Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Luận văn thạc sĩ quản lý tài sản công đối với đơn vị sự nghiệp công lập trường hợp viện sốt rét ký sinh trùng côn trùng trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.62 KB, 83 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN
CÔNG ĐỐI VỚI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP................................8
1.1. Cơ sở lý luận về tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập..............8
1.2. Quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập..........................13
1.2. Tiêu chí đánh giá và những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản
lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập..........................................22
1.4. Nghiên cứu một số bài học kinh nghiệm để quản lý tốt tài sản công
tại một số đơn vị sự nghiệp công lập.......................................................25
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI VIỆN
SỐT RÉT - KÝ SINH TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG

31

2.1. Khái quát về Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương 31
2.2. Thực trạng quản lý và sử dụng tài sản công tại Viện Sốt rét - Ký sinh
trùng - Côn trùng Trung ương................................................................. 34
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý tài sản công tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng Côn trùng Trung ương.............................................................................58
Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ SỬ
DỤNG TÀI SẢN CÔNG TẠI VIỆN SỐT RÉT - KÝ SÍNH TRÙNG CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG..................................................................66
3.1. Định hướng phát triển và định hướng quản lý tài sản công tại Viện
Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương......................................66
3.2. Một số giải pháp tăng cường công tác quản lý tài sản công tại Viện
Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương......................................67
3.3. Một số kiến nghị...............................................................................75
KẾT LUẬN.................................................................................................. 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 79


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


STT

Chữ viết tắt

Nguyên nghĩa

1

CNTT

Công nghệ thông tin

2

ĐVSN

Đơn vị sự nghiệp

3

NSNN

Ngân sách nhà nước

4

TSC

Tài sản công


5

TSCĐ

Tài sản cố định

6

XDCB

Xây dựng cơ bản

7

VSR- KST-CT TƯ

Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng
Trung ương


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Cơ cấu tài sản cố định hữu hình của Viện giai đoạn 2014-2018.....36
Bảng 2.2: Tình hình nguồn vốn cho đầu tư XDCB, nâng cấp và sửa chữa
cơ sở hạ tầng giai đoạn 2014-2018..........................................................43
Bảng 2.3: Tình hình đầu tư XDCB, mua sắm TSC giai đoạn 2014-2018.......44
Bảng 2.4: Số lượng tài sản đáp ứng nhu cầu sử dụng của Viện năm 2018.....51
Bảng 2.5: Tình hình thanh lý tài sản giai đoạn 2014-2018..............................56
Bảng 2.6: Số lượng tài sản thanh lý tài sản năm 2018....................................58
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 2.1.Cơ cấu tổ chức của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng

trung ương...............................................................................................33
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu tài sản công của Viện thời điểm 31/12/2018..................35
Biểu đồ 2.2: Nguồn vốn NSNN giai đoạn 2014-2018.....................................40
Biểu đồ 2.3: Nguồn vốn đầu tư phát triển sự nghiệp giai đoạn 2014-2018.....41
Biểu đồ 2.4 Biểu đồ so sánh cơ cấu nguồn vốn giai đoạn 2014-2018.............42


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Ở mỗi quốc gia, tài sản công có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình
sản xuất và quản lý xã hội, đồng thời việc quản lý tốt TSC luôn được coi là
một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá chất lượng quản lý nhà nước của quốc
gia đó.
Trong những năm qua, TSC ở nước ta đã luôn được quan tâm phát triển
cả về quy mô, giá trị, chất lượng và được giao cho các cơ quan, đơn vị thuộc
bộ máy nhà nước trực tiếp quản lý, sử dụng nhằm thực hiện những chức năng,
nhiệm vụ Nhà nước giao. Đối với các đơn vị được giao tài sản bước đầu đã
kiểm soát được việc sử dụng TSC, hạn chế dần việc sử dụng TSC không đúng
mục đích, sử dụng lãng phí, thất thoát. Công tác quản lý TSC đã được chủ
động hơn trên cơ sở vẫn đảm bảo tính độc lập, phù hợp với quy trình đầu tư,
xây dựng, mua sắm sử dụng tài sản. Công tác quản lý mua sắm tài sản công ở
cơ quan nhà nước hiện nay chưa thực sự hiệu quả: tình trạng mua sắm vượt
tiêu chuẩn định mức, vượt mức giá cho phép, chất lượng không đảm bảo, thủ
tục mua sắm chưa theo đúng quy trình, và còn nhiều vấn đề cần phải xem xét
trong quá trình mua sắm: từ khâu lập dự toán, xác định nhu cầu kinh phí và tổ
chức thực hiện việc mua sắm. Đây là biểu hiện rõ ràng nhất về bất cập, vướng
mắc trong quản lý mua sắm tài sản công.
Song, bên cạnh những kết quả đạt được, do có nhiều nguyên nhân chủ quan,
khách quan, hệ thống cơ chế quản lý TSC còn nhiều bất cập, hạn chế chưa

thực sự thích ứng với thực tế.
Quản lý TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương
trong thời gian qua đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt ra, là yếu tố quan
trọng góp phần xây dựng và phát triển Viện cũng như thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ được giao. Quản lý TSC từng bước được hoàn thiện theo
4


hướng sử dụng tiết kiệm, hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt
được, vẫn còn bộc lộ một số bất cập như: việc lập kế hoạch mua sắm tài sản
còn bị động, phụ thuộc vào nguồn ngân sách Nhà nước cấp; hệ thống tiêu
chuẩn, định mức sử dụng TSC làm căn cứ mua sắm tài sản chưa đầy đủ; công
tác kiểm tra, giám sát chưa thực sự được coi trọng; công kiểm kê hàng năm
chưa hiệu quả; việc áp dụng CNTT vào quản lý TSC chưa khoa học, đồng bộ;
trình độ của cán bộ quản lý và cá nhân người sử dụng còn hạn chế. Ở nước ta,
cơ quan quản lý trung ương về tài sản là Cục Quản lý Công sản thuộc Bộ Tài
Chính. Hiện nay, uy tín của nhà nước, của cán bộ công chức nhà nước một
phần rất lớn được công dân đánh giá thông qua việc quản lý, sử dụng tài sản
công. Tuy nhiên, tình trạng sử dụng tài sản công không đúng mục đích, gây
lãng phí, thất thoát diễn ra rất phổ biến. Cho đến nay, các nghiên cứu liên
quan đến đề tài này chỉ mang tính khái quát chung, chưa dựa trên những
chuẩn mực cụ thể. Vì vậy đề tài mang một ý nghĩa thiết thực, là nguồn tài liệu
tham khảo cho cơ quan, giúp tìm ra giải pháp của vấn đề quản lý tài sản công,
là cơ sở để cải thiện các vấn đề này tốt hơn.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Quản lý tài sản công
đối với đơn vị sự nghiệp công lập: trường hợp Viện Sốt rét - Ký sinh
trùng - Côn trùng Trung ương” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


Quản lý TSC là một nội dung đã và đang được đề cập tới trong nhiều
công trình nghiên cứu, luận án tiến sỹ, luận văn cao học, báo cáo khoa học…
Trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “ Chiến lược đổi mới cơ chế
quản lý TSC công giai đoạn 2001-2010” của tác giả PGS.TS Nguyễn Văn Xa
đã nghiên cứu thực trạng quản lý, sử dụng TSC ở nước ta giai đoạn 1995 2000, đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân.Từ


đó đề xuất những giải pháp để thực hiện đổi mới cơ chế quản lý TSC tại các
ĐVSN công lập giai đoạn 2001-2010 [23]. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu
của đề tài chỉ có giá trị đóng góp thiết thực ở thời điểm thực hiện.
Trong đề tài nghiên cứu cấp bộ năm 2002 “Hoàn thiện cơ chế quản lý TSC
tại đơn vị sự nghiệp” của tác giả Tiến sĩ Phạm Đắc Phong đã chú trọng nghiên
cứu sâu về cơ chế quản lý TSC được Nhà nước giao cho các ĐVSN trực tiếp sử
dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ [12]. Trong đó, đề tài chủ yếu đi sâu hệ
thống hóa các cơ chế, chính sách đang áp dụng đối với quản lý TSC tại các
ĐVSN, đánh giá những kết quả đạt được khi thực hiện, đồng thời chỉ ra những
tồn tại, hạn chế khi thực hiện các cơ chế, chính sách đó để kiến nghị các giải
pháp hoàn thiện, đổi mới. Tuy nhiên, trong điều kiện văn bản quy phạm pháp
luật liên quan đến quản lý TSC còn thiếu, chưa đồng bộ thì đề tài chưa đánh giá
đến hiệu lực, hiệu quả của các cơ chế chính sách đó để có những giải pháp giúp
các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.
Luận án “ Cơ chế quản lý TSC trong khu vực hành chính sự nghiệp ở
Việt Nam” của nghiên cứu sinh Nguyễn Mạnh Hùng- Đại học kinh tế quốc
dân năm 2008 đã hệ thống hóa những lý luận cơ bản về TSC trong khu vực
hành chính sự nghiệp [10]. Tác giả đã đi sâu phân tích cơ chế quản lý TSC,
hiệu quả và hiệu lực của cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực hành chính
sự nghiệp ở Việt Nam. Đồng thời cũng khảo cứu kinh nghiệm quản lý TSC ở
một số quốc gia trên thế giới.
Luận án “Quản lý tài sản công trong các cơ quan hành chính nhà nước ở
Việt Nam” của nghiên cứu sinh Phan Hữu Nghị đã trình bày tổng quan về cơ

quan hành chính nhà nước và TSC, quản lý TSC trong các cơ quan hành chính
đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm quản lý TSC của một số quốc gia. Từ đó
rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam [11]. Mặt khác, trên cơ sở
phân tích quy định chung về quản lý TSC và thực trạng quản lý trụ sở làm


việc trong các cơ quan hành chính, tác giả đã tổng kết các kết quả đạt được,
phân tích những tồn tại và nguyên nhân để từ đó đề ra mục tiêu, yêu cầu đổi
mới và hệ thống giải pháp hoàn thiện quản lý trụ sở làm việc của cơ quan
hành chính.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Cục Quản lý công sản, Bộ Tài
chính “Đổi mới cơ chế quản lý tài sản nhà nước tại ĐVSN công lập”, đã tập
trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá, đề xuất nhiều giải pháp đổi mới công
tác quản lý TSC tại ĐVSN với mục tiêu: trao quyền tự chủ cho các ĐVSN
công lập để phát triển các hoạt động sự nghiệp, thực hiện xã hội hoá, giảm
sức ép chi từ NSNN.
Bài viết “Quản lý tài sản công trong các cơ quan hành chính nhà nước –
Các hạn chế và giải pháp” của Lê Chi Mai trên Tạp chí Quản lý nhà nước, đã
căn cứ các tài liệu có liên quan (Báo cáo tổng kết công tác quản lý tài sản
công giai đoạn 1995 - 2005 của Cục Quản lý công sản, Bộ Tài chính, Báo cáo
kết quả kiểm toán năm 2007, 2008 của Kiểm toán Nhà nước) để đánh giá khái
quát thực tiễn quản lý TSC nói chung và trong các cơ quan hành chính nhà
nước nói riêng. Từ đó, tác giả đi sâu vào phân tích một số vấn đề bức thiết
đang đặt ra trong quản lý TSC tại các cơ quan hành chính nhà nước như tình
trạng mua sắm lãng phí; sử dụng tài sản kém hiệu quả; thiếu ghi chép, đánh
giá giá trị và tổng kết tài sản; tổ chức bộ máy và nhân sự quản lý chưa phù
hợp; thiếu sự thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Với những hạn chế trên,
bài báo đề xuất các nhóm giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh việc quản lý TSC
trong các cơ quan hành chính nhà nước.
Cho đến nay, việc nghiên cứu về quản lý TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh

trùng - Côn trùng Trung ương chưa có đề tài nào đề cập đến. Trên thực tế,
quản lý TSC ở viện trong thời gian qua đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt
ra, là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng và phát triển viện cũng như thực


hiện các chức năng, nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao. Quản lý tài sản
từng bước được hoàn thiện theo hướng sử dụng tiết kiệm, hiệu quả. Quy trình
quản lý tài sản đã được quan tâm nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi để đảm bảo
phù hợp với quy định chung của Nhà nước và đặc thù hoạt động của viện; các
biện pháp cụ thể để quản lý tài sản cũng liên tục được bổ sung, hoàn thiện.
Bên cạnh những giá trị to lớn về mặt khoa học mà các công trình nghiên
cứu được đề cập nêu trên đã đạt được, quản lý TSC là vấn đề phức tạp luôn
cần phải được nghiên cứu, hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn, riêng đối với
đề tài “Quản lý tài sản công đối với đơn vị sự nghiệp công lập: trường hợp
Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương” được xác định cần được
tập trung nghiên cứu một số vấn đề như sau:
Một là, kế thừa kết quả nghiên cứu mà các công trình đã công bố đạt
được, đề tài tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện một số lý luận cơ bản
về TSC và quản lý TSC trong các ĐVSN công lập, khái niệm TSC, TSC trong
ĐVSN công lập gắn với lợi ích kinh tế mà nó đem lại cho xã hội; đặc điểm,
phân loại TSC trong ĐVSN công lập; khái niệm, mục tiêu, yêu cầu, nội dung
và các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý TSC trong ĐVSN công lập.
Hai là, nghiên cứu một số kinh nghiệm trong nước và quốc tế về quản
lý TSC, rút ra bài học kinh nghiệm để tham khảo trong việc kiến nghị, đưa ra
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý TSC của Viện Sốt
rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ươngtrong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

* Mục đích nghiên cứu: trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về
quản lý TSC đối với đơn vị sự nghiệp công lập, đánh giá thực trạng quản lý

TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương và đưa ra một số
giải pháp tăng cường công tác quản lý và sử dụng TSC tại Viện Sốt rét - Ký
sinh trùng - Côn trùng Trung ương.


* Nhiệm vụ cụ thể:
- Nghiên cứu và tổng hợp một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về quản
lý TSC tại các đơn vị sự nghiệp y tế công lập.
- Đánh giá thực trạng tình hình quản lý và sử dụng TSC tại Viện Sốt rét - Ký
sinh trùng - Côn trùng Trung ương.
- Phân tích ưu, nhược điểm, thuận lợi và khó khăn trong việc quản lý TSC tại
Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác quản lý và sử dụng TSC tại
Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
- Lý luận và thực tiễn về quản lý TSC đối với đơn vị sự nghiệp công lập:
trường hợp Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương (bao gồm
quản lý quá trình đầu tư mua sắm, khai thác, sử dụng và sửa chữa,vận hành,
bảo trì và khấu hao tài sản công).
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2014-2018, định hướng đến năm 2025.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn
trùng Trung ương
- Về nội dung: Quản lý và sử dụng tài sản công
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về công tác quản lý
và sử dụng TSC tại các đơn vị sự nghiệp công lập

- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp phân tích:
Luận văn sử dụng các thông tin sơ cấp, thông tin thứ cấp từ các báo cáo
tài chính, quy chế quản lý tài sản, quy chế chi tiêu nội bộ và các báo cáo khác


của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương nhằm rút ra các kết
luận và đề xuất cần thiết.
+ Phương pháp so sánh:
So sánh bằng số tuyệt đối: là kết quả của phép trừ giữa trị số của kỳ phân
tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh thể hiện khối
lượng, quy mô tăng (giảm) của các hiện tượng kinh tế.
So sánh bằng số tương đối: là kết quả của phép chia giữa trị số của kỳ
phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh thể hiện kết
cấu, mối quan hệ tỷ lệ, tốc độ phát triển, mức độ phổ biến của các hiện tượng
kinh tế.
Phương pháp so sánh được sử dụng để phân tích các số liệu, dữ liệu liên
quan nhằm đánh giá được tình hình quản lý tài sản.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Ý nghĩa lý luận: hệ thống hóa những vấn đề lý luận về công tác quản lý TSC
tại các đơn vị sự nghiệp công lập
- Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá thực trạng từ đó đưa ra những giải pháp tăng
cường công tác quản lý và sử dụng TSC TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng Côn trùng Trung ương.
7. Kết cấu của luận văn

Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo sẽ có
3 nội dung chính thông qua 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý TSC đối với đơn vị sự nghiệp công lập
Chương 2: Thực trạng quản lý TSC tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng Côn trùng Trung ương

Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác quản lý và sử dụng TSC tại
Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG
ĐỐI VỚI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.1. Cơ sở lý luận về tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
1.1.1. Khái niệm tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
- Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên
khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và
các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” [13].
- Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công số 15/2017/QH14 ngày 21/6/2017
của Quốc hội: “Tài sản công là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, bao gồm: tài sản công phục vụ hoạt
động quản lý, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại cơ
quan, tổ chức, đơn vị; tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng; tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; tài sản công tại doanh
nghiệp; tiền thuộc ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân
sách, dự trữ ngoại hối nhà nước; đất đai và các loại tài nguyên khác”[17].
1.1.2. Phân loại tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
Việc phân loại TSC nói chung và TSC trong ĐVSN công lập nói riêng
nhằm mục đích đưa ra các biện pháp quản lý, sử dụng hiệu quả đối với từng
loại tài sản. Dựa trên các tiêu chí khác nhau thì việc phân loại TSC trong
ĐVSN công lập cũng khác nhau, thông thường có các cách phân loại tài sản
hay được sử dụng như sau:
- Căn cứ vào công dụng của tài sản khi khai thác, sử dụng, có thể chia tài sản
trong ĐVSN công lập thành các loại sau:



+ Nhà, đất thuộc trụ sở làm việc, công trình xây dựng và các tài sản
khác gắn liền với đất đai.
+ Phương tiện vận tải: xe ô tô phục vụ công tác (bao gồm xe ô tô phục
vụ chức danh, xe ô tô dùng chung và xe ô tô chuyên dùng) và các phương tiện
vận tải khác.
+ Máy móc, trang thiết bị làm việc và các tài sản khác.
- Căn cứ hình thái tồn tại của TSC: có thể chia thành tài sản hữu hình và tài sản
vô hình. Tài sản hữu hình là loại tài sản có hình thái vật chất giá trị và nhìn
thấy được. Tài sản vô hình là các tài sản tồn tại dưới dạng không nhìn thấy,
nhưng cũng có thể đem lại lợi ích cho người sở hữu nó (chẳng hạn như bằng
phát minh sáng chế, bản quyền tác giả ...)
- Căn cứ nguồn gốc hình thành: có thể chia thành TSC được nhà nước trực tiếp
đầu tư tạo nên và TSC được gián tiếp sở hữu. TSC được nhà nước đầu tư tạo
nên chủ yếu là các tài sản được hình thành từ NSNN và các nguồn lực tài
chính có nguồn gốc NSNN. TSC được gián tiếp sở hữu trong các ĐVSN công
lập là các tài sản có được không qua các kênh đầu tư của nhà nước (chẳng hạn
các tài sản được tài trợ, biếu tặng, thu phạt…)
- Căn cứ theo cấp quản lý, TSC trong ĐVSN công lập gồm: TSC do Chính phủ
quản lý (gồm TSC do Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ
quan khác ở Trung ương quản lý); TSC do các ĐVSN công lập thuộc cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương quản lý; TSC do các ĐVSN công lập thuộc
cấp quận, huyện, thị xã, thành phố (trực thuộc tỉnh) quản lý; TSC do các
ĐVSN công lập thuộc cấp xã, phường, thị trấn quản lý.
1.1.3. Đặc điểm tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
- TSC tại các ĐVSN công lập được hình thành từ NSNN hoặc có nguồn gốc
NSNN: TSC trong ĐVSN công lập bao gồm tài sản được xác lập sở hữu nhà
nước và bàn giao cho ĐVSN công lập quản lý, sử dụng, tài sản được đầu



tư xây dựng, mua sắm từ nguồn NSNN cấp. Ngoài ra, do đặc điểm hoạt động
và cơ chế quản lý tài chính của ĐVSN công lập thì nguồn hình thành TSC có
được còn do: tài trợ, viện trợ của các tổ chức, cá nhân; nguồn thu tại các
ĐVSN công lập; nguồn vốn vay của các quỹ hỗ trợ phát triển hay các ngân
hàng; các nguồn quỹ của ĐVSN công lập được trích lập theo quy định của
pháp luật (quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp). Những tài sản này tuy nhà
nước không đầu tư trực tiếp nhưng trước khi giao các ĐVSN công lập sử
dụng thì đều phải làm thủ tục xác lập quyền sở hữu nhà nước, giá trị các tài
sản đó đều được ghi thu hoặc ghi thu, ghi chi cho NSNN nên đều được coi là
có nguồn gốc NSNN.
- Quyền sử dụng TSC trong ĐVSN công lập có sự tách rời khỏi quyền sở hữu:
TSC nói chung và TSC trong ĐVSN công lập đều thuộc sở hữu nhà nước
trong khi đó quyền sử dụng TSC được thực hiện bởi từng ĐVSN công lập
được nhà nước giao tài sản để phục vụ việc thực hiện các nhiệm vụ do nhà
nước giao.
- Về mục đích sử dụng: TSC trong ĐVSN công lập là những tài sản mà Nhà
nước giao cho các ĐVSN công lập trực tiếp sử dụng để thực hiện các mục tiêu
sự nghiệp phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Về chế độ quản lý: Nhà nước là chủ thể quản lý TSC trong đơn vị ĐVSN
công lập, ở tầm vĩ mô, TSC được quản lý, thống nhất theo pháp luật của Nhà
nước. Ở tầm vi mô, TSC được Nhà nước giao cho các ĐVSN công lập sử
dụng theo đúng quy định, chế độ do Nhà nước quy định. Do đó, nếu không
quản lý chặt chẽ sẽ dẫn đến việc sử dụng TSC lãng phí, thất thoát.
- Tài sản công trong ĐVSN công lập là cơ sở vật chất để phục vụ hoạt động của
các đơn vị nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước của
mình. Do vậy, sự hình thành và sử dụng TSC trong các ĐVSN công lập tuỳ
thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị.


-. TSC trong các ĐVSN công lập nhiều về số lượng, lớn về giá trị và mỗi

tài sản lại có giá trị sử dụng khác nhau, thời hạn sử dụng khác nhau, do nhiều
chủ thể quản lý, sử dụng và trình độ quản lý, sử dụng của các chủ thể rất khác
nhau: Có loại tài sản được sử dụng trong hầu hết các ĐVSN công lập (trụ sở
làm việc, xe ô tô, máy tính, photo,…) nhưng cũng có loại tài sản chỉ có một
số ĐVSN công lập sử dụng cho hoạt động, nhiệm vụ đặc thù theo ngành, lĩnh
vực sự nghiệp mà đơn vị hoạt động (thiết bị y tế đối với ĐVSN công lập hoạt
động trong lĩnh vực y tế, thiết bị thí nghiệm trong một số ĐVSN công lập
thuộc lĩnh khoa học công nghệ…). TSC có loại không có khả năng tái tạo phải
được bảo tồn và phát triển, do đó việc quản lý đối với mỗi loại tài sản cũng có
những đặc điểm khác nhau.
- Giá trị của TSC trong ĐVSN công lập giảm dần trong quá trình sử dụng: phần
giá trị giảm dần đó được xem là yếu tố chi phí tiêu dùng công để tạo ra các
sản phẩm dịch vụ công, không thể trực tiếp thu hồi được phần giá trị hao mòn
của các tài sản qua quá trình sử dụng, mà phần lớn thu hồi gián tiếp qua phí,
lệ phí theo quy định của Nhà nước hoặc qua hiệu quả hoạt động của các hoạt
động sự nghiệp phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.4. Vai trò của tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
Vai trò của TSC trong ĐVSN công lập có thể được xem xét dưới nhiều
khía cạnh: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
Thứ nhất, TSC là điều kiện vật chất đầu tiên và không thể thiếu để
ĐVSN công lập thực hiện nhiệm vụ được Nhà nước giao. Tài sản công trong
ĐVSN công lập là nền tảng vật chất quan trọng cho việc đảm bảo các lợi ích
công, đồng thời là nguồn lực thiết yếu để đảm bảo sự tồn tại, phát triển. TSC
trong ĐVSN công lập giúp nhà nước cung cấp các dịch vụ công đáp ứng nhu
cầu, lợi ích của quần chúng nhân dân, góp phần tạo ra một xã hội công bằng,
ổn định. Sử dụng TSC vào giáo dục, văn hóa, khoa học kĩ thuật giúp con
người phát triển, duy trì những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội, làm cho


xã hội ngày một tốt đẹp hơn. TSC còn được Nhà nước sử dụng để cung cấp các

sản phẩm, dịch vụ có tác dụng điều tiết khoảng cách phân hóa giàu và nghèo
trong xã hội, góp phần đảm bảo sự công bằng của xã hội. Ngoài ra, TSC là nhân
tố quan trọng trong quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động sự nghiệp của các
đơn vị nhằm cung cấp các sản phẩm dịch vụ công với chất lượng ngày càng
được nâng cao cho con người.
Thứ hai, TSC là điều kiện vật chất phục vụ cho hoạt động bộ máy quản
lý điều hành của các cơ quan Nhà nước, là nhân tố quan trọng trong quá trình
tổ chức thực hiện các hoạt động sự nghiệp của các ĐVSN công lập, là điều
kiện vật chất khẳng định vai trò lãnh đạo của cơ quan quản lý, tạo niềm tin, sự
uy nghiêm của pháp luật nhưng cũng tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân sống
làm việc theo đúng pháp luật nhà nước. Với vai trò là nền tảng vật chất đảm
bảo cho Nhà nước hoạt động, TSC trong ĐVSN công lập giữ vị trí hết sức
quan trọng. Một mặt, đó là phương tiện để truyền tải thông tin sự lãnh đạo
điều hành quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước, đồng thời là công cụ để thể
hiện ý chí của Nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát duy trì sự ổn định và phát
triển kinh tế xã hội của đất nước theo những mục tiêu đã định trước.
Thứ ba, TSC là một trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất Nhà
nước thực hiện chức năng kinh tế thông qua các hoạt động nhằm đảm bảo cho
quá trình sản xuất xã hội được tiến hành bình thường, hướng quá trình sản
xuất xã hội đến những mục tiêu đã định trước. TSC là một trong các yếu tố cơ
bản của quá trình sản xuất. Xét trên phạm vi toàn thế giới, nếu không có tài
nguyên, đất đai thì không có sản xuất và cũng không có sự tồn tại của loài
người. Vì vậy, có thể khẳng định TSC trong ĐVSN công lập là yếu tố cấu thành
của quá trình sản xuất hội.
Thứ tư, TSC là nguồn vốn của sự đầu tư phát triển. Thông qua đầu tư
phát triển, TSC được bảo tồn, phát triển. Nguồn tài nguyên thiên nhiên chính
là TSC. TSC là cơ sở, là tiền đề cho đầu tư phát triển, là yếu tố đầu vào cho


mọi quá trình sản xuất, là nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển.

Thứ năm, TSC là điều kiện vật chất để không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân. Trong thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã
hội hiện nay ở nước ta, xuất phát điểm từ một nước nghèo nàn và lạc hậu,
việc bảo đảm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân không chỉ trông vào các nguồn lực do nước ngoài đầu tư, mà Đảng và
Nhà nước coi TSC chính là nội lực - là chủ yếu nhằm từng bước phát triển
kinh tế xã hội, thực hiện xoá đói giảm nghèo để nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, TSC được xem là điều kiện vật chất để
mọi công dân tiếp xúc, phản ảnh nguyện vọng của mình; nơi giao dịch hợp tác
quốc tế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, an ninh, văn hoá, giáo
dục và đào tạo, y tế, xã hội, khoa học và công nghệ v.v...
1.2. Quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
1.2.1. Khái niệm về quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
TSC trong ĐVSN công lập là những tài sản mà Nhà nước giao cho các đơn
vị trực tiếp quản lý, sử dụng phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
Quản lý TSC trong ĐVSN công lập là sự tác động có tổ chức và bằng
pháp quyền của bộ máy quản lý đối với TSC trong ĐVSN công lập nhằm đảm
bảo tài sản công được đầu tư xây dựng mới, mua sắm, quản lý, sử dụng, xử lý
một cách hiệu quả, tiết kiệm, thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ Nhà nước
giao cho các ĐVSN công lập.
1.2.2. Sự cần thiết quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
Nhà nước là chủ sở hữu của mọi TSC, nhưng chủ thể trực tiếp khai thác,
sử dụng TSC là các ĐVSN công lập để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
giao. Quản lý TSC là việc làm cần thiết do:
Thứ nhất, TSC trong ĐVSN công lập là tài sản vật chất, của cải của đất
nước, của nhân dân phản ánh sức mạnh kinh tế của đất nước, là tiền đề, là yếu
tố vật chất để Nhà nước tổ chức thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đề ra.


TSC trong ĐVSN công lập có khối lượng lớn, giá trị cao do đó việc quản lý

tốt để tạo lập, khai thác, sử dụng TSC là đòi hỏi khách quan trong quá trình
xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ hai, việc sử dụng, khai thác TSC trong ĐVSN công lập có tác dụng
kích thích quá trình phát triển kinh tế xã hội, tác động lớn đến sự phát triển
của quốc gia. Năng lực quản lý yếu kém dẫn đến lãng phí, thất thoát làm suy
giảm nguồn nội lực của đất nước. Do đó, việc nâng cao hiệu quả quản lý TSC
trong ĐVSN công lập là việc làm cần thiết.
Thứ ba, TSC trong ĐVSN công lập được hình từ nguồn NSNN. Đó là điều
kiện đảm bảo cho các ĐVSN công lập thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được
giao. Quản lý tốt TSC trong ĐVSN công lập thông qua việc đầu tư xây dựng
mới, mua sắm, quản lý, sử dụng, xử lý TSC chống thất thoát lãng phí là trách
nhiệm, nghĩa vụ của mọi cán bộ, công chức, viên chức trong các ĐVSN công
lập.
1.2.3. Mục tiêu quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
Mỗi một hoạt động của ĐVSN công lập thực hiện bằng những phương
thức khác nhau nhưng đều có những mục tiêu được xác định trước, hướng tới
sự phát triển, ổn định và hiệu quả. Nhà nước đặt ra các mục tiêu quản lý đối
với khối tài sản của mình như sau:
Một là, đảm bảo tiết kiệm, chống lãng phí và khai thác hiệu quả nguồn
TSC. Theo đó, các ĐVSN công lập được giao quyền sử dụng TSC phải bảo
tồn, phát triển nguồn TSC và sử dụng TSC theo quy định pháp luật của Nhà
nước nhằm hoàn thành nhiệm vụ do Nhà nước giao.
Hai là, đảm bảo sử dụng đúng mục đích, tiêu chuẩn, định mức chế độ mà
Nhà nước quy định.
Ba là, Nhà nước thực hiện quản lý TSC cũng chính là thực hiện quyền sở
hữu tài sản; trong đó đặc biệt là quyền định đoạt đối với TSC bao gồm: quyền
đầu tư xây dựng, mua sắm, điều chuyển, thanh lý tài sản. Quản lý TSC phải


hướng tới mục tiêu phục vụ thực hiện các nhiệm vụ của ĐVSN công lập. Nếu

nhiệm vụ của ĐVSN công lập tăng lên hoặc có thay đổi trong yêu cầu về chất
lượng dịch vụ thì TSC phải thay đổi để đáp ứng.
1.2.4. Nguyên tắc quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
Để quản lý, sử dụng có hiệu quả tài sản công cần tuân thủ một số nguyên
tắc sau đây:
Thứ nhất, thống nhất về cơ chế, chính sách, chế độ quản lý; đồng thời
phải có cơ chế, chính sách, chế độ quản lý, sử dụng đối với những tài sản có
tính đặc thù riêng.
Thứ hai, thực hiện quản lý và sử dụng TSC đúng mục đích đầu tư, trang
bị; theo tiêu chuẩn, định mức. TSC trong ĐVSN công lập được hình thành từ
nguồn vốn NSNN, nguồn viện trợ, tài trợ từ các chương trình hợp tác, dự án,
quà biếu, tặng, tài sản tự chế tạo bằng hiện vật… Khi tài sản đưa vào sử dụng
phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn, định mức, chế độ quy định. Việc xác định các
tiêu chuẩn, định mức, chế độ sử dụng TSC là căn cứ quan trọng để kiểm soát
và quản lý trong việc đầu tư, mua sắm tài sản, đồng thời giúp cho các ĐVSN
công lập quản lý TSC hiệu quả, chống lãng phí. Qua đó, khắc phục tình trạng
lạm dụng TSC vào việc riêng cũng được hạn chế đáng kể.
Thứ ba, việc quản lý, sử dụng tài sản trong các ĐVSN công lập được
thực hiện công khai, minh bạch; mọi hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng
TSC phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Công khai, minh bạch TSC trong hoạt động của các ĐVSN công lập là
một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước nhằm phòng ngừa tham
nhũng. Công khai, minh bạch tạo điều kiện để cán bộ, công chức giám sát quá
trình sử dụng TSC. Với việc công khai, minh bạch TSC trong các ĐVSN
công lập để cán bộ, công chức sẽ dễ dàng biết được các quyền và nghĩa vụ
của mình để chủ động thực hiện theo các quy định của pháp luật.


Lĩnh vực, hoạt động công khai, minh bạch theo quy định của Luật
Phòng, chống tham nhũng bao gồm: Mua sắm công và xây dựng cơ bản; quản

lý dự án đầu tư xây dựng…quản lý và sử dụng nhà, đất.
Thứ tư, quản lý TSC trong ĐVSN công lập phải được thực hiện thống
nhất, có phân công, phân cấp rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan,
đơn vị trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về TSC. Phân cấp
quản lý TSC để đảm bảo việc quản lý phù hợp với đặc điểm của TSC.
Thứ năm, quản lý TSC phải gắn với quản lý NSNN. Xuất phát từ việc
TSC là những tài sản được hình thành từ nguồn NSNN và mọi chi phí trong
quá trình sử dụng tài sản đều do NSNN đảm bảo.
Thứ sáu bảo dưỡng, sửa chữa, bảo vệ theo chế độ quy định. TSC trong
cơ quan ĐVSN công lập phải được quản lý bằng hiện vật và giá trị theo đúng
quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng TSC. Giá trị của TSCĐ được ghi
theo nguyên giá xây dựng hoặc mua sắm. Trong quá trình sử dụng nếu có lắp
thêm bộ phận (nâng cấp đối với TSCĐ là máy móc thiết bị) hay cải tạo, mở
rộng thêm (đối với TSCĐ là nhà cửa, vật kiến trúc) thì ghi bổ sung thêm vào
nguyên giá tài sản. Tài sản sử dụng độc lập được xác định là một đối tượng
ghi sổ kế toán.
1.2.5. Quá trình quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
1.2.5.1. Các công cụ quản lý tài sản
Thứ nhất, xây dựng hệ thống chính sách quản lý gồm: Hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật, chính sách, chế độ về quản lý TSC; hệ thống về tiêu
chuẩn định mức.
Thứ hai, ngân sách đầu tư: hàng năm, các tổ chức, đơn vị được cấp trên
giao dự toán. Dựa trên nhu cầu thực tế và dự toán được giao, các đơn vị cấp
dưới xây dựng kế hoạch mua sắm TSC sao cho phù hợp, tiết kiệm, hiệu quả
trong phạm vi ngân sách của mình.


Thứ ba, các ĐVSN công lập thường xuyên: Kiểm tra, kiểm soát của Nhà
nước đối với tổ chức, cá nhân được giao trực tiếp quản lý, sử dụng TS. Kiểm
tra, kiểm soát là công cụ hiệu quả góp phần tăng cường công tác quản lý TSC.

Thứ tư, sử dụng các hệ thống thông tin, tuyên truyền, giáo dục, hệ thống
đào tạo, tập huấn cho các cán bộ làm công tác quản lý TSC, cho các đối tượng
trực tiếp quản lý, sử dụng TSC trong các ĐVSN công lập; áp dụng hệ thống
công nghệ thông tin và mô hình vào quản lý, thống kê đánh giá lại TSC. Quản
lý được thực hiện thông qua số liệu thống kê tình hình TSC tại các đơn vị.
Công tác này đòi hỏi phải làm nhanh, kịp thời và chính xác để làm tốt trong
điều kiện hiện nay thì cách tốt nhất là áp dụng hệ thống phần mềm thống kê,
quản lý và đánh giá các chủng loại tài sản.
1.2.5.2. Nội dung quản lý tài sản công trong đơn vị sự nghiệp công lập
TSC được Nhà nước giao cho các cơ quan hành chính, ĐVSN công lập
quản lý, sử dụng để thực hiện nhiệm vụ hoặc bảo tồn, bảo dưỡng, duy trì, giữ
gìn bao gồm: nhà và đất thuộc trụ sở làm việc, nhà và đất thuộc các cơ sở hoạt
động sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa
học... phương tiện vận tải và trang thiết bị, phương tiện hoạt động... Đây là
những tài sản được đầu tư bằng nguồn vốn của ngân sách, bằng đóng góp của
nhân dân hoặc hiến tặng của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Nguyên
tắc chung là: tài sản này phải được quản lý trực tiếp chặt chẽ quá trình đầu tư
xây dựng, mua sắm, quá trình sử dụng và kết thúc sử dụng. Đối với nhà, đất
thuộc trụ sở làm việc hoặc thuộc các cơ sở hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo
dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học...phương tiện vận
tải, trang thiết bị làm việc đảm bảo cho hoạt động của các đơn vị sự nghiệp là
những tài sản mà đơn vị được giao trực tiếp sử dụng tài sản phải sử dụng theo
chế độ, định mức, tiêu chuẩn. Những tài sản này được đầu tư bằng nguồn từ
ngân sách Nhà nước hoặc có nguồn từ ngân sách Nhà nước, những tài sản này


có thể điều động từ nơi này sang nơi khác, những tài sản này về cơ bản (trừ
một số trường hợp đặc biệt) đều trải qua các quá trình: hình thành, sử dụng,
thanh lý. Tuy nhiên, trong thực tế, do phạm vi quản lý các TSC rất rộng, số
lượng đơn vị nhiều, mặt khác, do yêu cầu của việc quản lý chặt chẽ của các cấp

ngành, cấp địa phương, vì vậy, tuỳ thuộc vào thực tế, việc quản lý có thể được
phân cấp cho các ngành, các địa phương để giảm bớt các nghiệp vụ xử lý của cơ
quan quản lý và nâng cao trách nhiệm quản lý của ngành, địa phương.
- Quản lý quá trình hình thành tài sản
Quản lý quá trình hình thành TSC tại ĐVSN công lập được căn cứ vào
phương thức hình thành của tài sản: tài sản hình thành do được bàn giao, điều
chuyển và tài sản được hình thành do đầu tư xây dựng, mua sắm mới.
Thứ nhất, quản lý tài sản được hình thành do bàn giao, điều chuyển, nhận
tiếp nhận từ đơn vị hoặc cá nhân khác, hoặc thu hồi từ các dự án đầu tư đã kết
thúc. Khi cơ quan được thành lập cùng với những quy định về chức năng, nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ công chức, đơn vị được cấp một số tài sản.
Đối với tài sản được hình thành do bàn giao, điều chuyển (bao gồm cả tài sản
mới được mua sắm và tài sản đã trải qua một thời gian khai thác, sử dụng): Căn
cứ biên bản bàn giao và các tài liệu khác liên quan đến tài sản, ĐVSN công lập
cần tiến hành lập hồ sơ về tài sản (gồm các thông tin: nguyên giá, năm đưa vào
sử dụng, giá trị đã hao mòn, giá trị còn lại, hiện trạng tài sản…) để làm cơ sở ghi
chép sổ sách quản lý tài sản, hạch toán kế toán theo quy định, làm cơ sở cho việc
bố trí khai thác, sử dụng, duy tu, bảo dưỡng tài sản.
Thứ hai, quản lý tài sản được hình thành do đầu tư xây dựng, mua sắm
mới. Hàng năm căn cứ vào nhiệm vụ được giao, căn cứ vào nhu cầu và tình
hình thực hiện ngân sách, đơn vị lập kế hoạch mua sắm, đầu tư TSC theo quy
định của pháp luật. Toàn bộ tài sản này được quản lý theo cơ chế của đơn vị


xây dựng trên cơ sở chế độ của Nhà nước quy định và đặc thù hoạt động của
đơn vị. Quản lý quá trình hình thành tài sản đối với tài sản được hình thành do
mua sắm, đầu tư xây dựng tại ĐVSN công lập gồm hai giai đoạn: quyết định
chủ trương đầu tư và thực hiện đầu tư, mua sắm tài sản. Việc quyết định chủ
trương đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản của người có thẩm quyền được căn
cứ vào định mức, tiêu chuẩn sử dụng tài sản, chế độ quản lý tài sản; thực

trạng, nhu cầu về TSC và khả năng nguồn lực tài chính để đầu tư xây dựng,
mua sắm tài sản của từng đơn vị để làm cơ sở xây dựng kế hoạch, ghi vào dự
toán NSNN hàng năm. Việc quyết định chủ trương đầu tư không phù hợp,
không hiệu quả được coi là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc đầu tư
dàn trải, thất thoát, lãng phí NSNN. Vì vậy, khi xem xét, quyết định chủ
trương đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản để sử dụng cho hoạt động chuyên
môn, để đảm bảo hiệu quả sử dụng NSNN và hiệu quả đầu tư, chẳng hạn như
thay vì đầu tư mới có thể cải tạo, chuyển đổi công năng, mục đích sử dụng
của các tài sản khác một cách phù hợp về mặt kỹ thuật và các yếu tố khác
hoặc có thể xem xét phương án đi thuê đối với những tài sản chỉ có nhu cầu
sử dụng trong thời gian ngắn, không thường xuyên hoặc chưa có đủ nguồn lực
tài chính để đầu tư xây dựng, mua sắm. Sau khi có chủ trương đầu tư xây
dựng, mua sắm tài sản, việc thực hiện đầu tư, mua sắm tài sản phải được tuân
thủ theo các quy trình nghiệp vụ, quy định về đầu tư và xây dựng, quy định về
mua sắm TSC. Trong quản lý ở giai đoạn này cần chú ý là chỉ được đầu tư
xây dựng, mua sắm tài sản đã được ghi vào kế hoạch, dự toán, không thực
hiện các nhu cầu xây dựng, mua sắm tài sản ngoài kế hoạch (trừ các trường
hợp được cấp có thẩm quyền bổ sung, các tài sản mua sắm do tài trợ, biếu,
tặng). Các TSC hình thành do mua sắm cũng được thực hiện theo các quy
định chặt chẽ của Nhà nước qua hai hình thức:
+ Phương thức mua sắm trực tiếp: Theo phương thức này, các cơ quan
dự toán trực tiếp tổ chức thực hiện mua sắm tài sản để phục vụ công tác cho


đơn vị mình. Việc thực hiện mua sắm theo phương thức này có ưu điểm là tạo
sự chủ động cho đơn vị. Song, phương thức này có những hạn chế chủ yếu là:
không chuyên nghiệp, tốn nhiều công sức và thời gian; chi phí mua cao hơn
do mua sắm nhỏ lẻ, chất lượng sản phẩm không được tối ưu do chưa có điều
kiện để chọn lựa các nhà cung cấp tốt nhất; thiếu tính đồng bộ, hiện đại và
việc đảm bảo tiêu chuẩn, định mức trong quản lý, sử dụng TSC. Các hình

thức mua sắm tài sản hiện nay bao gồm: Đấu thầu rộng rãi; Đấu thầu hạn chế;
Chỉ định thầu; Mua sắm trực tiếp; Chào hàng cạnh tranh; Lựa chọn nhà thầu
trong trường hợp đặc biệt.
+ Phương thức mua sắm tập trung: phương thức này thường được áp
dụng đối với mua sắm tài sản với số lượng lớn, chủng loại được sử dụng phổ
biến tại nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị, hoặc tài sản có yêu cầu tính đồng bộ,
hiện đại. Theo phương thức này thì các tài sản sau khi có chủ trương mua
sắm, được cấp có thẩm quyền phê duyệt sẽ được tổ chức thực hiện mua sắm
tập trung thông qua đơn vị mua sắm tập trung thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, doanh nghiệp. Đơn vị có chức năng mua sắm tập trung thực hiện quy
trình mua sắm tài sản theo quy định của pháp luật về đấu thầu và tài sản được
hình thành sau mua sắm được giao cho đơn vị trực tiếp sử dụng tài sản.
- Quản lý quá trình sử dụng, sửa chữa, bảo trì nâng cấp tài sản
Các ĐVSN công lập được Nhà nước giao TSC chịu trách nhiệm trực tiếp
quản lý, sử dụng phải xây dựng và ban hành các nội quy, quy chế quản lý
TSC; mở sổ sách theo dõi tình hình biến động của TSC; thực hiện chế độ kê
khai, báo cáo, đăng ký, kiểm kê định kỳ và đột xuất TSC theo quy định của
pháp luật; kiểm tra, thanh tra, giám sát quá trình quản lý sử dụng TSC; bảo
dưỡng, sửa chữa TSC theo yêu cầu kỹ thuật và đặc điểm sử dụng; điều
chuyển, bán, chuyển đổi sở hữu TSC.


Mỗi tài sản có đặc điểm khác nhau nên công tác đánh giá hiệu quả là rất
khó, chính vì vậy đối với tài sản thuộc khu vực ĐVSN công lập được thực
hiện quản lý việc sử dụng phải theo công năng, mục đích nhất định. Vì vậy,
việc xây dựng định mức sử dụng tài sản là công việc hết sức cần thiết, quyết
định hiệu quả của việc quản lý, khai thác tài sản. Định mức cũng là một trong
những cơ sở quan trọng để quyết định chủ trương xây mới, mua sắm hay thuê
mua tài sản.

Mỗi một tài sản thường có một thời gian sử dụng nhất định, nên trong
quá trình khai thác, sử dụng cần có cơ chế đánh giá tài sản (công việc này
thường được thực hiện hàng năm) cả về hiệu quả khai thác, sử dụng, tình
trạng của tài sản so với trạng thái ban đầu và giá trị còn lại của tài sản để có
chế độ duy tu, bảo dưỡng tài sản một cách hợp lý theo yêu cầu về mặt kỹ
thuật để tài sản có thể vận hành một cách bình thường. Việc quản lý, bảo
dưỡng, cải tạo, sửa chữa, nâng cấp tài sản, nhằm duy trì hoạt động của TSC,
đảm bảo cho việc sử dụng TSC đạt hiệu quả, tiết kiệm, đáp ứng nhu cầu hoạt
động của các đơn vị.
Trong quá trình quản lý tài sản cũng cần quan tâm đến cơ chế điều chuyển
tài sản từ đơn vị này qua đơn vị khác để đảm bảo tiết kiệm và nâng cao hiệu
quả sử dụng: điều chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu hoặc từ nơi hiệu quả sử
dụng tài sản thấp sang nơi có thể huy hiệu quả sử dụng của tài sản cao hơn, đáp
ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ một cách tốt nhất của cơ quan, đơn vị.
- Quản lý quá trình kết thúc: khấu hao, hao mòn và thanh lý tài sản TSC sau khi
đưa vào khai thác sử dụng một thời gian nhất định đều trải qua quá trình kết
thúc để thay thế bằng tài sản khác (trừ tài sản là đất đai và một số tài sản lâu
bền khác).
Các ĐVSN công lập không còn nhu cầu sử dụng hoặc giảm nhu cầu sử
dụng do có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức, thay đổi về chức năng nhiệm vụ thì


có thể tiến hành đề xuất điều chuyển hoặc bán TSC. Điều chuyển hoặc bán
TSC đòi hỏi công tác quản lý tổng thể, xác định lại giá trị và đăng ký lại sở
hữu hay sử dụng. Phương pháp này được áp dụng đối với TSC có giá trị sử
dụng dài hạn để đảm bảo hợp lý và tiết kiệm.
Ngoài ra, khi TSC hết thời hạn sử dụng, đã hao mòn hết hoặc hư hỏng
không còn sử dụng được thì phải được tiến hành thanh lý để thu hồi phần giá
trị còn lại. Những tài sản được tiến hành thanh lý bao gồm: Tài sản đã quá
thời hạn sử dụng, đã khấu hao hết theo chế độ Nhà nước quy định mà không

thể tiếp tục sử dụng; Tài sản bị hư hỏng tuy chưa hết thời gian khấu hao đã
được sửa chữa nhưng không hiệu quả; Trụ sở làm việc hoặc tài sản khác gắn
liền với đất cần được tháo dỡ, phá bỏ theo quyết định của cấp có thẩm quyền
phê duyệt. Việc bán thanh lý TSC thường xây dựng thành quy chế cụ thể tuỳ
theo quy định của pháp luật có liên quan. Trong quá trình này, các cơ quan
quản lý, các cơ quan liên quan cần có sự phối hợp chặt chẽ trong quản lý, kiểm
tra giám sát bảo đảm việc thanh lý TSC theo đúng trình tự, thủ tục và quy định
về quản lý, sử dụng tiền thu được từ thanh lý TSC.
1.3. Tiêu chí đánh giá và những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả
quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
1.3.1. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng TSC tại đơn vị sự
nghiệp công lập.
- Một là, việc thực hiện đầu tư xây dựng, mua sắm TSNN được gắn với tiêu
chuẩn, định mức. Năng lực tài sản công khu vực hành chính sự nghiệp đã
tăng đáng kể, đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước, cung cấp dịch
vụ công cho xã hội. Các tài sản dôi dư, không còn nhu cầu sử dụng được xử
lý theo quy định của pháp luật. Các đơn vị sự nghiệp công lập bước đầu khai
thác được nguồn tài sản hiện có gắn với việc huy động các nguồn lực của xã
hội để phát triển hoạt động sự nghiệp công.Tiêu chuẩn định mức sử dụng
từng loại tài sản cho từng đối tượng sử dụng, tránh hiện tượng mạnh ai người


×