Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761.77 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHƯƠNG MAI

HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHƯƠNG MAI

HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN VĂN BIÊN

Hà Nội - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, các
số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn này là hoàn toàn hợp lệ và đảm bảo
tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về đề tài nghiên cứu của mình.
Tác giả

Nguyễn Phương Mai


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ............................................ 6
1.1. Khái niệm và bản chất hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới ......................................................................................................................... 6
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới ............................................................................................................ 18
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 22
Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HỢP ĐỒNG BẢO
HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN ............................................................................................................ 23
2.1. Khái quát sự phát triển của các quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ............................................................. 23
2.2. Nội dung các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ...................................................................... 26
2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới ............................................................................................................ 51
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 62

Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH
NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ......................................................... 63
3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới .......................... 63
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới ................................................................................................. 64
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ............................................................................... 65
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 73


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm là một trong những ngành dịch vụ tài chính có vai trò quan trọng
trong đời sống hàng ngày bởi phạm vi của nó liên quan đến tất cả các hoạt động sản
xuất, kinh doanh khác. Tuy nhiên, đặc điểm tạo nên sự khác biệt quan trọng của bảo
hiểm so với các ngành tài chính khác, đồng thời củng cố vai trò của bảo hiểm trong
đời sống xã hội đó chính là bảo hiểm cung cấp cơ chế bảo đảm tài chính tốt nhất
cho cá nhân và các tổ chức – một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại.
Khi nền kinh tế – xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu đi lại của nhân dân ngày
càng tăng, số lượng các loại phương tiện tham gia giao thông gia tăng nhanh chóng
và hết sức đa dạng, phong phú. Đặc biệt là xe cơ giới, với tính cơ động cao, tính việt
dã tốt, tham gia triệt để quá trình vận chuyển nên lượng xe tham gia giao thông
ngày càng nhiều. Mặc dù xe cơ giới ngày một hiện đại hơn, cơ sở hạ tầng giao
thông ngày càng được mở rộng, nâng cấp và hoàn thiện, song tai nạn giao thông vẫn
gia tăng qua các năm làm ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và tài sản của con
người. Vì thế, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ra đời là hết sức cần
thiết và được triển khai dưới hình thức là hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự

của chủ xe cơ giới.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có vai trò quan
trọng như góp phần ổn định tài chính, khắc phục hậu quả khi rủi ro xảy ra cho
người tham gia bảo hiểm đồng thời cũng là một trong các biện pháp hỗ trợ, có ý
nghĩa quan trọng trong việc hạn chế, khắc phục hậu quả tai nạn giao thông và xây
dựng văn hoá giao thông lành mạnh.
Trên thực tế, khi có tai nạn xảy ra, chủ phương tiện giao thông nhiều trường
hợp không có khả năng tài chính để khắc phục sẽ để lại hậu quả lâu dài cho bản
thân và người không may gặp tai nạn. Nhưng khi chủ phương tiện tham gia hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ
đứng ra giải quyết hậu quả bằng việc bồi thường tai nạn những điều khoản đã ký
kết trong hợp đồng, giúp đỡ chủ phương tiện và người bị nạn giảm tổn thất về tài
chính trên cơ sở sử dụng tiền phí bảo hiểm của nhiều người, giúp đỡ những người
1


không may gặp rủi ro.
Với ý nghĩa xã hội to lớn đó của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới, ở nước ta, chế độ hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới trong thời gian qua đã được nhà nước quan tâm triển khai và chủ xe cơ giới
hưởng ứng, các doanh nghiệp chấp hành. Tuy nhiên do một số lý do khách quan và
chủ quan từ phía người tham gia hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm, cơ
quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm, các bộ, ngành có liên quan và sự
hạn chế, thiếu tính khả thi của một số quy định pháp luật nên pháp luật về hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chưa thực sự được doanh nghiệp
bảo hiểm, chủ xe cơ giới tuân thủ đầy đủ, do vậy chưa phát huy được hết giá trị xã
hội của các loại hình hợp đồng bảo hiểm này.
Xuất phát từ thực tế đó thì việc nghiên cứu đề tài để tiếp tục đưa ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là vấn đề cần thiết. Với lý do đó, tác giả

đã lựa chọn đề tài: “Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay chủ yếu được đề cập dưới dạng các bài viết được
đăng tải rải rác trên các tạp chí hoặc dưới hình thức các ý kiến tản mạn của các
chuyên gia, các đại diện của cơ quan quản lý nhà nước trong các cuộc trả lời phỏng
vấn của các cơ quan báo chí.
Ngoài ra, ở Việt Nam đến nay đã có luận văn thạc sĩ luật học của tác giả
Nguyễn Thị Thúy tại Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội năm 2012 về đề tài:
“Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam theo pháp
luật dân sự Việt Nam”, luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Thu Trang tại Khoa Luật –
Đại học quốc gia Hà Nội năm 2011 về đề tài: “Pháp luật về bảo hiểm bắt buộc
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay”, và một số nghiên
cứu khác cũng có liên quan tới đề tài luận văn của tác giả.

2


Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chỉ nghiên cứu ở mức độ chung về
hợp đồng bảo hiểm hoặc chỉ nghiên cứu ở phạm vi hẹp về các vấn đề như: hợp đồng
bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ phương tiện cơ giới mà chưa có tác
giả nào nghiên cứu một cách hệ thống, đánh giá một cách toàn diện về thực trạng
xây dựng, thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới, một đề tài cần phải được làm rõ cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Vì vậy, đề tài “Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là một đề tài độc lập và không trùng lặp với các
đề tài đã được nghiên cứu từ trước đến nay. Tuy nhiên, tác giả luôn có ý thức kế
thừa, học hỏi những kết quả mà các công trình khoa học, các bài viết và các ý kiến
của các chuyên gia cũng như các kinh nghiệm thực tiễn có liên quan đến đề tài

trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn có mục đích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Theo đó, luận văn có những mục đích
cụ thể sau:
Thứ nhất, luận văn làm rõ cơ sở lý luận về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới;
Thứ hai, luận văn phân tích thực trạng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và thực tiễn thực hiện;
Thứ ba, luận văn đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả của luận văn đặt ra các nhiệm
vụ nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất, phân tích khái niệm và làm rõ đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới;

3


Thứ hai, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chế định hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự nói chung và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới nói riêng đồng thời làm rõ nội dung cụ thể của chế định này trong
pháp luật Việt Nam hiện hành;
Thứ ba, tổng kết thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đồng thời đưa ra các kiến nghị, giải pháp để hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn chọn những yếu tố liên quan đến
pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới tại Việt
Nam làm đối tượng nghiên cứu. Từ đó tìm hiểu sự ảnh hưởng của các yếu tố đó tới
quá trình thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn có phạm vi nghiên cứu như sau:
 Về thời gian: Luận văn nghiên cứu những quy định pháp luật của Việt Nam
được ban hành từ năm 1988 cho đến nay.
 Về không gian: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lenin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước ta về nhà nước và
pháp luật, về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là:
(i)

Phương pháp khai thác tài liệu sẵn có là các bài viết, các kết quả nghiên
cứu của các tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài;

(ii) Phương pháp thống kê;
(iii) Phương pháp phân tích và luật học so sánh;
(iv) Phương pháp diễn dịch và phương pháp tổng hợp.

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới: khái niệm, đặc điểm, vai trò của hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới để rút ra ý nghĩa xã hội to lớn của loại hình hợp
đồng bảo hiểm này.
Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn tham gia hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới hiện nay ở Việt Nam, qua đó đưa ra những hạn
chế, thiếu xót dẫn đến loại hình hợp đồng bảo hiểm này chưa được phổ biến và đi
sâu vào mọi tầng lớp dân cư ở Việt Nam.
Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm mục đích đưa hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm của chủ xe cơ giới thực sự được triển khai một cách rộng rãi tại Việt
Nam và phát huy được ý nghĩa xã hội to lớn của nó.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới và thực tiễn thực hiện.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI
1.1. Khái niệm và bản chất hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới
1.1.1. Khái niệm và bản chất hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
a. Khái niệm “Hợp đồng”

Khái niệm “hợp đồng” tại Việt Nam được quy định tại Điều 385 Bộ luật dân
sự năm 2015, theo đó:
“Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”[26].
Ngoài chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, hợp đồng còn được điều chỉnh bởi
các lĩnh vực pháp luật khác như kinh doanh thương mại, lao động, xây dựng,…
b. Khái niệm “bảo hiểm”
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, loài người luôn phải
đối mặt với rất nhiều rủi ro như thiên tai, địch họa, tai nạn, bệnh tật,… và cao hơn
nữa là những biến động về kinh tế, chính trị, xã hội,… gây xáo trộn cuộc sống, thậm
chí đe doạ tới tính mạng và của cải của mình. Chính vì vậy, con người luôn luôn tìm
cách để bảo vệ mình khỏi những tác động không mong muốn đó, cũng như dự trữ
tài chính để bù đắp cho những thiệt hại có thể xảy ra nhằm nhanh chóng ổn định
cuộc sống và công việc.
Ngay từ xa xưa, con người đã dự trữ lương thực để đề phòng những trường
hợp khẩn cấp như mất mùa, hạn hán lập các quỹ dự trữ chung cho cộng đồng để đề
phòng những thảm họa, hoặc những tổn thất lớn liên tiếp ngoài sự chống đỡ của
mỗi cá nhân, mỗi gia đình. Đời sống kinh tế, xã hội của loài người càng phát triển,
các rủi ro tiềm ẩn mà loài người có thể gặp phải càng phức tạp, khó lường và vì thế
mà nhu cầu được bảo vệ, được an toàn của con người ngày càng cao. Ngành bảo
hiểm ra đời chính là để đáp ứng nhu cầu đó của con người.

6


Trên thực tế, hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về bảo hiểm.
Dưới góc độ tài chính, “bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm
phân phối lại những chi phí mất mát không mong đợi” [19, tr.9].
Dưới góc độ pháp lý, “bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó, một bên là người
được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền (phí bảo hiểm hay đóng góp bảo hiểm)

cho chính mình hoặc cho một người thứ ba khác để trong trường hợp rủi ro xảy ra,
sẽ được trả một khoản tiền bồi thường từ một bên khác là người được bảo hiểm,
người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù những thiệt hại” [19, tr.10].
Tuy nhiên, khái niệm có nội dung đầy đủ và logic nhất đó là: “bảo hiểm là
phương pháp chuyển giao rủi ro được thực hiện qua hợp đồng bảo hiểm, trong đó
bên mua bảo hiểm chấp nhận trả phí bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm cam kết
bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm” [25, tr.16].
Như vậy, thực chất của hoạt động bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng
sản phẩm xã hội giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát
sinh khi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm.
c. Khái niệm “hợp đồng bảo hiểm”
Theo quy định tại Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ
sung năm 2010), “hợp đồng bảo hiểm” được định nghĩa như sau:
“Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh
nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp
bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người
được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”[26].
Như vậy có thể hiểu hợp đồng bảo hiểm là việc tổ chức bảo hiểm cam kết bảo
đảm bồi thường một số tiền nhất định cho cá nhân, tổ chức khi sự kiện bảo hiểm xảy ra
và có gây thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm trong một thời gian nhất định, còn bên
mua bảo hiểm phải đóng một khoản tiền nhất định gọi là phí bảo hiểm.
d. Khái niệm “trách nhiệm dân sự”
Theo quy định của pháp luật, bên có nghĩa vụ phải làm một công việc hoặc
không được làm một công việc vì lợi ích của bên có quyền. Trường hợp bên có
nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa
7


vụ của mình sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Bên có nghĩa vụ
không có nghĩa vụ chịu trách nhiệm dân sự nếu việc không thực hiện, thực hiện

không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ đó hoàn toàn phát sinh bởi lỗi của bên có
quyền. Bên không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ dân sự chịu trách nhiệm dân sự khi việc không thực hiện, thực hiện không
đúng hoặc thực hiện không đầy đủ đó phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý của bên đó trừ
trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc theo quy định của pháp luật.
Trách nhiệm dân sự nói chung được hiểu là sự quy định của pháp luật dân sự
về hậu quả pháp lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng buộc người có
hành vi vi phạm quy tắc xử sự phải gánh những hậu quả pháp lý nhất định nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bên có quyền dân sự bị xâm phạm [30, tr.152].
Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm bồi thường của một cá nhân, tổ chức gây
thiệt hại đến tài sản, sức khoẻ,... của chủ thể khác mà hành vi đó chưa phải là tội
phạm theo quy định tại Bộ luật hình sự.
Trách nhiệm dân sự thường được hiểu là một loại trách nhiệm pháp lý. Trách
nhiệm pháp lý được cho là việc một chủ thể phải gánh chịu những hậu quả bất lợi
theo quy định của pháp luật do có hành vi vi phạm pháp luật. Trách nhiệm dân sự
không phải là một sự trừng phạt mà là một biện pháp buộc người có hành vi vi
phạm pháp luật vào nghĩa vụ bồi thường cho người bị tổn hại do hành vi đó gây ra.
Trong lĩnh vực bảo hiểm, trách nhiệm dân sự được hiểu là nghĩa vụ dân sự
của bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm mà từ đó nghĩa vụ dân sự phát
sinh.
đ. Khái niệm “chủ xe cơ giới”
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, xe cơ giới bao gồm ô tô, rơ moóc
hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ô tô và các loại xe tương tự.
Chủ xe cơ giới có thể là người chủ sở hữu hợp pháp của xe cơ giới hoặc bên
bất kỳ nào đó được chủ sở hữu xe cơ giới giao quyền chiếm hữu, sử dụng hoặc điều
khiển xe cơ giới. Chủ xe cơ giới có thể là tổ chức hoặc cá nhân.

8



e. Khái niệm “hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới”
Từ những phân tích trên, có thể hiểu rằng:
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chính là sự thoả
thuận bằng văn bản giữa bên bảo hiểm, hay còn gọi là doanh nghiệp bảo hiểm với
bên tham gia bảo hiểm, hay còn gọi là chủ xe cơ giới. Theo đó, doanh nghiệp bảo
hiểm cam kết sẽ thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với người thứ ba
thay cho bên được bảo hiểm nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời hạn có hiệu lực
của hợp đồng, còn bên tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đầy đủ và
đúng hạn theo như thỏa thuận giữa các bên.
1.1.1.2. Bản chất của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Khoản 1 Điều 8 Văn bản hợp nhất 25/VBHN-BTC năm 2014 hợp nhất Nghị
định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do Bộ Tài chính
ban hành ngày 27/6/2014 quy định:
“Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
(sau đây gọi là Giấy chứng nhận bảo hiểm) là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự giữa chủ xe cơ giới với doanh nghiệp bảo hiểm”[9].
Khoản 3 Điều 6 Văn bản này cũng quy định:
“Ngoài việc tham gia hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự, chủ
xe cơ giới có thể thỏa thuận với doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia hợp đồng bảo
hiểm tự nguyện”[9].
Như vậy, có thể hiểu rằng, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới chính là giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
do doanh nghiệp bảo hiểm cấp cho chủ xe cơ giới. Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm
cam kết bồi thường phần trách nhiệm dân sự của người bảo hiểm theo cách thức và
hạn mức đã được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng với điều kiện người tham gia
bảo hiểm phải đóng một khoản phí tương ứng. Mục đích của người tham gia chính
là chuyển giao phần trách nhiệm dân sự của mình, và ở đây chủ yếu là trách nhiệm
bồi thường.

9



1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là một loại hợp
đồng bảo hiểm, do đó nó cũng mang những đặc điểm chung của một hợp đồng bảo
hiểm. Cụ thể:
Thứ nhất, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới mang
tính đồng thuận. Hợp đồng bảo hiểm được thiết lập dựa trên sự chấp thuận của cả
đôi bên trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tự do giao kết trong khuôn khổ pháp
luật và đạo đức xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế nội dung hợp đồng chủ yếu đều do
doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo sau khi đã được cơ quan quản lý xét duyệt. Dựa
trên nhu cầu của mình, người tham gia bảo hiểm sẽ tự do lựa chọn có giao kết hợp
đồng hay không.
Thứ hai, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là hợp
đồng song vụ. Điều này có nghĩa là, các bên ký kết đều có quyền và nghĩa vụ với
nhau. Quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Nghĩa vụ của bên
tham gia bảo hiểm là nộp phí bảo hiểm, là đề phòng và hạn chế tổn thất, yêu cầu
bên bảo hiểm trả tiền bảo hiểm theo thoả thuận hoặc do pháp luật quy định,…
Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm là thực hiện trách nhiệm bồi thường (hoặc chi
trả bảo hiểm) khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng
đều quy định rõ và thể hiện ở các điều khoản bảo hiểm. Bên tham gia bảo hiểm sau
khi xem xét thấy phù hợp với nhu cầu của mình thì ký kết và ngược lại.
Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có tính
chất may rủi. Trong thời hạn hợp đồng có hiệu lực, nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra,
bên tham gia bảo hiểm sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hoặc chi trả. Trái
lại, mặc dù đã nộp phí bảo hiểm, nếu không xảy ra sự kiện bảo hiểm, người mua
bảo hiểm sẽ không nhận được bất cứ một khoản chi hoàn trả nào từ phía doanh
nghiệp bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro từ phía người tham gia
bảo hiểm chuyển giao cho họ, đổi lại doanh nghiệp nhận được phí bảo hiểm. Nhưng
rủi ro này mới tồn tại ở trạng thái tương lai, có thể xảy ra và cũng có thể không xảy

ra. Vì thế không xác định được hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm khi ký kết hợp
đồng và người ta thường quan niệm là loại hợp đồng may rủi.
10


Thứ tư, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có tính
chất tin tưởng tuyệt đối. Mối quan hệ giữa bên mua bảo hiểm và người bảo hiểm
được thiết lập trong tình trạng tạo ra rủi ro cho nhau. Do đó, để tồn tại và có thể
thực hiện thì hai bên phải có sự tin tưởng lẫn nhau.
Thứ năm, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là hợp
đồng có bồi thường. Mối quan hệ quyền và nghĩa vụ giữa hai bên – doanh nghiệp
bảo hiểm và người mua bảo hiểm thể hiện ở mối quan hệ tiền tệ. Tức là, người tham
gia bảo hiểm phải trả tiền bằng cách nộp phí bảo hiểm mới được đảm bảo có quyền
lợi kinh tế từ doanh nghiệp bảo hiểm. Còn doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả
tiền bảo hiểm/bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Tuy nhiên, dù hợp đồng
đã được ký kết, nhưng người tham gia bảo hiểm chưa nộp phí, thì hợp đồng vẫn
chưa có hiệu lực và người tham gia chưa thể đòi hưởng quyền lợi của mình.
Thứ sáu, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có tính
chất gia nhập. Hợp đồng bảo hiểm là một hợp đồng theo mẫu. Quy tắc bảo hiểm
(nội dung chính của Hợp đồng) do doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo trước, bên mua
bảo hiểm sau khi tìm hiểu, nếu họ thấy phù hợp với nhu cầu của mình thì hai bên sẽ
tiến hành ký kết hợp đồng.
Ngoài những đặc điểm trên, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới còn mang những đặc điểm riêng biệt:
Thứ nhất, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chỉ giới
hạn trong phạm vi trách nhiệm bồi thường về mặt kinh tế, không chịu các trách
nhiệm khác của người tham gia bảo hiểm trước pháp luật như: trách nhiệm hành
chính, trách nhiệm hình sự.
Phạm vi bảo hiểm là thiệt hại mà bên mua bảo hiểm đã gây ra cho người thứ
ba và trong giới hạn bảo hiểm đã được các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định.

Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chính là để bảo hiểm cho
những khoản chi phí cần thiết để khắc phục hậu quả của tai nạn, rủi ro cho bên thứ
ba bị thiệt hại. Mặc dù việc bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm không phải là
những thiệt hại trực tiếp về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người được bảo hiểm
mà là những thiệt hại về tài chính của người được bảo hiểm đối với người thứ ba

11


căn cứ vào những tổn thất về tài sản, sức khỏe, tính mạng mà họ đã gây ra cho bên
thứ ba. Doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường trên cơ sở quy định của pháp luật hoặc
quy định trong hợp đồng đối với số tiền tối đa bằng với thiệt hại của người thứ ba.
Thứ hai, đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới là trách nhiệm về bồi thường thiệt hại, là loại bảo hiểm không thể xác định
được giá trị đối tượng bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng. Điều 52 Luật kinh
doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) quy định:
“Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm dân
sự của người tham gia bảo hiểm đối với bên thứ ba theo quy định của pháp
luật”[26].
Không giống như hợp đồng bảo hiểm tài sản với đối tượng bảo hiểm là một
loại tài sản cụ thể hay hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là bảo hiểm cho một con người
cụ thể, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự có đối tượng là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của người tham gia bảo hiểm đối với bên thứ ba. Đó là thiệt hại có
thể xảy ra trong tương lai, trong phạm vi giới hạn bảo hiểm và thuộc trách nhiệm
bồi thường của bên tham gia bảo hiểm. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại mang tính
trừu tượng chúng ta không nhìn thấy, không cảm nhận được bằng các giác quan và
thực tế chúng không tồn tại hiện hữu trong không gian tại thời điểm giao kết hợp
đồng. Chỉ khi nào người tham gia bảo hiểm gây thiệt hại cho người khác và phải bồi
thường thì mới xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại là bao nhiêu.
Thứ ba, trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, yếu

tố lỗi có vai trò rất quan trọng.
Lỗi của người tham gia bảo hiểm khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho
người thứ ba chính là cơ sở để phát sinh trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo
hiểm đối với người thứ ba và do đó cũng làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của
bên bảo hiểm đối với người thứ ba.
Theo cách hiểu thông thường thì lỗi là những sai sót trong xử sự, về bản chất
lỗi được các ngành luật quy định giống nhau – đó là quan hệ giữa chủ thể thực hiện
hành vi trái pháp luật với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định những yêu cầu
của xã hội đã được thể hiện thông qua các quy định của pháp luật: khi một người có
đủ nhận thức và điều kiện để lựa chọn cách xử sự sao cho xử sự đó phù hợp với
12


pháp luật, tránh gây thiệt hại cho người khác nhưng vẫn thực hiện hành vi gây thiệt
hại thì người đó bị coi là có lỗi. Như vậy, lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi
gây thiệt hại phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành
vi mà họ đã thực hiện. Điều 364 Bộ Luật dân sự năm 2015 chia lỗi làm hai loại và
lỗi cố ý và lỗi vô ý. Cụ thể:
Việc phân biệt lỗi làm lỗi cố ý và lỗi vô ý nhằm mục đích xác định nghĩa vụ
bồi thường của bên gây ra thiệt hại, nghĩa vụ bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm,
đồng thời cũng là để xác định chủ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thứ tư, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới bao giờ
cũng có mối liên quan đến chủ thể thứ ba. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phải thực
hiện nghĩa vụ bảo hiểm khi có yêu cầu bồi thường của người thứ ba.
Quan hệ giữa người bảo hiểm, người được bảo hiểm là quan hệ hợp đồng mà
ở đó người bảo hiểm phải bồi thường thay cho người được bảo hiểm khi trách
nhiệm dân sự của họ phát sinh đó chính là trách nhiệm bồi thường khi gây thiệt hại
cho người thứ ba. Giữa người thứ ba và người bảo hiểm không có mối quan hệ hợp
đồng mà họ là bên có quyền đối với người được bảo hiểm.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000

(sửa đổi, bổ sung năm 2010):
“Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường khi người
được bảo hiểm nhận được yêu cầu phải bồi thường của người bị thiệt hại”[26].
Doanh nghiệp bảo hiểm không phải chịu trách nhiệm đối với bên mua bảo
hiểm nếu bên thứ ba bị thiệt hại không có yêu cầu bồi thường và bên mua bảo hiểm
không có nghĩa vụ trả tiền bồi thường cho dù trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã
phát sinh. Khi xảy ra rủi ro về trách nhiệm, người gây thiệt hại phải chịu trách
nhiệm dân sự trước pháp luật, nhưng doanh nghiệp bảo hiểm không có trách nhiệm
trực tiếp với người bị thiệt hại. Có thể hiểu rằng, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới chỉ ràng buộc doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo
hiểm.

13


Nếu pháp luật không có quy định khác thì người thứ ba chỉ có quyền đòi bồi
thường đối với người tham gia bảo hiểm, trên cơ sở đó doanh nghiệp bảo hiểm trả
tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm và trách nhiệm bồi thường cho người
thứ ba thuộc về người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và người tham
gia bảo hiểm có thể thoả thuận về việc doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường trực
tiếp cho người thứ ba bị thiệt hại. Trong một số trường hợp đặc biệt, để đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại; khắc phục kịp thời thiệt hại vật
chất góp phần bình ổn tài chính đối với người bị thiệt hại, pháp luật quy định người
thứ ba có thể trực tiếp khiếu nại đến doanh nghiệp bảo hiểm để yêu cầu bồi thường.
Thứ năm, tùy từng loại hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới có tính chất bắt buộc hoặc không.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới bao gồm hai loại
hợp đồng khác nhau đó là hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới và hợp đồng bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Việc tham gia vào hợp đồng bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

có tính chất bắt buộc. Mọi chủ xe cơ giới tham gia giao thông trên lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định của pháp luật Việt Nam dù chủ sở hữu xe
cơ giới đó là cá nhân hay tổ chức, kể cả là người quốc tịch Việt Nam hay nước
ngoài đều phải tham gia. Việc chủ xe cơ giới phải có loại bảo hiểm này là để đảm
bảo quyền lợi cho bên thứ ba (người bị va chạm với xe) được hỗ trợ và người tham
gia lái xe phải có trách nhiệm khi gây ra thiệt hại.
Ngoài loại bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, chủ xe
cơ giới có thể thỏa thuận với doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia hợp đồng bảo
hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự. Từ đó, chủ xe cơ giới sẽ được chia sẻ gánh
nặng rủi ro về tài chính; khắc phục kịp thời thiệt hại về vật chất của bên thứ ba bị
thiệt hại; góp phần bình ổn đời sống vật chất của các chủ thể trong xã hội.

14


Thứ sáu, tùy từng loại hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới có tính chất bắt buộc hoặc không.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới bao gồm hợp
đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự và hợp đồng bảo hiểm tự nguyện trách
nhiệm dân sự.
Việc tham gia vào hợp đồng bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
có tính chất bắt buộc. Mọi chủ xe cơ giới tham gia giao thông trên lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định của pháp luật Việt Nam dù chủ sở hữu xe
cơ giới đó là cá nhân hay tổ chức, kể cả là người quốc tịch Việt Nam hay nước
ngoài đều phải tham gia. Việc chủ xe cơ giới phải có loại bảo hiểm này là để đảm
bảo quyền lợi cho bên thứ ba (người bị va chạm với xe) được hỗ trợ và người tham
gia lái xe phải có trách nhiệm khi gây ra thiệt hại.
Ngoài loại bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, chủ xe

cơ giới có thể thỏa thuận với doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia hợp đồng bảo
hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự. Từ đó, chủ xe cơ giới sẽ được chia sẻ gánh
nặng rủi ro về tài chính; khắc phục kịp thời thiệt hại về vật chất của bên thứ ba bị
thiệt hại; góp phần bình ổn đời sống vật chất của các chủ thể trong xã hội.
1.1.3. Ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Tai nạn giao thông luôn là một tồn tại khách quan, ta chỉ có thể hạn chế và
giảm bớt chứ không thể ngăn không xảy ra được. Chính vì vậy, bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới luôn là một nghiệp vụ cần thiết và ích lợi cho xã
hội. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các phương tiện tham gia giao thông
ngày càng nhiều trong khi hệ thống đường xá của Việt Nam không đáp ứng được
tiêu chuẩn an toàn kĩ thuật, khoa học, cũng như nhu cầu xã hội; ý thức chấp hành
luật lệ giao thông của người dân còn kém. Do vậy không tránh khỏi sự gia tăng
không ngừng các vụ tai nạn giao thông, kéo theo các vụ kiện đòi bồi thường của nạn
nhân hoặc gia đình họ đối với người gây thiệt hại. Có tai nạn, có kiện đòi bồi
thường, rồi xác định được mức bồi thường thì vấn đề đặt ra lại là thực tế việc bồi
thường được tiến hành như thế nào? Một vấn đề kéo theo là xã hội còn phải đối mặt
15


với tình trạng bồi thường cho nạn nhân trong các vụ tai nạn giao thông. Có rất nhiều
trường hợp nạn nhân không nhận được tiền bồi thường từ những người gây ra tai
nạn, thậm chí trong những trường hợp người gây ra tai nạn được xác định rõ ràng.
Lý do rất đơn giản là người gây ra tai nạn không có đủ nguồn tài chính tối thiểu để
thực hiện nghĩa vụ luật định đối với nạn nhân.
Trên thực tế, không phải trường hợp nào người không may bị tai nạn cũng được
đền bù, bồi thường nhanh chóng đúng như theo luật định, và người gây tai nạn không
phải lúc nào cũng sẵn sàng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm tài chính của
mình đối với những thiệt hại của người bị nạn do mình gây ra khi điều kiện tài chính
không đủ để đáp ứng. Tuy nhiên nếu chủ chiếc xe đó đã tham gia mua bảo hiểm bắt
buộc hoặc ký kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì mọi việc sẽ được giải

quyết thuận lợi hơn cho cả đôi bên. Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thay mặt chủ xe đền bù
cho nạn nhân nếu được yêu cầu hoặc trong trường hợp chủ xe đã đền bù cho nạn nhân
thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả lại số tiền đã bồi thường cho chủ xe, đảm bảo khả
năng tài chính của họ. Vì vậy, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới là một chế định có nhiều ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới giúp
giảm thiệt hại cho chủ phương tiện nếu không may rủi ro xảy ra khi tham gia giao
thông. Tất nhiên, không một ai mong muốn xảy ra tai nạn, nhưng rủi ro lại không
tránh né bất kỳ ai, bởi nếu mọi người đi cẩn thận không để xảy ra tai nạn thì rủi ro
có thể lại đến từ các phương tiện giao thông khác. Khi xảy ra tai nạn, thường sẽ có
thiệt hại cho cả hai bên, chủ phương tiện sẽ được bảo hiểm đứng ra bồi thường cho
người thứ ba nếu chủ phương tiện sai hoặc sẽ đứng ra đòi quyền lợi chủ phương tiện
nếu người thứ ba sai. Việc làm này giúp giảm thiệt hại cho chủ phương tiện cơ giới
sau khi xảy ra rủi ro. Thiệt hại xảy ra có thể là rất lớn, nó vượt quá khả năng tài
chính của người có trách nhiệm, đồng thời ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của
người có trách nhiệm bồi thường và người bị thiệt hại. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
là một cơ chế chắc chắn để khắc phục điều đó. Nhiều khi người gây thiệt hại không
đủ khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ bồi thường, nên đối với người gây ra

16


thiệt hại bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế đảm bảo trách nhiệm bồi
thường của họ khi họ gây ra thiệt hại cho người khác
Thứ hai, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn đảm
bảo quyền được bồi thường của bên bị thiệt hại trong mọi trường hợp. Khi tai nạn
xảy ra, rất nhiều trường hợp chủ phương tiện gây ra tai nạn bị tử vong không còn
khả năng chi trả hoặc bỏ trốn. Trong khi đó những người bị nạn vẫn còn sống và rất
cần có các chế độ đền bù thỏa đáng khi không có một tổ chức nào có kinh phí, chế
độ giải quyết các trường hợp này. Đồng thời, tạo cho người bị thiệt hại một tâm lý

yên tâm khi những thiệt hại của họ được một doanh nghiệp bảo hiểm đứng ra bồi
thường thay cho người tham gia bảo hiểm.
Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới góp phần
không nhỏ vào việc tăng thu ngân sách Nhà nước, chia sẻ rủi ro và bình ổn xã hội.
Nguồn thu từ các công ty bảo hiểm là một nguồn thu làm tăng Ngân sách Nhà nước.
Từ đó Nhà nước có kinh phí cho việc đầu tư, nâng cấp, xây dựng các cơ sở hạ tầng,
công trình công cộng nâng cao mức sống dân cư. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự ra
đời đóng vai trò chia sẻ gánh nặng rủi ro về tài chính cho người có hành vi gây thiệt
hại; khắc phục kịp thời thiệt hại về vật chất của bên thứ ba bị thiệt hại; góp phần
bình ổn đời sống vật chất của các chủ thể trong xã hội.
Thứ tư, nghiệp vụ này góp phần không nhỏ trong việc các công ty bảo hiểm
tái đầu tư một phần lợi nhuận vào việc đề phòng hạn chế tổn thất. Các công ty bảo
hiểm lớn đầu tư hàng tỷ đồng cho việc xây dựng các đường lánh nạn, đường phụ,
hốc cứu nạn tại các đèo dốc và nguy hiểm như: đèo Cả, đèo Cù Mông, đèo Hải
Vân,… hay tuyên truyền, khuyến khích các chủ phương tiện tự giác thực hiện các
biện pháp hạn chế, đề phòng tổn thất hoặc giảm phí bảo hiểm cho các phương tiện
sau một thời gian không gặp sự cố nào. Các biện pháp trên trước mắt giúp các công
ty bảo hiểm giảm bớt rủi ro trong kinh doanh bảo hiểm và tăng thu nhập, nhưng
cũng góp phần quan trọng làm giảm thiểu tai nạn giao thông, hạn chế tổn thất góp
phần ổn định đời sống xã hội.

17


1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới
1.2.1. Đối với hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Các quy định chung được áp dụng đối với tất cả các loại hình bảo hiểm trong
đó có bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được quy định trong
Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010), Nghị định số

73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm, Thông tư số 50/2017/TTBTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh
doanh bảo hiểm. Đây là những quy định chung nhất, là cơ sở pháp lý cho hoạt động
kinh doanh bảo hiểm nói chung. Các tổ chức cá nhân tham gia giao kết hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới trước tiên phải tuân theo các quy
định điều chỉnh chung này, bao gồm các quy định về doanh nghiệp bảo hiểm, hợp
đồng bảo hiểm, về hạch toán doanh thu, đại lý, hoa hồng bảo hiểm…, bao gồm các
quy định sau:
Nghị định số 103/2008/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới ngày do Chính phủ ban hành ngày 16/09/2008.
Thông tư số 103/2009/TT-BTC Quy định việc quản lý, sử dụng, thanh toán
và quyết toán quỹ bảo hiểm xe cơ giới do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành ngày
25/05/2009.
Thông tư liên tịch số 35/2009/TTLT/BTC-BCA Hướng dẫn thực hiện một số
điều của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2008 về bảo hiểm bắt
buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 25/02/2009 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính và Bộ trưởng Bộ Công an.
Các quy định riêng áp dụng trong chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự trong
đó áp dụng đối với bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là các
quy định áp dụng chung cho tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự trong
đó có bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Các quy định này
18


được quy định tại mục 4 (từ Điều 52 đến Điều 57) Luật Kinh doanh bảo hiểm năm
2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010).
Các quy định đặc thù của bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới trong hợp đồng bảo hiểm: được quy định trong văn bản do Chính phủ ban
hành và văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính: Nghị định 103/2008/NĐ-CP ngày

16/9/2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới; Nghị định số 214/2013/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2008 của chính phủ về bảo
hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 20/12/2013; Thông tư số
151/2012/TT-BTC về sửa đổi, bổ sung Thông tư số 126/2008/TT-BTC ngày
22/12/2008 của Bộ Tài chính quy định quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách
nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và Thông tư số
103/2009/TT-BTC ngày 25/5/2009 của bộ tài chính quy định việc quản lý, sử dụng,
thanh toán và quyết toán quỹ bảo hiểm xe cơ giới ngày 12/09/2012; Thông tư
35/2009/TTLT-BTC-BCA ngày 25/02/2009 của liên bộ tài chính, Bộ Công an
hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày
16/9/2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới; Thông tư số 43/2014/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số
126/2008/TT-BTC ngày 22/12/2008 của Bộ tài chính quy định quy tắc, điều khoản,
biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới, Thông tư số 103/2009/TT-BTC ngày 25/5/2009 của Bộ Tài chính quy định
việc quản lý, sử dụng, thanh toán và quyết toán quỹ bảo hiểm xe cơ giới và Nghị
định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm, Thông tư số
50/2017/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi
tiết thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Kinh doanh bảo hiểm. Văn bản hợp nhất số 25/VBHN-BTC của Bộ tài chính
về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 27/06/2014;
Thông tư số 22/2016/TT-BTC của Bộ tài chính quy định quy tắc, điều khoản, biểu
phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
ngày 16/02/2016; Văn bản hợp nhất số 37/VBHN-BTC của Bộ tài chính quy định
19


quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới ngày 29/07/2014.
1.2.2. Đối với hợp đồng bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 6 Nghị định 103/2008/NĐ-CP và Văn bản
hợp nhất số 25/VBHN-BTC của Bộ tài chính về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới ngày 27/06/2014: “Ngoài việc tham gia hợp đồng bảo hiểm
bắt buộc trách nhiệm dân sự, chủ xe cơ giới có thể thỏa thuận với doanh nghiệp
bảo hiểm để tham gia hợp đồng bảo hiểm tự nguyện”[16].
Bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là bảo hiểm trách
nhiệm dân sự mà việc tham gia bảo hiểm hay không tùy thuộc vào ý chí của mỗi
khách hàng.
Trong trường hợp khách hàng tham gia bảo hiểm theo nhiều hợp đồng bảo
hiểm thì việc chi trả bồi thường sẽ áp dụng theo những quy định trên và quy định
bảo hiểm chung theo nhiều hợp đồng bảo hiểm. Khi đó việc phân chia số tiền bồi
thường thiệt hại trên mỗi hợp đồng bảo hiểm sẽ được tính dựa theo tỷ lệ số tiền bảo
hiểm trên mỗi hợp đồng với tổng số tiền bảo hiểm xe ô tô trên tất cả các hợp đồng
bảo hiểm khác
Bên cạnh đó, hợp đồng bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới còn áp dụng theo quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đã
được ban hành theo Văn bản hợp nhất số 37/VBHN-BTC của Bộ tài chính quy định
quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới ngày 29/07/2014 và Thông tư số 22/2016/TT-BTC của
Bộ tài chính quy định quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm
bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 16/02/2016. Ngoài ra, mẫu
giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện của chủ xe mô tô – xe máy và ô tô được quy
định tại Phụ lục 5.1, 5.2 ban hành kèm theo Thông tư số 151/2012/TT-BTC ngày 12
tháng 09 năm 2012 của Bộ Tài chính và Văn bản hợp nhất số 37/VBHN-BTC của
Bộ tài chính quy định quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm
bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 29/07/2014 tại khoản 1.3 Điều
1 Chương II.


20


Ngoài ra, việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
tự nguyện của chủ xe cơ giới cũng cần đảm bảo các nguyên tắc chung, cơ bản của
hợp đồng bảo hiểm nói chung, được điều chỉnh tại: Luật Kinh doanh bảo hiểm năm
2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2010), Nghị định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết
thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Kinh doanh bảo hiểm.

21


×