Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh bột phát nâng cao hiệu quả giậm nhảy trong nhảy xa “ưỡn thân” cho nữ học sinh khối 11 trường THPT giao thủy – nam định (2014))

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.07 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

NGUYỄN QUANG HUY

LỰA CHỌN BÀI TẬP PHÁT TRIỂN SỨC
MẠNH BỘT PHÁT NÂNG CAO HIỆU
QUẢ GIẬM NHẢY TRONG NHẢY XA
ƯỠN THÂN CHO NỮ HỌC SINH KHỐI
11 TRƯỜNG THPT
GIAO THỦY - NAM ĐỊNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

HÀ NỘI - 2014


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

NGUYỄN QUANG HUY

LỰA CHỌN BÀI TẬP PHÁT TRIỂN SỨC
MẠNH BỘT PHÁT NÂNG CAO HIỆU
QUẢ GIẬM NHẢY TRONG NHẢY XA
ƯỠN THÂN CHO NỮ HỌC SINH KHỐI
11 TRƯỜNG THPT
GIAO THỦY - NAM ĐỊNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CNKHSP TDTT - GDQP
Hướng dẫn khoa học



Th.S VŨ TUẤN ANH


HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Nguyễn Quang Huy
Sinh viên lớp K36: GDTC – GDQP trường ĐHSP Hà Nội 2.
Tôi xin cam đoan đề tài: “Lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh bột phát
nâng cao hiệu quả giậm nhảy trong Nhảy xa “ưỡn thân” cho nữ học sinh
khối 11 trường THPT Giao Thủy – Nam Định”
là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, đề tài này không trùng kết quả nghiên cứu
của các tác giả khác. Nếu có gì không trung thực tôi xin chịu hoàn toàn trách
nhiệm.
Hà Nội, ngày... tháng... năm 2014
Sinh viên

Nguyễn Quang Huy


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CT/ TW

: Chỉ thị /Trung ương

(cm)

: Centimet

ĐC


: Đối chứng

ĐHSP HN2

: Đại học Sư phạm Hà Nội 2

GDTC

: Giáo dục thể chất

NXB

: Nhà xuất bản

STN

: Sau thực nghiệm

TDTT

: Thể dục thể thao

THPT

: Trung học phổ thông

Th.s

: Thạc sỹ


TN

: Thực nghiệm

TTN

: Trước thực ngiệm

PGS

: Phó giáo sư

TS

: Tiến sĩ


DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG
Số biểu
bảng
3.1
3.2
3.3

3.4

3.5

3.6

3.7
3.8
3.9
3.10
3.11

Nội dung
Đội ngũ giáo viên TDTT trường THPT Giao Thủy Nam Định.
Cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và học tập môn
GDTC
Kết quả đánh giá về trình độ kỹ thuật và thành tích nhảy
xa kiểu “ưỡn thân” của học sinh nữ khối 11 trường THPT
Giao Thủy - Nam Định năm học 2013 - 2014 .
Kết quả phỏng vấn đội ngũ giáo viên TDTT vÒ các yêu
cầu liên quan đến việc lựa chọn bài tập phát triển sức
mạnh bột phát cho giai đoạn giậm nhảy trong nhảy xa .
Kết quả phỏng vấn đội ngũ giáo viên TDTT về việc lựa
chọn bài tập phát triển sức mạnh bột phát nâng cao hiệu
quả giậm nhảy trong Nhảy xa ưỡn thân cho nữ học sinh
khối 11 trường THPT Giao Thủy - Nam Định.
Kết quả phỏng vấn đội ngũ giáo viên TDTT về việc lựa
chọn các test đánh giá bài tập phát triển sức mạnh bột phát
nâng cao hiệu quả giậm nhảy cho đối tượng nghiên cứu.
Bảng tiến trình thực nghiệm (6 tuần).
Kết quả kiểm tra trước thực nghiệm của hai nhóm đối
chứng và thực nghiệm
Kết quả kiểm tra các test sau thực nghiệm của 2 nhóm
thực nghiệm và đối chứng.
Kết quả so sánh 2 trị số trung bình quan sát các test kiểm
tra trước và sau thực nghiệm của nhóm đối chứng.

Kết quả so sánh 2 trị số trung bình quan sát các test kiểm
tra trước và sau thực nghiệm của nhóm thực nghiệm.
Biểu đồ 1: Thành tích Nhảy xa có đà (cm) của hai nhóm
trước và sau thực nghiệm.

Biểu đồ Biểu đồ 2: Thành tích Bật xa tại chỗ (cm) của hai nhóm
trước và sau thực nghiệm.

Trang
23
24
26

28

30

33
35
36
37
38
38
39
40


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ........................ 5

1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về Giáo dục Thể chất và Thể thao
Trường học ................................................................................................... 5
1.2. Đặc điểm tâm, sinh lý học sinh THPT .......................................................... 7
1.3. Những quan điểm huấn luyện kỹ thuật nhảy xa ......................................... 11
1.4. Sức mạnh trong nhảy xa và đặc điểm phát triển tố chất sức mạnh của học
sinh THPT .................................................................................................. 12
1.5. Đặc điểm kỹ thuật giai đoạn chạy đà và giậm nhảy ................................. 14
1.6. Các yếu tố chi phối hiệu quả nắm bắt kỹ thuật giai đoạn giậm nhảy của
Nhảy xa ...................................................................................................... 15
CHƯƠNG 2: NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP, TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
....17
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 17
2.2. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 17
2.3. Tổ chức nghiên cứu..................................................................................... 20
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...................................................... 22
3.1. Đánh giá thực trạng công tác GDTC và việc sử dụng các bài tập sức
mạnh bột phát trong nhảy xa kiểu “ưỡn thân” cho nữ học sinh khối 11
trường THPT Giao Thủy – Nam Định.

.................................................. 22

3.2. Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả bài tập sức mạnh bột phát nâng
cao hiệu quả giậm nhảy trong nhảy xa kiểu ưỡn thân” cho nữ học sinh
khối 11 trường THPT Giao Thủy – Nam Định.

................................... 27

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................................... 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 43
PHỤ LỤC



1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất nước ta hiện nay đang trên đà phát triển về tất cả các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa - xã hội, thể dục thể thao (TDTT) cũng không nằm ngoài
sự phát triển đó, nó không chỉ đem lại sức khỏe cho con người mà còn là một
trong những phương tiện giao tiếp giữa các nước, các tổ chức và nhân dân
trên thế giới, tăng cường tình hữu nghị giữa các dân tộc, góp phần vào sự
nghiệp củng cố hòa bình. Chính sự xác định đúng đắn vài trò và tầm quan
trọng của TDTT mà Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến lĩnh vực này. Tại
chỉ thị 36-CT/TW (24-3-1994) của Ban bí thư Trung ương Đảng đã khẳng
định: “Mục tiêu cơ bản và lâu dài của công tác TDTT là hình thành nền
TDTT phát triển và tiến bộ, góp phần nâng cao sức khỏe, thể lực, đáp ứng
nhu cầu văn hóa, tinh thần của nhân dân và phấn đấu đạt được vị trí xứng
đáng trong các hoạt động thể thao quốc tế, trước hết là ở khu vực Đông Nam
Á. Trước mắt, hình thành hệ thống đào tạo tài năng thể thao quốc gia, đào
tạo được một lực lượng vận động viên (VĐV) trẻ có khả năng nhanh chóng
tiếp cận các thành tựu thể thao tiên tiến của thế giới,… đầu tiên là ở môn thể
thao mà ta có nhiều khả năng…”[1].
TDTT có vai trò quan trọng trong giáo dục, bởi nó là hoạt động có
tác dụng nhiều mặt tới thể chất và tinh thần của con người. Nhận thức rõ được
tầm quan trọng của TDTT, trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm đến phong trào TDTT như: Đầu tư trang thiết bị, dụng cụ tập
luyện và thi đấu thể thao. Thành lập và huấn luyện các đội tuyển nhằm phát
triển thể thao thành tích cao. Dưới sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, hầu
hết các môn thể thao đã được đưa vào các trường từ cấp phổ thông đến bậc
đại học với nội dung và hình thức phong phú, đa dạng như: Bóng chuyền,
Bóng rổ, Cầu lông, Điền kinh, Thể dục. Trong đó, Điền kinh là môn thể thao



2

có tác dụng phát triển các tố chất thể lực cho con người như: Sức nhanh, sức
mạnh, sức bền, khả năng phối hợp vận động; giáo dục năng lực thực hành, ý
thức kỷ luật, tính tự giác tích cực và ý chí vươn lên cho người học. Mặt khác,
Điền kinh là một môn có tính chất hoạt động rất gần gũi với hoạt động tự
nhiên của con người như: Chạy, nhảy, ném, đẩy và tập luyện điền kinh không
đòi hỏi điều kiện và dụng cụ phức tạp.
Nhảy xa là một môn quan trọng và cơ bản của điền kinh. Nhảy xa
gồm 3 kỹ thuật cơ bản: Kiểu ngồi, ưỡn thân, cắt kéo; dù ở kiểu nào thì nó
cũng là một hoạt động phức tạp cần phải có sự phối hợp hợp lý qua từng giai
đoạn để hình thành kỹ thuật. Kỹ thuật nhảy xa chia làm 4 giai đoạn: Chạy đà,
giậm nhảy, trên không và tiếp đất. Bốn giai đoạn này có mối quan hệ chặt chẽ
và mật thiết với nhau, trong đó giai đoạn chạy đà và giậm nhảy là quan trọng
nhất, quyết định đến thành tích người tập. Vì mục đích của chạy đà là tạo ra
tốc độ nằm ngang lớn nhất trước khi giậm nhảy và chuẩn bị tốt cho việc đặt
chân giậm nhảy chính xác vào ván giậm nhảy; còn giậm nhảy tạo ra tốc độ
thẳng đứng để có được tốc độ bay ban đầu lớn nhất và góc bay hợp lý. Do đó,
để đạt được thành tích cao thì người tập cần có thể lực và nắm vững kỹ thuật.
Vì vậy, để hoàn thiện kỹ thuật và nâng cao thành tích đòi hỏi người tập phải
biết phối hợp giữa các yếu tố: Chiều dài đà, tốc độ chạy đà, điểm giậm nhảy
và trình độ thể lực.
Trong các môn học Điền kinh nói chung và môn Nhảy xa nói riêng,
ngoài yếu tố thể lực ra thì vấn đề kỹ thuật là vô cùng quan trọng nó quyết định
đến thành tích thi đấu. Qua kinh nghiệm thực tế và các công trình nghiên cứu
khoa học TDTT đã chứng minh rằng “Động tác kỹ thuật càng thuần thục
chính xác thì càng tiết kiệm sức, vận dụng và phát huy khả năng dùng sức
phối hợp, cảm giác không gian, thời gian là vấn đề quan trọng đòi hỏi người

tập không những nắm được kỹ thuật cơ bản mà còn nắm vững yếu linh động


3

tác”. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng quá trình tạo cho con người
học những hình ảnh chính xác về kỹ thuật động tác ban đầu, là một trong
những biện pháp rút ngắn thời gian hoàn thiện động tác, ngăn chặn những sai
lầm kỹ thuật.
Thành tích Nhảy xa là sự tổng hợp của nhiều yếu tố như: trạng thái
chức năng, mức độ phát triển các tố chất thể lực, kỹ thuật, đặc điểm hình thái
cơ thể… Trong đó Nhảy xa là nội dung nằm trong hệ thống các môn không
chu kỳ, có kỹ thuật động tác phức tạp bao gồm chạy đà, giậm nhảy, bay trên
không và tiếp đất. Trong bốn yếu tố đó, yếu tố giậm nhảy có ảnh hưởng nhất
tới việc hình thành kỹ thuật động tác và quyết định thành tích ở môn này.
Nhưng khâu giậm nhảy có quan hệ rất lớn với tốc độ giậm nhảy… Như vậy,
trong Nhảy xa tố chất thể lực có thể phân ra một cách tương đối, gắn liền với
quá trình thực hiện kỹ thuật, bao gồm:
- Sức mạnh tốc độ: Loại sức mạnh này thể hiện khá rõ trong động tác
chạy đà.
- Sức mạnh bột phát: Loại sức mạnh thể hiện khá rõ trong động tác
giậm nhảy (sức bật).
Sau một thời gian quan sát trực tiếp giảng dạy môn Nhảy xa kiểu “ưỡn
thân”, học sinh ở trường có nhiều em mắc phải sai lầm, đặc biệt là trong giai
đoạn giậm nhảy, đây cũng chính là vấn đề tồn tại mà dẫn đến học sinh học tập
còn hạn chế nhiều về thành tích, thành tích chưa cao. Để phù hợp với những
chương trình giảng dạy đáp ứng mục tiêu của nhà trường và giáo dục cho các
em học sinh có sức khoẻ tốt, đáp ứng được mục tiêu học tập và hướng nghiệp.
Vì vậy, trong nhà trường phải có đội ngũ giáo viên làm công tác GDTC phải
nắm vững được kỹ thuật các môn học Điền kinh nói chung và

môn Nhảy xa nói riêng lại càng có ý nghĩa quan trọng.


4

Trên thực tế có rất nhiều phương pháp giảng dạy và các bài tập về
Nhảy xa trong đó những bài tập khắc phục để hoàn thiện kỹ thuật giai đoạn
giậm nhảy cho các trường THPT hiện nay chưa được triệt để, nhất là trên địa
bàn Giao Thủy - Nam Định.
Do đó, việc ứng dụng một số bài tập phát triển sức mạnh bột phát nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy của môn Điền kinh nói chung cũng như trong
giảng dạy kỹ thuật Nhảy xa nói riêng là việc làm cần thiết và có ý nghĩa thực
tiễn trong quá trình giảng dạy môn Điền kinh trong các nhà trường THPT hiện
nay.
Trong quá trình nghiên cứu tài liệu chúng tôi thấy môn nhảy xa đã có
một số tác giả nghiên cứu như: Nguyễn Thị Hải; Nguyễn Thị Hoa; Đỗ Thị
Liên Khoa GDTC Trường ĐHSP Hà Nội 2… Tuy nhiên, chưa có tác giả nào
nghiên cứu sức mạnh bột phát nhằm nâng cao hiệu quả giậm nhảy trong nhảy
xa “ưỡn thân” cho nữ học sinh khối 11 trường THPT Giao Thủy - Nam Định.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh bột phát nâng cao hiệu quả giậm
nhảy trong Nhảy xa “ưỡn thân” cho nữ học sinh khối 11 trường THPT
Giao Thủy - Nam Định”
* Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là lựa chọn một số bài tập phát triển
sức mạnh bột phát phù phù hợp với điều kiện, đối tượng, lứa tuổi với mục
đích là nhằm nâng cao hiệu quả giậm nhảy trong Nhảy xa, cho nữ học sinh
khối 11 trường THPT Giao Thủy - Nam Định.



5

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về Giáo dục Thể chất và Thể thao
Trường học
Sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm đến sự nghiệp phát triển TDTT vì sức
khỏe nhân dân, Bác kêu gọi toàn dân thường xuyên rèn luyện thân thể giữ gìn
sức khỏe và nâng cao thể lực. Bác Hồ tin yêu thế hệ trẻ, quan tâm và chăm
sóc đến sự phát triển thể chất của thế hệ trẻ, ngày về thăm Trường Trung cấp
TDTT Trung ương (nay là Trường Đại học TDTT Bắc Ninh), Bác đã căn dặn:
"... Các cháu học TDTT không phải để đạt ông kiện tướng này, bà kiện tướng
nọ. Cái chính là người cán bộ phục vụ đắc lực cho nhân dân, đem hiểu biết
của mình ra hướng dẫn mọi người cùng tập luyện để nâng cao sức khỏe đẩy
lùi bệnh tật..." [8].
Định hướng về công tác giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ trong
những năm tới, Nghị quyết Trung ương II khóa VIII đã khẳng định: "Giáo dục
đào tạo cùng với khoa học và công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách
hàng đầu... Chuẩn bị tốt hành trang cho thế hệ trẻ đi vào thế kỷ XXI... Muốn
xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh phải có con người phát triển toàn
diện, không chỉ phát triển về trí tuệ, trong sáng về đạo đức lối sống mà phải là
con người cường tráng về thể chất. Chăm lo cho con người về thể chất là trách
nhiệm của toàn xã hội của tất cả các ngành các đoàn thể, trong đó có giáo dục đào tạo, y tế TDTT .
Trước tình hình mới, định hướng của Đảng về phát triển sự nghiệp
TDTT : "Phát triển TDTT là bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố
con người công tác TDTT phải góp phần nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo



6

dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh làm phong phú đời sống văn hóa
tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến đấu
của các lực lượng vũ trang"
Trong các văn bản Nghị quyết của Đảng đã khẳng định: Phải xây dựng
nền TDTT có tính dân tộc, khoa học và nhân dân, phát triển rộng rãi phong
trào TDTT quần chúng, thể thao thành tích cao và tăng cường công tác GDTC
trong nhà trường các cấp với khẩu hiệu: "Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” Cũng như khẳng định phát triển TDTT là trách nhiệm của các cấp ủy
Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội.
Chỉ thị 36 CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nêu: "Mục tiêu
cơ bản lâu dài của công tác TDTT là hình thành nền TDTT phát triển và tiến
bộ, góp phần nâng cao sức khỏe thể lực, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần
của nhân dân... thực hiện nền giáo dục thể chất trong tất cả các trường học, làm
cho việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống hằng ngày của hầu hết học sinh sinh viên" [1].
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 có
ghi: "Quy định chế độ GDTC bắt buộc trong trường học". Điều đó đã khẳng
định sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với TDTT và GDTC
trong nhà trường, coi đó là nhiệm vụ cấp thiết của Đảng toàn dân, để tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển TDTT nước nhà. Chỉ thị 133 của Thủ tướng
chính phủ đã chỉ rõ “Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đặc biệt coi trọng việc giáo
dục thể chất trong nhà trường. Cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khóa,
ngoại khóa, quy định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho học sinh ở các cấp
học, quy chế bắt buộc ở các trường, nhất là các trường đại học phải có sân bãi,
phòng tập TDTT, có định biên hợp lý và có kế hoạch đào tạo đội ngũ giáo
viên TDTT đáp ứng nhu cầu ở tất cả cấp học" [6].


7


Luật Giáo dục đã khẳng định: "Giáo dục là con đường chủ yếu và cơ
bản để chuẩn bị cho con người cho sự phát triển bền vững của đất nước trong
điều kiện kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là con người
có sức khỏe và được phát triển toàn diện, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc" [7].
Để đưa công tác GDTC trong nhà trường trở thành một khâu quan
trọng mà sự nghiệp giáo dục - đào tạo, cũng như xác định đúng về vị trí
GDTC trong nhà trường các cấp phải được triển khai thực hiện đồng bộ với
các mặt giáo dục tri thức và nhân cách từ tuổi thơ cho đến Đại học. Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản quyết định ban hành quy chế về công
tác GDTC trong nhà trường các cấp. Trong đó đã khẳng định: "Giáo dục thể
chất được thực hiện trong nhà trường từ mầm non đến đại học, góp phần đào
tạo những công dân phát triển toàn diện. GDTC là một bộ phận hữu cơ của
mục tiêu giáo dục và đào tạo, nhằm giúp con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức".
1.2. Đặc điểm tâm, sinh lý học sinh THPT
1.2.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh THPT
Về mặt tâm lý, các em thích chứng tỏ mình là người lớn, muốn để mọi
người tôn trọng mình, đã có trình độ hiểu biết nhất định, có khả năng phân
tích, tổng hợp, muốn hiểu biết nhiều, có nhiều hoài bão nhưng còn nhiều
nhược điểm và thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống [15].
Tuổi này chủ yếu là tuổi hình thành thế giới quan, tự ý thức, hình thành
tính cách và hướng về tương lai. Đó cũng là tuổi lãng mạn, mơ ước độc đáo
mong cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhu cầu sáng tạo, nảy nở những tình cảm
mới, trong đó mối tình đầu thường để lại dấu vết trong sáng trong suốt cuộc


8


đời. Thế giới quan không phải là một niềm tin lạnh nhạt, khô khan mà nó là
sự say mê, ước vọng khát khao [15].
Hứng thú: Các em đã có thái độ tự giác tích cực trong học tập xuất phát
từ động cơ học tập đúng đắn và hướng tới việc lựa chọn nghề phù hợp với
mình sau khi đã học xong THPT. Song hứng thú học tập cũng còn do nhiều
động cơ khác nhau: Giữ lời hứa với bạn bè, đôi khi do tự ái, hiếu danh. Vì
vậy, giáo viên cần định hướng cho các em xây dựng động cơ đúng đắn để các
em có được hứng thú bền vững trong học tập nói chung và trong GDTC nói
riêng [15].
Tình cảm: So với học sinh cấp tiểu học và THCS, học sinh THPT biểu
lộ rõ rệt tình cảm gắn bó và yêu quý mái trường mà các em sắp chia tay, đặc
biệt đối với những giáo viên giảng dạy các em (yêu, ghét rõ ràng). Việc giáo
viên gây được thiện cảm và sự tôn trọng là một trong những thành công trong
sự nghiệp trồng người. Điều đó giúp giáo viên thuận lợi trong quá trình giảng
dạy, nó thúc đẩy các em tự giác tích cực trong tập luyện và ham thích môn thể
thao. Nên giáo viên phải là người mẫu mực, công bằng, biết động viên kịp
thời và quan tâm đúng mức tới học sinh, tôn trọng kết quả học tập cũng như
tình cảm của học sinh [15].
Trí nhớ: Lứa tuổi này hầu như không còn tồn tại việc ghi nhớ máy móc
do các em đã biết cách ghi nhớ có hệ thống, đảm bảo tính logic, tư duy chặt
chẽ hơn và lĩnh hội được bản chất của vấn đề cần học tập. Do đặc điểm trí
nhớ của các em học sinh THPT khá tốt nên giáo viên có thể sử dụng phương
pháp trực quan kết hợp với phương pháp giảng giải, phân tích sâu sắc các chi
tiết kỹ thuật động tác và vai trò, ý nghĩa cũng như cách sử dụng các phương
tiện, phương pháp trong GDTC để các em có thể tự lập một cách độc lập
trong thời gian rảnh rỗi [15].


9


Các phẩm chất ý chí đã rõ ràng hơn và mạnh mẽ hơn so với các lứa tuổi
trước đó các em có thể hoàn thành được những bài tập khó và đòi hỏi sự khắc
phục khó khăn lớn trong tập luyện. Mặc dù vậy ở lứa tuổi này các em rất cần
sự hướng dẫn chỉ bảo của giáo viên để các em có thể tiếp tục hoàn thiện mình.
1.2.2. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT
1.2.2.1. Đặc điểm sinh lý chung
Đối với học sinh lứa tuổi THPT, cơ thể các em đã phát triển tương đối
hoàn chỉnh, các bộ phận của cơ thể vẫn tiếp tục lớn lên nhưng chậm dần. Các
hệ cơ quan trong cơ thể đã đi vào ổn định, khả năng hoạt động và tập luyện
TDTT được nâng lên rõ rệt. Lứa tuổi này các em có thể áp dụng các bài tập để
phát triển sức mạnh, sức nhanh, sức bền, sự khéo léo và khả năng phối hợp
vận động một cách có hiệu quả. Đây là giai đoạn hoàn thiện kỹ thuật của
nhiều môn thể thao mà các em tập luyện và đạt đến trình độ cao [9].
1.2.2.2. Hệ thần kinh
Hệ thần kinh tiếp tục được phát triển và đi đến hoàn thiện, kích thích
não và hành tủy đạt đến mức của người trưởng thành. Các em đã có khả năng
tư duy, phân tích, tổng hợp và trừu tượng hóa được phát triển tạo thuận lợi
cho việc hình thành nhanh chóng tiếp thu và hoàn thiện kỹ thuật động tác [4].
Lứa tuổi này học sinh có thể tiếp thu được kỹ thuật động tác một cách
rất nhanh, tuy nhiên nếu bài tập đưa ra không gây hứng thú hoặc đơn điệu thì
các em dễ chán và gây cảm giác mệt mỏi. Do đó, cần đưa ra những hình thức
tập luyện đa dạng, phong phú, phù hợp, gây hứng thú cho học sinh.
Ngoài ra, sự hoạt động mạnh của tuyến giáp, tuyến sinh dục, tuyến yên
làm cho tính hưng phấn của hệ thần kinh chiếm ưu thế, giữa hưng phấn và ức
chế không cân bằng đã ảnh hưởng đến hoạt động thể lực. Vì vậy, GV và HLV
cần chú ý tới đặc điểm cơ thể của từng học sinh để có thể đưa ra các bài tập,
cách tập luyện phù hợp và đem lại hiệu quả cao.[9]



10

1.2.2.3. Hệ vận động
Hệ xương: Hệ xương đã phát triển tương đối hoàn thiện và bắt đầu giảm
tốc độ phát triển, sụn ở hai đầu xương còn dài nhưng sụn chuyển thành xương
ít. Đối với các em nữ mỗi năm cao thêm từ 0,5 - 1cm, nam cao thêm từ 13cm. Tập luyện TDTT một cách thường xuyên, liên tục làm cho bộ xương
khỏe mạnh hơn. Lứa tuổi học sinh phổ thông, các xương nhỏ như xương cổ
tay, bàn tay đã hoàn thiện nên các em có thể tập luyện một số động tác treo,
chống, mang vác nặng mà không làm tổn hại hoặc không làm phát triển lệch
lạc cấu trúc cơ thể. Cột sống đã ổn định hình dáng nhưng chưa hoàn thiện,
vẫn có thể bị cong vẹo nên việc bồi dưỡng tư thế chính xác thông qua hệ
thống bài tập như đi, chạy, nhảy, thể dục nhịp điệu…. cho các em là rất cần
thiết và không thể xem nhẹ được [9].
Hệ cơ: Các tổ chức cơ phát triển chậm hơn xương và sự phát triển của
cơ phụ thuộc vào mức độ phát triển của xương nên sức co cơ vẫn còn yếu.
Các bắp cơ lớn phát triển tương đối nhanh (cơ đùi, cơ cánh tay), các cơ nhỏ
phát triển chậm hơn, các cơ co phát triển sớm hơn các cơ duỗi. Do vậy cần
phải tập luyện các bài tập kết hợp giữa treo và chống cùng với những bài tập
khắc phục lực đối kháng [9].
1.2.2.4. Hệ tuần hoàn
Hệ tuần hoàn đang phát triển và đi đến hoàn thiện. Buồng tim phát triển
tương đối hoàn chỉnh, mạch đập của nam 70 - 80 lần /phút, của nữ 75 - 85 lần
/phút. Khả năng hồi phục sau những hoạt động thể lực nặng nhanh hơn lứa
tuổi trước đó. Sau vận động mạch đập và huyết áp phục hồi tương đối nhanh.
Lứa tuổi này có thể áp dụng các bài tập đòi hỏi sự dẻo dai và những bài tập có
khối lượng và cường độ vận động tương đối lớn. Vì vậy, GV cần đưa ra các
bài tập phù hợp, cần có thời khóa biểu hợp lý để không gây ra sự nguy hiểm


11


vượt sức đối với học sinh, cần thường xuyên kiểm tra, theo dõi sức khỏe của
học sinh định kỳ [9].
1.2.2.5. Hệ hô hấp
Hệ hô hấp đã phát triển tương đối hoàn thiện, tần số hô hấp giảm so với
tuổi trước, khả năng hấp thụ oxi lớn, dung tích sống và thông khí phổi tăng
lên. Vòng ngực trung bình của nam từ 67 - 72cm, của nữ từ 69 - 75cm. Tuy
nhiên, các cơ hô hấp vẫn còn yếu, sự co giãn của lồng ngực nhỏ, chủ yếu là co
giãn cơ hoành. Trong tập luyện TDTT cần thở sâu và tập trung chú ý thở bằng
lồng ngực, các bài tập bơi, chạy cự ly trung bình, việt dã đã có tác dụng tốt
đến sự phát triển của hệ hô hấp [9].
1.3. Những quan điểm huấn luyện kỹ thuật nhảy xa.
Có nhiều quan điểm khác nhau về huấn luyện kỹ thuật nhảy xa. Một số
tác giả nhận xét rằng, việc huấn luyện kỹ thuật động tác trong nhảy xa trước
tiên phải phối hợp vận động đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành
sớm kỹ thuật động tác. Song thực tế nghiên cứu cho thấy việc hình thành và
hoàn thiện kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo trong môn điền kinh nào đó ngoài việc
phát triển tố chất thể lực có liên quan cần phải chú trọng đến quá trình hình
thành kỹ năng, kỹ xảo vận động. Bởi vì, kỹ năng, kỹ xảo là yếu tố cấu thành
mức độ hoàn thiện kỹ thuật động tác.
Kỹ năng vận động của tất cả các hoạt động thể thao nói chung và trong
môn nhảy xa nói riêng được hình thành và phát triển do nhiều yếu tố, trong đó
yếu tố kỹ thuật đóng vai trò quan trọng. Quá trình này được chia làm 3 giai
đoạn:
- Giai đoạn 1: Giai đoạn lan tỏa.
Giai đoạn này người tập tiếp nhận những kiến thức của giáo viên để hình
thành mối quan hệ giữa các cơ quan vận động với vỏ não, hưng phấn trên vỏ
não sẽ lan rộng. Do vậy, người tập chưa có được cảm giác về động tác đúng



12

sai hay thừa. Chính vì vậy người tập hay mắc những sai lầm dẫn đến sự định
hình động tác sai.
- Giai đoạn 2: Giai đoạn ức chế phân biệt.
Hưng phấn trên vỏ não tập trung vào những khu điểm, hoạt động nhiều
người tập sẽ phân biệt được động tác đúng, sai, thừa, cần tập trung uốn nắn
cho học sinh. Nếu tập luyện thường xuyên đường dây liên lạc tạm thời trên vỏ
não sẽ ngày càng ổn định.
- Giai đoạn 3: Giai đoạn tự động hóa.
Là giai đoạn người học có thể nắm vững và thực hiện động tác một cách
thuần thục, chuẩn xác và không tốn sức. Hưng phấn đã tập trung vào những
vùng hẹp trên vỏ não nên chỉ có những cơ quan chính tham gia vận động.
Người tập nắm vững kỹ thuật động tác và biến kỹ thuật vận động thành kỹ
xảo. Họ thực hiện động tác theo ý muốn của mình một cách hoàn hảo, chính
xác và có tính nhịp điệu cao [14].
1.4. Sức mạnh trong nhảy xa và đặc điểm phát triển tố chất sức mạnh
của học sinh THPT
1.4.1. Sức mạnh trong Nhảy xa
1.4.1.1. Khái niệm Sức mạnh
Khái niệm:
Sức mạnh Sức mạnh là khả năng con người sinh ra lực cơ học bằng sự
nỗ lực của cơ bắp. Hay nói cách khác, sức mạnh của con người là khả năng
khắc phục lực cản bên ngoài bằng sự nỗ lực của cơ bắp [11] gồm có:
- Sức mạnh đơn thuần: Được sinh ra trong các động tác tĩnh hoặc chậm.
- Sức mạnh tốc độ: Được sinh ra trong các động tác nhanh.
- Sức mạnh bột phát: Là khả năng phát huy lực lớn trong một khoảng
thời gian ngắn nhất.



13

- Sức mạnh tương đối:

Sức mạnh tuyệt đối
Trọng lượng cơ thể

1.4.1.2. Sức mạnh trong Nhảy xa
Có thể thấy tố chất thể lực gắn liền với quá trình thực hiện kỹ thuật, bao
gồm:
- Sức mạnh tốc độ: Loại sức mạnh này thể hiện khá rõ trong động tác
chạy đà.
- Sức mạnh bột phát: Loại sức mạnh này thể hiện khá rõ trong động
tác giậm nhảy (sức bật).
Để nâng cao hiệu quả giậm nhảy trong Nhảy xa chúng ta cần quan tâm
đến sự phát triển sức mạnh bột phát cho người tập. Muốn phát triển sức mạnh
bột phát cần xen kẽ tập luyện đúng mức với phương pháp dùng sức lớn nhất.
Như vậy trong quá trình cho học sinh tập luyện môn Nhảy xa chúng ta cần
đưa vào các bài tập phát triển sức mạnh bột phát của các nhóm chi dưới, giúp
cho việc thực hiện động tác giậm nhảy trong Nhảy xa thật nhanh mạnh, để
đưa cơ thể bay lên cao và xa hơn.
1.4.2. Đặc điểm phát triển tố chất sức mạnh của học sinh THPT
Việc tập luyện sức mạnh có ý nghĩa rất lớn, tập luyện thường xuyên thì
sự cung cấp máu cho cơ bắp sẽ được tăng cường hàm lượng chất dinh dưỡng
và các men tham gia vào quá trình trao đổi chất trong vận động cao hơn người
bình thường, nhờ đó mà cơ bắp nở nang xương tăng độ dày và phát triển vững
chắc.
Tập luyện sức mạnh còn góp phần rèn luyện ý chí làm tiêu hao lượng
mỡ thừa tạo cho cơ thể có vóc dáng khoẻ mạnh, thoả mãn nhu cầu vươn tới
cái đẹp về hình thể của con người, nảy sinh những tình cảm tốt đẹp lành

mạnh.


Sức mạnh lớn hay nhỏ phụ thuộc vào thiết diện sinh lý của cơ, cơ năng
chi phối của thần kinh. Ở lứa tuổi THPT cơ thể chủ yếu phát triển theo chiều
cao, cho nên các cơ dài bé, vỏ não chi phối sự hoạt động của cơ thường bị lan
toả, không tập trung cho nên các cơ và cơ duỗi hoạt động không nhịp nhàng,
tốn sức, chóng mệt. Cùng với sự phát triển cơ thể, đến lứa tuổi THPT thiết
diện sinh lý của cơ cũng tăng lên nhanh chóng, thần kinh chi phối các cơ tập
trung hơn cho nên sức mạnh của các cơ ở lứa tuổi này tăng lên rõ rệt. Những
bài tập với dụng cụ có khối lượng trung bình có tác dụng thúc đẩy phát triển
sức mạnh nhanh chóng.
Các bài tập: Nhảy cao, Nhảy xa, Đẩy tạ, Chạy tốc độ…. cũng có tác
dụng lớn trong việc phát triển sức mạnh cơ thể.
Ở lứa tuổi THCS chú trọng phát triển sức nhanh thì ở lứa tuổi THPT
cần chú trọng phát triển sức nhanh lẫn sức mạnh.
1.5. Đặc điểm kỹ thuật giai đoạn chạy đà và giậm nhảy
So với các môn nhảy xa khác trong Điền kinh, Nhảy xa “ưỡn thân” có
lịch sử trên 100 năm. Việc nghiên cứu về đặc thù môn nhảy xa trong việc
chinh phục khoảng không gian luôn là vấn đề cần thiết đối với nhà khoa học
và chuyên môn TDTT. Các kết quả nghiên cứu khoa học TDTT nói chung và
Nhảy xa nói riêng có ý nghĩa và tác dụng to lớn, kỹ thuật chủ yếu khi thực
hiện Nhảy xa là giai đoạn giậm nhảy quyết định chủ yếu đến hiệu quả của lần
nhảy và kỹ thuật giậm nhảy đạt hiệu quả dựa trên cơ sở giải quyết tốt giai
đoạn chạy đà và khả năng phối hợp trong giai đoạn giậm nhảy.
Nhảy xa là hoạt động không có chu kỳ và các động tác không nối tiếp
nhau bằng móc xích liên tục. Vậy muốn có thành tích cao, đòi hỏi người tập
phải có trình độ tập luyện cao về: thể lực, kỹ thuật, tốc độ nhanh, sức bật cao,
phối hợp năng lực vận động với kỹ thuật một cách thuần thục. Để tiện cho



việc học tập cũng như huấn luyện nhảy xa người ta chia thành 4 giai đoạn:
chạy đà, giậm nhảy, bay trên không, tiếp đất.
Giậm nhảy được thực hiện trong thời gian ngắn. Giai đoạn giậm nhảy
bắt đầu khi đặt chân giậm nhảy vào ván giậm nhảy. Lúc này chân giậm nhảy
hơi khuỵu gối, sau đó dùng sức mạnh của chân và thân đạp mạnh nhanh lên
ván giậm nhảy.
Khi giậm nhảy, phải chủ động đạp mạnh duỗi thẳng chân, phối hợp với
đánh tay, đưa chân lăng ra trước - lên cao và giữ cơ thể được thăng bằng.
Giậm nhảy phải phối hợp nhịp nhàng với tốc độ nằm ngang của chạy đà tạo
nên. Như vậy Nhảy xa là một liên kết kỹ thuật phức tạp, là sự kết hợp giữa
các giai đoạn. Vì vậy trong giảng dạy và huấn luyện Nhảy xa, giai đoạn giậm
nhảy là giai đoạn quan trọng nhất.
1.6. Các yếu tố chi phối hiệu quả nắm bắt kỹ thuật giai đoạn giậm nhảy
của Nhảy xa
Theo các nhà khoa học TDTT của Liên bang Xô Viết cũ như: Philin,
Zaxiors, Pôpôp và Điền Mai Cử (Trung Quốc), Niu men, Phors men –
honbringgiơ của Mỹ…đã trình bày yếu tố chi phối việc nắm bắt kỹ thuật cũng
như nâng cao thành tích Nhảy xa là:
1.6.1. Khả năng phối hợp vận động trong thực hiện động tác
Khả năng này được thể hiện bước đầu ở động tác bật xa tại chỗ. Học
sinh muốn bật xa tại chỗ, cần phối hợp nhịp nhàng giữa động tác tay, chân,
thân người.
1.6.2. Phương hướng và mức độ dùng sức
Thành tích Nhảy xa về cơ bản phụ thuộc vào góc bay của tổng trọng
tâm cơ thể khi rơi xuống và tốc độ bay ban đầu. Mà tốc độ bay ban đầu phụ
thuộc vào tốc độ đà tối đa có được trong lúc giậm nhảy.
- Độ xa của lần nhảy được xác định bởi quỹ đạo trọng tâm cơ thể ở lúc
bay được tính bằng công thức:



S=

2

V o sin 2
g

Trong đó: S: Độ xa của 1 lần nhảy
Vo : Tốc độ bay ban đầu

g: Gia tốc rơi tự do (g  9,8m / s 2 )
 : Góc độ bay
Như vậy xét về mặt lý thuyết: Thành tích Nhảy xa phụ thuộc vào tốc độ
bay ban đầu, góc bay và độ cao khi bay ra của trọng tâm cơ thể và trong lúc
bay vận động viên không thể tác động lên quỹ đạo bay do chạy đà và giậm
nhảy tạo nên. Vì vậy, người nhảy phải có tốc độ chạy đà thích hợp, tạo lực
giậm nhảy lớn, để giúp cho người nhảy có thời gian bay trên không dài thì cơ
thểngười nhảy phải có tốc độ cao và độ xa khi bay trên không.


CHƯƠNG 2
NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP, TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, đề tài xác định giải quyết 2
nhiệm vụ sau:
2.1.1. Nhiệm vụ 1:
Đánh giá thực trạng công tác GDTC và việc sử dụng các bài tập phát
triển sức mạnh bột phát trong Nhảy xa kiểu ưỡn thân cho nữ học sinh khối 11
trường THPT Giao Thủy – Nam Định.

2.1.2. Nhiệm vụ 2:
Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả các bài tập sức mạnh bột phát
trong Nhảy xa kiểu “ưỡn thân” cho nữ học sinh khối 11 trường THPT Giao
Thủy - Nam Định.
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
Để giải quyết hai nhiệm vụ trên, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
2.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu.
Phương pháp này được sử dụng và nghiên cứu tổng hợp các tài liệu
có liên quan đến đề tài như: Các đề tài khoa học, khóa luận, sách, báo, báo
chuyên ngành, nghị quyết của Đảng và Nhà nước. Từ đó rút ra cơ sở lý luận
và thực tiễn nhằm đảm bảo tính chính xác trong quá trình tiến hành các vấn đề
nghiên cứu.
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn.
Phương pháp này cho phép chúng tôi tổng hợp các test đánh giá các bài
tập phát triển sức mạnh trong giảng dạy kỹ thuật giậm nhảy của Nhảy xa từ
các giáo viên thể dục trực tiếp giảng dạy môn Điền kinh và các em học sinh.
Hình thức chủ yếu là phỏng vấn gián tiếp thông qua các phiếu phỏng vấn.


2.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm.
Chúng tôi quan sát giờ học nhảy xa của nữ học sinh khối 11 trường
THPT Giao Thủy - Nam Định. Từ đó xác định thực trạng việc sử dụng các bài
tập bổ trợ chuyên môn trong huấn luyện kỹ thuật nhảy xa tại trường hiện nay.
2.2.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm.
Chúng tôi tiến hành kiểm tra hai giai đoạn trước thực nghiệm và sau
thực nghiệm để đánh giá hiệu quả quá trình tập luyện nhằm kiểm nghiệm
trong thực tiễn độ tin cậy của các test đánh giá trình độ kỹ thuật cho đối tượng
nghiên cứu.
2.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.

Sử dụng phương pháp này nhằm đánh giá hiệu quả các bài tập đã lựa
chọn và ứng dụng vào thực tiễn giảng dạy. Trong quá trình nghiên cứu, chúng
tôi tiến hành thực nghiệm so sánh với 60 học sinh nữ khối 11 trường THPT
Giao Thủy - Nam Định chia làm 2 nhóm ngẫu nhiên: Cả 2 nhóm đều có thể
lực, kỹ thuật, số buổi tập, thời gian tập là như nhau nhưng được tập luyện theo
các bài tập khác nhau.
- Nhóm thực nghiệm: Gồm 30 học sinh tập theo các bài tập chúng
tôi đã lựa chọn.
- Nhóm đối chứng: Gồm 30 học sinh tập theo các bài tập trong giáo
án giảng dạy và kế hoạch cũ.
Mỗi tuần tập luyện trong 3 buổi, tổng cộng gồm 18 giáo án, mỗi giáo án
được giảng dạy trong thời gian 45 phút và được thực hiện trong 6 tuần.
2.2.6. Phương pháp toán học thống kê.
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để xử lý số liệu thu thập được
trong quá trình nghiên cứu với những tham số: x , t, 
n

 xii 1
- Công thức tính giá trị trung bình: x 
n


n

 (x

- Công thức tính phương sai:  
2

- Độ lệch chuẩn:


  

i 1

i

 x)

2

n 1

2

- Công thức so sánh số trung bình quan sát:
t=

Trong đó:

xA xB

 c2  c2

n A nB

với n A ,n B  30

x : Số trung bình
xi : Giá trị cá thể thứ i

n : Tập hợp các cá thể tham gia
i : Cá thể thứ i
: Là dấu hiệu tổng


×