cách thức tiến hành tổ chức cho HS hoàn thành PHT, tùy vào nội dung bài học
cũng như nội dung và độ dài của PHT mà GV có thể sử dụng PHT để phát cho
từng cá nhân hay cho từng nhóm nhỏ hoàn thành PHT.

19


 Phát cho từng HS
GV phát PHT cho từng HS trong lớp và yêu cầu HS hoàn thành PHT một
cách độc lập. Sử dụng PHT này khi cần đánh giá một cá nhân.
Hình thức sử dụng này có những ưu và nhược điểm sau:
- Ưu điểm: đánh giá được chính xác mức độ nhận thức của từng HS,
kích thích khả năng tư duy độc lập và sáng tạo của từng HS.
- Nhược điểm: do từng HS phải tự hoàn thành PHT của mình nên nhiều
khi kiến thức bị sai lệch và độ chính xác không cao. Hơn nữa, mỗi HS khi hoàn

thành PHT có những ý kiến riêng của bản thân vì thế dẫn đến việc có nhiều đáp
án cho cùng một nội dung, GV khó khăn trong việc tổng hợp ý kiến.
 Phát cho từng nhóm HS
GV phát PHT cho từng nhóm HS, yêu cầu HS trong nhóm sẽ thảo luận
với nhau và đưa ra kết luận. Sử dụng PHT dạng này khi cần đánh giá từng nhóm
HS về tinh thần hợp tác làm việc tập thể và kết quả làm việc của nhóm.
Hình thức sử dụng này có những ưu và nhược điểm sau:
- Ưu điểm: độ chính xác của kiến thức cao do có sự đồng thuận, đóng
góp của nhiều thành viên trong nhóm.
- Nhược điểm: không đánh giá được chính xác trình độ của từng cá nhân
trong nhóm
Do vậy trong từng trường hợp có thể sử dụng hình thức này hay hình thức
khác sao cho phù hợp với nội dung bài dạy và nội dung của PHT.

Hình thức sử dụng PHT

Phát cho từng HS
Phát cho từng nhóm HS

Sơ đồ 2.3: Hình thức sử dụng PHT

20


2.2.8. Biện pháp sử dụng PHT trong dạy học
PHT là công cụ để GV tiến hành tổ chức hoạt động nhận thức cho HS
đồng thời là cơ sở để HS tiến hành các hoạt động nhận thức một cách tích cực,
chủ động. Việc sử dụng PHT có thể được sử dụng trong dạy học bài mới, trong
ôn tập kiểm tra kiến thức. Theo đó có thể sử dụng PHT trong các khâu:
 PHT sử dụng để dạy bài mới

PHT được sử dụng để phát cho từng HS hoặc theo nhóm nhỏ trước khi
vào một nội dung, một bài học mới,… cho HS nghiên cứu SGK, tài liệu rồi rút
ra kiến thức cần lĩnh hội thông qua việc hoàn thành những yêu cầu của PHT.
PHT sử dụng trong trường hợp này yêu cầu HS:
- Đọc một đoạn SGK, tóm tắt hoặc sơ đồ hóa rồi rút ra kết luận.
- Nghiên cứu bảng số liệu, tài liệu rồi khái quát vấn đề.
- Quan sát tranh ảnh, hình vẽ, sơ đồ,… rồi rút ra nhận xét.
- PHT sử dụng để dạy bài mới nhằm kích thích thái độ tích cực học tập
của HS, giúp HS lĩnh hội tri thức mới nhanh chóng, sâu sắc thông qua việc
nghiên cứu SGK và tài liệu tham khảo.
 PHT sử dụng để củng cố kiến thức
PHT dạng này dùng để phát cho HS sau khi đã học xong một đoạn hay
một phần bài học, một phần nội dung nào đó.
PHT sử dụng trong trường hợp này yêu cầu HS:
- Điền vào sơ đồ câm do GV lập ra.
- So sánh, khái quát, kết luận sau khi học xong một nội dung.
- Sơ đồ hóa nội dung bài học.
- Phân tích một sơ đồ hay một nội dung nào đó.
- Vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn.
PHT dạng này sẽ giúp HS khắc sâu kiến thức, đánh giá được mức độ lĩnh
hội kiến thức của HS và quá trình DH của GV.

21


 PHT sử dụng để kiểm tra
PHT dạng này được phát cho HS khi cần kiểm tra lấy điểm (5 phút, 15
phút, 45 phút, kiểm tra chất lượng).
PHT sử dụng trong trường hợp này yêu cầu HS:
- Điền vào sơ đồ câm.

- Phân tích sơ đồ, hình vẽ SGK rồi rút ra nhận xét, kết luận.
- Nghiên cứu SGK rồi so sánh, tóm tắt kiến thức.
- Vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn.
Nếu sử dụng PHT dạng này có thể kiểm tra ngay trong bài sẽ giúp đánh
giá được mức độ tiếp thu kiến thức của HS, từ đó giúp GV điều chỉnh quá trình
dạy học trong những tiết tiếp theo cho phù hợp, đạt kết quả cao. Kiểm tra còn
giúp cho HS rèn luyện kỹ năng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa kiến thức,…
Nếu sử dụng PHT để kiểm tra bài cũ vào lúc đầu giờ sẽ đánh giá được
mức độ tiếp thu kiến thức của HS ở tiết dạy trước đó, giúp HS phát triển khả
năng phân tích, tổng hợp, so sánh,… một cách tổng quát lại kiến thức. Đó là cơ
sở dẫn dắt HS tiếp thu những kiến thức tiếp theo của bài giảng mới.

22


Biện pháp sử dụng PHT

Sử
dụng
để
dạy
bài
mới

Sử
dụng
để
kiểm
tra


Sử
dụng
để
củng
cố,
nâng
cao

Sơ đồ 2.4: Biện pháp sử dụng PHT
2.2.9. Một số lưu ý khi sử dụng PHT trong dạy học
- Nên sử dụng PHT một cách có hệ thống.
- Tùy từng trường hợp mà đưa ra những yêu cầu cụ thể phù hợp với nội
dung kiến thức cần lĩnh hội.
- Mục đích của PHT phải rõ rang, khối lượng công việc vừa phải, thời
gian thích hợp để đa số HS trong lớp hoàn thành đúng thời gian quy định.
- Xác định cơ sở vật chất cần có để hoàn thành PHT như: hình vẽ, sơ đồ,
bảng biểu, dụng cụ trực quan,…
- PHT phải có chỉ dẫn nhiệm vụ rõ ràng, phải có ký hiệu dung vào phần
nào, bài nào, phải có khoảng trống vừa đủ để HS có thể hoàn thành công việc
của mình và để GV và HS tiện sử dụng.

23


- Trong trường hợp cơ sở vật chất còn thiếu đặc biệt là khâu in các PHT,
những PHT không có hình vẽ, không có tranh ảnh sơ đồ,… thì GV có thể đọc
cho HS ghi vào vỏ hay chép lên bảng cho HS làm.
- Phải dự kiến được những khó khăn HS có thể gặp phải khi hoàn thành
PHT để tìm ra những gợi ý chủ yếu đồng thời phải tránh những gợi ý quá tỉ mỉ,
kỹ càng làm hạn chế năng lực hoạt động sáng tạo của HS.

- Tùy từng trường hợp cụ thể mà sử dụng PHT cho cá nhân, cho nhóm
hay cho cả lớp.
- Cần hướng dẫn HS cách hoàn thành PHT và khi hết thời gian quy định
thì GV sẽ thu phiếu, gọi HS đưa ra đáp án. Từ kết quả của PHT, GV sẽ nhận xét
và tổ chức cho HS đưa ra đáp án đúng.
- Đánh số thứ tự cho mỗi PHT để tiện cho việc sử dụng.
- Tùy vào từng điều kiện cụ thể có thể sử dụng toàn bộ PHT hay sử dụng
một phần PHT.
- GV sau khi đưa ra kiến thức cho HS cần tổng kết lại nội dung và có
những nhận xét và đánh giá kịp thời để động viên khích lệ HS tạo sự hứng thú
khi tham gia làm những PHT tiếp theo trong quá trình học tập.
2.2.10. Quy trình thiết kế PHT
Theo Đặng Thành Hưng (2004) để xây dựng PHT cần tuân theo những
bước sau:
 Bước 1: Xác định ý tưởng
Bước này thể hiện sự định hướng của GV về PPDH cụ thể cho từng bài
học, về biện pháp sử dụng các tình huống và môi trường dạy học, về hình thức
tổ chức dạy học kết hợp với các phương tiện dạy học. Việc xác định ý tưởng
trong xây dựng PHT phải bao quát các thao tác:
- Xác định rõ ràng mục tiêu bài học.
- Phân tích nội dung học tập.
- Định hướng phương pháp, kỹ thuật, biện pháp và hình thức DH.
24


- Nhận thức được môi trường và các điều kiện học tập, cách thức tổ chức
các PHT thành một hệ thống cho phù hợp.
- Xác định rõ ràng vấn đề hay nhiệm vụ học tập chủ yếu của bài học.
Căn cứ vào ý tưởng đã xác định, căn cứ vào nội dung bài học, GV định
hướng để thiết kế và xây dựng hướng sử dụng PHT trong dạy học. GV tiến hành

phân tích cấu trúc nội dung, lựa chọn những nội dung chính, chủ yếu, những
phần kiến thức cần nhấn mạnh, phân loại kiến thức và xác định rõ ràng nhiệm vụ
hay vấn đề nào là chủ yếu trong bài. Qua đó giúp GV định hướng được quá trình
DH của mình sẽ hướng vào nội dung nào, PHT sử dụng trong bài cho những nội
dung đó có thể là phiếu dạng nào, phát triển kỹ năng nào.
Sau khi đã phân tích và lựa chọn được nội dung chính của bài, nội dung
có thể xây dựng PHT, GV đề xuất mục tiêu cho PHT, có thể là PHT phát triển kỹ
năng quan sát, vận dụng, so sánh, khái quát hóa, phân tích hay suy luận. GV
phải căn cứ vào nội dung bài học cũng như đặc điểm của lớp học để đề ra mục
tiêu phù hợp với năng lực hoạt động học tập của HS.
 Bước 2: Xác định cách trình bày nội dung học tập và hình thức thể
hiện nội dung trong PHT
Xác định mục tiêu bài học từ đó xây dựng ý tưởng ngay từ đầu và nội
dung của phiếu là việc cụ thể hóa và làm cho ý tưởng đó chính xác hơn trong nội
dung PHT. Tương ứng với các nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra cần HS giải quyết thì
phải cung cấp cho HS những tư liệu và sự kiện gì, HS phải làm những thí
nghiệm nào, cần hoàn thành những bài tập lý thuyết nào,… từ đó tổ chức bố trí
bộ phiếu sao cho phù hợp nhất về mặt nội dung, logic, cấu trúc và kỹ thuật.
Việc phân bố những sự kiện và công việc trong PHT cần được kết hợp
một cách nhuần nhuyễn với việc lựa chọn hình thức biểu hiện. Có những dữ
liệu, sự kiện nên được trình bày bằng văn bản bình thường, có loại nên đưa vào
sơ đồ, biểu mẫu, hình ảnh hoặc thậm chí cả công cụ media. Hình thức biểu đạt
25


×