Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Luận văn thạc sĩ Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.16 MB, 147 trang )

Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

RÈN KỸ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 1
TRONG GIỜ DẠY TIẾNG VIỆT Ở MỘT SỐ TRƯỜNG
TIỂU HỌC QUẬN KIẾN AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

CHUYÊN NGÀNH: GIÁO DỤC TIỂU HỌC
MÃ SỐ: 60.14.01.01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Hiên

HẢI PHÒNG - 2017


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

i



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích
dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Hải Phòng, ngày 26 tháng 5 năm 2017
Tác giả


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

ii

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, em đã hoàn thành Luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Giáo dục học với Đề tài “Rèn kỹ năng nói cho học sinh
lớp 1 trong giờ dạy tiếng Việt ở một số trường tiểu học quận Kiến An,
thành phố Hải Phòng”.
Bằng tấm lòng và sự biết ơn sâu sắc, em xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu Trường Đại học Hải Phòng; sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình và
trách nhiệm của các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ đã tham gia giảng dạy lớp
Cao học Giáo dục Tiểu học khóa I. Đặc biệt, em xin trân trọng cảm ơn và bày
tỏ lòng kính trọng đối với Tiến sĩ Nguyễn Thị Hiên, người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ em sớm hoàn thành Đề tài nghiên cứu.
Trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, tập thể giáo viên Trường Tiểu học
Thực hành và các trường tiểu học trên địa bàn quận Kiến An đã giúp đỡ tôi

trong thời gian học tập, nghiên cứu và khảo sát số liệu của Đề tài./.
Hải Phòng, ngày 26 tháng 5 năm 2017
Tác giả


iii

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN……………………………………………………

i

LỜI CẢM ƠN………………………………………………………..

ii

MỤC LỤC…………………………………………………………...

iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT………………………………………..

v

DANH MỤC BẢNG………………………………………………....

vi

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ………………………………………..


vii

DANH MỤC SƠ ĐỒ………………………………………………...

vii

MỞ ĐẦU………………………………………...…………………..

1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI…..

14

1.1. Những vấn đề chung về dạy học phát triển kĩ năng ngôn ngữ
cho học sinh lớp 1……………………………………………………

14

1.1.1. Kĩ năng và kĩ năng ngôn ngữ………………………………….

14

1.1.2. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của học sinh lớp 1……………..

20

1.1.3. Vấn đề phát triển kĩ năng nói cho học sinh lớp 1……………..


22

1.2. Một số lý thuyết liên quan đến đề tài nghiên cứu……………….

25

1.2.1. Lí thuyết hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ và việc vận dụng
vào rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 1………………………………

25

1.2.2. Lí thuyết hội thoại và việc vận dụng vào rèn kĩ năng nói cho
học sinh lớp 1………………………………………………………...

31

1.2.3. Lí thuyết tâm lí học và sự phát triển các kĩ năng giao tiếp
bằng ngôn ngữ……………………………………………………….

36

1.3. Cơ sở thực tiễn…………………………………………………..

39

1.3.1. Một số vấn đề về chương trình, sách giáo khoa dạy học tiếng
Việt ở lớp 1 hiện nay………………………………………………...

39


1.3.2. Thực trạng dạy học rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 trong
môn Tiếng Việt tiểu học hiện nay……………………………………

46

1.3.3. Đánh giá chung về việc rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1
trong môn Tiếng Việt………………………………………………...

53

1.4. Tiểu kết chương 1……………………………………………….

55


iv

CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG NÓI CHO
HỌC SINH LỚP 1 TRONG GIỜ DẠY TIẾNG VIỆT

57

2.1. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp……………………………….

57

2.1.1 Bám sát mục tiêu, nội dung chương trình……………………...

57


2.1.2. Đảm bảo phù hợp với đối tượng……………….……………...

57

2.1.3. Khơi gợi hứng thú học tập cho học sinh………………………

58

2.1.4. Phát huy vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh…...

58

2.1.5. Đảm bảo tính khả thi, hiệu quả………………………………..

59

2.2. Các biện pháp rèn kỹ năng nói trong giờ dạy tiếng Việt………..

59

2.2.1. Tổ chức cho học sinh nhận diện, ghi nhớ tiếng, thanh, âm, vần

59

2.2.2. Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập thực hành rèn kĩ năng
nói cho học sinh trong dạy học tiếng Việt……………………….......

71

2.2.3. Tổ chức các trò chơi học tập để rèn kĩ năng nói cho học sinh…...


87

2.3. Tiểu kết chương 2……………………………………………….

95

CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM…………………………

97

3.1. Mục đích thực nghiệm…………………………………………..

97

3.2. Đối tượng và thời gian thực nghiệm………………………….…

97

3.2.1. Đối tượng thực nghiệm………………………………………..

97

3.2.2. Thời gian thực nghiệm ………………………………………..

98

3.3. Nội dung và cách thức tiến hành thực nghiệm………………….

98


3.3.1. Nội dung thực nghiệm…………………………………………

98

3.3.2. Cách thức tiến hành thực nghiệm …………………………….

98

3.4. Kết quả thực nghiệm…………………………….………….…...

100

3.4.1. Kết quả các tiết học thực nghiệm……………………………...

100

3.4.2. Kết quả kiểm tra kỹ năng nói của học sinh………………....…

100

3.5. Khảo sát về tính khả thi của các biện pháp ……………………..

107

3.6. Tiểu kết chương 3……………………………………………….

109

KẾT LUẬN…………………………………………………………..


111

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………...

113

PHỤ LỤC …………………………………………………………...


v

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Giải thích

BT

Bài tập

CGD

Công nghệ giáo dục

HS

Học sinh

HSTH


Học sinh tiểu học

KN

Kỹ năng

KNN

Kỹ năng nói

GV

Giáo viên

SGK

Sách giáo khoa

SGV

Sách giáo viên

TB

Trung bình


vi


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

1.1

Tổng hợp về địa bàn, đối tượng khảo sát

47

1.2

Kết quả khảo sát GV về mức độ sử dụng các biện pháp
rèn KNN cho HS

49

1.3

Kết quả khảo sát HS về mức độ thành thạo KNN

51

3.1

Kết quả điểm kiểm tra HS lớp thực nghiệm và lớp đối

chứng về KN phát âm

101

3.2

Kết quả điểm kiểm tra HS lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng về KN sử dụng nghi thức lời nói

101

3.3

Kết quả điểm kiểm tra HS lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng về KN đặt và trả lời câu hỏi

102

3.4

Kết quả điểm kiểm tra HS lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng về KN thuật việc, kể chuyện

103

3.5

Kết quả điểm kiểm tra HS lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng về KN phát biểu, thuyết trình


103

3.6

Kết quả khảo sát GV về tính khả thi của các biện pháp

107


vii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ

Tên biểu đồ

Trang

3.1

So sánh điểm kiểm tra HS lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng về KN phát âm

101

3.2

So sánh điểm kiểm tra HS lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng về rèn KN sử dụng nghi thức lời nói


102

3.3

So sánh điểm kiểm tra HS lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng về rèn KN đặt và trả lời câu hỏi

102

3.4

So sánh điểm kiểm tra HS lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng về KN thuật việc, kể chuyện

103

3.5

So sánh điểm kiểm tra HS lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng về KN phát biểu, thuyết trình

104

DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số hiệu
sơ đồ
3.1

Tên sơ đồ

Hệ thống bài tập rèn KNN cho HS

Trang
72


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong xã hội loài người, sự giao tiếp bằng ngôn ngữ là một nhu
cầu không thể thiếu được. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ có thể tiến hành
theo hai kênh: giao tiếp bằng lời nói (nói - nghe) và giao tiếp bằng chữ viết
(viết - đọc). Trong đó, giao tiếp bằng lời nói là hình thức giao tiếp cơ bản,
quan trọng và diễn ra thường xuyên trong đời sống hàng ngày của con người.
Có thể nói rằng, trong mọi hoạt động (học tập, lao động, sinh hoạt xã hội,...)
của mình, con người chủ yếu giao tiếp ở dạng lời nói miệng, dùng ngôn ngữ
âm thanh để giao tiếp với nhau. Bởi thế trên hết, mọi người trong xã hội nói
chung và nhất là đối tượng học sinh (HS) đang được học tập, rèn luyện về
ngôn ngữ, tiếng Việt ở nhà trường phổ thông các cấp cần phải rèn luyện một
cách nghiêm túc, thường xuyên và có ý thức các kĩ năng (KN) giao tiếp
miệng, KN sử dụng lời nói để không ngừng phát triển và hoàn thiện năng lực
ngôn ngữ của mình. Lí thuyết là vậy, song thực tế đời sống giao tiếp cũng như
thực tế dạy học tiếng Việt ở các nhà trường lại có phần ít quan tâm, chú ý
thậm chí là xem nhẹ việc rèn luyện các KN này mà lại chỉ tập trung vào rèn
luyện cho HS cách viết, cách sử dụng lời nói viết: viết câu, viết đoạn văn, văn
bản,… Điều này khiến cho, trong các nhà trường hiện nay, có thể thấy một
hiện tượng rất phổ biến là lời nói viết với những đặc trưng phong cách của nó
ngày càng trở thành nhân tố quyết định đánh giá sự phát triển ngôn ngữ của
HS. Và ở một mức độ nào đó thì chính lời nói miệng của các em HS ở các bậc

học này cũng bị ảnh hưởng của lời nói viết. Rất nhiều dạng lời nói miệng của
HS thật ra là lời nói viết được âm thanh hoá. Nếu không kịp thời điều chỉnh,
rèn luyện thì HS sẽ không thể tham gia giao tiếp xã hội một cách tự nhiên và
chuẩn mực theo yêu cầu của tiếng Việt. Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập và
phát triển kinh tế toàn cầu như hiện nay, các KN giao tiếp miệng (trình bày,
đối thoại, thuyết minh, phản biện, tranh luận,… bằng lời nói) đã trở thành
những KN mềm, KN sống góp phần quan trọng vào những thành công của
mỗi người. Do vậy, ở nhà trường phổ thông hiện nay, để góp phần thực hiện
mục tiêu phát triển năng lực toàn diện cho người học, hơn bao giờ hết, việc


2

dạy học tiếng Việt cần hướng tới tập trung tổ chức cho HS thực hiện các hoạt
động lời nói, rèn luyện KN ngôn ngữ để HS có thể sử dụng tiếng Việt một
cách thuần thục và đạt đến mức độ tự động hóa trong mọi hình thức giao tiếp
của ngôn ngữ, trong đó có hình thức giao tiếp bằng lời nói.
1.2. Ở bậc tiểu học, hầu như các nước đều coi trọng việc dạy học tiếng
mẹ đẻ và dành cho nó vị trí ưu tiên xứng đáng. Ở Việt Nam cũng vậy, tiếng
Việt là tiếng mẹ đẻ của người Việt và là công cụ giao tiếp quan trọng bậc nhất
trong một cộng đồng dân cư rộng lớn các dân tộc anh em trên đất nước Việt
Nam. Môn Tiếng Việt là môn học có vai trò đặc biệt quan trọng ở bậc tiểu
học, là phương tiện chủ yếu để HS tiếp thu kiến thức của các môn học khác.
Mục tiêu và nhiệm vụ của môn học Tiếng Việt là bước đầu dạy cho HS nhận
biết được những tri thức sơ giản, cần thiết về tiếng Việt, bao gồm ngữ âm,
chữ viết, từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp, chính tả. Trên cơ sở đó rèn luyện các
KN ngôn ngữ: nghe, nói, đọc, viết nhằm giúp HS sử dụng tiếng Việt có hiệu
quả trong suy nghĩ và trong giao tiếp. Nói cách khác, hình thành và phát triển
toàn diện các KN sử dụng tiếng Việt: nghe - đọc (tiếp nhận văn bản), nói viết (tạo lập văn bản) là một trong những mục tiêu quan trọng trong dạy học
môn Tiếng Việt ở tiểu học. Cả bốn KN trên đều có ý nghĩa hết sức quan trọng

đối với mỗi người. Riêng kĩ năng nói (KNN) đang ngày càng khẳng định vai
trò và vị trí của nó, bởi lẽ theo các nhà nghiên cứu tâm sinh lí trẻ em:
“...những trẻ không nhận được sự trợ giúp đầy đủ để phát triển các KN giao
tiếp bằng lời thường gặp khó khăn trong giao tiếp xã hội và phát triển cảm
xúc khi chúng lớn lên” và “từ 7 tuổi trở đi, trẻ trở nên khó học ngôn ngữ
hơn” [39]. Chính khả năng sử dụng các hình thức giao tiếp ngôn ngữ của các
em, đặc biệt là khả năng nói đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới cách tương tác xã hội
và ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả trong giao tiếp của các em. Năng lực
ngôn ngữ tốt là cơ sở giúp trẻ phát triển năng lực học tập, năng lực tư duy,
năng lực hợp tác; giúp trẻ tự mình tìm hiểu và khám phá thế giới xung quanh
một cách dễ dàng; biết tiếp nhận lời người khác một cách đầy đủ, chính xác;
biết chia sẻ ý kiến, thương lượng, quản lí các hoạt động tương tác, biết cách
thức giao tiếp với những người khác; biết cách tạo lập lời nói của mình một


3

cách có văn hóa, lễ phép, phù hợp với những nhân tố khác nhau của hoạt động
giao tiếp. Chính vì những điều nêu trên, theo chúng tôi, việc rèn KNN cho HS
cần được tiến hành ngay từ lớp 1.
1.3. Thực tế dạy học tiếng Việt ở trường tiểu học hiện nay, từ nội dung
chương trình, sách giáo khoa (SGK) cho đến chính quá trình tổ chức dạy học
cho thấy: vấn đề rèn KNN cho học sinh tiểu học (HSTH) nói chung và HS lớp
1 nói riêng vẫn còn đang là một “khoảng trống”, đòi hỏi cần có những nghiên
cứu sâu hơn để có thể luận giải tầm quan trọng của việc phát triển KNN cũng
như đề ra những nội dung và phương pháp, biện pháp dạy học, rèn luyện một
cách hợp lí, cụ thể và có tính khả dụng hơn.
Qua thực tế dự giờ, tham gia sinh hoạt chuyên môn tại các trường tiểu
học trên địa bàn quận Kiến An, thành phố Hải Phòng, chúng tôi nhận thấy
một thực trạng khá phổ biến trong những giờ luyện nói là: Nhiều HS nói

không đủ ý, ngôn ngữ diễn đạt còn lủng củng, chưa lôgic. Nhiều HS nhút nhát
không muốn trình bày, chia sẻ với các bạn những điều mình nghĩ, mình biết
hoặc có nói thì cũng nói trống không, không rõ nghĩa. Đây là vấn đề khiến
giáo viên (GV) gặp khó khăn cần phải có hướng khắc phục. Lí do khiến
HSTH lúng túng khi nói chính là các em còn hạn chế về vốn sống, vốn hiểu
biết và kinh nghiệm giao tiếp dẫn đến việc các em không biết nói gì với các
chủ đề luyện nói theo yêu cầu bài học. Học sinh lớp 1 là đối tượng mà vốn
ngôn ngữ còn nhiều hạn chế, khả năng diễn đạt chưa có, khả năng chú ý lắng
nghe chưa cao. Trong khi đó GV chưa có các biện pháp phù hợp để giúp HS
rèn KNN hiệu quả. Hệ thống các bài tập (BT) rèn KNN trong các Chương trình,
SGK hiện nay cũng chưa đa dạng, phong phú và chưa thực sự phù hợp với đối
tượng HS lớp 1.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài “Rèn kỹ
năng nói cho học sinh lớp 1 trong giờ dạy tiếng Việt ở một số trường tiểu
học quận Kiến An, thành phố Hải Phòng” nhằm góp phần làm rõ thêm các
khía cạnh của các biện pháp rèn luyện KNN, từ đó góp phần nâng cao hiệu
quả dạy học phát triển KNN trong dạy học tiếng Việt 1.


4

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Vấn đề dạy học tiếng Việt theo hướng phát triển các kỹ năng ngôn ngữ
nói chung
Tiếng Việt là một ngôn ngữ. Cũng như nhiều ngôn ngữ khác trên thế
giới, tiếng Việt ngày càng hoàn thiện về cấu trúc, phát triển về chức năng và
thực sự đã trở thành một công cụ giao tiếp đa chức năng. Bởi vậy, trong dạy
học tiếng Việt vấn đề phát triển các KN giao tiếp bằng tiếng Việt (nghe, nói,
đọc, viết) luôn được xác định trong mục tiêu giáo dục, mục tiêu dạy học môn
học này ở các bậc học từ Tiểu học đến Trung học phổ thông.

Hơn nữa, tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của HS. Do vậy, từ trước đến nay,
khi nói tới việc dạy tiếng (tiếng mẹ đẻ), nhiều nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh
rằng: phương hướng dạy học phải chú ý thích đáng đến thực hành tức là khả
năng vận dụng các tri thức về ngôn ngữ và KN sử dụng ngôn ngữ trong giao
tiếp. Xét từ góc độ tâm lí học và tâm lí - ngôn ngữ học, dạy và học một bản
ngữ là dạy và học hoạt động ngôn ngữ bằng tiếng mẹ đẻ nhằm giúp HS phát
triển các KN hoạt động ngôn ngữ của mình (tức là các kĩ năng nói, nghe, đọc,
viết bằng tiếng mẹ đẻ). Nói một cách khác, trong việc dạy học tiếng, cái quan
trọng nhất là dạy HS hình thành và phát triển KN hoạt động giao tiếp bằng
tiếng mẹ đẻ của các em. Xét cho cùng, học một ngôn ngữ là để sử dụng thành
thạo ngôn ngữ đó để giao tiếp có hiệu quả trong mọi tình huống và dạy một
ngôn ngữ phải đặt ngôn ngữ đó vào chính môi trường của nó- môi trường giao
tiếp. Chỉ có thực hiện việc dạy học như vậy, HS mới hình thành được các KN
và kĩ xảo ngôn ngữ một cách nhanh chóng và có hiệu quả.
Như vậy, đối với riêng tiếng Việt, dạy học phát triển các KN giao tiếp
bằng tiếng mẹ đẻ cho HS cũng có thể xem như là nguyên tắc, phương pháp
dạy học quan trọng hàng đầu. Nó chẳng những thể hiện được đúng bản chất
của tiếng Việt với tư cách là một ngôn ngữ mà còn giúp cho chức năng làm
công cụ giao tiếp của tiếng Việt được hiện thực hoá một cách hoàn chỉnh và
đầy đủ nhất.
Ở Việt Nam, việc dạy học tiếng Việt theo quan điểm phát triển KN, nói
rộng hơn là năng lực giao tiếp nói chung cũng được rất nhiều tác giả quan tâm


5

nghiên cứu. Điển hình là các công trình nghiên cứu của các tác giả: Lê A,
Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán, Nguyễn Trí, Nguyễn Hải Đạm, Bùi Tất
Tươm, Lê Phương Nga, Cao Đức Tiến, Lê Hữu Tỉnh...Có thể thấy, trong các
công trình nghiên cứu về lí luận dạy tiếng nêu trên, nguyên tắc phát triển lời

nói trong dạy học tiếng Việt ở tiểu học hay nguyên tắc phát triển năng lực
giao tiếp ở bậc Trung học cơ sở và Trung học phổ thông đã dần được xác định
như là những nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất và giữ vai trò chỉ đạo trong
dạy học tiếng Việt, ở tất cả các bậc học: “Quan điểm giao tiếp là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn bộ quá trình dạy học tiếng Việt” [58, tr.23]; “Nguyên tắc dạy
học tiếng Việt hướng vào giao tiếp sẽ chi phối trực tiếp việc lựa chọn và sắp
xếp nội dung kiến thức cần dạy. Kiến thức về tiếng Việt chỉ có ý nghĩa khi
chúng góp phần hình thành các kĩ năng giao tiếp (đọc, nghe, nói, viết) cho
các em học sinh” [1, tr.58].
Quán triệt theo nguyên các nguyên tắc trên, vấn đề dạy học tiếng Việt
theo hướng phát triển năng lực giao tiếp đã được thể chế hoá các trong
chương trình, SGK, sách bồi dưỡng GV mới nhất ở các cấp học với nhiều
hình thức. Chương trình Tiếng Việt tiểu học năm 2000 đã coi việc hình thành
các KN ngôn ngữ như một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu của việc
dạy học môn Tiếng Việt. Chương trình khẳng định: Việc dạy tiếng Việt là dạy
HS sử dụng tiếng Việt hiện đại để học tập và giao tiếp trong các môi trường
hoạt động phù hợp với lứa tuổi. Ngoài ra, chương trình cũng nhấn mạnh việc
rèn các KN sử dụng tiếng Việt nghe, nói, đọc, viết trên cơ sở các tri thức sơ
giản về tiếng Việt. Chương trình Giáo dục phổ thông môn Ngữ văn năm 2006
cũng khẳng định: “Chương trình Ngữ văn tạo điều kiện để học sinh hoà nhập
với xã hội. Do đó, quan trọng nhất là phải rèn luyện cho học sinh năng lực sử
dụng tiếng Việt như một công cụ giao tiếp (nói và viết) không thể thiếu để học
tập, tổ chức, điều phối các hoạt động trong nhà trường, trong sản xuất, trong
đời sống xã hội. Năng lực giao tiếp được thể hiện ở bốn kĩ năng nghe, đọc, nói,
viết và kĩ năng cảm thụ, phân tích, bình giá văn học” [7, tr.7].
Để thực hiện những mục tiêu trên, về mặt lí luận dạy học các giáo trình
dạy học tiếng hiện có đều khẳng định: Dạy học phát triển năng lực giao tiếp


6


vừa là nguyên tắc cơ bản vừa là một trong ba phương pháp quan trọng nhất
trong dạy học tiếng Việt. Nguyên tắc này đòi hỏi:
- Việc lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học phải lấy hoạt động giao
tiếp làm mục đích, tức là hướng vào việc hình thành các KN nghe, nói, đọc,
viết cho HS. Trong đó đặc biệt phải chú ý phát triển đầy đủ cả hai dạng giao
tiếp miệng (nói, nghe) và giao tiếp viết (viết, đọc) cho HS.
- Phải xem xét các đơn vị ngôn ngữ trong hoạt động hành chức, nghĩa
là đưa chúng vào các đơn vị lớn hơn, ví dụ xem xét từ hoạt động trong câu
như thế nào, câu ở trong đoạn, trong bài ra sao.
- Phải thông qua việc tổ chức hoạt động nói năng cho HS để dạy học
tiếng Việt, nghĩa là phải sử dụng giao tiếp như một phương pháp dạy học chủ
đạo trong dạy học tiếng Việt ở trường phổ thông vì: Nếu ngôn ngữ được coi là
phương tiện giao tiếp thì lời nói được coi là bản thân sự giao tiếp bằng ngôn
ngữ. Dạy tiếng Việt theo phương pháp giao tiếp tức là dạy phát triển lời nói
cho từng cá nhân HS. Phương pháp giao tiếp coi trọng sự phát triển lời nói
còn những kiến thức lý thuyết thì được nghiên cứu trên cơ sở phân tích các
hiện tượng đưa ra trong bài dạy. Để thực hiện phương pháp giao tiếp cần có
môi trường giao tiếp, các phương tiện ngôn ngữ và các thao tác giao tiếp.
Ngoài các giáo trình, chương trình cũng như SGK, sách giáo viên
(SGV), trong nhiều bài báo, công trình chuyên khảo của các nhà phương
pháp, các GV trực tiếp dạy học cũng đều ít nhiều bàn tới vấn đề phát triển KN
giao tiếp ngôn ngữ trong dạy học tiếng. Các tác giả Nguyễn Viết Chữ, Phan
Phương Dung, Nguyễn Thúy Hồng, Nguyễn Xuân Khoa, Nguyễn Trí, Trương
Dĩnh, Đỗ Việt Hùng, ... trong các chuyên khảo và bài viết đăng tải trên các
tạp chí chuyên ngành đã đề cập một cách cụ thể đến các biện pháp rèn luyện
từng KN giao tiếp nói, nghe, viết, đọc cho HS. Có thể kể đến một số chuyên
khảo, bài viết tiêu biểu cơ bản như: “Rèn luyện và phát triển kỹ năng nói cho
học sinh trung học cơ sở” của tác giả Nguyễn Thúy Hồng [35]; “Phát triển
ngôn ngữ cho học sinh phổ thông” của tác giả Trương Dĩnh [18]; “Phát triển

năng lực ngôn ngữ cho học sinh trong việc dạy học tiếng” của tác giả Đỗ Việt
Hùng [36]; “Phát triển năng lực hoạt động lời nói trong việc dạy Tiếng Việt


7

trong nhà trường” của tác giả Nguyễn Xuân Khoa [37];… Riêng trong cuốn
“Phát triển ngôn ngữ cho học sinh phổ thông” [18], tác giả Trương Dĩnh đề
cập đến những vấn đề chung của công tác phát triển ngôn ngữ nói chung cho
HS, các cấp độ phát triển ngôn ngữ và đánh giá kết quả phát triển ngôn ngữ
trong dạy học tiếng Việt ở nhà trường phổ thông hiện nay. Đối với ngôn ngữ
nói, tác giả có nêu ra sự phân biệt ngôn ngữ nói với ngôn ngữ viết, những
KNN cần rèn luyện và các hình thức luyện nói.
Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu nêu trên đã đưa ra
được những định hướng, phân tích cơ bản cho phương pháp dạy học tiếng
Việt theo hướng phát triển KN, năng lực giao tiếp nói chung. Tuy nhiên, cũng
cần khẳng định các tài liệu trên chưa bao quát hết toàn bộ việc dạy học, rèn
luyện các KN giao tiếp ngôn ngữ ở tất cả các dạng nghe, nói, đọc, viết cho HS
ở từng bậc học.
2.2. Vấn đề dạy học phát triển kĩ năng nói ở Tiểu học
Cùng với yêu cầu đổi mới giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học nói
chung và phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học nói riêng, vấn đề tổ chức
dạy học, rèn luyện các KN giao tiếp bằng ngôn ngữ, trong đó có KNN cũng
được nhiều nhà sư phạm, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và tích cực đưa
ra những giải pháp, đề xuất nhằm góp phần giúp cho việc dạy học tiếng Việt
đạt mục tiêu phát triển các KN nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ cho HS.
Trong công trình chuyên khảo “Một số vấn đề dạy học ngôn bản nói và
viết ở tiểu học theo hướng giao tiếp” [50] và cuốn “Tiếng Việt và phương
pháp phát triển lời nói cho trẻ em” [51], PGS.TS Nguyễn Quang Ninh cùng
các cộng sự đã trình bày chi tiết, hệ thống vai trò, mục tiêu, nội dung, biện

pháp và hình thức rèn luyện từng KN theo định hướng dạy bằng giao tiếp và
để giao tiếp. Với các KN giao tiếp miệng, đặc biệt là KNN, từ lý thuyết hội
thoại, tác giả đã rút ra một số vấn đề quan trọng. Theo đó, để HS làm một BT
làm văn nói tốt, người GV cần phải chú ý tới một số điểm sau: phải chuẩn bị
tốt nội dung bài nói, phải tạo được nhu cầu về hội thoại cho HS và phải tạo
được hoàn cảnh giao tiếp tốt.


8

Trong đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ “Một số biện pháp nâng
cao hiệu quả rèn kĩ năng nói cho học sinh tiểu học ở môn Tiếng Việt”
[39] của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (mã số V2007-06), chủ nhiệm đề
tài - tác giả Trần Thị Hiền Lương đã xác định được các biện pháp dạy học rèn
KNN cho HS xuất phát từ đặc điểm lứa tuổi HSTH, từ lý luận dạy học hiện
đại, theo hướng tăng cường thực hành, luyện tập. Trong đề tài này, tác giả đã
đề xuất được một số biện pháp rèn luyện KNN cho HSTH nói chung như rèn
KN phát âm, rèn KNN độc thoại, nói hội thoại...
Trong cuốn sách “Một số vấn đề về dạy hội thoại cho học sinh tiểu
học” [60], tác giả Nguyễn Trí đã chọn lọc những kiến thức cơ bản, tối thiểu
về hội thoại dựa theo chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học ban hành năm
2001 và 2006, đồng thời lựa chọn cách trình bày các kiến thức dựa trên sự
phân tích một số dẫn chứng cụ thể để người mới tiếp cận lí thuyết hội thoại dễ
hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng. Bên cạnh đó, cuốn sách còn giới thiệu các kiểu BT
dạy học luyện nói trong bộ SGK Tiếng Việt ở tiểu học.
Đặc biệt, luận án tiến sĩ của tác giả Ngô Hiền Tuyên với đề tài “Rèn kĩ
năng nghe - nói cho học sinh lớp 1 trong dạy học môn Tiếng Việt” [63] đã
dành sự quan tâm nghiên cứu về vấn đề tổ chức dạy học, rèn luyện KN nghe nói cho một đối tượng HS cụ thể là HS lớp 1 ở bậc tiểu học. Theo đó, trên cơ
sở hệ thống hóa, phân tích một cách chi tiết, cặn kẽ những cơ sở lí luận khoa
học về tâm lí học, ngôn ngữ học, tâm lí học hoạt động của việc rèn KN nghe nói cho HS đầu cấp tiểu học; khảo sát chương trình, hệ thống BT rèn KN

nghe - nói trong SGK Tiếng Việt 1 cũng như khảo sát tình hình rèn KN nghe nói cho HS lớp 1 trong thực tiễn dạy học, luận án đã đạt được những kết quả
nghiên cứu mới, có thể vận dụng vào thực tiễn dạy học môn Tiếng Việt 1 cho
HS. Một là, luận án đã đưa ra được những định hướng về nội dung, phương
pháp và hình thức tổ chức rèn KN nghe - nói cho HS lớp 1 nhằm giúp GV
tháo gỡ những khó khăn trong quá trình tổ chức hoạt động dạy tiếng Việt theo
định hướng giao tiếp. Hai là, từ các định hướng đó, luận án xác lập được quy
trình rèn KN nghe - nói phù hợp thông qua hệ thống BT tương ứng nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học tiếng Việt nói chung đồng thời giúp HS nâng cao


9

năng lực ngôn ngữ, đặc biệt biết cách sử dụng ngôn ngữ nói như một công cụ
trong hoạt động giao tiếp cũng như các hoạt động học tập và vui chơi khác.
Cùng quan điểm và định hướng phát triển năng lực ngôn ngữ với các
KN ngôn ngữ nghe, nói, đọc, viết cho HS nêu trên, tác giả Hồ Ngọc Đại đã
biên soạn các cuốn SGK: “Tiếng Việt lớp 1, Công nghệ giáo dục” (3 tập),
“Thiết kế Tiếng Việt lớp 1, Công nghệ giáo dục” (3 tập), “Tài liệu tập huấn
giáo viên dạy Tiếng Việt lớp 1, Công nghệ giáo dục” dựa trên những phân
tích, lựa chọn khoa học ngôn ngữ về tiếng Việt hiện đại. Cuốn sách đã lấy
những tri thức khoa học về ngôn ngữ tiếng Việt hiện đại làm tiền đề và diễn
đạt nó dưới hình thức một môn học - môn Tiếng Việt ở trường tiểu học theo
những nguyên tắc mới: nguyên tắc phát triển, nguyên tắc chuẩn mực, nguyên
tắc tối thiểu. Dựa vào những nguyên tắc này, Chương trình Tiếng Việt 1Công nghệ giáo dục (CGD) đã xác lập một quy trình dạy học tường minh:
Thông qua hệ thống việc làm mà bản thân HS phải thực hiện, HS sẽ chiếm
lĩnh được các tri thức khoa học cùng với các KN ngôn ngữ tương ứng.
Ngoài ra, còn có một số bài viết, một số luận văn, luận án khác cũng đề
cập đến vấn đề rèn luyện các KN ngôn ngữ, đặc biệt là KNN từ các phương
diện khác nhau như: “Dạy các kỹ năng nghe, nói cho học sinh tiểu học” [61]
của tác giả Nguyễn Trí; “Một số vấn đề chung về kỹ năng nghe- nói cho học

sinh lớp 1” [64] và “Một số biện pháp luyện kỹ năng nghe- nói cho học sinh
đầu bậc tiểu học” [65] của tác giả Ngô Hiền Tuyên; “Về vấn đề dạy lời
nói văn hoá trong giao tiếp ngôn ngữ cho học sinh qua môn Tiếng Việt”
[19] của tác giả Phan Phương Dung; “Dạy học hội thoại cho học sinh tiểu
học” [62] của tác giả Nguyễn Trí và Phan Phương Dung; “Về dạy học nói cho
học sinh lớp 1 qua môn Tiếng Việt” [71], “Xây dựng bài tập dạy học hội
thoại cho học sinh đầu bậc tiểu học” [72] và “Quy trình tổ chức thực hành
các bài tập giao tiếp trong dạy học hội thoại cho học sinh tiểu học” [73] của
tác giả Nguyễn Thị Xuân Yến; “Phương pháp dạy học Tập làm văn nói theo
hướng giao tiếp cho học sinh lớp 2” [29] của tác giả Lê Thị Thanh Hà; “Xây
dựng hệ thống bài tập rèn kĩ năng hội thoại cho học sinh lớp 4” [56] của tác
giả Nguyễn Hồng Thúy; ...


10

Có thể khẳng định rằng, xét về phạm vi tìm hiểu, các công trình nghiên
cứu của các tác giả kể trên đều đã ít nhiều bàn đến mục tiêu, nội dung, biện
pháp phát triển KNN - một trong những KN ngôn ngữ quan trọng để tạo thành
năng lực giao tiếp ngôn ngữ chung cho HS. Tuy nhiên, có thể thấy các nội
dung và biện pháp rèn luyện được đề xuất về cơ bản vẫn mang tính định
hướng chung hoặc chỉ được đề cập có giới hạn về một vài quy trình, hình thức
rèn luyện mà chưa được đặt ra những vấn đề cụ thể, có tính hệ thống cho việc
bồi dưỡng, phát triển năng lực giao tiếp cho HS ở từng lớp học thuộc mỗi bậc
học. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để tìm ra những quy trình, biện pháp rèn
luyện từng KN ngôn ngữ sao cho phù hợp với từng đối tượng HS ở từng bậc
học nhằm nâng cao khả năng và hiệu quả sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp xã
hội của các em là một việc làm cần thiết. Hơn nữa, hướng nghiên cứu của đề
tài “Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 trong giờ dạy tiếng Việt ở một số
trường tiểu học quận Kiến An, thành phố Hải Phòng” trong giai đoạn hiện

nay cũng có ý nghĩa thiết thực trong việc hỗ trợ cho GV trong dạy học môn
Tiếng Việt 1 - CGD, đáp ứng mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục nước nhà.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng việc rèn KNN trong giờ
dạy tiếng Việt, luận văn đề xuất một số biện pháp rèn KNN cho HS lớp 1 ở
một số trường tiểu học thuộc quận Kiến An, thành phố Hải Phòng, góp phần
nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt nói chung ở tiểu học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Hệ thống hóa, phân tích những cơ sở lí luận về tâm lí học, ngôn ngữ
học, tâm lí học hoạt động liên quan đến việc rèn KNN cho HS lớp 1 trong quá
trình dạy học môn Tiếng Việt.
- Khảo sát chương trình, hệ thống BT rèn KNN trong SGK Tiếng Việt
1 - CGD; khảo sát, đánh giá thực trạng rèn KNN trong dạy học môn Tiếng


11

Việt cho HS lớp 1 ở một số trường tiểu học thuộc quận Kiến An, thành phố
Hải Phòng.
- Xây dựng nội dung và biện pháp tổ chức các hoạt động rèn KNN cho
HS lớp 1 thông qua dạy học môn Tiếng Việt 1 - CGD.
- Thiết kế và tổ chức dạy thực nghiệm sư phạm các biện pháp rèn KNN
cho HS lớp 1 đã được đề xuất và đưa ra kết luận, kiến nghị cần thiết.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn chính là nội dung và cách thức tổ
chức rèn KNN cho HS lớp 1 trong dạy học môn Tiếng Việt 1 - CGD.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Một trong những mục tiêu quan trọng của việc dạy học tiếng Việt ở tiểu
học nói chung và lớp 1 nói riêng là hình thành và phát triển cho HS cả bốn
KN ngôn ngữ nghe, nói, đọc, viết. Tuy nhiên, đề tài chỉ giới hạn xem xét
nghiên cứu một trong hai KN thuộc hình thức giao tiếp miệng - giao tiếp bằng
lời nói, trong đó nhấn mạnh đến rèn KNN qua hoạt động giao tiếp.
Đề tài cũng giới hạn ở việc xác định nội dung, biện pháp và cách thức
tổ chức rèn KNN cho HS lớp 1 ở một số trường tiểu học trên địa bàn quận
Kiến An, thành phố Hải Phòng, hiện đang học theo Chương trình, SGK môn
Tiếng Việt 1 - CGD.
5. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp khảo sát, thống kê
Phương pháp này được sử dụng trong việc khảo sát, thống kê thực
trạng rèn KNN cho HS lớp 1 thông qua dạy học môn Tiếng Việt bằng việc
dùng phiếu khảo sát, trao đổi trực tiếp với GV và HS, dự giờ các tiết học để
tìm hiểu phương pháp dạy học của GV.
5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp này được sử dụng để:
- Hệ thống hóa tư liệu, tài liệu nghiên cứu để xác định được những vấn
đề lí luận cơ bản làm cơ sở khoa học vững chắc cho việc xác định yêu cầu,


12

tiêu chí và cách thức vận dụng các phương pháp, biện pháp dạy học vào tổ
chức rèn luyện KNN cho HS lớp 1 trong quá trình dạy học tiếng Việt.
- Phân tích những ưu điểm, hạn chế của thực trạng rèn KNN cho HS
lớp 1 hiện nay để làm cơ sở đề xuất các biện pháp hiệu quả trong việc rèn
KNN cho HS thông qua dạy học môn Tiếng Việt.
5.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm

Phương pháp này được sử dụng để tiến hành dạy học thực nghiệm tại
một trường tiểu học trên địa bàn quận Kiến An, thành phố Hải Phòng nhằm
kiểm nghiệm và đánh giá tính khả thi cũng như hiệu quả của các biện pháp tổ
chức rèn luyện KNN cho HS trong dạy học tiếng Việt mà luận văn đã xây
dựng.
5.4. Thủ pháp so sánh- đối chiếu
Thủ pháp này được dùng để so sánh, đối chiếu mục tiêu môn học với
thực tế dạy học; đối chiếu kết quả học tập của HS trước và sau khi áp dụng
các biện pháp được đề xuất thông qua thực nghiệm đối chứng.
6. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, việc rèn KNN cho HS lớp 1 còn chưa được GV chú trọng
như các KN khác trong giao tiếp nên chưa đạt được kết quả mong muốn. Vì
vậy, nếu xây dựng và vận dụng được những nội dung rèn luyện KNN với các
biện pháp, quy trình cụ thể dựa trên những cơ sở lí luận khoa học chắc chắn
cùng việc khảo sát thực trạng được tiến hành chu đáo thì việc rèn KNN cho
HS lớp 1 sẽ đạt hiệu quả và chất lượng dạy học môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học
sẽ được nâng cao.
7. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần vào việc đổi mới
phương pháp dạy học và nâng cao hiệu quả dạy học môn Tiếng Việt ở bậc
tiểu học nói chung và việc rèn KNN cho HS lớp 1 nói riêng. Những đóng góp
đó được thể hiện ở những điểm sau:
- Xác lập một cách chọn lọc những vấn đề cơ bản trong lý thuyết ngôn
ngữ học, tâm lí học và tâm lí học hoạt động… vận dụng vào quá trình dạy học
tiếng Việt; nghiên cứu về Chương trình dạy học tiếng Việt ở bậc tiểu học và


13

khảo sát, đánh giá thực trạng rèn KNN cho HS lớp 1 hiện nay để làm cơ sở lý

luận và cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng các biện pháp rèn KNN cho HS.
- Đề tài đã đưa ra một số biện pháp rèn KNN cho HS lớp 1 trong giờ
dạy tiếng Việt. Đó là tổ chức cho HS nhận diện, ghi nhớ tiếng, thanh, âm,
vần; xây dựng và sử dụng hệ thống BT thực hành rèn KNN cho HS trong dạy
học tiếng Việt và tổ chức các trò chơi học tập để rèn KNN cho HS. Những nội
dung và biện pháp này được xác định một cách rõ ràng dựa trên cơ sở khoa
học và thực tiễn. Do vậy, những biện pháp đề xuất này có thể là tài liệu tham
khảo hữu ích cho GV đồng thời cũng là những định hướng trong việc tổ chức
dạy học môn Tiếng Việt cho HS lớp 1 hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Một số biện pháp rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1
trong giờ dạy tiếng Việt
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm


14

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Những vấn đề chung về dạy học phát triển kĩ năng ngôn ngữ cho học
sinh lớp 1
1.1.1. Kĩ năng và kĩ năng ngôn ngữ
1.1.1.1. Một số khái niệm
a) Kỹ năng
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến
thức thu được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế” [69]. Kỹ năng ở đây
được hiểu là khả năng thực hiện một công việc hoặc một hoạt động nào đó
một cách có chất lượng và hiệu quả theo yêu cầu cụ thể, nhằm đạt mục đích

xác định trong những điều kiện nhất định.
Từ điển Tâm lí học đã định nghĩa một cách khái quát: “Kĩ năng là giai
đoạn nắm vững cách hành động dựa trên quy tắc nào đó và hành động phù
hợp với quy tắc ấy trong quá trình giải quyết nhiệm vụ đã xác định” [70]. Tuy
nhiên, cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về KN và đưa ra
nhiều khái niệm khác nhau về nó. Khái quát lại, có thể thấy có ba nhóm quan
điểm chính như sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất coi KN là mặt kĩ thuật thao tác hành động
hay hoạt động. Đại diện cho quan niệm này là V.A.Cruchetxki, V.V.Tsebseva, A.V.Petrovxki, Trần Trọng Thuỷ, Hà Nhật Thăng... Theo đó, KN là
cách thức hoạt động dựa trên cơ sở tri thức và kỹ xảo. Kỹ năng được hình
thành bằng con đường luyện tập, KN tạo khả năng cho con người thực hiện
hành động không chỉ trong những điều kiện quen thuộc mà trong những điều
kiện đã thay đổi. Như vậy, theo quan niệm này, KN là phương tiện thực hiện
hành động mà con người đã nắm vững. Người có KN hoạt động nào đó là
người nắm được các tri thức về hoạt động đó và thực hiện hành động theo
đúng yêu cầu cần có mà không cần tính đến kết quả của hành động. Như vậy,
nhóm quan điểm này chủ yếu nhấn mạnh đến mặt kĩ thuật của KN, coi KN


15

như là phương thức thực hiện hành động phù hợp với mục đích và điều kiện
hành động, chưa xem xét đến kết quả của hành động.
Nhóm quan điểm thứ hai nhìn nhận xem xét KN nghiêng về mặt năng
lực của con người. Đó là quan niệm của các tác giả N.Đ.Levitôv, P.A.Ruđich,
X.I.Kixegof, K.K.Platonov, X.Roegiers, K.Barry, KenKing, Trần Quốc
Thành, Nguyễn Quang Uẩn, Lê Văn Hồng, Ngô Công Hoàn, Vũ Dũng ...
Theo đó, KN là sự thực hiện có kết quả một động tác nào đó hay một hành
động phức tạp hơn, bằng cách áp dụng hay lựa chọn những cách thức đúng
đắn, có tính đến những điều kiện nhất định. Kỹ năng có liên quan nhiều đến

thực tiễn, đến việc áp dụng tri thức vào thực tiễn. Như vậy, theo quan niệm
này, KN không chỉ là kĩ thuật, thao tác thực hiện hoạt động mà còn là năng
lực đem lại kết quả cho hoạt động. Đây là quan niệm tương đối toàn diện và
khái quát về KN. Tuy nhiên, các tác giả trên còn chưa thực sự quan tâm đến
mặt thao tác, hành động của KN.
Theo chúng tôi về thực chất hai luồng ý kiến trên không phủ định nhau,
sự khác biệt chỉ là ở chỗ mở rộng hay thu hẹp thành phần cấu trúc của KN
cũng như những đặc tính của chúng. Trên cơ sở hai cách tiếp cận trên, chúng
tôi quan niệm: KN là sự thực hiện có hiệu quả một hành động bằng cách vận
dụng những kiến thức, kỹ xảo để giải quyết nhiệm vụ mới một cách linh hoạt,
sáng tạo. Quan niệm này không thiên về mặt kỹ thuật mà cũng không nặng về
mặt năng lực, nó được xem xét trên cả hai phương diện.
Xem xét các nhóm quan điểm trên, chúng tôi nhận thấy, để tiếp cận vấn
đề KN, cần nắm được năm nội dung sau đây: Một là, nói tới KN là nói tới
hành động có mục đích. Kỹ năng luôn gắn liền với những hành động cụ thể
như: KN sư phạm, KN giao tiếp, KN dạy học. Không có KN chung chung,
trừu tượng, tách khỏi hành động. Cấu trúc của KN phụ thuộc vào cấu trúc của
hoạt động mà chủ thể đang thực hiện, chẳng hạn KN dạy học phụ thuộc vào
cấu trúc tâm lý của hoạt động dạy, KN học tập phụ thuộc vào cấu trúc tâm lý
hoạt động học. Hai là, nghiên cứu khái niệm KN cần quan tâm ở hai khía


16

cạnh là mặt kỹ thuật của hành động, thao tác, kết quả của hành động và mặt
năng lực của con người. Ba là, KN có hai cấp độ: KN bậc thấp và KN bậc
cao. Ở cấp độ KN bậc thấp, công việc hoàn thành trong hoàn cảnh thông
thường, điều kiện không thay đổi, chất lượng chưa cao, thao tác chưa thuần
thục và còn phải tập trung chú ý. Ở cấp độ KN bậc cao, công việc được tiến
hành một cách thành thạo, linh hoạt, sáng tạo phù hợp với mục tiêu, yêu cầu

trong các điều kiện, hoàn cảnh biến đổi phức tạp và đạt hiệu quả cao. Bốn là,
KN không phải là bẩm sinh của mỗi cá nhân, KN là sản phẩm của hoạt động
thực tiễn. Đó là quá trình con người vận dụng những kiến thức, kỹ xảo vào
hoạt động thực tiễn để đạt được mục đích đã đề ra. Năm là, để đánh giá một
cá nhân có KN, cần phải dựa vào những tiêu chuẩn như: cá nhân đó hiểu biết
về mục đích của hành động cũng như các điều kiện, phương tiện triển khai
hành động đó; hành động diễn ra đúng đắn và thành thạo trong thực tiễn; KN
đó diễn ra trong các tình huống khác nhau, thời gian ngắn nhưng kết quả cao.
Một hành động diễn ra còn nhiều sai sót, tốn nhiều thời gian, năng lượng thần
kinh, cơ bắp thì chưa thể gọi là hành động có KN.
Như vậy, có thể định nghĩa một cách khái quát về KN như sau:“Kỹ
năng là khả năng của con người thực hiện có kết quả một công việc để đạt
được mục đích đã xác định bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức
hành động phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và phương tiện nhất định”.
b) Kỹ năng ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, nó chỉ sinh ra và phát triển trong xã
hội loài người, do ý muốn và nhu cầu giao tiếp với nhau trong quá trình sống
và tồn tại, phát triển. Ngôn ngữ là tập hợp của những vật liệu, phương tiện của
những quy tắc tổ chức kết hợp các loại vật liệu đó để biểu đạt những nội dung
ý nghĩa nhất định, tạo nên một hệ thống tín hiệu hay ký hiệu dùng làm công
cụ giao tiếp giữa người với người trong một xã hội nhất định. Trong tất cả các
phương tiện mà con người sử dụng để giao tiếp thì ngôn ngữ là phương tiện
duy nhất thoả mãn được nhu cầu của con người. “Ngôn ngữ là công cụ để tư


17

duy, tư duy là hiện thực trực tiếp của ngôn ngữ” [2, tr.13]. “Ngôn ngữ không
chỉ có chức năng làm phương tiện tư duy mà còn là phương tiện giao tiếp
quan trọng nhất của con người” [54, tr.44].

Như vậy, từ các khái niệm về ngôn ngữ, có thể hiểu KN ngôn ngữ là khả
năng của một người có thể lựa chọn hệ thống những âm, những từ và những quy
tắc kết hợp chúng để làm phương tiện giao tiếp với nhau.
1.1.1.2. Các loại kỹ năng ngôn ngữ và mối quan hệ giữa các kỹ năng
a) Các loại kỹ năng ngôn ngữ
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đưa ra những vấn đề về
KN ngôn ngữ tiếng Việt. Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ hình
thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho HS. Năng lực ngôn ngữ của HS được
thể hiện chủ yếu ở bốn dạng hoạt động, tương ứng với đó là bốn KN: nghe,
nói, đọc, viết.
- Kỹ năng nghe
Việc nghe được chia thành hai loại: “nghe trong hội thoại (mang tính
chủ động, vùa được nghe, vừa được nói) và nghe đơn thoại (mang tính bị
động, chỉ được nghe)” [49, tr.211].
Nghe trong hội thoại và nghe trong đơn thoại có những điểm tương
đồng, như phụ thuộc vào chất lượng âm thanh, tiếng ồn, độ chú ý hay phân
tán của người nghe ... Tuy nhiên nghe trong hội thoại và nghe trong đơn thoại
còn có những điểm khác biệt sau:
+ Nghe trong hội thoại: Là hoạt động nghe với sự hiện diện trực tiếp
của những người tham gia hội thoại trong điểm không gian hẹp. Sự chuyển
đổi từ vai nghe sang vai nói và ngược lại từ nói sang nghe không diễn ra
thường xuyên. Việc nghe trong hội thoại không cần ghi chép vì người nghe
cũng là người xây dựng nội dung giao tiếp, và hơn nữa những nội dung này
đa dạng, phong phú, nhiều khi tản mạn nên khó có thể ghi chép được.
+ Nghe trong đơn thoại: Nghe trong đơn thoại là hoạt động nghe
thường gặp trên lớp, trong hội trường, hoặc những nơi công cộng khác. Nghe


×