Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Luận văn thạc sĩ quản lý tài sản công ở viện khoa học nông nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.88 KB, 85 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ SỬ DỤNG
TÀI SẢN CÔNG TẠI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
CÔNG LẬP..............................................................................................................6
1.1. Tài sản công tại đơn vị sự nghiệp................................................................. 6
1.2. Quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ công lập....12
1.3. Nội dung quản lý tài sản công trong đơn vị sự nghiệp khoa học công
nghệ công lập.................................................................................................... 18
1.4. Các nhân tố chính ảnh hưởng đến quản lý tài sản công trong các đơn vị
sự nghiệp khoa học công nghệ công lập............................................................ 23
1.5. Một số kinh nghiệm quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp của một số
nước và bài học kinh nghiệm............................................................................ 25
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG Ở VIỆN
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM.........................................................35
2.1. Giới thiệu về Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam................................. 35
2.2. Thực trạng công tác quản lý tài sản công ở Viện Khoa học Nông nghiệp
Việt Nam...........................................................................................................39
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý tài sản công ở Viện Khoa học
Nông nghiệp Việt Nam trong thời gian vừa qua................................................ 55
2.4. Đánh giá chung về công tác quản lý tài sản công ở Viện Khoa học Nông
nghiệp Việt Nam............................................................................................... 57
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CƠNG TÁC QUẢN LÝ
TÀI SẢN CÔNG Ở VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM............62
3.1. u cầu đặt ra đối với hồn thiện cơng tác quản lý tài sản công ở Viện
Khoa học Nông nghiệp Việt Nam...................................................................... 62
3.2. Thuận lợi và khó khăn đối với đổi mới cơng tác hồn thiện cơng tác
quản lý tài sản công ở Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam..........................64


3.3. Một số giải pháp nhằm hồn thiện cơng tác quản lý tài sản công ở Viện


Khoa học Nông nghiệp Việt Nam...................................................................... 65
3.4. Một số kiến nghị......................................................................................... 74
KẾT LUẬN............................................................................................................ 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 78


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Vốn ngân sách nhà nước và kinh phí mua sắm tài sản ở Viện Khoa học
Nông nghiệp Việt Nam từ năm 2014 - 2018......................................................42
Bảng 2.2: Bảng phân bổ kinh phí mua sắm tài sản từ ngân sách nhà nước của
Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam từ năm 2014-2018...............................43
Bảng 2.3: Bảng kinh phí mua sắm tài sản từ vốn viện trợ của Viện Khoa học Nông
nghiệp Việt Nam từ năm 2014 - 2018...............................................................49


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta hiện nay đang thực hiện đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới
nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội, thì tài sản cơng ngày càng được khẳng định có vai trị trọng yếu, là nguồn lực
quan trọng để Nhà nước hỗ trợ phát triển kinh tế, phục vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Cùng với đó, quản lý để tài sản cơng khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu
quả đang là vấn đề được Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội quan tâm, đặc biệt là
các nhà khoa học, các nhà quản lý.
Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
quản lý nhà nước về tài sản cơng nói chung và quản lý tài sản cơng tại các đơn vị sự
nghiệp nói riêng, đặc biệt sau khi Luật Quản lý, sử dụng tài sản công được Quốc hội
thơng qua số 15/2017/QH14 ngày 21/6/2017, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2018
[20], tiếp sau đó Chính phủ đã ban hành nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày

26/12/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công
nhằm từng bước đưa hoạt động quản lý, sử dụng tài sản cơng đi vào nề nếp, đảm
bảo tính kỷ cương, cơng khai chuẩn hóa theo chế độ và tiêu chuẩn cụ thể.
Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam là đơn vị sự nghiệp khoa học công
nghệ công lập trong lĩnh vực nông nghiệp, thời gian qua công tác quản lý tài sản
cơng đã có nhiều cố gắng. Từ xây dựng và áp dụng các nguyên tắc, định mức phân
bổ giao dự tốn kinh phí được thực hiện với mục tiêu đầu tư trọng tâm trọng điểm,
không dàn trải đến thực hiện mua sắm tài sản công minh bạch, tiết kiệm, sử dụng tài
sản công cơ bản đúng mục đích… Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được,
công tác quản lý tài sản công của Viện Khoa học Nơng nghiệp Việt Nam vẫn cịn
tồn tại những hạn chế cần khắc phục như: quá trình quản lý và sử dụng cịn chưa
chặt chẽ, chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu và phần mềm theo dõi tài sản công một
cách hệ thống, tổ chức bộ máy quản lý tài sản cơng mỏng, khơng đồng đều về trình
độ…Chính vì vậy, đề tài “Quản lý tài sản công ở Viện Khoa học Nơng nghiệp
Việt Nam” có tính cấp thiết
1


nhằm nghiên cứu nội dung, các biện pháp quản lý góp phần đề xuất một số giải pháp
nhằm tăng cường hoạt động quản lý tài sản công tại đơn vị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi
Nghiên cứu về tài sản cơng nói chung, quản lý tài sản cơng trong các cơ quan
của nhà nước nói riêng đã được các nhà nghiên cứu nước ngồi đề cập đến khá
nhiều. Có thể kể đến một số cơng trình có liên quan đến lĩnh vực này như:
“Managing Government Property Assets: International Experiences” (Quản
lý tài sản Chính phủ: những kinh nghiệm quốc tế) [29] của các tác giả Conway
Francisand, Charles Undelan, George Peteson, Olga Kaganova và James McKellar
đã chỉ ra (i) Những hạn chế trong cơ chế quản lý tài sản công ở khu vực hành chính
sự nghiệp ở các nước nêu trên trước khi cải cách quản lý; (ii) Đánh giá những kết

quả sau khi tiến hành việc hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản cơng trong khu vực
hành chính sự nghiệp; (iii) Chỉ ra những thách thức và những vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công trong thời gian tới sau khi tiến
hành nghiên cứu cơ chế quản lý tài sản trong khu vực công ở một số nước Úc, Pháp,
Canada, Thụy sĩ, Mỹ, Trung Quốc...
“Towards efficient public sector asset management” (Hướng tới quản lý hiệu
quả tài sản khu vực công) [31] của các tác giả Grubisic Mihaela, Nusinovic Mustafa
và Roje Gorana đã nghiên cứu thách thức trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tài
sản công tại Croatia như một biện pháp nâng cao hiệu quả cải cách lĩnh vực quản lý
cơng của Chính phủ. Bằng việc tập trung nghiên cứu, phân tích mơ hình quản lý tài
sản cơng tại Croatia, phân tích các ưu nhược điểm và cuối cùng nhấn mạnh các yêu
cầu chính của việc cải cách quản lý công sản tại Croatia gồm: (1) Tăng cường hệ
thống thông tin tài sản công, đăng ký tài sản đảm bảo nguyên tắc minh bạch; (2)
Phân loại rõ ràng các loại tài sản công; (3) Theo dõi trên sổ sách; (4) Xây dựng kế
hoạch và xây dựng danh mục đầu tư tài sản cơng; (5) Đảm bảo tính tn thủ khi
quản lý và sử dụng tài sản công theo quy định pháp luật; (6) Sử dụng phương pháp
đánh giá chi phí và kết quả đầu ra trong quản lý công sản.


2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Tài sản cơng và quản lý tài sản cơng có vai trị rất quan trọng, do vậy luôn là
vấn đề không chỉ được các cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam chú trọng mà còn
được các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế quan tâm nghiên cứu như: Luận án
tiến sĩ “Cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp ở Việt
Nam” của Nguyễn Mạnh Hùng [14] hay đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Hoàn
thiện cơ chế quản lý tài sản nhà nước tại đơn vị sự nghiệp” của Phạm Đức Phong [15]
đã góp phần làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tài sản công, quản lý tài sản công
và cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp ở Việt Nam. Các
tác giả cũng chỉ ra những mặt còn tồn tại của cơ chế quản lý tài sản cơng trong khu
vực hành chính sự nghiệp thời gian qua và đề xuất các giải pháp hồn thiện.

Một số tác giả như Trần Văn Giao “Góp phần hồn thiện cơ chế quản lý tài
sản cơng trong các đơn vị sự nghiệp” [13]; La Văn Thịnh “Sử dụng cơng cụ kế tốn
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản công tại cơ quan nhà nước, đơn vị
sự nghiệp công lập ở Việt Nam” [21] đã khái quát và chỉ ra sự khác biệt cơ bản giữa
đơn vị sự nghiệp với cơ quan quản lý nhà nước về chức năng, nhiệm vụ, kinh phí hoạt
động và hoạt động quản lý, sử dụng tài sản công. Với hệ thống số liệu phong phú, các
tác giả đã đánh giá tình hình quản lý tài sản cơng trong khu vực hành chính sự nghiệp
ở Việt Nam từ năm 1995 đến năm 2010, từ đó đề ra những giải pháp nhằm khai thác
có hiệu quả, tiết kiệm tài sản cơng trong khu vực hành chính sự nghiệp.
Tác giả Nguyễn Văn Xa “Chiến lược đổi mới cơ chế quản lý tài sản công
giai đoạn 2001-2010” [28] trên cơ sở nghiên cứu cơ chế quản lý tài sản công từ
năm 1995-2000, tác giả đã đề xuất các giải pháp tổng thể để đổi mới cơ chế quản lý
tài sản công giai đoạn 2001-2010. Có thể nói ở nước ngồi đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu về quản lý tài sản cơng đã xuất hiện từ sớm và khá bài bản, đảm bảo cơ
sở lý thuyết cho quá trình tổ chức quản lý tài sản cơng. Ở trong nước, với những
mục đích nghiên cứu khác nhau, các tác giả tiếp cận vấn đề quản lý tài sản công
hoặc ở tầm vĩ mô chung cho cả đất nước, hoặc khái quát chung cho khu vực hành
chính sự nghiệp nên chưa phân tích cụ thể mối quan hệ giữa quản lý tài sản công


với các nội dung khác của các đơn vị sự nghiệp cơng lập. Chính vì thế quản lý tài
sản cơng tại các đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ công lập vẫn cần tiếp tục
được nghiên cứu để làm sáng tỏ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ thực trạng quản lý tài sản công ở Viện Khoa học Nông
nghiệp Việt Nam, chỉ ra những mặt đã làm được, những mặt còn hạn chế, phân tích
nguyên nhân và đề xuất giải pháp khắc phục.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý tài sản, tổng hợp kinh nghiệm quản

lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp của một số nước, từ đó rút ra bài học cho
Việt Nam và Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.
- Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động quản lý tài sản công ở Viện Khoa
học Nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2014-2018, chỉ ra những mặt đã làm được,
những mặt còn tồn tại trong quản lý, phân tích nguyên nhân của tồn tại.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường và hồn thiện cơng tác
quản lý tài sản công ở Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động quản lý tài sản công ở Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu quản lý tài sản công không
phải là nhà đất (bất động sản) ở Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.
- Về không gian: Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam và các đơn vị trực
thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.
- Về thời gian: Giai đoạn từ năm 2014 đến 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên trên cơ sở lý luận chung của chủ nghĩa Mác-Lênin để xem xét
vai trò của hoạt động quản lý tài sản cơng nói chung, quản lý tài sản công tại khu vực sự


nghiệp khoa học cơng nghệ cơng lập nói riêng. Các nghiên cứu thực tiễn còn dựa trên
quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Luận văn kế thừa các kết quả nghiên cứu
đã có để làm rõ cơ sở lý luận của nội dung và quy trình thực hiện quản lý tài sản
cơng nói chung, quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ
cơng lập nói riêng.
- Phương pháp thống kê tỷ lệ và so sánh đối chứng: Luận văn sử dụng số liệu

thứ cấp của Viện Khoa học Nông nghiệp từ năm 2014-2018, kết hợp với phân tích
tỷ lệ và so sánh đối chứng nhằm đánh giá thực trạng, rút ra những mặt đã làm được,
những mặt còn hạn chế, làm rõ các nguyên nhân chủ quan, khách quan.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Trên cơ sở khung lý thuyết và phân tích
thực trạng, luận văn làm rõ bối cảnh tác động đến quản lý tài sản công tại Viện
Khoa học Nông nghiệp Việt Nam để đề xuất các giải pháp hoàn thiện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về lý luận
Luận văn góp phần bổ sung căn cứ về lý luận quản lý tài sản công nói chung.
6.2. Về thực tiễn
Thơng qua nghiên cứu đánh giá thực trạng quản lý tài sản công tại Viện
Khoa học Nơng nghiệp Việt Nam, từ đó đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý trong lĩnh vực này tại đơn vị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận
văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý sử dụng tài sản công tại đơn
vị sự nghiệp khoa học công nghệ công lập
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý tài sản công ở Viện Khoa học Nông
nghiệp Việt Nam.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp hồn thiện cơng tác quản lý tài sản công ở
Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ SỬ DỤNG TÀI SẢN
CÔNG TẠI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP KHOA HỌC CƠNG NGHỆ CƠNG LẬP
1.1. Tài sản cơng tại đơn vị sự nghiệp
1.1.1. Khái niệm về tài sản công
Tài sản có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mọi mặt đời sống của con

người và cùng với sự phát triển của lịch sử lồi người thì khái niệm về tài sản ngày
càng được mở rộng. Nhiều nhà kinh tế học, luật học cho rằng: Tài sản theo nghĩa
hiện đại là một khái niệm tổng hợp bao gồm của cải, vật chất và những quyền lợi
dân sự đi kèm của cải vật chất. Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (Điều 105, năm 2015) [19] xác định: Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và
quyền tài sản. Quyền tài sản có nội dung là của cải vật chất, là quyền lợi được thể
hiện thành lợi ích kinh tế, thường có thể dùng tiền tệ để đo lường, bao gồm tất cả
những quyền lợi như quyền đối với vật chất, quyền đối với nợ, quyền thừa kế, trong
đó chủ yếu là quyền sở hữu và được sự bảo hộ của Hiến pháp và pháp luật.
Sự tồn tại của tài sản luôn gắn liền với quyền sở hữu tài sản (bao gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản) của một chủ thể nhất định.
Ở nước ta với nền kinh tế nhiều thành phần và chế độ sở hữu khác nhau, thì
tài sản bao gồm tài sản thuộc sở hữu tư nhân, tài sản thuộc sở hữu cộng đồng và tài
sản thuộc sở hữu nhà nước. Theo Bộ luật Dân sự (2015) thì có 3 hình thức sở hữu,
bao gồm: (1) sở hữu toàn dân; (2) sở hữu riêng; (3) sở hữu chung [19]. Mỗi một
hình thức sở hữu đều thể hiện các quan hệ chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của một
chủ thể nhất định đối với một tài sản; chủ thể này có thể là cá nhân, có thể là nhiều
cá nhân, cũng có thể là các cơ quan công quyền.
Tài sản thuộc sở hữu nhà nước trước hết là các tài sản được hình thành thơng
qua quốc hữu hóa hoặc do đầu tư, mua sắm bằng nguồn Ngân sách nhà nước
(NSNN) hoặc có nguồn gốc NSNN, kế đến là những tài sản do thiên tạo và các tài
sản nhân tạo khác được pháp luật quy định là tài sản của Nhà nước. Điều 197 Bộ


luật Dân sự (năm 2015) và Điều 53 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (năm 2013) đã quy định: Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản,
nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà
nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Cũng liên quan đến tài sản Nhà nước, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

(năm 2013) định nghĩa: Tài sản nhà nước là tài sản hình thành từ NSNN hoặc do pháp
luật quy định thuộc sở hữu, quản lý của Nhà nước, bao gồm: trụ sở làm việc, quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất; máy móc, phương tiện vận tải, trang thiết bị làm
việc; tài sản từ nguồn viện trợ, tài trợ, đóng góp của tổ chức, cá nhân trong nước và
ngồi nước cho Nhà nước và các tài sản khác do pháp luật quy định [18].
Từ các nghiên cứu trên, tài sản công được hiểu là: Tài sản công là tài sản
thuộc sở hữu Nhà nước, bao gồm tài sản hình thành từ nguồn vốn NSNN hoặc có
nguồn gốc từ NSNN; Tài sản được các tổ chức, cá nhân trong và ngồi nước tài
trợ, đóng góp, tặng cho Nhà nước; Các tài sản được xác lập quyền sở hữu của Nhà
nước thơng qua quốc hữu hóa hoặc quy định bằng pháp luật như: đất đai, tài
nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên
thiên nhiên khác; Tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp; Tài sản kết cấu
hạ tầng thuộc các ngành, lĩnh vực kết cấu hạ tầng thuộc sở hữu Nhà nước, được
Nhà nước giao cho tổ chức, cá nhân trực tiếp quản lý, sử dụng.
Các tài sản công chịu sự kiểm tra giám sát của Nhà nước trong quá trình
quản lý sử dụng theo đúng các quy định hiện hành.
1.1.2. Đơn vị sự nghiệp công lập và tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
Sự nghiệp: Là chỉ những hoạt động có lợi ích chung và lâu dài cho xã hội. Vì
vậy, khi nói đến hoạt động sự nghiệp là nói đến q trình tổ chức thực hiện những hoạt
động có lợi ích chung và lâu dài cho cộng đồng xã hội.
Đơn vị sự nghiệp: Là những tổ chức được thành lập để thực hiện các hoạt
động sự nghiệp, những hoạt động này nhằm duy trì và đảm bảo sự hoạt động bình
thường của xã hội, khơng nhằm mục đích thu lợi nhuận.


Đơn vị sự nghiệp công lập: Là đơn vị do Nhà nước thành lập, nhằm thực
hiện một số nhiệm vụ chun mơn nhất định trong những lĩnh vực nào đó, được
Nhà nước cấp kinh phí hoạt động và được thu phí để bù đắp một phần hay tồn bộ
chi phí hoạt động.
Đơn vị sự nghiệp công lập phải hội tụ các điều kiện: là cơ quan do Nhà nước

thành lập; Không thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước; Chỉ sản xuất và cung ứng
hàng hóa, dịch vụ cơng cộng theo nhiệm vụ Nhà nước giao; Phải mở tài khoản tại
kho bạc để quản lý các nguồn kinh phí và hạch tốn theo quy định về quản lý tài
chính cơng.
Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp công lập: Là một bộ phận tài sản công
mà Nhà nước giao cho các đơn vị sự nghiệp trực tiếp quản lý và sử dụng để thực
hiện nhiệm vụ cung ứng hàng hóa, dịch vụ cơng phục vụ lợi ích của Nhà nước, lợi
ích của nhân dân, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.1.3. Phân loại tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
Việc phân loại tài sản cơng nói chung và tài sản cơng trong đơn vị sự nghiệp
cơng lập nói riêng nhằm mục đích đưa ra các biện pháp quản lý, sử dụng hiệu quả
đối với từng loại tài sản. Dựa trên các tiêu chí khác nhau thì việc phân loại tài sản
công trong đơn vị sự nghiệp cũng khác nhau, thơng thường có các cách phân loại tài
sản hay được sử dụng như sau:
- Căn cứ hình thái tồn tại của tài sản cơng: có thể chia thành tài sản hữu hình
và tài sản vơ hình. Tài sản hữu hình là loại tài sản có hình thái vật chất giá trị và
nhìn thấy được. Tài sản vơ hình là các tài sản tồn tại dưới dạng khơng nhìn thấy,
nhưng cũng có thể đem lại lợi ích cho người sở hữu nó (chẳng hạn như bằng phát
minh sáng chế, bản quyền tác giả...).
- Căn cứ theo cấp quản lý, tài sản công trong đơn vị sự nghiệp gồm: Tài sản
công do Chính phủ quản lý (gồm tài sản cơng do Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ và cơ quan khác ở Trung ương quản lý); Tài sản công do các đơn vị
sự nghiệp thuộc cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý; Tài sản công do
các đơn vị sự nghiệp thuộc cấp quận, huyện, thị xã, thành phố (trực thuộc tỉnh) quản
lý; Tài


sản công do các đơn vị sự nghiệp thuộc cấp xã, phường, thị trấn quản lý.
- Căn cứ cách thức hình thành: có thể chia thành tài sản cơng được nhà nước
trực tiếp đầu tư tạo nên và tài sản công được gián tiếp sở hữu. Tài sản công được

nhà nước đầu tư tạo nên chủ yếu là các tài sản được hình thành từ NSNN và các
nguồn lực tài chính có nguồn gốc NSNN. Tài sản cơng được gián tiếp sở hữu trong
các đơn vị sự nghiệp là các tài sản có được khơng qua các kênh đầu tư của nhà nước
(chẳng hạn các tài sản được tài trợ, biếu tặng, thu phạt).
- Căn cứ vào công dụng của tài sản khi khai thác, sử dụng, có thể chia tài
sản trong đơn vị sự nghiệp thành các loại sau:
+ Nhà, đất thuộc trụ sở làm việc, cơng trình xây dựng và các tài sản khác gắn
liền với đất đai.
+ Phương tiện vận tải: xe ô tô phục vụ công tác (bao gồm xe ô tô phục vụ chức
danh, xe ô tô dùng chung và xe ô tô chuyên dùng) và các phương tiện vận tải khác.
+ Máy móc, trang thiết bị làm việc và các tài sản khác.
- Căn cứ theo đặc điểm hao mòn của tài sản, tài sản công trong đơn vị sự
nghiệp được phân loại thành tài sản hao mòn là những tài sản sau khi sử dụng bị
mất đi tính chất, hình dạng và tính năng ban đầu theo thời gian như: máy móc, thiết
bị, phương tiện vận chuyển...) và tài sản không bị hao mòn (là những tài sản sau khi
sử dụng cơ bản vẫn giữ được hình dạng ban đầu, được sử dụng nhiều lần, khấu hao
trong thời gian dài, chẳng hạn như đất đai).
- Căn cứ đặc điểm, tính chất, giá trị, thời gian hoạt động của tài sản, người
ta chia tài sản trong đơn vị sự nghiệp thành tài sản cố định và tài sản khác (tài sản rẻ
tiền, mau hỏng) hoặc bất động sản (là các tài sản không di dời được như: đất đai,
nhà cửa, cơng trình xây dựng gắn với đất đai) và động sản (là những tài sản không
phải bất động sản như: phương tiện vận chuyển, trang thiết bị làm việc).
- Căn cứ tính chất kinh tế của tài sản cơng: có thể chia thành tài sản công sử
dụng cho kinh doanh và tài sản công không kinh doanh. Tài sản công sử dụng cho
kinh doanh là tài sản sử dụng để tạo ra nguồn thu tài chính, được đầu tư vào lĩnh
vực sản xuất và lưu thông. Tài sản công không kinh doanh là các tài sản được sử


dụng để duy trì hoạt động, thực hiện các chức năng được giao của đơn vị sự nghiệp.
- Trong thực tiễn, để quản lý tài sản trong đơn vị sự nghiệp công lập, người

ta áp dụng cách phân loại mang tính tổng hợp để phân chia tài sản cơng thành:
+ Tài sản cố định, bao gồm: Trụ sở làm việc (bất động sản), phương tiện vận
tải, máy móc, trang thiết bị, phương tiện làm việc và các tài sản khác;
+ Tài sản khác (không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định).
Việc quy định một tài sản được xác định là tài sản cố định dựa trên hai tiêu
chuẩn chủ yếu là giá trị và thời hạn sử dụng.
1.1.4. Đặc điểm tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
- Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp cơng lập được hình thành từ ngân
sách nhà nước hoặc có nguồn gốc ngân sách nhà nước:
Tài sản cơng trong đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm tài sản được xác lập
sở hữu Nhà nước và bàn giao cho đơn vị sự nghiệp quản lý, sử dụng (đất đai, tài sản
được bàn giao từ chế độ cũ), tài sản được đầu tư xây dựng, mua sắm từ NSNN cấp.
Ngoài ra, do đặc điểm hoạt động và cơ chế quản lý tài chính của đơn vị sự nghiệp
cơng lập thì nguồn hình thành tài sản cơng có được cịn do: tài trợ, viện trợ của các
tổ chức, cá nhân; nguồn thu tại các đơn vị sự nghiệp; nguồn vốn vay của các quỹ hỗ
trợ phát triển hay các ngân hàng; các nguồn quỹ của đơn vị sự nghiệp được trích lập
theo quy định của pháp luật (quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp)... Những tài sản
này tuy Nhà nước không đầu tư trực tiếp nhưng trước khi giao các đơn vị sự nghiệp
cơng lập sử dụng thì đều phải làm thủ tục xác lập quyền sở hữu nhà nước, giá trị các
tài sản đó đều được ghi thu hoặc ghi thu, ghi chi cho NSNN.
- Tài sản công trong đơn vị sự nghiệp công lập được quản lý và sử dụng theo
đúng quy định của pháp luật: Tài sản công nói chung và tài sản cơng trong đơn vị
sự nghiệp công lập hầu hết được đầu tư từ NSNN hoặc có nguồn gốc NSNN, có
nguồn gốc hình thành từ tiền thuế mà người trả thuế đã nộp, do đó nó phải được
quản lý và sử dụng theo pháp luật.
- Quyền sử dụng tài sản công trong đơn vị sự nghiệp cơng lập có sự tách rời
khỏi quyền sở hữu: Quyền sở hữu của một tài sản bao gồm quyền chiếm hữu (là


quyền nắm giữ, quản lý tài sản), quyền sử dụng (là quyền khai thác công dụng,

hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản) và quyền định đoạt (là quyền chuyển giao quyền sở
hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó) của chủ sở hữu theo quy định của pháp
luật. Tài sản công trong đơn vị sự nghiệp đều thuộc sở hữu nhà nước, là một loại
hình thức sở hữu đặc biệt (ở nước ta hiện nay sở hữu nhà nước được hiểu là sở hữu
toàn dân mà Nhà nước là đại diện), trong khi đó quyền sử dụng tài sản công trong
đơn vị sự nghiệp được thực hiện bởi từng đơn vị sự nghiệp được Nhà nước giao tài
sản để phục vụ việc thực hiện các nhiệm vụ do nhà nước giao.
Tính chất tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản là một đặc
điểm hết sức quan trọng, có thể dẫn tới những khó khăn trong quản lý tài sản công
khi “Người sở hữu tài sản” (Nhà nước đại diện) trao một số quyền quản lý nhất định
đối với tài sản cho “Người khác” (các đơn vị trực tiếp sử dụng tài sản) nhằm phục
vụ lợi ích, mục đích của chủ sở hữu, nhưng người trực tiếp sử dụng tài sản khơng
hành động vì lợi ích của chủ sở hữu mà vì chính bản thân họ.
- Tài sản công trong đơn vị sự nghiệp công lập rất đa dạng, được phân bố
rộng trên phạm vi cả nước, do nhiều chủ thể quản lý, sử dụng và trình độ quản lý,
sử dụng của các chủ thể rất khác nhau: Có loại tài sản được sử dụng trong hầu hết
các đơn vị sự nghiệp (chẳng hạn: trụ sở làm việc, xe ơ tơ, máy tính, máy photo,...)
nhưng cũng có loại tài sản chỉ có một số đơn vị sự nghiệp sử dụng cho hoạt động,
nhiệm vụ đặc thù theo ngành, lĩnh vực sự nghiệp mà đơn vị hoạt động (chẳng hạn
như thiết bị y tế đối với đơn vị sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế, thiết bị thí
nghiệm trong một số đơn vị sự nghiệp thuộc lĩnh khoa học cơng nghệ). Vì vậy, cần
phải có mơ hình, cơ chế, chính sách quản lý phù hợp với từng loại tài sản, từng loại
hình chủ thể quản lý, sử dụng.
- Giá trị của tài sản công trong đơn vị sự nghiệp công lập giảm dần trong
q trình sử dụng: Phần giá trị giảm dần đó được xem là yếu tố chi phí tiêu dùng
cơng để tạo ra các sản phẩm dịch vụ công, không thể trực tiếp thu hồi được phần giá
trị hao mòn của các tài sản qua quá trình sử dụng, mà phần lớn thu hồi gián tiếp qua
phí, lệ phí theo quy định của Nhà nước hoặc qua hiệu quả hoạt động của các hoạt
động sự nghiệp phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.



- Tài sản công trong đơn vị sự nghiệp luôn đối mặt với nguy cơ bị xâm phạm
trong quản lý và sử dụng: Dưới góc độ quản lý nhà nước, tài sản công trong đơn vị
sự nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, nhưng tài sản đó thường được giao cho cá nhân
quản lý hoặc sử dụng. Điều này dễ dẫn tới tình trạng “bi kịch của đất cơng” của
quyền tài sản công (theo nghiên cứu của Garrett Hardin chỉ hiện tượng các tài sản
dùng chung được phép sử dụng tự do dẫn tới việc khai thác bừa bài, kiệt quệ, lãng
phí các tài sản cơng [30]).
- Tài sản cơng trong đơn vị sự nghiệp là nền tảng vật chất quan trọng cho
việc đảm bảo các lợi ích cơng, đồng thời là nguồn lực thiết yếu để đảm bảo sự tồn
tại, phát triển của các nhà nước:
Tài sản công trong đơn vị sự nghiệp giúp nhà nước cung cấp các dịch vụ
cơng đáp ứng nhu cầu, lợi ích của quần chúng nhân dân, góp phần tạo ra một xã hội
cơng bằng, ổn định. Sử dụng tài sản công vào giáo dục, văn hóa, khoa học kĩ thuật
giúp con người phát triển, duy trì những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội, làm
cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Tài sản cơng cịn được Nhà nước sử dụng để cung
cấp các sản phẩm, dịch vụ có tác dụng điều tiết khoảng cách phân hóa giàu và
nghèo trong xã hội, góp phần đảm bảo sự cơng bằng của xã hội, ...
1.2. Quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ công lập
1.2.1. Đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ công lập
Đơn vị khoa học cơng nghệ cơng lập: Là tổ chức có chức năng chủ yếu là
nghiên cứu khoa học, nghiên cứu triển khai, nghiên cứu ứng dụng và phát triển công
nghệ, hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ, được các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật.
Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ công lập:
- Là một đơn vị khoa học công nghệ thống nhất, đồng bộ và được phân bố
hợp lý, phù hợp với yêu cầu phát triển khoa học công nghệ và phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh;
- Gắn kết công tác tổ chức khoa học công nghệ với cơ sở đào tạo và tổ chức
ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;



- Bảo đảm thực hiện mục tiêu nâng cao năng lực khoa học công nghệ quốc
gia, chú trọng những lĩnh vực khoa học công nghệ phục vụ trực tiếp nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh;
- Bảo đảm sử dụng hiệu quả nguồn lực của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa
đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học công
nghệ ưu tiên, trọng điểm.
1.2.2. Quản lý tài sản công trong đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ công lập
Nhà nước là chủ sở hữu của mọi tài sản công, nhưng chủ thể trực tiếp khai
thác, sử dụng tài sản công là các cơ quan, đơn vị thuộc bộ máy nhà nước để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Chính vì thế, để thực hiện vai trị chủ sở hữu
tài sản của mình, Nhà nước phải thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tài
sản công nhằm sử dụng, bảo tồn, phát triển nguồn tài sản công một cách tiết kiệm,
hiệu quả để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, Nhà nước
không thể thực hiện quản lý trực tiếp đối với tồn bộ q trình hình thành, khai
thác, sử dụng, kết thúc tài sản của tất cả các cơ quan, đơn vị được giao trực tiếp sử
dụng tài sản mà quản lý thông qua ban hành các cơ chế, chính sách có liên quan đến
quản lý tài sản công và thực hiện phân cấp quản lý tài sản công cho các cơ quan,
đơn vị sử dụng.
Ở Việt Nam, chủ thể giúp Nhà nước quản lý tài sản công được xác định là hệ
thống cơ quan công sản: Cục quản lý cơng sản trực thuộc Bộ Tài chính, phịng
Quản lý cơng sản thuộc Sở Tài chính chính tại các địa phương và các bộ phận,
phòng, ban chuyên trách quản lý tài sản công được giao tại các Bộ, ngành Trung
ương. Mỗi một chủ thể quản lý đảm nhận những chức năng, nhiệm vụ khác nhau để
giúp Nhà nước thực hiện các hoạt động liên quan đến quản lý tài sản công như xây
dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các quy định về quản lý tài sản công; thực hiện
đầu tư, mua sắm tài sản công; điều tiết, bố trí sử dụng tài sản cơng theo các quy
định về tiêu chuẩn, định mức do Nhà nước ban hành; kiểm tra, giám sát việc sử
dụng tài sản công. Đối tượng của quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp khoa

học công nghệ công lập là những tài sản được Nhà nước giao cho các đơn vị này sử


dụng nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được Nhà nước giao.
Như vậy có thể đưa ra khái niệm: Quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp
khoa học cơng nghệ cơng lập là sự tác động có tổ chức, bằng pháp quyền của bộ
máy quản lý đối với các tài sản công được đầu tư từ NSNN hoặc có nguồn gốc từ
NSNN nhằm đảm bảo các tài sản công này được sử dụng một cách hiệu quả, tiết
kiệm, thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ Nhà nước giao cho các đơn vị.
Từ khái niệm trên cho ta thấy nội hàm của quản lý tài sản công tại các đơn vị
sự nghiệp khoa học công nghệ công lập gồm những vấn đề sau:
Thứ nhất, về đối tượng quản lý là các tài sản công được Nhà nước giao cho
các đơn vị sự nghiệp quản lý, sử dụng; Thứ hai, chủ thể quản lý là hệ thống các cơ
quan quản lý tài sản cơng được hình thành tại các đơn vị sự nghiệp được Nhà nước
giao quản lý, sử dụng tài sản công; Thứ ba, công cụ quản lý là hệ thống cơ chế,
chính sách liên quan đến tài sản công được Nhà nước ban hành.
1.2.3. Mục tiêu quản lý tài sản công trong đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ
công lập
Mỗi một hoạt động quản lý của Nhà nước có thể được thực hiện bằng những
phương thức khác nhau nhưng đều có những mục tiêu được xác định trước, hướng
tới sự phát triển, ổn định và hiệu quả. Tài sản quốc gia cũng vì vậy tồn tại các cách
quản lý sử dụng khác nhau vì mục đích hiệu quả đối với quản lý nhà nước cũng như
chủ thể của tài sản. Với tài sản công, Nhà nước là người đại diện cho mọi thành
viên của cộng đồng, do đó Nhà nước có chủ quyền đối với tài sản quốc gia, đồng
thời là người đại diện chủ sở hữu tài sản cơng. Để thực hiện vai trị chủ sở hữu tài
sản cơng của mình, Nhà nước đặt ra các mục tiêu quản lý đối với khối tài sản của
mình như sau:
Một là, đảm bảo tiết kiệm, chống lãng phí và khai thác hiệu quả nguồn tài
sản cơng của Nhà nước.
Theo đó, các tổ chức, cá nhân được giao quyền sử dụng tài sản công phải bảo

tồn, phát triển nguồn tài sản công và sử dụng tài sản cơng theo quy định của pháp
luật, đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả nhằm phục vụ sự phát triển kinh tế -


xã hội, bảo vệ được mơi trường, mơi sinh, hồn thành nhiệm vụ do Nhà nước giao.
Hai là, đảm bảo sử dụng đúng mục đích, tiêu chuẩn, định mức chế độ mà
nhà nước quy định.
Nhà nước phải thực hiện vai trị kiểm tra, kiểm sốt các q trình hình thành,
sử dụng, khai thác và xử lý tài sản cơng. Nói một cách khác, người được giao trực
tiếp quản lý, sử dụng tài sản cơng phải thực hiện theo ý chí của nhà nước (người đại
diện chủ sở hữu tài sản cơng). Mặt khác, do những đặc điểm riêng có của tài sản
công là tổ chức, cá nhân được giao trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản không phải là
người có quyền sở hữu tài sản; tài sản cơng được phân bổ ở khắp mọi miền đất
nước, được giao cho các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân trực tiếp quản lý, sử
dụng. Do đó, nếu Nhà nước khơng tổ chức quản lý tài sản công theo một cơ chế,
chính sách, chế độ thống nhất phù hợp với mơ hình kinh tế mà nhà nước theo đuổi
sẽ dẫn đến tình trạng tuỳ tiện trong đầu tư xây dựng, mua sắm, sửa chữa, sử dụng,
điều chuyển, thanh xử lý tài sản; nhất là sử dụng tài sản không đúng mục đích được
giao, sử dụng tài sản cơng vào việc riêng, sử dụng tài sản lãng phí, kém hiệu quả,
làm thất thốt tài sản, giảm nguồn lực tài sản cơng.
Ba là, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của đơn vị sự nghiệp, gắn với yêu
cầu hiện đại hoá và tái trang bị tài sản công đi liền với hiện đại hoá đất nước.
Nhà nước thực hiện quản lý tài sản cơng cũng chính là thực hiện quyền sở
hữu tài sản; trong đó đặc biệt là quyền định đoạt đối với tài sản công bao gồm:
quyền đầu tư xây dựng, mua sắm, điều chuyển, thanh xử lý tài sản (bao gồm cả bán
tài sản)... Quản lý tài sản công phải hướng tới mục tiêu phục vụ thực hiện các nhiệm
vụ của đơn vị sự nghiệp. Nếu nhiệm vụ của đơn vị sự nghiệp tăng lên hoặc có thay
đổi trong yêu cầu về chất lượng dịch vụ thì tài sản cơng phải thay đổi để đáp ứng.
1.2.4. Các yêu cầu quản lý tài sản công trong đơn vị sự nghiệp khoa học công
nghệ công lập

Với đặc điểm chung là phong phú về chủng loại, có tính năng, cơng dụng
khác nhau nên việc quản lý tài sản công phải được tổ chức thực hiện theo những
yêu cầu sau:


Thứ nhất, thống nhất về cơ chế, chính sách, chế độ quản lý; đồng thời phải
có cơ chế, chính sách, chế độ quản lý, sử dụng đối với những tài sản có tính đặc thù
riêng, đối với ngành, địa phương, tổ chức sử dụng tài sản phục vụ cho các hoạt
động có tính đặc thù riêng:
Thống nhất quản lý trên cơ sở để đảm bảo cơ chế, chính sách, chế độ quản lý
tài sản công phù hợp với đặc điểm tài sản công. Nội dung của thống nhất quản lý là
Chính phủ thống nhất quản lý tài sản cơng; Quốc hội, Chính phủ quy định cơ chế,
chính sách, chế độ quản lý tài sản áp dụng chung cho mọi tài sản và quy định cơ chế,
chính sách, chế độ quản lý cụ thể đối với những tài sản có giá trị lớn mà hầu hết cơ
quan nhà nước, các đơn vị lực lượng vũ trang, các đơn vị công, các tổ chức khác được
Nhà nước giao trực tiếp sử dụng (có thể gọi là những tài sản chủ yếu và được sử dụng
phổ biến). Trên cơ sở cơ chế, chính sách, chế độ quản lý tài sản công do Quốc hội,
Chính phủ quy định; các Bộ, ngành, địa phương quy định cơ chế, chính sách, chế độ
quản lý đối với những tài sản có tính đặc thù riêng (có thể gọi là những tài sản có tính
đặc thù) và những tài sản phục vụ cho các hoạt động đặc thù của mình.
Thứ hai, thực hiện quản lý và sử dụng tài sản cơng đúng mục đích đầu tư,
trang bị; theo tiêu chuẩn, định mức; đảm bảo công khai, minh bạch, công bằng và
hiệu quả:
Mỗi một tài sản công khi được quyết định đầu tư đều đã được xác định rõ
ràng về mục đích, cơng năng sử dụng và được giao cho cơ quan, đơn vị sử dụng
nhằm phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Nhà nước giao. Vì vậy,
đơn vị, cá nhân được giao sử dụng tài sản có trách nhiệm sử dụng đúng mục đích,
nhất là phải sử dụng vào việc công, không được sử dụng tài sản phục vụ cho công
việc cá nhân. Quản lý và sử dụng tài sản công theo tiêu chuẩn định mức để công tác
quản lý thống nhất, đồng thời áp dụng tiêu chuẩn định mức sử dụng từng loại tài sản

cho từng đối tượng sử dụng, tránh hiện tượng trang bị tuỳ tiện theo ý muốn của chủ
thể sử dụng; tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản còn là thước đo đánh giá mức độ
sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài sản công của từng đơn vị; mặt khác, tiêu chuẩn,
định mức sử dụng tài sản là cơ sở để thực hiện công tác quản lý, thực hiện sự kiểm


tra, kiểm sốt của Nhà nước. Chính phủ quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng đối
với những tài sản có giá trị lớn được sử dụng phổ biến ở các cơ quan nhà nước, các
đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, các tổ chức khác. Trên cơ sở tiêu chuẩn, định
mức sử dụng tài sản đối với các tài sản sử dụng phổ biến, các Bộ, ngành, địa
phương quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng đối với những tài sản sử dụng có
tính đặc thù.
Thứ ba, quản lý tài sản công trong đơn vị sự nghiệp phải được thực hiện
thống nhất, có phân cơng, phân cấp rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan,
đơn vị trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài sản công. Phân cấp
quản lý tài sản công để đảm bảo việc quản lý phù hợp với đặc điểm của tài sản
công; đồng thời cũng được xuất phát từ phân cấp trách nhiệm, quyền hạn quản lý
kinh tế - xã hội giữa Quốc hội, Chính phủ với các cấp chính quyền địa phương, giữa
Chính phủ với các Bộ, ngành về việc xây dựng cơ chế, chính sách, chế độ quản lý
tài sản; về xây dựng và ban hành định mức, tiêu chuẩn sử dụng tài sản; về nguyên
tắc quản lý tài sản công.
Thứ tư, quản lý tài sản công phải gắn với quản lý ngân sách nhà nước. Xuất
phát từ việc tài sản công là những tài sản được hình thành từ nguồn ngân sách nhà
nước và mọi chi phí trong q trình sử dụng tài sản đều do ngân sách nhà nước đảm
bảo (trừ một số trường hợp cá biệt); do đó, việc quản lý tài sản cơng phải gắn với
quản lý ngân sách nhà nước. Hay nói một cách khác, quản lý tài sản công là quản lý
ngân sách nhà nước đã được chuyển hoá thành hiện vật - tài sản. Quản lý tài sản
công phải gắn với quản lý ngân sách nhà nước, có nghĩa là mọi cơ chế, chính sách,
chế độ quản lý tài sản công, định mức, tiêu chuẩn sử dụng tài sản công phải phù hợp
với quy định về quản lý ngân sách nhà nước, việc trang bị tài sản công cho các cơ

quan hành chính nhà nước, các tổ chức khác phải phù hợp với khả năng của ngân
sách nhà nước và được lập dự toán, chấp hành dự toán theo quy định của pháp luật
về ngân sách nhà nước.
Thứ năm, tài sản cơng phải được hạch tốn đầy đủ về hiện vật, giá trị theo
quy định của pháp luật và được bảo dưỡng, sửa chữa, bảo vệ theo chế độ quy định.


Việc xác định giá trị tài sản trong quan hệ mua, bán, thuê, cho thuê, liên doanh, liên
kết, thanh lý tài sản hoặc trong các giao dịch khác được thực hiện theo cơ chế thị
trường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
1.3. Nội dung quản lý tài sản công trong đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ
công lập
Có nhiều cách tiếp cận trong quản lý tài sản công trong đơn vị sự nghiệp
khoa học công nghệ công lập. Luận văn tiếp cận quản lý theo quá trình hình thành;
khai thác, sử dụng và kết thúc tài sản.
1.3.1. Quản lý q trình hình thành tài sản cơng
Quản lý q trình hình thành tài sản cơng tại đơn vị sự nghiệp khoa học công
nghệ công lập được căn cứ vào phương thức hình thành của tài sản: tài sản hình
thành do được bàn giao, điều chuyển và tài sản được hình thành do đầu tư xây
dựng, mua sắm mới.
Thứ nhất, quản lý tài sản được hình thành do bàn giao, điều chuyển. Đối với
tài sản được hình thành do bàn giao, điều chuyển (bao gồm cả tài sản mới được mua
sắm và tài sản đã trải qua một thời gian khai thác, sử dụng): Căn cứ biên bản bàn
giao và các tài liệu khác liên quan đến tài sản, đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ
công lập cần tiến hành lập hồ sơ về tài sản (gồm các thông tin: nguyên giá, năm đưa
vào sử dụng, giá trị đã hao mòn, giá trị còn lại, hiện trạng tài sản...) để làm cơ sở ghi
chép sổ sách quản lý tài sản, hạch toán kế toán theo quy định, làm cơ sở cho việc bố
trí khai thác, sử dụng, duy tu, bảo dưỡng tài sản.
Thứ hai, quản lý tài sản được hình thành do đầu tư xây dựng, mua sắm mới.
Quản lý quá trình hình thành tài sản đối với tài sản được hình thành do mua sắm,

đầu tư xây dựng tại đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ công lập gồm hai giai
đoạn: quyết định chủ trương đầu tư và thực hiện đầu tư, mua sắm tài sản. Việc
quyết định chủ trương đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản của người có thẩm quyền
được căn cứ vào định mức, tiêu chuẩn sử dụng tài sản, chế độ quản lý tài sản, thực
trạng, nhu cầu về tài sản cơng và khả năng nguồn lực tài chính để đầu tư xây dựng,
mua sắm tài sản của từng đơn vị để làm cơ sở xây dựng kế hoạch, ghi vào dự toán


ngân sách nhà nước hàng năm. Việc quyết định chủ trương đầu tư không phù hợp,
không hiệu quả được coi là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc đầu tư dàn
trải, thất thốt, lãng phí ngân sách nhà nước. Vì vậy, khi xem xét, quyết định chủ
trương đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản để sử dụng cho hoạt động chun mơn,
người có thẩm quyền cũng cần cân nhắc, so sánh với các phương án khác để đảm
bảo hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước và hiệu quả đầu tư, chẳng hạn như thay vì
đầu tư mới có thể cải tạo, chuyển đổi cơng năng, mục đích sử dụng của các tài sản
khác còn nhàn rỗi một cách phù hợp về mặt kỹ thuật và các yếu tố khác hoặc có thể
xem xét phương án đi thuê đối với những tài sản chỉ có nhu cầu sử dụng trong thời
gian ngắn, khơng thường xun hoặc chưa có đủ nguồn lực tài chính để đầu tư xây
dựng, mua sắm.
Sau khi có chủ trương đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản, việc thực hiện đầu
tư, mua sắm tài sản phải được tuân thủ theo các quy trình nghiệp vụ, quy định về
đầu tư và xây dựng, quy định về mua sắm tài sản công. Trong quản lý ở giai đoạn
này cần chú ý là chỉ được đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản đã được ghi vào kế
hoạch, dự tốn, khơng thực hiện các nhu cầu xây dựng, mua sắm tài sản ngoài kế
hoạch (trừ các trường hợp được cấp có thẩm quyền bổ sung, các tài sản mua sắm do
tài trợ, biếu, tặng).
Quá trình đầu tư xây dựng để hình thành tài sản là các cơng trình xây dựng
(nhà cửa, vật kiến trúc...) sau khi có chủ trương đầu tư của cấp có thẩm quyền phê
duyệt được thực hiện theo quy định về đầu tư xây dựng và được giao cho một chủ
thể có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thực hiện (Chủ đầu tư). Kết thúc

quá trình đầu tư, chủ đầu tư thực hiện thủ tục bàn giao tài sản cho đơn vị trực tiếp
quản lý sử dụng để hạch toán ghi tăng tài sản và tổ chức khai thác, sử dụng theo
đúng mục đích, cơng năng của tài sản theo chủ trương đầu tư đã được phê duyệt.
Các tài sản công hình thành do mua sắm cũng được thực hiện theo các quy
định chặt chẽ của Nhà nước. Thực tế hiện nay ở nước ta đang tồn tại song song hai
phương thức mua sắm:
- Phương thức mua sắm phân tán: Phương thức mua sắm phân tán là phương


thức truyền thống đang được áp dụng phổ biến hiện nay ở Việt Nam. Theo phương
thức này, các cơ quan dự toán trực tiếp tổ chức thực hiện mua sắm tài sản để phục
vụ cơng tác cho đơn vị mình. Việc thực hiện mua sắm theo phương thức phân tán có
ưu điểm là tạo sự chủ động cho đơn vị, không phát sinh thêm bộ máy do hoạt động
mua sắm thực hiện theo chế độ kiêm nhiệm. Song, phương thức này có những hạn
chế chủ yếu là: khơng chun nghiệp và chưa tách bạch được nhiệm vụ quản lý nhà
nước và cung cấp dịch vụ công trong quản lý tài sản cơng; tốn nhiều cơng sức và
thời gian; chi phí mua cao hơn do mua sắm nhỏ lẻ, chất lượng sản phẩm khơng
được tối ưu do chưa có điều kiện để chọn lựa các nhà cung cấp tốt nhất; thiếu tính
đồng bộ, hiện đại và việc đảm bảo tiêu chuẩn, định mức trong quản lý, sử dụng tài
sản nhà nước.
- Phương thức mua sắm tập trung: Phương thức mua sắm tài sản tập trung
thường được áp dụng đối với mua sắm tài sản với số lượng lớn, chủng loại được sử
dụng phổ biến tại nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị, hoặc tài sản có u cầu tính đồng
bộ, hiện đại. Theo phương thức này thì các tài sản sau khi có chủ trương mua sắm
được cấp có thẩm quyền phê duyệt sẽ được tổ chức thực hiện mua sắm tập trung
thông qua đơn vị mua sắm tập trung thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, doanh nghiệp.
Trường hợp đơn vị mua sắm tập trung khơng đủ năng lực thì đơn vị mua sắm tập
trung thuê tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp thực hiện việc lựa chọn nhà thầu. Việc
mua sắm tập trung được thực hiện theo một trong hai cách là: đơn vị mua sắm tập

trung tập hợp nhu cầu mua sắm, tiến hành lựa chọn nhà thầu, trực tiếp ký hợp đồng
với nhà thầu được lựa chọn cung cấp hàng hóa, dịch vụ; hoặc đơn vị mua sắm tập
trung tập hợp nhu cầu mua sắm, tiến hành lựa chọn nhà thầu, ký văn bản thỏa thuận
khung với một hoặc nhiều nhà thầu được lựa chọn làm cơ sở để các đơn vị có nhu
cầu mua sắm trực tiếp ký hợp đồng với nhà thầu được lựa chọn cung cấp tài sản.
Đơn vị có chức năng mua sắm tập trung thực hiện quy trình mua sắm tài sản theo
quy định của pháp luật về đấu thầu và tài sản được hình thành sau mua sắm được
giao cho đơn vị trực tiếp sử dụng tài sản.


Quản lý q trình hình thành tài sản cơng là khâu mở đầu, quan trọng nhất,
quyết định cho các khâu tiếp theo. Tài sản cơng nếu được hình thành có cơ sở khoa
học và thiết thực sẽ được quản lý và khai thác sau này hiệu quả. Đồng thời thông
qua quá trình hình thành tài sản sẽ đánh giá được tính cấp thiết, thực trạng quản lý
và ngân sách của mỗi cơ quan quản lý tài sản công sau này.
1.3.2. Quản lý quá trình khai thác, sử dụng tài sản cơng
Q trình khai thác, sử dụng tài sản cơng quyết định hiệu quả của tài sản
công, chứng minh cho những luận chứng kỹ thuật được đưa ra trong giai đoạn hình
thành tài sản. Đây là quá trình diễn ra hết sức phức tạp, bởi vì thời gian khai thác, sử
dụng tuỳ thuộc đặc điểm tính chất, độ bền của mỗi loại tài sản. Quá trình này đều
được thực hiện bởi tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao trực tiếp quản lý, sử dụng
tài sản. Thời gian của quá trình khai thác, sử dụng tài sản được tính từ ngày nhận tài
sản hay bàn giao tài sản đến khi tài sản khơng cịn sử dụng được phải thanh lý.
Tài sản công của đơn vị sự nghiệp nhằm đảm bảo cho việc thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ được Nhà nước giao và khơng tạo ra lợi nhuận, vì vậy việc
đánh giá hiệu quả khai thác, sử dụng tài sản chính là mức độ hồn thành cơng việc
và định mức sử dụng tài sản hợp lý trong công việc. Mỗi tài sản có đặc điểm khác
nhau nên cơng tác đánh giá hiệu quả là rất khó, chính vì vậy đối với tài sản thuộc
khu vực đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ công lập được thực hiện quản lý việc
sử dụng phải theo cơng năng, mục đích nhất định. Những tài sản cần thiết và có

điều kiện quản lý theo tiêu chuẩn, định mức sử dụng thì phải xây dựng tiêu chuẩn,
định mức sử dụng và thực hiện quản lý theo tiêu chuẩn, định mức sử dụng. Đồng
thời, tất cả các tài sản phải có chế độ, cơ chế quản lý, sử dụng; trong đó, chú ý đến
việc đăng ký sử dụng tài sản, xây dựng quy chế quản lý và sử dụng từng loại tài sản,
xác định rõ quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân được giao quản lý, sử dụng.
Ngoài ra cần lưu ý việc xây dựng định mức sử dụng tài sản là công việc hết sức cần
thiết nhưng cũng rất phức tạp, quyết định hiệu quả cho quản lý, khai thác tài sản.
Định mức cũng là một trong những cơ sở quan trọng để quyết định chủ trương xây
mới, mua sắm hay thuê mua tài sản.


Mỗi một tài sản thường có một thời gian sử dụng nhất định, nên trong quá
trình khai thác, sử dụng cần có cơ chế đánh giá tài sản (cơng việc này thường được
thực hiện hàng năm) cả về hiệu quả khai thác, sử dụng, tình trạng của tài sản so với
trạng thái ban đầu và giá trị còn lại của tài sản để có chế độ duy tu, bảo dưỡng tài
sản một cách hợp lý theo yêu cầu về mặt kỹ thuật để tài sản có thể vận hành một
cách bình thường. Trong quá trình quản lý tài sản cũng cần quan tâm đến cơ chế
điều chuyển tài sản từ đơn vị này qua đơn vị khác để đảm bảo tiết kiệm và nâng cao
hiệu quả sử dụng: điều chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu hoặc từ nơi hiệu quả sử
dụng tài sản thấp sang nơi có thể phát huy hiệu quả sử dụng của tài sản cao hơn, đáp
ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ một cách tốt nhất của cơ quan, đơn vị.
Trong quản lý kinh tế nói chung, quản lý tài sản cơng nói riêng, Nhà nước
phải thường xuyên tiến hành kiểm tra, giám sát nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời
những hành vi vi phạm trong q trình sử dụng tài sản cơng. Kiểm tra, giám sát việc
thực hiện các quy định của Nhà nước là một khâu quan trọng trong quản lý tài sản
cơng. Kiểm tra, giám sát nhằm tìm ra những ưu điểm, những nhân tố mới, tích cực
để phát huy, đồng thời phát hiện những sai lệch của đối tượng quản lý để uốn nắn
kịp thời. Mặt khác, qua kiểm tra, giám sát có thể phát hiện kịp thời những bất cập,
bất hợp lý của chính cơ chế, chính sách liên quan đến sử dụng tài sản cơng để hồn
thiện, sửa đổi cho phù hợp. Thiếu khâu này, hoạt động quản lý sẽ kém hiệu quả,

hiệu lực. Yêu cầu của công tác kiểm tra, giám sát là phải trung thực, đầy đủ, chính
xác, khách quan và phải được tiến hành một cách thường xuyên, kịp thời để phát
hiện và xử lý các vi phạm, sai phạm trong sử dụng tài sản cơng.
1.3.3. Quản lý q trình kết thúc sử dụng tài sản cơng
Sau q trình khai thác sử dụng tài sản, nếu xét thấy tài sản công không cần
thiết hay không thể phục vụ cho công việc của mỗi cơ quan, đơn vị, cơ quan quản lý
chuyên môn về quản lý tài sản công sẽ tiến hành thủ tục kết thúc quá trình sử dụng.
Nhìn chung việc kết thúc sử dụng tài sản của doanh nghiệp, cá nhân dễ dàng và
nhanh gọn tuỳ thuộc tính chất của tài sản, nhưng đối với tài sản của nhà nước công
việc này phải tuân thủ những quy trình và thủ tục cần thiết. Tài sản công, trừ một số


×