Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC BHNOONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.1 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì sự
giao lưu về văn hóa giữa các quốc gia ngày càng mạnh mẽ. Bên cạng những tác
động tích cực, điều này dẫn đến một hệ lụy là các bản sắc văn hóa dân tộc dễ bị tổn
thương, đặc biệt là văn hóa các dân tộc thiểu số. Do vậy, bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số đang đặt ra yêu cầu bức thiết hơn bao giờ hết.
Văn hóa của các dân tộc thiểu số là một bộ phận quan trọng trong nền văn
hóa Việt Nam phong phú, đa dạng, tạo nên một nước Việt Nam “đậm đà bản sắc
dân tộc”. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn có nhiều chính sách đối với
đồng bào dân tộc thiểu số trong cả nước, giúp cho người dân các vùng này được
hưởng thụ những giá trị văn hóa, đồng thời có chính sách bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số.
Phước Sơn là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, nơi có đông đồng
bào dân tộc sinh sống, trong đó chủ yếu là người Bhnoong chiếm gần 60% dân số
toàn huyện. Giá trị văn hóa truyền thống của người Bhnoong đã đóng góp rất lớn
vào kho tàng văn hóa chung của huyện cũng như tỉnh. Nhưng hiện nay trước
những tác động mạnh mẽ của đời sống xã hội các giá trị văn hóa này đã có những
biến đổi sâu sắc trong đó có cả những biến đổi theo chiều hướng tiêu cực. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu những giá trị bản sắc văn hóa để đề ra những giải pháp nhằm
bảo tồn và phát huy nét văn hóa tốt đẹp của đồng bào Bhnoong trở thành vấn đề
mang tính cấp thiết. Với tinh thần đó, tác giả chọn đề tài “Tìm hiểu bản sắc văn
hóa dân tộc Bhnoong huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam” để nghiên cứu.
Qua nghiên cứu này, tác giả sẽ nêu bật những đặc trưng văn hóa của người
Bhnoong trong nền văn hóa của dân tộc. Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm
bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa tích cực của người Bhnoong, góp phần
vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt
Nam. Đồng thời, kết quả nghiên cứu này sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho đội
1


ngũ giảng viên trường Chính trị tỉnh Quảng Nam khi đề cập đến vấn đề văn hóa


của đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh nhà.

2


CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
1.1 Một số vấn đề chung về văn hóa và bản sắc văn hóa
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hoá”. Người đã khẳng định: “Trong công cuộc kiến
thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến và phải coi là quan trọng ngang
nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”.
Theo UNESCO thì văn hóa định nghĩa như sau: Văn hóa nên được đề cập
đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc
cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn
học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền
thống và đức tin.
Theo quan điểm chung nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam thống nhất định
nghĩa văn hoá như sau: Văn hóa là hoạt động sáng tạo của con người (cá thể, nhóm
xã hội, giai cấp, dân tộc, xã hội nói chung), thực hiện trong các lĩnh vực sản xuất
vật chất và tinh thần, nhằm nắm bắt và khai thác thế giới, quá trình này sẽ sản xuất,
bảo quản phân phối, trao đổi và tiêu thụ những giá trị vật chất và tinh thần mang ý
nghĩa xã hội. Đồng thời nó là một tổng hợp chính là những giá trị đã vật thể hoá
hoạt động sáng tạo đó của con người.
Theo nghĩa rộng, có thể hiểu khái niệm văn hóa một cách cơ bản như sau:
“Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người tạo ra”. Văn hóa là

những gì còn lại sau quá trình lịch sử. Văn hoá không loại trừ tất cả những khía
cạnh nhỏ nhặt trong đời sống của con người, nó có thể là những điều đơn giản hay
phức tạp, có thể là bình thường hay mang tính đặc biệt... Do đó tất cả những gì con
người tạo ra đều được xem là văn hóa.
1.1.2. Khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc
3


Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản ánh diện mạo,
cốt cách, phẩm chất và bản lĩnh riêng của mỗi quốc gia, dân tộc; là dấu hiệu cơ bản
để phân biệt nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân
tộc thể hiện tập trung trong truyền thống văn hóa dân tộc.
Truyền thống văn hóa là các giá trị do lịch sử truyền lại, được các thế hệ sau
kế thừa gìn giữ và phát huy trong thời đại của mình, tạo nên dòng chảy liên tục của
lịch sử văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là những giá trị bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp nên qua lịch sử
hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Bản sắc văn hóa dân tộc là một khái niệm “động” và “mở”, mang tính lịch
sử cụ thể và vận động, đổi mới không ngừng trên cơ sở loại bỏ những yếu tố bảo
thủ và tiêu cực, tiếp thu và phát huy những yếu tố tích cực và tiến bộ, đồng thời tạo
lập các giá trị mới để đáp ứng với yêu cầu phát triển của thời đại.
1.1.3. Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số
Hiểu theo nghĩa chung nhất thì bảo tồn văn hóa là gìn giữ, lưu lại những giá
trị văn hóa đã được kế thừa qua hàng ngàn năm lịch sử. Bảo tồn văn hóa không
phải là hoạt động cản trở sự phát triển văn hóa, trong một chừng mực nào đó còn là
cơ sở cho sự phát triển văn hóa theo đúng hướng. Bảo tồn văn hóa giữ vai trò là cơ
sở góp phần thúc đẩy phát triển văn hóa.
Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số là hướng sự vận động trong văn
hóa của đồng bào dân tộc thiểu số theo hướng tốt đẹp hơn cho cuộc sống của con
người. Do đó, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số phải đi liền với

chống lạc hậu, lỗi thời, phong tục tập quán, lề thói cũ có hại đến sản xuất và đời
sống, phát huy những yếu tố tích cực, tốt đẹp trong văn hóa truyền thống của người
dân tộc thiểu số.
Muốn phát huy, bổ sung, thay thế, hoàn thiện văn hóa truyền thống dân tộc
có thể tiến hành bằng nhiều con đường, nhưng trong đó không thể thiếu con đường
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
1.2. Các quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật củaNhà nước về
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
4


1.2.1. Quan điểm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh
Ngày 29-4-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 229/SL nhằm ưu tiên,
bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số. Ðiều 6 Sắc lệnh nêu rõ: "Các dân tộc
thiểu số đều có quyền tự do phát triển tiếng nói và chữ viết của mình, có quyền tự
do giữ gìn hay là cải thiện phong tục tập quán, có quyền tự do tín ngưỡng, và được
Chính phủ giúp đỡ phát triển về mọi mặt chính trị kinh tế, văn hóa xã hội".
Người cũng từng nói: “Đồng bào Thái, đồng bào Mèo, đồng bào Tày, đồng
bào Nùng đã có chữ của mình. Như thế là tốt”. Sau đó, Người căn dặn: “Cán bộ
dân tộc thiểu số phải có ý thức chăm lo giữ gìn bản sắc văn hoá của dân tộc mình”.
Điều này cho thấy sự quan tâm của Bác đối với các giá trị văn hóa của đồng bào
dân tộc thiểu số và mong muốn bảo bồn và phát huy những giá trị tốt đẹp đó.
1.2.2. Đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà Nước về công tác bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số
Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách cụ thể để bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống của cả dân tộc nói chung và văn hóa các dân tộc
thiểu số nói riêng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua đã xác định: “Xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống

nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm
cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành
nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
Nghị quyết Trung Ương 5 khóa VIII “xây dựng và phát triển nền vǎn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ tinh hoa vǎn hóa nhân loại,
làm cho vǎn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng
người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh
vực sinh hoạt và quan hệ con người”.
Nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, khai thác tiềm năng,
đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch xây
5


dựng Đề án “Phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020” để
gắn chặt nhiệm vụ phát triển văn hoá dân tộc với phát triển kinh tế, an ninh, quốc
phòng, giảm sự chênh lệch mức thụ hưởng văn hoá giữa các vùng, góp phần xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Và vào ngày 18/3/2011 tại Hà Nội, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã tổ
chức Hội thảo góp ý xây dựng đề án “Phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt
Nam đến năm 2020” (Thứ trưởng Hồ Anh Tuấn đã chủ trì Hội thảo). Phát biểu tại
Hội nghị Thứ trưởng Hồ Anh Tuấn cho rằng: hiện nay, đời sống văn hoá ở miền
núi và vùng các dân tộc thiểu số có điều kiện mới để phát triển, nhưng vẫn tồn tại
nguy cơ tụt hậu và mất dần bản sắc ở một số dân tộc. Vì vậy việc xây dựng đề án
có tầm quan trọng đặc biệt, vừa giải quyết những vấn đề cấp bách, trước mắt, vừa
có tính định hướng chiến lược lâu dài về phát triển văn hóa dân tộc.

6



CHƯƠNG 2.
BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC BHNOONG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN PHƯỚC SƠN
2.1. Khái quát về huyện Phước Sơn
Huyện Phước Sơn, nằm trên triền Đông của dãy Trường Sơn và trung độ cả
nước, phía Đông giáp huyện Hiệp Đức, phía Nam giáp huyện Bắc Trà My, phía
Tây giáp huyện Đăk Glei tỉnh Kon Tum, phía Bắc giáp huyện Nam Giang. Huyện
lỵ Phước Sơn đóng tại thị trấn Khâm Đức, cách thành phố Tam Kỳ 130 km về
hướng Đông Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 135 km về hướng Đông Nam. Với vị trí
địa lý khá thuận lợi, có đường mòn Hồ Chí Minh chạy ngang qua, không những có
điều kiện cho phát triển kinh tế, xã hội mà còn thuận lợi cho việc giao lưu văn hóa
với các địa phương khác.
Huyện Phước Sơn nằm trên triền Đông của dãy Trường Sơn đại ngàn, uy
nghi, hùng vĩ và bị chia cắt mạnh bởi nhiều núi cao và sông sâu, độ dốc lớn. Đồng
thời chảy thấp dần từ Tây sang Đông, tạo nên hai vùng cao và vùng thấp khá rõ rệt.
Vùng cao có 9 xã và thị trấn, chiếm 3/ 4 diện tích, độ cao trung bình trên 1000m,
có nhiều núi cao trên 1.500m như ngọn Poltăm Heo (2.045m), Ngok Ti On
(2.032m) và ngọn Pol Gơlê Zang (1.834m). Địa hình núi cao kiến tạo trên nền đá
granit và đá biến chất granitnai, paranai… Vùng thấp là địa hình chuyển tiếp từ
Tây sang Đông gồm 2 xã Phước Hòa và Phước Hiệp chiếm 1/4 diện tích, độ cao
trung bình là dưới 500m, là cửa ngõ tiếp giáp với đồng bằng.
Ngoài ra còn có các sông suối lớn nhỏ tạo nguồn nước dồi dào cho các sông
lớn chảy về các vùng đồng bằng.
Phước Sơn có khí hậu quanh năm mát mẻ, nhiệt độ trung bình trong năm
21,80C, cao nhất là 39,40C và thấp nhất là 160C. Mùa khô từ tháng 02 đến tháng 8;
mùa hè chịu tác động bởi hướng gió Nam, thường có mưa giông, sấm sét, nhưng
thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển các loại cây trồng. Mùa mưa bắt đầu từ
tháng 9 năm trước và kéo dài đến tháng 01 năm sau, nhưng ít chịu ảnh hưởng của
bão. Hướng gió thịnh hành vào mùa đông là gió mùa Đông Bắc với mức độ nhẹ.

7


Độ ẩm trung bình 90%, lượng bốc hơi trung bình 800 mm. Sương mù thường xuất
hiện từ tháng 11 năm trước đến tháng 2 năm sau.
2.2. Dân tộc Bhnoong ở huyện Phước Sơn.
Hiện nay, ở Phước Sơn có 15 dân tộc cùng sinh sống bao gồm Bhnoong,
Kinh, Ca Dong, Giẻ, Tày, Nùng, Mường, Sán Dìu, Cơ Tu, Bru - Vân Kiều, Pacô,
Giá Rai, Hơ Rê, Co và Ve. Trong đó, người Bhnoong chiếm 59%, người Kinh
chiếm 32%, các dân tộc khác chiếm 9%.
Người Bhnoong ở Phước Sơn hiện nay có khoảng 13.152 người, là một bộ
phận của dân tộc Giẻ - Triêng, có nguồn gốc từ vùng hạ Lào di cư sang. Trong quá
trình phát triển của cộng đồng, người Bhnoong dần phân hóa khỏi dân tộc chủ thể
và trở thành nhóm dân cư chính ở Phước Sơn.
Người dân tộc Bhnoong sinh sống trên địa bàn huyện Phước Sơn là một
nhóm địa phương của dân tộc Gié -Triêng thuộc ngữ hệ Môn - Khơ me. Có nguồn
gốc từ dân tộc Ta Lieng cư trú ở dãy Tây Trường Sơn thuộc vùng hạ Lào, nhưng do
có tục du canh du cư, mỗi vùng đất chỉ ở từ 5 đến 7 mùa rẫy nên đến khoảng thế kỷ
XV- XVII họ mới phân tán thành các nhóm di cư vượt biên giới Lào - Việt sang
phía Đông Bắc tỉnh Kun Tum, một bộ phận di chuyển xuống phía Tây Bắc tỉnh
Quảng Nam, cư trú ở vùng Trà My, Hiệp Đức, số đông cư trú ở Phước Sơn.
Những người Bhnoong hiện nay ở Phước Sơn có nguồn gốc từ huyện Đăk
Lei (Kon Tum) ở xung quanh khu vực Hoa Cương - Ngok Linh di chuyển xuống
phía đông đến cư ngụ tại Đăk My. Một bộ phận khác từ Trà My di cư sang. Qua
thời gian, cộng đồng người Bhnoong lan tỏa ra toàn huyện Phước Sơn.
Trong tiến trình lịch sử lâu dài, người Bhnoong sống đông đúc ở Phước Sơn
và dần dần hình thành nên những dị điểm về ngôn ngữ, văn hóa và trở thành dân
cư chính ở Phước Sơn, đóng góp nhiều công sức tạo dựng cơ đồ, sự nghiệp trên
vùng đất này.
Người Bhnoong ở Phước Sơn chủ yếu sinh sống trên các sườn núi cao và

đọc theo nguồn nước ở những dãy núi giữa ranh giới hai tỉnh Quảng Nam và Kon
Tum, là nơi có địa hình núi non hiểm trở.
8


Hiện nay, người Bhnoong đã biết sống tập trung thành các làng bản lớn, tại
khu vực tương đối bằng phẳng hơn, tập quán du canh, du cư không còn nữa . Họ
sống chủ yếu ở các làng Đhak Rú Xà Ê, Đhak Long Viên thuộc xã Phước Mỹ, Ka
Nưng thuộc xã Phước Hiệp, Lang Lách thuộc xã Phước Năng, Lao Đu, Lao Mưng
thuộc xã Phước Xuân…
Điều kiện sinh thái, tự nhiên của vùng rừng núi Trường Sơn đã tác động đến
đời sống văn hóa của người Bhnoong, hình thành một nền văn hóa bản địa truyền
thống lâu đời. Nó vừa mang đặc điểm chung của cộng đồng dân tộc vùng Trường
Sơn – Tây Nguyên vừa có những nét đặc trưng riêng của con người vùng đất này.
2.3. Những nét văn hóa đặc trưng của đồng bào dân tộc Bhnoong
Điều kiện sinh thái, tự nhiên của vùng rừng núi Trường Sơn đã tác động đến
đời sống văn hóa của người Bhnoong, hình thành một nền văn hóa bản địa truyền
thống lâu đời. Nó vừa mang đặc điểm chung của cộng đồng dân tộc vùng Trường
Sơn – Tây Nguyên vừa có những nét đặc trưng riêng của con người vùng đất này.
2.3.1. Văn hóa vật chất của đồng bào dân tộc Bhnoong
2.3.1.1. Trong lao động sản xuất của đồng bào dân tộc Bhnoong
Là người con của núi rừng Trường Sơn, thích ứng với điều kiện thiên nhiên
nên tập quán sản xuất của họ là phát rừng làm nương rẫy, trồng cây lương thực ,
kinh tế nương rẫy chi phối toàn bộ đời sống người dân tộc Bhnoong. Trên rẫy họ
trồng những loại cây như lúa, bắp, sắn, chuối… trong đó trồng lúa là chính.
Vụ mùa của họ thường bắt đầu vào tháng 3, vào những ngày này họ thường
phát rẫy, đốt rẫy, gieo hạt. Trong sản xuất của mình, họ cũng đã biết tận dụng
những cơn mưa rào đầu mùa để cây cối họ trồng thêm tươi tốt. Sau khi thu hoạch
xong mùa thì người dân thường tổ chức lễ hội ăn mừng lúa mới, để ăn mừng một
vụ mùa bội thu và cầu mong điều may mắn trong mùa lúa mới.

Những công cụ sản xuất chủ yếu dùng rìu, rựa để phát dọn; gậy đẽo nhọn
đầu để chọc lỗ khi gieo tỉa; cà veo là công cụ để làm cỏ.
Phương tiện người Bhnoong dùng để vận chuyển lương thực, đồ dùng hàng
ngày, hoặc sử dụng khi đi nương rẫy là các loại gùi.
9


Bên cạnh làm nương rẫy thì người dân cũng tiến hành các hoạt động chăn
nuôi với các con vật nuôi như trâu, heo, gà, ngan, chó... chỉ giết mổ vào các dịp lễ,
tết để cúng thần linh và tổ tiên, ông bà và săn bắn thú trên rừng, đánh cá dưới con
sông, con suối để góp phần vào việc nâng cao đời sống, cúng tế các thần linh và
đãi khách đặc biệt.
Hiện nay, những văn hóa truyền thống trong sản xuất của người dân vẫn còn
tồn tại nhưng cũng đã có những biến đổi theo sự phát triển của xã hội. Người
Bhnoong bây giờ không chỉ trồng những loại cây truyền thống nữa mà đã biết
chuyển dịch cơ cấu cây trồng sang nhiều loại khác như trồng keo. Một số hộ gia
đình nhờ sự hướng dẫn của các cán bộ xã đã biết chăn nuôi bằng chuồng trại, mở
rộng, chăn nuôi nhiều loại vật nuôi mới như nuôi cúi lúi…
2.3.1.2. Ngôi nhà truyền thống của đồng bào dân tộc Bhnoong
Người dân tộc Bhnoong thường sống trong các vùng núi sâu của huyện
Phước Sơn nên ngôi nhà ở của họ xưa kia là nhà sàn dài, dựng trên nền đất hình
chữ nhật được chia thành các gian nhỏ cho mỗi hộ, ở giữa ngôi nhà có một hành
lang chạy suốt chiều dài ngôi nhà, hai nửa ra vào hành lang là cửa đi chung của các
thành viên trong nhà. Mục đích của việc ở nhà sàn là để tránh các loài thú dữ và
dùng để làm chỗ trú của những con vật nuôi bên dưới nhà sàn.
Vật liệu làm nhà chủ yếu bằng cây, lá, với kỹ thuật lắp ghép, chằng buộc rất
tinh xảo theo lối kiến trúc truyền thống khá phổ biến.
Trang trí và sắp đặt các vật dụng sinh hoạt trong một ngôi nhà truyền thống
của người Bhnoong theo nguyên tắc “Đông-Tây”.
Một nét đặc trưng hơn cả là mỗi

làng của người Bhnoong đều có nhà Rông,
là nhà làng truyền thống của dân tộc
Bhnoong, kiến trúc theo kiểu nhà sàn, cao,
to và đẹp; có bài trí các hoa văn, họa tiết,
có trưng bày đầu thú rừng và sừng trâu...
Ngày nay, người Bhnoong đã sử
dụng gỗ làm nhà, những ngôi nhà truyền thống còn lại rất ít. Nhà ở của họ bây giờ
10


là nhà gỗ, đắp nền đất, hoặc nhà xây giống với người Kinh. Xu hướng biến đổi
ngôi nhà truyền thống của người Bhnoong diễn ra rất nhanh, nhất là khi có sự vận
động tách hộ, dãn dân của chính quyền địa phương theo các chương trình của
Chính Phủ.
2.3.1.3. Trang phục truyền thống của đồng bào dân tộc Bhnoong
Trang phục là nhu cầu trực tiếp của đời sống xã hội, nó gắn bó chặt chẽ và
tồn tại trong đời sống hàng ngày của con người. Trên thực tế trang phục không
thuần túy chỉ là che đậy mà nó tham gia vào những sinh hoạt xã hội, sinh hoạt văn
hóa của con người. Khác với một số dân tộc ở khu vực Trường Sơn – Tây Nguyên,
trang phục truyền thống của dân tộc Bhnoong có đặc điểm riêng, không sặc sỡ như
nhiều dân tộc trong khu vực, màu sắc chủ đạo của y phục là màu chàm kết hợp với
trang sức.
Về y trang phục
Nam giới người Bhnoong, thường mặc khố, ở trần và vào những ngày trời
lạnh hoặc lễ hội của làng bản thì có thêm tấm choàng (Xalay) màu chàm từ vai
xuống lưng bắt chéo chữ X qua bụng. Khố của người Bhnoong là loại khổ hẹp, dài
không có tua, thân và các mép khố
được viền và trang trí hoa văn ở hai
đầu trên nền chàm.
Phụ nữ Bhnoong thường mặc

mặc áo, quấn váy, nhưng có nơi dùng
loại váy ống dài để che từ ngực trở
xuống, giữa thân và gấu của váy
trang trí các loại hoa văn đỏ trắng trên nền chàm.
Về trang sức
Đối với nam thì thường đeo thêm một số trang sức bằng ngà voi, gỗ quý... và
thường để tóc ngắn.
Phụ nữ để tóc dài, búi sau gáy và đeo trang sức bằng cuờm đá nhiều màu sắc
và cả các loại vòng bạc, đồng ở cổ và tay, chân.
11


Ngày nay, quá trình phát triển kinh tế và môi trường cư trú mới đã ảnh
hưởng tới trang phục truyền thống của đồng bào Bhnoong, đặc biệt là trang phục
của người Việt (dân tộc Kinh) đã thâm nhập đến tận các làng bản xa xuôi hẻo lánh.
Trong sinh hoạt đời thường, người dân tộc Bhnoong ăn mặc đơn giản hơn
với những kiểu trang phục giống với người Kinh cùng chung sống với họ.
2.3.1.4. Ẩm thực truyền thống của đồng bào dân tộc Bhnoong
Sống giữa núi rừng Trường Sơn giao thông đi lại khó khăn, việc giao thương
buôn bán không có nên nguồn thực thẩm chủ yếu từ các hoạt động tự cung tự cấp.
Ẩm thực hằng ngày
Người Bhnoong ở Phước Sơn ăn cơm ngày 3 bữa (bữa sáng và tối ăn ở nhà,
bữa trưa thường ăn nhẹ ở nương rẫy); nguồn thức ăn hàng ngày kiếm được nhờ săn
bẫy thú rừng, đánh bắt cá dưới sông suối và hái lượm hoa, quả, rau, nấm ở rừng;
thức ăn ưa thích là các món nướng đối với cá, thịt và canh rau. Trước kia người
Bhnoong có tập quán ăn bốc, uống nước lã, rượu cần.
Ẩm thực lễ hội
Vào những ngày hội thì dân làng đem những món ngon nhất để cúng cho
thần linh. Lễ vật là những con vật dân làng nuôi được như: trâu, gà, heo... Trong đó
con trâu là con vật hiến tế quan trọng trong những ngày lễ. Bên cạnh đó là những

thực phẩm khác được săn bắt từ rừng như chuột khô, sóc khô, nai khô, ếch khô, ốc
đá, măng rừng, cá chua...
Trong các dịp lễ như tết mừng lúa mới, mừng nhà rông…, người dân thường
làm cơm lam từ gạo nếp được vo sạch bỏ
trong các ống nứa và bánh qoát có hình
sừng trâu gói bằng lá dong hay lá đốt. Đây
là những món ăn khá đặc trưng của người
dân.
Một loại thực phẩm nữa không
thể thiếu trong lễ hội văn hóa của người
Bhnoong là “rượu cần”. Đây là một loại rượu đặc biệt, không uống bằng ly mà
12


uống bằng những cần trúc nhỏ, là một đặc sản của hầu hết các đồng bào dân tộc
vùng Trường Sơn – Tây Nguyên.
Rượu cần của người Bhnoong được làm rất kỳ công từ củ sắn và có một
phương pháp lên men bằng lá cây rừng độc đáo mà không cần chưng cất. Rượu
được đựng trong các ché to và thường uống trong các dịp lễ hội, đãi khách quý.
2.3.1.5. Làng nghề truyền thống của đồng bào dân tộc Bhnoong
Nghề dệt thổ cẩm
Việc biết canh tác trên các nương rẫy, đồng bào dân tộc Bhnoong biết đến
cây bông, biết trồng bông, se chỉ dệt vải. Những cây bông được trồng trên các đám
rẫy gần nhà vào tháng 5 và thu hoạch vào tháng 10.Vì vậy, vào những lúc nông
nhàn đồng bào đã biết dệt vải.
Người Bhnoong sử dụng những khung cửi thô sơ để dệt vải để tạo ra những
loại vải khổ hẹp.
Hiện nay, việc dệt vải của người Bhnoong ở Phước sơn hầu như không còn
nữa bởi vì những trang phục truyền thống bây giờ ít còn được sử dụng, thêm vào
đó sự phát triển của xã hội việc dệt vải được thay thế bằng máy móc hiện đại hơn.

Nghề đan lát
Bên cạnh việc dệt vải thì họ cũng tự tay đan lát những vật dụng hàng ngày
như gùi, let, ló… từ những nguyên liệu có sẵn của núi rừng như tre, mây, lùng, lồ
ô.
Một trong những sản phẩm đan lát đó có gùi. Đây là một trong những sản
phẩm được sử dụng nhiều nhất trong sinh hoạt hằng ngày của người dân. Gùi được
đan bằng mây, hoặc cây lùng với nhiều kích cỡ và kiểu dáng khác nhau: gùi đan
thưa, đan dày, gùi có ngăn và gùi
không ngăn; gùi đeo theo người
hàng ngày, gùi để chứa đựng đồ
dùng tại nhà, gùi có hoa văn nan
nhộm màu đen, đỏ và gùi có hoa

13


văn nhưng nan không nhộm màu, gùi dùng cho người lớn, gùi dùng cho trẻ em, gùi
dùng cho nam giới...
Ngoài ra, họ còn làm một số đồ gốm và rèn một số công cụ sản xuất như rựa,
cà veo...
2.3.2. Văn hóa tinh thần của đồng bào dân tộc Bhnoong
2.3.2.1. Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào dân tộc Bhnoong
Hầu hết các dân tộc trong khu vực đồng bào Bhnoong cũng tin rằng thế giới
tự nhiên là do thần linh tạo nên, đó là Yang, thần núi, thần sông,…Tín ngưỡng tôn
giáo của đồng bào mang màu sắc “thần hóa”, xem “vạn vật hữu linh”. Vì vậy, gắn
với chu kỳ của đời người đều có các lễ thức cúng bái thần linh.
Mỗi làng và mỗi gia đình của người Bhnoong đều có vật "thiêng" làm bùa
hộ mệnh, được cất giữ bí mật với người ngoài, để cầu cho mùa màng tươi tốt và
không có người ốm đau... Ngoài các lễ nghi của từng gia đình, làng tổ chức lễ cúng
cầu an, tạ ơn thần linh.

2.3.2.2. Phong tục hôn nhân của đồng bào dân tộc Bhnoong
Người Bhnoong huyện Phước Sơn (Quảng Nam), là một bộ phận trong
nhóm tộc người Giẻ-Triêng. Về phong tục tập quán người Bhnoong có nhiều nét
rất riêng nhất là trong việc hôn nhân gia đình.
Người con gái Bhnoong khi đến tuổi lấy chồng thường được bố mẹ dựng
cho chiếc lều ở bìa rừng làm nơi hẹn hò. Người con gái được lựa chọn người mình
yêu thương và muốn lấy làm chồng. Vì vậy, người con gái thường nhờ bạn gái của
mình tặng cho người con trai những trái chin đầu mùa như bắp, dưa, đậu… Ngược
lại, người con trai tặng cho cô gái thịt heo, dê, bò... để người con gái tổ chức sinh
hoạt ăn uống tại nhà làng.
Sau đó, người con gái chính thức mời người con trai tới ngủ trong lều của
mình 5 đêm, trước sự chứng kiến của mọi người trong làng cho đến khi có những
giấc mơ tốt hay xấu xuất hiện. Nếu quá 5 đêm mà người con trai chưa đánh tiếng
gì thì phải nộp cho nhà gái một ché rượu. Trong trường hợp người con trai không
đồng ý đến lều ngủ cùng, người con gái có thể nhờ bạn bắt cóc người con trai về
lều.
14


Khi người con trai và con gái đã yêu nhau, được hai bên gia đình chấp nhận,
gia đình sẽ bí mật chuẩn bị hôn lễ cho đôi bạn trẻ. Bởi họ quan hôn lễ được tổ chức
càng bất ngờ bao nhiêu thì đôi trẻ càng hạnh phúc. Đặc biệt, trước khi cưới, cô gái
phải chuẩn bị 100 bó củi đẹp để đem đến nhà trai; nhà trai tặng nhà gái các vật
dụng đan đát đẹp nhất.
Trước khi diễn ra các nghi thức chính trong lễ cưới, cô dâu và chú rể đi trốn,
phải nhờ đám thanh niên trong làng cùng nhau đi tìm. Khi bắt được cô dâu và chú
rể mọi người dân trong làng đều quây quần bên ché rượu cần và cắt tiết gà bôi lên
đôi trai gái. Đây là hành động thể hiện sự ăn thề với nhau. Sau đó, bắt đầu tiến
hành các nghị lễ của một đám cưới bao gồm:
Lễ hợp cẩn

Trong lễ này, gia đình giết con gà để làm cơm cúng. Sau đó, cô dâu và chú
rể cùng trao nắm cơm với gan gà, uống bát rượu cần.
Lễ trình làng
Nghi thức này diễn ra hai tháng sau lễ hợp cẩn, người ta làm một con lợn
chia cho hai gia đình để khao cả làng và được tổ chức ở cả nhà trai và nhà gái. Dân
làng đều được mời dự và họ có mang quà tặng cho cô dâu và chú rể.
Lễ từ giã nhà làng
Một thời gian sau lễ trình làng, đôi vợ chồng làm lễ giã từ nhà làng. Mục
đích của nghi lễ này là để cặp vợ chồng trẻ chia tay với những người chưa lập gia
đình trong làng.
Sau khi cưới, đôi vợ chồng phải ở luân phiên nhà cha mẹ chồng và cha mẹ
vợ mỗi đợt vài ba năm, cho đến khi một trong hai bên cha mẹ có người qua đời thì
đôi vợ chồng mới có quyền tạo lập cuộc sống riêng.
Hiện nay do sự du nhập của người kinh ở hầu hết các bản làng người
Bhnoong nên phong tục hôn nhân của họ cũng có những ít nhiều thay đổi. Một số
người Bhnoong đã thay đổi lối suy nghĩ nên thường thì các đôi trai gái tìm hiểu,
yêu nhau, rồi đi đến hôn nhân. Các đám cưới được tổ chức theo kiểu của người
kinh, các đám cưới truyền thống giờ cũng đang dần giảm đi.
2.3.2.3. Phong tục tang ma của đồng bào dân tộc Bhnoong
15


Giống như các dân tộc khác trên khu vực Trường Sơn – Tây Nguyên thì họ
cho rằng mọi vật đều có linh hồn. Vì vậy, mỗi người sống cũng có linh hồn, khi
chết họ sẽ biến thành hồn ma bay về với tổ tiên.
Người chết sẽ được mai tang trong các quan tài mộc, đẽo gọt rất tinh xảo, có
tạc hình đầu trâu phía trên đầu của cổ quan tài. Đồ vật mang theo bao gồm chiêng,
ché, gùi, rựa cà veo… Họ được mai tang trong các khu rừng ma (nghĩa địa). Mỗi
ngôi đều có nhà mô rất đơn giản, có hàng rào xung quanh để tránh cho thú rừng
đến đào bới.

Trong đám tang của người Bhnoong thường diễn ra các nghi lễ sau:
Lễ bỏ mã
Người chết được giữ trong thời gian ngắn rồi tiến hành lễ bỏ mã. Trong nghi
thức tiễn đưa người chết, người nhà phải thịt trâu, bò, lợn…, đem rượu cần ra để
cúng. Để chia tay với người chết, mọi người trong làng đốt lửa, ăn uống. Sau đó,
người trong làng ở cử, không vào rừng, không đi làm xa trong vòng 10 ngày.
Lễ hết kiêng
Lễ hết kiêng hay còn gọi là lễ cắt đứt quan hệ với người chết, được tổ chức
sau lễ bỏ mã 10 ngày (ngày thứ 11). Trong lễ này, dân làng đan tấm phên nhỏ, xếp
lá có gai lên, rồi để ít gan gà, thuốc hút… mời hồn người chết về để nhắc nhở hồn
ma người chết không được về làng nữa. Nếu người chết về sẽ bị mắc gai như khi
về ăn lễ hết kiêng. Sau lễ này, mọi người trong làng chấm dứt việc ở cử.
Lễ đoạn tuyệt với mộ người chết
Sau một năm, gia đình tổ chức lễ thức đoạn tuyệt với mộ người chết. Mục
đích của lễ này là cầu cho linh hồn người chết về được với tổ tiên. Kể từ sau lễ này,
gia đình cũng không còn quan tâm đến ngôi mộ của người đã chết nữa.
2.3.2.4. Lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc Bhnoong
Cộng đồng người Bhnoong ở Phước Sơn đã và đang lưu giữ những nét đẹp
truyền thống. Trong đó tục ăn rẫy hay còn gọi là ăn tết mừng lúa mới có ý nghĩa
lao động và lễ hội đâm trâu có ý nghĩa tâm linh. Đây là hai lễ hội lớn nhất của
người Bhnoong huyện Phước Sơn.
Lễ ăn tết mừng lúa mới
16


Là một lễ hội có ý nghĩa lao động và được diễn ra trong vòng 10 ngày,
nhưng người dân ăn lễ lớn nhất vào ngày thứ 4 và ngày thứ 9. Lễ hội mừng lúa mới
được chuẩn bị trong rất nhiều ngày. Thông thường trước ngày quyết định ăn tết 7
đến 10 ngày đàn ông trong làng vào rừng bắt con chim, con chuột, xuống sông,
suối để bắt cá. Người phụ nữ phải chọn những củ sắn ngon nhất, những loại gạo

ngon nhất trong lao động năm qua của làng để nấu rượu cần và làm bánh. Những
nguyên liệu này được những hộ trong làng đóng góp tùy theo hoàn cảnh gia đình
cho chủ cúng.
Khi bắt đầu lễ hội, già làng đến nhà làng để đánh lên những tiếng chiêng để
báo cho thần linh, bạn bè, bà con trong làng biết đã bước vào mùa ăn tết.
Lễ hội được bắt đầu từ tờ mờ sáng, nghi thức đầu tiên của lễ hội là nghi thức
cúng gói bánh. Bên bếp lửa tại nhà của người chủ cúng, chủ cúng khấn vái thần
gạo, thần lửa… phù hộ cho dân làng mùa màng bội thu và gói một cái bánh tượng
trưng dâng lên thần linh. Tiếp đó, gạo trong lễ cúng được chia đều cho người dân
trong làng đem về nhà để gói bánh ăn tết.
Trong những ngày tết, người dân trong làng chúc tụng nhau những lời chúc
tốt đẹp, cùng ăn tết, cùng uống rượu cần, cùng bàn bạc sôi nổi về một năm lao
động đã qua, say sưa hát cùng nhau những bài hát cộng đồng.
Đây là phong tục đã truyền giữ từ bao đời nay, cho dù hiện tại đã có cải tiến
một ít nhưng dù có đi đâu người Bhnoong vẫn nhớ ngày ăn tết của mình. Có thể
nói rằng, qua quá trình lịch sử lâu dài hình thành và phát triển của tộc người
Bhnoong ở Phước Sơn, những nét đẹp truyền thống như cúng lúa trăm, tết lúa rẫy
đã và đang được lưu truyền trong cộng đồng làng mặc dù đã có những nét khác so
với trước.
Lễ hội đâm trâu
Đây là một trong những nghi
thức lễ hộ không thể thiếu trong văn
hóa của đồng bào người Bhnoong ở

17


Phước Sơn. Trong đó, con trâu là một trong những lễ vật quan trọng, và được xem
là vật hiến sinh cho thần linh.
Để chuẩn bị cho lễ hội, người dân thường chọn những con trâu đực khỏe

mạnh nhất trong làng, tắm rửa sạch sẽ cho trâu.
Tiếp đó, người dân chuẩn bị cây nêu để buột trâu. Đây cũng được xem là
một việc cũng khá quan trọng trong lễ đâm trâu. Vì theo quan niệm của người dân
cây nêu cao và trang trí thật đẹp, thần linh mới phù hộ cho dân làng một mùa màng
bội thu và no đủ. Cây nêu trong nghi lễ được trang trí khá tỉ mỉ với nhiều hoa văn
hình chim, thú và được gắn nhiều tua dài ngắn khác nhau làm từ lồ ô.
Trong những ngày diễn ra lễ hội người Bhnoong thường chuẩn những ché
rượu cần, mặc trang phục truyền thống, múa hát, đánh cồng chiêng.
Để bắt đầu nghi thức đân trâu, già làng tiến hành cúng và cầu khấn xin thần
linh phù hộ cho dân làng có mùa màng bội thu và cuộc sống no đủ. Sau đó, một
thanh niên khỏe mạnh nhất được dân làng chọn ra đâm vào trâu, việc đâm này diễn
ra cho đến khi con trâu chết. Trong lúc diễn ra nghi lễ đâm trâu, người dân trong
làng nhảy múa, ca hát xung quanh cây nêu buột con trâu hiến tế.
2.3.2.5. Ngôn ngữ và nghệ thuật truyền thống của đồng bào dân tộc
Bhnoong
Ngôn ngữ : người Bhnong theo ngữ hệ Môn – Khơ me. Trên 90% tiếng nói
giống với nhóm Giẻ-Triêng ở Kon Tum và tương đối gần gũi với tiếng Xơ Đăng,
Ba Na.
Nghệ thuật:
Trong đời sống văn hóa của mình, người Bhnoong có những đặc sắc nghệ
thuật riêng, nhất là văn hóa cồng chiêng – một nét văn hóa phi vật thể được
UNESSCO công nhận. Những giá trị đã tồn tại lâu đời này đã gắn kết với chính
cuộc sống của các dân tộc thiểu số từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Về nhạc cụ, người Bhnoong có nhiều loại nhạc cụ như trống, bộ gõ…
Nhưng quý giá nhất là cồng chiêng và có nhiều loại khác nhau như bộ cồng chiêng
12 chiếc (chinh honh, goong), bộ chiêng bằng 6 chiếc (chinh hlong), bộ chiêng
bằng 4 chiếc (chinh tuk). Những nhạc cụ này được sử dụng tùy theo tính chất của
18



các tín ngưỡng nông nghiệp như lễ chọn rẫy, lễ cúng máng nước,… và các lễ hội
như lễ Tết (Cha Plei),… Các loại cồng chiêng này đều được đánh ở tư thế đứng và
di chuyển theo vòng tròn (trừ bộ cồng chiêng 12 chiếc có thể đánh ở tu thế ngồi),
được tấu cùng với các nhạc cụ khác, kết hợp với các điệu múa…
Đối với người Bhnoong, cồng chiêng là nơi trú ngụ của thần linh. Vì vậy, họ
rất coi trọng cồng chiêng và xem đây là đại diện cho thần linh để che chở, bảo vệ
cho người dân trong cuộc sống hằng ngày.
Những âm thanh của tiếng cồng chiêng không chỉ là nghệ thuật độc đáo mà
nó còn ẩn chứa hồn thiêng, sông núi, là sức sống của cộng đồng. Nó tạo ra những
âm thanh thôi thúc con người hướng đến niềm vui và đón nhận hạnh phúc.
Về âm nhạc, người Bhnoong có nhiều làn điệu dân ca, hát lý, hát đối. Những
làm điệu này rất khỏe mạnh, phản ánh trung thực về cuộc sống lao động, ca ngợi
vẻ đẹp thiên nhiên, cảnh trí thanh bình và tình yêu thương của con người.
Về các vũ điệu dân gian, cùng với các làn điệu dân ca người Bhnoong ở
Phước Sơn còn có các điệu múa Đing Tuk của nam và múa Xoang của nữ. Những
điệu múa này thể hiện các thao tác trong lao động, những hình ảnh của thiên nhiên,
sự vươn lên đấu tranh trước thiên nhiên khắc nghiệt và tôn thờ các thần linh. Điệu
múa xoang của phụ nữ thường uyển chyển như con nước chảy qua ghềnh thác,
động tác tay thì lúc đưa lên đưa xuống. Diệu múa Đing Tuk của nam toát lên sự
mạnh mẽ, có kèm theo những tiếng hú hoang dã của núi rừng.
Về văn học, người Bhnoong có truyện cổ tích và truyền thuyết về giống nòi
được truyền miệng từ đời này sang đời khác.
2.3.3. Những hủ tục của người Bhnoong
Trước kia người Bhnoong có tập quán ăn bốc, uống nước lã, rượu cần nhưng
ngày nay dùng bát, đũa, ly, tách khi ăn uống trong gia đình và tiếp khách; người
Bhnoong còn có thói quen hút thuốc lá (cả nam, nữ, người lớn và trẻ em).
Người Bhnoong cũng có nhiều luật tục hà khắc đối với người phụ nữ. Đến
ngày sinh nở người phụ nữ người dân tộc Bhnoong phải dựng lều ở bìa rừng và tự
mình sinh con bởi người dân cho rằng việc sinh con trong nhà là không tốt và phải
kiên kị.

19


Với quan niệm rằng nếu không chôn trẻ sinh đôi sinh ba, cha mẹ sẽ bị bệnh
chết, cả làng cũng sẽ bị đau ốm, con heo con bò cũng như cây lúa cây bắp của làng
cũng bị hư theo nên người phụ nữ Bhnoong nào sinh đôi hoặc sinh ba thì những
đứa con của họ được dân làng coi là những đứa trẻ “ma quỷ” và bị chôn sống.
Việc tự sinh con ở bìa rừng nên người phụ nữ sinh con không may bị chết thì
đứa bé sẽ bị chôn sống theo mẹ của nó.
Một luật tục khá lạc hậu khác của người dân tộc Bhnoong là mỗi khi trong
làng có người “chết xấu”, là cả làng tiến hành ở cử “nội bất xuất ngoại bất nhập”,
cấm tất cả dân làng ra ngoài và người bên ngoài đặt chân vào. Ai không tuân theo
sẽ bị già làng phạt nộp trâu, heo, gà…
Hay nếu người trong làng có người bị đau ốm thì họ không dùng thuốc để
chữa bệnh mà mà nặng hình ma quỷ, kêu Pa dâu về cúng để trừ bệnh tật.
Trong phong tục hôn nhân của người Bhnoong bên cạnh những nét đẹp riêng
thì cũng tồn tại những quan niệm sai lệnh như hầu hết các trai gái trong làng đều
kết hôn khi còn khá nhỏ
Hiện nay nhờ sự quan tâm của Nhà nước và chính quyền địa phương những
hủ tục đã có phần thuyên giảm đi rất nhiều. Nhưng đâu đó trong các bản làng
người Bhnoong ở đây cũng đang còn tồn tại.

20


CHƯƠNG 3.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT CÔNG
TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC
BHNOONGTRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHƯỚC SƠN
3.1. Thực trạng công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân

tộc Bhnoong ở huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam
Trong thời gian qua dưới sự chỉ đạo của Tỉnh, cán bộ công chức huyện
Phước Sơn đã rất quan tâm và thực hiện nhiều chính sách với việc bảo tồn và phát
huy nhưng giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc trên địa bàn nói chung cũng như
đồng bào Bhnoong nói riêng.
Huyện đã tổ chức các ngày hội văn hóa dân tộc và vận động tất cả các xã
tham gia. Trong những ngày hội nay thường tổ chức các lễ hội đâm trâu, múa cồng
chiêng Trong tương lai huyện sẽ tổ chức nhiều hội thi hơn nữa như hội thi dệt thổ
cẩm, hát lý, trò chơi dân gian...
Nhận thức được văn hóa của đồng bào dân tộc Phước Sơn còn khá nhiều
điều hấp dẫn cần phải bảo lưu. Vì vậy, trung tâm văn hóa huyện cũng đã tổ chức đi
cơ sở sưu tầm các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. Tổng hợp các hiện vật
tranh ảnh làm tư liệu cho công tác bảo tồn.
Huyện cũng đã triển khai thực hiện đề án khôi phục và duy trì nghề dệt thổ
cẩm truyền thống của đồng bào Bhnoong. Trong hai năm 2011 và 2012, huyện
Phước Sơn đã đưa 4 học viên nữ người Bhnoong đi học nghề dệt thổ cẩm truyền
thống tại tỉnh Kon Tum. Tổng kinh phí huyện Phước Sơn hỗ trợ chương trình khôi
phục nghề dệt thổ cẩm gần 500 triệu đồng, trong đó hỗ trợ cho mỗi học viên mức
lương 3 triệu đồng/người/tháng và số kinh phí còn lại dùng để mua nguyên liệu
dệt. Theo kế hoạch, huyện Phước Sơn sẽ tiếp tục mở rộng quy mô đào tạo và phát
triển nghề dệt truyền thống trong cộng đồng, vừa góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc, vừa phục vụ du lịch cộng đồng, tăng thu nhập cho đồng bào Bhnoong.
Trung tâm văn hóa huyện thường xuyên tham mưu với UBND huyện, triển
khai xây dựng, tu sữa các ngôi nhà làng truyền thống cho người Bhnoong trên đị
bàn. Cán bộ huyện cũng như xã cũng thường xuyên sinh hoạt cùng với người dân
21


để tìm hiểu sinh hoạt văn hóa cũng như phong tục tập quán để đưa những công tác
bảo tồn cho phù hợp. Đồng thời, huyện luôn vận động bà con nơi đây gìn giữ

những giá trị văn hóa cổ xưa của làng, cụ thể như mỗi làng thành lập đội cồng
chiêng, mỗi nhà nên giữ lại những hiện vật truyền thống như ché, cồng chiêng...
Năm 2000, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, Huyện ủy Phước Sơn chủ trương biên soạn bộ chữ viết
tiếng Bhnoong và qua nhiều năm nghiên cứu, hợp tác với Viện Ngôn ngữ học,
Viện Dân tộc học và Đại học Đà Nẵng, Nhà giáo ưu tú Nguyễn Văn Thanh - Phó
Chủ tịch Hội đồng Nhân dân huyện Phước Sơn đã biên soạn bộ sách chữ viết tiếng
Giẻ Triêng (nhóm Bhnoong), được Hội đồng Khoa học huyện Phước Sơn nghiệm
thu tháng 12/2007, đánh dấu bước phát triển mới về văn hóa của người Giẻ-Triêng
(nhóm Bhnoong), bộ chữ viết Giẻ-Triêng (nhóm Bhnoong) được cấu tạo bộ vần
bằng chữ cái La-tinh.
Trung tâm văn hóa huyện có phòng trưng bày nhỏ, bên trong có trưng bày
mô hình nhà Rông và một số vật dụng khác như gùi, đồ gốm, ná, và tranh ảnh về
các lễ hội văn hóa của dân tộc Bhnoong.
Bên cạnh việc giữu gìn các giá trị truyền thống tốt đẹp của đồng bào dân tộc
thì huyện cũng đã chỉ đạo đến các xã, tuyên truyền vận động nhân dân xóa bỏ các
tập tục lạc hậu như cúng khi bệnh, kết hôn khi chưa đến tuổi theo quy định của
Pháp luật. Thường xuyên đi sâu vào đồng bào địa phương để phát hiện những hủ
tục còn chưa được xóa bỏ để vận động đồng bào hiệu quả.
Bên cạnh những thành tựu đạt được công tác bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc Bhnoong ở huyện còn những hạn chế nhất định. Do chính sách
bảo tồn văn hóa của nước ta chưa đồng bộ trong từng cơ sở, chưa có sự thống nhất
trong các ngành, thủ tục thì rườm rà. Bên cạnh đó chính sách đầu tư xây dựng lực
lượng văn hóa, đào tạo cán bộ chưa có; trong khi đó quan trọng nhất trong công tác
bảo tồn là phát triển lực lượng con người mà hiện nay ta vẫn chưa làm được. Ngoài
ra, chính sách bảo tồn văn hóa thì có rất nhiều nhưng hỗ trợ kinh phí thì lại rất ít.
22



Đặc biệt là lứa tuổi thanh niên chưa ý thức đầy đủ về nền văn hóa dân tộc
của mình nên dễ tiếp thu văn hóa bên ngoài không có sự chọn lọc, có biểu hiện xu
hướng vọng ngoại, quay lưng lại với những sinh hoạt văn hóa dân tộc. Một số
thành phần thờ ơ, không coi trọng và mờ nhạt với văn hóa dân tộc mình thậm chí
còn gây cản trở trong công tác bảo tồn.
Tình trạng xen cư, hỗn cư của người Việt lên lập nghiệp đã làm cho thành
phần dân cư của làng có nhiều thay đổi, điều này dẫn đến sự du nhập của nhiều nét
văn hóa làm thay đổi lối sống cũng như văn hóa truyền thông xưa, gây cản trở
trong công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người dân.
Đội ngũ cán bộ quản lý và làm công tác văn hoá ở các xã còn thiếu, yếu,
nhất là đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực là người dân tộc thiểu số. Người có uy tín
và các nghệ nhân người dân tộc thiểu số ngày càng ít dần.
Công tác triển khai nghề dệt cũng khó trong việc thực hiện thông suốt vì
hiện nay đồng bào Bhnoong không sử dụng trang phục truyền thống nhiều nên việc
khôi phục làng nghề này cũng gặp khó khăn.
3.2. Các giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa của dân tộc Bhnoong ở huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam
trong giai đoạn hiện nay
3.2.1. Tăng cường nâng cao trình độ năng lực cán bộ làm công tác văn
hóa, đào tạo nguồn nguồn nhân lực nòng cốt
Để thực hiện tốt mọi công tác thì con người luôn đóng một vai trò then chốt.
Chính vì vậy, muốn cho công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thì
cần tập phát triền con người, tạo ra được một nguồn nhân lực nòng cốt chon công
tác này. Điều này đã được Đảng và Nhà nước ta đưa ra trong đề án phát triển văn
hóa các dân tộc thiểu số đến năm 2020.
3.2.2.Tăng cường công tác giáo dục đối với thế hệ trẻ, đặc biệt là thế hệ
trẻ người dân tộc Bhnoong
Thế hệ trẻ là mầm xanh tương lai của đất nước, những giá trị văn hóa của
dân tộc có thể bảo tồn và phát huy được hay không thì tùy thuộc lớn vào lớp thế hệ
này. Muốn các giá trị văn hóa dân tộc tồn tại thì phải làm sao cho những thế hệ sau

23


biết tới những nét đẹp trong truyền thống của dân tộc mình, từ đó nâng cao ý thức
giữ gìn và phát triển những văn hóa đó trong tương lai.
3.2.3.Củng cố bộ máy quản lý nhà nước, phối kết hợp với các ban ngành
có liên quan.
Mục đích của giải pháp này là phát huy hiệu lực và hiệu quả của công tác
quản lý Nhà nước, đặc biệt là vai trò của chính quyền cấp xã. Một mặt nữa là tạo
được sự huy động mọi ngành, đoàn thể và toàn xã hội tham gia vào công tác này.
3.2.4.Tăng cường các hoạt động giao lưu văn hóa, tổ chức các cuộc thi về
các hoạt động văn hóa
Thông qua các hoạt động này giúp giữ gìn và quảng bá rộng rãi các nét đẹp
trong văn hóa của đồng bào đến với người dân trong Tỉnh và cả nước. Nhằm tăng
cường tin thần tự hào dân tộc và khơi gợi lòng mong muốn giữ gìn những nét đẹp
này trong mỗi người dân.
3.2.5. Đẩy mạng công tác tuyên truyền
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền là một trong những biện pháp
hữu hiệu nhằm thay đổi nhận thức, tạo sự chuyển biến nhận thức trong nhân dân và
của các cấp chính quyền, ban, ngành, đoàn thể trong huyện về trách nhiệm bảo tồn
các giá trị văn hóa truyền thống, đặc biệt là trong khâu tổ chức thực hiện. Đồng
thời kịp thời uốn nắn các biểu hiện lệch lạc, làm cho các giá trị văn hóa truyền
thống của người dân thực sự tốt đẹp hơn, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh
tế - văn hóa của địa phương.
3.2.6. Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học về tổ chức, quản lý và
bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
Hiện nay, nhiều di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số do chưa
được nghiên cứu, đánh giá một cách bài bản khoa học nên đang đứng trước nguy
cơ biến mất theo xu hướng kiên cố hoá, hiện đại hoá hoặc do tác động mặt trái của
cơ chế thị trường.

Chính vì vậy, thông qua các nghiên cứu khoa học để có cơ sở tiến hành quy
hoạch nhằm quản lý và có kế hoạch bảo tồn, phục hồi và phát triển. Đồng thời, bảo
24


tồn có chọn lọc các giá trị văn hóa truyền thống đặc thù, độc đáo của địa phương,
loại bỏ dần các yếu tố lạc hậu.
Đồng thời, qua đó có thể xây dựng thêm các tiêu chí văn hóa trên nền truyền
thống, phù hợp đặc điểm văn hóa dân tộc, xu hướng phát triển và nhịp sống văn
hoá của thời đại, làm cho các giá trị văn hóa thêm sức sống mới, đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của người dân tộc thiểu số.
3.2.7. Phát huy vai trò chủ thể của người dân trong việc bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa của dân tộc mình.
Cùng với xu thế hội nhập và phát triển, những luồng văn hoá khác nhau xâm
nhập vào đời sống xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, gây ảnh hưởng, tác động mạnh
đến văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số, đáng chú ý là nguy cơ phai mờ, biến
dạng bản sắc dân tộc. Chính vì vậy, muốn cho các giá trị văn hóa này phát triển
bền vững trong cộng đồng thì vai trò của người dân là không thể thiếu.
3.2.8. Tăng cường nguồn kinh phí cho công tác bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa đồng dân tộc thiểu số
Tài chính là một nguồn lực quan trọng của mọi hoạt động, mọi công tác.
Chính vì vậy, để thực hiện việc bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc có hiểu quả
phải tạo được nguồn tài chính ổn định.

25


×