Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá truyền thống ở huyện ba vì, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (938.26 KB, 83 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====o0o=====

NGUYỄN THỊ DUYÊN

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
DI SẢN VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG
Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

HÀ NỘI - 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====o0o=====

NGUYỄN THỊ DUYÊN

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
DI SẢN VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG
Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. HOÀNG THANH SƠN



HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới giảng viên Hoàng Thanh Sơn
ngƣời đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các quý thầy cô trong Trƣờng Đại học Sƣ phạm
Hà Nội 2 đặc biệt là các thầy cô Khoa Giáo dục Chính trị và các thầy cô trong tổ
Chủ nghĩa xã hội đã giảng dạy em trong suốt thời gian qua.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, tháng 05 năm 2019
Tác giả

Nguyễn Thị Duyên


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của TS
Hoàng Thanh Sơn. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 05 năm 2019
Tác giả

Nguyễn Thị Duyên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1

Chƣơng 1. MỘT SỐ LÍ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA ..........................................6
1.1. Sơ lƣợc các quan điểm về văn hóa ...................................................................6
1.2. Lý luận về về văn hoá và di sản văn hoá ........................................................11
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG GÌN GIỮ VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA TRUYỀN
THỐNG HUYỆN BA VÌ HIỆN NAY ......................................................................21
2.1. Cơ sở hình thành văn hóa truyền thống ở Ba Vì ...........................................21
2.2. Những giá trị di sản văn hóa truyền thống huyện Ba Vì hiện nay .................23
2.3. Những yếu tố ảnh hƣởng đến việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền
thống ở Ba Vì .........................................................................................................38
2.4. Công tác quản lý, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống ở Ba Vì ...........44
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY VĂN
HÓA TRUYỀN THỐNG Ở BA VÌ HIỆN NAY ......................................................59
3.1. Quan điểm của Đảng, chính sách của nhà nƣớc về bảo tồn và phát huy văn
hóa truyền thống ....................................................................................................59
3.2. Phƣơng hƣớng bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống .............................62
3.3. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống ..........................65
KẾT LUẬN ...............................................................................................................75
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................77


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trải qua hàng chục thế kỉ, Việt Nam đã tạo đƣợc một cốt cách, tâm hồn, vẻ
độc đáo riêng. Một đất nƣớc có nền văn hiến lâu đời với những văn hóa truyền
thống tốt đẹp. Những giá trị đó tồn tại lâu đời và xuyên suốt quá trình hình thành,
phát triển của dân tộc ta. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã trải qua những bƣớc thăng
trầm với bao biến cố. Song đó cũng là minh chứng cho sức mạnh hùng hồn và tác
dụng to lớn của văn hóa truyền thống. Nó đƣợc lƣu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác và trở thành hệ quy chiếu trong đời sống, cách nghĩ, cách ứng xử, trong mối
quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời. Bên cạnh đó, văn hóa truyền thống còn ảnh

hƣởng rất lớn đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con ngƣời.
Xã hội ngày càng phát triển,muốn phát triển vững mạnh thì con ngƣời lại
càng phải hiểu biết sâu sắc về truyền thống của dân tộc mình. Đất nƣớc ta đang
bƣớc vào giai đoạn cách mạng mới, nhiệm vụ mới- thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nƣớc. Phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng
xã hội chủ nghĩa, tham gia hội nhập và toàn cầu hóa tạo tiền đề, động lực cho phát
triển của đất nƣớc. Trong xu thế đó, bên cạnh những thời cơ thuận lợi do các trào
lƣu mới đem lại thì con ngƣời chịu không ít những ảnh hƣởng tiêu cực đến từ các
lĩnh vực đến từ các lĩnh vực của đời sống xã hội mà nhất là lối sống, mối quan hệ
giữa con ngƣời với nhau.
Ngày nay, sự phát triển của mỗi quốc gia không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào
mức độ phát triển về kinh tế, phát triển khoa học kĩ thuật mà còn phụ thuộc vào chất
lƣợng cuộc sống, vào sự giàu có giữa vật chât và tinh thần. Vậy nên, văn hóa nói chung
và văn hóa truyền thống nói riêng không thể thiếu trong sự phát triển bền lâu của mỗi
quốc gia. Trong các kì Đại hội IV, VII, VIII, IX, X của Đảng đã khăng định rất rõ, cụ
thể ở Đại hội X khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,
đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.
Nhƣ vậy, để tồn tại và phát triển đất nƣớc ta phải kết hợp giữa truyền thống
và hiện đại và tạo ra nguồn lực, sức mạnh dân tộc làm động lực, làm chỗ dựa vững

1


chắc. Từ những vấn đề cấp thiết trên, một yêu cầu đặt ra là phải nhận thức đƣợc tầm
quan trọng của văn hóa truyền thống trong quá trình phát triển đất nƣớc. Đặc biệt là
đất nƣớc ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì vấn đề cần phải đƣợc
quan tâm và nghiên cứu từ đó đƣa ra những phƣơng hƣớng giải quyết cho việc gìn
giữ và phát huy những giá trị truyền thống đó. Cần phải tìm hiểu, nghiên cứu thực
trạng ở từng cơ sở địa phƣơng để đƣa ra biện pháp phù hợp với văn hóa truyền
thống của địa phƣơng đó.

Ba Vì là nơi rất giàu có về văn hóa, vùng đất địa linh, nhân kiệt, một vùng
đất tối cổ, có truyền thống văn hoá lâu đời, độc đáo với đặc trƣng bởi 3 dân tộc
Kinh - Mƣờng - Dao với những phong tục, tập quán, nét văn hoá riêng biệt. Nhắc
tới Ba Vì có lẽ ấn tƣợng đầu tiên sẽ là một nền văn hoá dân gian vật thể và phi vật
thể độc đáo. Trong đó huyền thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh, bản anh hùng ca hùng
tráng nhất về sức mạnh Việt Nam trong thời kỳ dựng nƣớc. Đó là truyền thuyết về
vị thần đƣợc ngƣỡng kính trong tâm thức ngàn đời của ngƣời dân đất Việt. Bên
cạnh đó còn có rất nhiều các di tích đƣợc xếp hạng đặc biệt quan trọng cấp quốc gia
nhƣ Đền Thƣợng - Đền Trung - Đền Hạ, Đình Chu Quyến,... Ba Vì còn đƣợc thiên
nhiên ƣu đãi ban tặng cả bức tranh sơn thuỷ hữu tình, hệ sinh thái phong phú, thảm
thực vật đa dạng, đƣợc coi là "lá phổi xanh" nằm phía Tây thủ đô Hà Nội. Nơi đây
có rất nhiều cảnh quan thiên nhiên tƣơi đẹp,cùng với các danh lam thắng cảnh nổi
tiếng nhƣ: Ao Vua, Khoang Xanh - Suối Tiên, Hồ Tiên Sa (gắn liền với truyền
thuyết "Sơn Tinh - Thuỷ Tinh"),... Về với Ba Vì là về với cội nguồn của dân tộc và
văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên do sự phát triển của kinh tế, văn hóa mà Ba Vì nói
chung và đặc biệt là văn hóa ở nơi đây đang phải đối diện với những giá trị của nền
văn hóa hiện đại đã thấy sự cần thiết phải tiếp thu, nhƣng vẫn còn lúng túng. Trƣớc
tình hình đó đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, lực chọn và vận dụng cho phù hợp nhất.
Xuất phát từ những lí do trên tôi đã chọn đề tài: “Bảo tồn và phát huy di sản văn
hoá truyền thống ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội hiện nay” làm khóa luận tốt
nghiệp của mình.`

2


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nói tới văn hóa ngƣời ta sẽ đề cấp ngay đến di sản văn hóa (Cultural
heritage). Diện mạo văn hóa dân tộc trƣớc tiên dễ nhận ra chính là những tài sản
văn hóa ngàn đời để lại cho đời sau. Vẻ đẹp giá trị của di sản văn hóa giống nhƣ
những lớp vàng ròng trầm tích đọng thành các đồng bằng châu thổ lớn bên bờ con

sông văn hóa miệt mài uốn lƣợn qua những bến bờ thời gian. Có lẽ vì thế mà khi
nghiên cứu về văn hóa, d sản văn hóa là một lĩnh vực đƣợc giới nghiên cứu trong và
ngoài nƣớc đặc biệt quan tâm tìm hiểu và khảo sát ở nhiều cấp độ trên các phƣơng
diện lí thuyết cũng nhƣ thực tiễn.
Những công trình nghiên cứu về văn hóa:
Ở nƣớc ta nghiên cứu về di sản văn hóa trƣớc tiên phải kể đến công trình
Việt Nam Văn hóa sử cƣơng của Đào Duy Anh(1983) với quan điểm: “Ta muốn trở
thành một nƣớc cƣờng thịnh về vật chất vừa về tinh thần thì phải giữ văn hóa cũ (di
sản) làm thể (gốc, nền tảng); mà lấy văn hóa mới làm dụng nghĩa là phải khéo điều
hòa tinh túy của văn hóa phƣơng Đông với những điều sở trƣờng về khoa học của
văn hóa phƣơng Tây”
Năm 1997, GS.TS Hoàng Vinh hoàn thành cuốn sách Một số vấn đề về bảo
tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc. Từ những quan niệm di sản văn hóa của
quốc tế và Việt Nam, tác giả đã đƣa ra hệ thống lý luận một cách rõ ràng về di sản
văn hóa, đồng thời cũng văn dụng nghiên cứu di sản văn hóa của nƣớc ta. Năm
2002, Luật di sản văn hóa và văn bản hƣớng dẫn thi hành đƣợc coi là văn bản pháp
quy về di sản văn hóa.
Công trình Một con đƣờng tiếp cận di sản văn hóa do Bộ Văn hóa Thông tin
ấn hành, Hà Nội năm 2006 đã tập hợp nhiều bài nghiên cứu lý luận cũng nhƣ thực
tiễn, có thể làm tƣ liệu nghiên cứu cho đề tài. Trong đó tiêu biểu với các bài: “ khảo
cổ học với công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hóa” của Vũ Quốc Hiền, “Bảo
tồn di tích, nhân tố quan trọng của phát triển bền vững” của Lê Thành Vinh, “Di
tích lịch sử và văn hóa đồng bằng sông Hồng” (Đặng Văn Hồng), “Giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc Việt Nam” Giáo sƣ Trần Văn Giàu, Nhà xuất bản Khoa

3


học xã hội, Hà Nội, “Giá trị truyền thống -nhân lõi và sức sống bên trong của sự
phát triển đất nƣớc, dân tộc” của PGS. PTS Nguyễn Văn Huyên, tạp chí triết học số

4 năm 2006, “Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển” của
Giáo sƣ Nguyễn Trọng Chuẩn, tạp chí triết học số 6 năm 2002, Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Thúy Nga (2014), “Quản lý di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn huyện Ba
Vì thành phố Hà Nội”, “Bảo tồn, tôn tạo và xây dựng khu di tích lịch sử, văn hóa
Đƣờng Lâm” Phan Huy Lê.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu lí luận chung về văn hóa, về di sản văn
hoá, khóa luận làm rõ hơn về vấn đề gìn giữ và phát huy di sản văn hóa truyền
thống của huyện Ba Vì trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó đề xuất một số giải
pháp có tính định hƣớng việc gìn giữ, phát huy di sản văn hóa truyền thống của
huyện Ba Vì.
Nhiệm vụ: Để đạt đƣợc mục đích trên khóa luận cần thực hiện những nhiệm
vụ sau:
- Hệ thống hoá lý luận về văn hoá, văn hoá truyền thống và di sản văn hoá.
- Sự hình thành và các giá trị văn hoá trong các di sản văn hoá vật thể và phi
vật thể ở huyện Ba Vì; những yếu tố ảnh hƣởng đến việc bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa truyền thống và công tác quản lý, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền
thống ở huyện Ba Vì.
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những thành tựu và
hạn chế trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá truyền thống ở huyện Ba Vì.
- Khoá luận xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa truyền thống hƣớng tới việc phát triển bền vững huyện Ba Vì nói riêng và
của đất nƣớc nói chung.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá truyền thống ở
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: Di sản văn hoá ở huyện Ba Vì

4



5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nêu trên, khóa luận đã dực vào một số cơ
sở lí luận, phƣơng pháp luận của chủ nghĩa xã hội khoa học, phân tích, tổng hợp,
phƣơng pháp lịch sử, hệ thống hóa, khái quát hóa,...
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Khóa luận làm rõ hơn cơ sở lí luận và thực tiễn của của việc bảo tồn và phát
huy di sản văn hoá ở huyện Ba Vì hiện nay.
Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên trong việc tìm hiểu và
nghiên cứu văn hóa truyền thống ở Ba Vì nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo khoá luận bao
gồm 3 chƣơng, 9 tiết

5


Chƣơng 1. MỘT SỐ LÍ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA
1.1. Sơ lƣợc các quan điểm về văn hóa
“Văn hóa là sản phẩm, là tinh hoa của con ngƣời và do con ngƣời sáng tạo ra
từ thủa bình minh của xã hội loài ngƣời. Văn hóa là khái niệm mở mang tính xã hội
và tính xã hội sâu sắc. Cùng với sự phát triển của xã hội, khái niệm văn hóa luôn
đƣợc bổ sung và mở rộng liên tục. Vì vậy, từ lâu văn hóa đã đƣợc các nhà nghiên
cứu cả phƣơng Tây và phƣơng Đông quan tâm đến.”
1.1.1. Quan niệm phương Tây
Ở phƣơng Tây, thuật ngữ văn hóa đƣợc bắt nguồn từ tiếng Latinh là Cutus
(Cultussagri) có nghĩa là trồng trọt, vun xới ngoài đồng sau đó đƣợc chuyển thành
trồng trọt tinh thần (Cultusanimi).
“Vào thế kỉ XVIII, khái niệm văn hóa đƣợc tiếp cận gần hơn nó giống nhƣ
một thuật ngữ khoa học Pu-phen-doóc (Pufendorf) và đây là một nhà nghiên cứu

pháp luật ngƣời Đức là ngƣời đầu tiên đƣa ra thuật ngữ văn hóa vào khoa học. Ông
cho rằng văn hóa là tất cả những gì đối lập với tự nhiên. Với quan điểm này đã hiểu
văn hóa quá rộng sau Pu-phen-doóc, Hécđe(Hender) cho rằng: “Văn hóa là sự hình
thành lần thứ hai của con ngƣời”, ông nói: lần thứ nhất của con ngƣời xuất hiện nhƣ
một thực thể tự nhiên, lần thứ hai của con ngƣời hình thành nhƣ một thực thể xã hội
tức là văn hóa theo nghĩa toàn vẹn.”
“Đây là quan niệm tiêu biểu nhất của thế kỉ này nó có ý nghĩa to lớn đánh
dấu việc con ngƣời bằng văn hóa đã tìm thấy đƣờng ranh giới tách mình ra khỏi các
hình thức tồn tại khác của vật chất và tách con ngƣời ra khỏi giới động vật. nó đánh
dấu chuyển từ tƣ duy tôn giáo sang tƣ duy trí tuệ và khắc phục những hạn chế trong
quan niệm trung cổ về con ngƣời.”


Đến thế kỉ XIX thuật ngữ về văn hóa đƣợc những nhà nhân loại học phƣơng

Tây sử dụng nhƣ một danh từ. Họ cho rằng văn hóa thế giới có thể phân loại ra từ
trình độ thấp đến trình độ cao nhất và văn hóa chiếm vị trí cao nhất. Vì vậy, họ cho
rằng bản chất của văn hóa thiên về trí lực và sự vƣơn lên sự phát triển tạo thành văn
minh, đại biểu là E.B Taylor. Theo ông, văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu

6


biết, tín ngƣỡng, đạo đức, nghệ thuật, phong tục, những khả năng, tập quán khác mà
con ngƣời có đƣợc với tƣ cách là một thành viên của xã hội.”
“Học thuyết về văn hóa giữ một địa vị há quan trọng trong hệ thống triết học
của Kanto, Heeghen, ... Cá nhà triết học ngƣời Đức đều có quan điểm duy tâm về
văn hóa và coi nhẹ cơ sở vật chất về văn hóa. Kanto quan niệm về văn hóa là sự
phát triển,là sự bộc lộ khả năng, sức mạnh và các năng lực có sẵn ở con ngƣời. Ở
Heeghen lại đồng nhất văn hóa với giáo dục.”

Các nhà khai sáng Pháp cũng rất quan tâm đến văn hóa. Với Vôn-te ông cho
rằng văn hóa là văn minh, là sự phát triển của các ngành nghề. Bên cạnh đó Rút-xô
quan niệm văn hóa là một hiện tƣợng xã hội và chỉ ra rằng tƣ hữu tƣ sản là nguồn
ngốc của sự đồi bại đạo đức.
“Trong xã hội phƣơng Tây hiện đại, khái niệm văn hóa đƣợc phát triển rất đa
dạng và phong phú, dựa trên các quan niệm khác nhau về văn hóa mà các nhà
nghiên cứu xếp thành những định nghĩa nhất định nhƣ: Định nghĩa mang tính chất
miêu tả, định nghĩa mang tính chất lịch sử, nhấn mạnh vào sự kế thừa di sản xã hội,
định nghĩa nhấn mạnh vào nếp sống xã hội, định nghĩa nhấn mạnh vào thích ứng
của con ngƣời, định nghĩa nhấn mạnh tới tính chất di truyền của xã hội tức khả năng
học tập của con ngƣời, định nghĩa nhấn mạnh tới phƣơng thức ứng xử, định nghĩa
nhấn mạnh tới khía cạnh tƣ tƣởng của văn hóa, định nghĩa nhấn mạnh tới phƣơng
diện giá trị của văn hóa, định nghĩa nhấn mạnh tới hoạt động sáng tạo lịch sử nhằm
hình thành nên hệ thống giá trị xã hội... đặc điểm chung của các nhóm định nghĩa
văn hóa trên là các nhà nghiên cứu thƣờng nhấn mạnh tới một khía cạnh nào đó của
văn hóa để phù hợp với cách tiếp cận của họ.”
“Sang thế kỉ XX khái niệm văn hóa đã đƣợc thay đổi, theo F.Bao ý nghĩa văn
hóa đƣợc quy định do khung giải thích riêng và không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao
siêu nhƣ “trí lực” vì thế sự khác nhau về mặt văn hóa từng dân tộc không phải theo
tiêu chuẩn trí lực trên. Đó cũng là “tƣơng đối luận” của văn hóa. Văn hóa không xét
theo ở mức độ cao thấp mà ở góc độ khác biệt. Nhƣ vậy trong lịch sử phƣơng Tây
đã tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về văn hóa từ cổ đại đến hiện đại.”

7


1.1.2. Quan niệm phương Đông
“Ở phƣơng Đông khái niệm văn hóa đƣợc xác định và bổ sung theo tiến trình
của lịch sử. Ở Trung Quốc khái niệm văn hóa xuất hiện rất sớm. Trong Chu Dịch
quẻ Bi đã có từ văn và hóa: xem dáng vẻ của con ngƣời và lấy đó là giáo hóa thiên

hạ. Về sau văn hóa đƣợc dùng với nghĩa “văn trị giáo hóa” tức là dùng thi, thƣ, lễ,
nhạc để cai trị thiên hạ. Văn là cái đẹp, hóa là hóa thành cái đẹp tạo ra cái đẹp, giáo
là giáo dục. “văn trị giáo hóa” là dùng cái đẹp để giáo dục thiên hạ và để họ cảm
nhận đƣợc chân lý, tuân theo. Văn hóa với hàm nghĩa “văn tự giáo hóa” đƣợc dùng
tới thế kỉ XIX.”
Nhƣ vậy từ thời cổ đại đã quan niệm về văn hóa ở phƣơng Đông và phƣơng
Tây có điểm giống nhau: văn hóa gắn liền với giáo dục. Nhƣng ở phƣơng Đông
quan niệm văn hóa lại chịu ảnh hƣởng khá rõ nét của tƣ tƣởng Nho giáo.
“Quan niệm về văn hóa của các nhà nghiên cứu Việt Nam trong dòng chảy
chung của nhân loại cũng dần dần đƣợc hình thành. Tiểu biểu là của Đào Duy Anh,
một nhà nghiên cứu văn hóa. Trong “Việt Nam văn hóa sử cƣơng” năm 1938 ông
quan niệm: văn hóa là sinh hoạt. Điều kiện của mỗi dân tộc là khác nhau, do đó đời
sống tinh thần cũng khác nhau, sinh hoạt là tiêu chí để thấy đƣợc sự khác nhau giữa
các dân tộc.”
“Phạm Văn Đồng, một nhà chính trị, nhà văn hóa Việt Nam trong tác phẩm
“văn hóa và đổi mới” ông đƣa ra định nghĩa: “nói một cách đơn giản và theo nghĩa
rộng thì văn hóa là tất cả những gì không phải của thiên nhiên mà là tất cả những gì
ở trong con ngƣời do con ngƣời làm ra”.”
Trƣờng Chinh trong “chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam” năm 1949: văn
hóa là một vấn đề rất lớn bao gồm văn hóa nghệ thuật khoa học triết học phong tục
tập quán tôn giáo...
“Căn cứ vào nghĩa gốc của Culute trong tiếng la tinh giáo sƣ Vũ Khiêu một
nhà văn hóa học Việt Nam cho rằng”: “văn hóa thể hiện trình độ đƣợc vun trồng
của con ngƣời, của xã hội...văn hóa là trạng thái của con ngƣời ngày càng tách ra
khỏi giới động vật, ngày càng xóa bỏ những đặc tính của động vật, để khẳng định
những đặc tính của con ngƣời”.

8



1.1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong lĩnh
vực nghiên cứu sẽ cung cấp một cái nhìn cụ thể toàn diện về văn hóa.
Quan điểm về văn hóa trong học thuyết Mác tiếp nhận các yếu tố hợp lý
trong quan điểm văn hóa của loài ngƣời. Ông coi sự vận động của giá trị văn hóa
gắn với sự vận động của phƣơng thức sản xuất và đấu tranh giai cấp. Tìm nguyên
nhân kinh tế và xã hội làm cho con ngƣời bị tha hóa, giải phóng, phát triển những
năng lực, bản chất của con ngƣời.
“Nói về sự sáng tạo của các giá trị văn hóa thì C.Mác và Ăng-ghen bàn về
các “lực lƣợng bản chất ngƣời”. Trong “bản thảo kinh tế triết học” C.Mác viết:
“chúng ta nhận thấy lịch sử công nghiệp và sự tồn tại của nền công nghiệp là quyển
sách mở của lực lƣợng sản xuất ngƣời”. Còn trong một tác phẩm khác C.Mác và
Ăng-ghen viết: “của cải là gì nếu không phải là sự biểu hiện tuyệt đối của những tài
năng sáng tạo của con ngƣời không cần đến tiền đề nào khác ngoài sự phát triển đã
có, sự phát triển vốn lấy cái chỉnh thể của sự phát triển làm mục đích tự thân, tức là
mọi lực lƣợng bản chất ngƣời, bất chấp mọi quy luật đã định trƣớc. Căn cứ vào mức
độ tự nhiên đƣợc con ngƣời biến thành bản chất ngƣời. Tức là mức độ tự nhiên
đƣợc con ngƣời khai thác, cải tạo thì có thể xét đƣợc trình độ văn hóa chung của
con ngƣời”.” [15, tr39]
“Nhƣ vậy C.Mác và Ăng-ghen lần đầu tiên chứng minh tính chất xã hội của
lực lƣợng bản chất ngƣời. Một trong những lực lƣợng bản chất ấy là sức lao động
và là tài năng sáng tạo của con ngƣời. Đó không phải là lực lƣợng bẩm sinh, xuất
hiện một cách tự nhiên mà chúng thay đổi do các tác động của quan hệ sản xuất, do
trình độ phát triển văn hóa. Những lực lƣợng ấy đƣợc khách thể hóa thông qua hoạt
động cải tạo thế giới của con ngƣời, hoạt động này là phƣơng thức tồn tại và tái sản
xuất ra đời sống xã hội.”
“Xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử C.Mác và Ăng-ghen
đã đƣa ra khái niệm về văn hóa. Theo cách tiếp cận này văn hóa là sản phẩm sáng
tạo của con ngƣời, nó bao gồm hai lĩnh vực là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.


9


Hai lĩnh vực này có mối quan hệ biện chứng với nhau. Sự phân chia nhƣ vậy chỉ có
ý nghĩa tƣơng đối. Văn hóa là sản phẩm của một quá trình lịch sử xã hội, do đó là
một hiện tƣợng lịch sử và xã hội.”
“Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ cách mạng Việt Nam, danh nhân văn hóa
thế giới thế kỉ XX đã tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại đặc biệt là tinh thần của
chủ nghĩa Mác”. Suy ngẫm về văn hóa, ngƣời viết “vì lẽ sinh tồn cũng nhƣ mục
đích của cuộc sống loài ngƣời mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phƣơng tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo phát
minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phƣơng thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài ngƣời đã sản sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu đời
sống và đòi hỏi sự sinh tồn”. [10, tr409]
“Để xây dựng nền văn hóa mới sau khi giành đƣợc độc lập, có nguồn lực con
ngƣời. Con ngƣời có học vấn, có đời sống vật chất bảo đảm sống trong hòa bình ổn
định và yếu tố quan trong nhất trong sự nghiệp đó. Ngƣời đã phát động phong trào ba
chống: chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.” Những năm đầu của cách mạng
tháng 8, Ngƣời cho rằng: “văn hóa phải gắn liền với lao động sản xuất”.
Điểm thống nhất giữa quan điểm giữa chủ tịch Hồ Chí Minh và tƣ tƣởng của
các nhà sáng lập ra học thuyết mác xít ở chỗ: tất cả đều xem xét lao động là sáng
tạo, là cội nguồn của văn hóa.
“Tại hội nghị quốc tế Meehico, do Unesco chủ trì từ ngày 26/7 đến 06/8 năm
1983 ngƣời ta đã đƣa ra 200 định nghĩa. Đến ngày 21/1/1988 khi phát động “thập kỉ
thế giới phát triển văn hóa”, Federico Mayor tổng giám đốc Unesco cũng đƣa ra
một định nghĩa: văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi
mặt của cuộc sống con ngƣời đã diễn ra trong quá khứ và cũng nhƣ đang diễn ra
trong hiện tại, qua hàng bao thế kỉ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị
truyền thống, thẩm mĩ và lối sống mà dựa trên điều kiện từng dân tộc để tự khẳng

định bản sắc riêng của mình”.”
“Ngày nay các định nghĩa về văn hóa tiếp tục tăng lên ngày càng nhiều.
Theo thống kê của hai nhà văn hóa học ngƣời Mỹ là Corobo và Cơlackhon, tính đến

10


năm 1950 đã có 164 định nghĩa về văn hóa. Theo nhà xã hội học ngƣời Pháp là
Mones, đến năm 1967 có 250 định nghĩa đến năm 1994 theo Phan Ngọc một nhà
nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tổng kết có khoảng 400 định nghĩa văn hóa.”
1.2. Lý luận về về văn hoá và di sản văn hoá
1.2.1. Lý luận về về văn hoá
1.2.1.1. Quan niệm về văn hoá
“Tiếp thu tinh thần chung của các quan niệm về văn hóa chúng ta có thể hiểu
rằng “văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con ngƣời
sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tƣơng tác giữa
con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và xã hội”. [13, tr102]
“Khi nói đến văn hóa là nói đến những giá trị, đó là những giá trị tốt đẹp. Nói
đến giá trị là nói đến cái tốt, cái hay của con ngƣời cần phải có để cuộc sống của
con ngƣời thực sự có tính ngƣời. Đó là chuẩn mực của chân-thiện-mĩ. Những hành
vi tham nhũng, ăn hối lộ, chiến tranh phá hoại...đều là những hành vi không có giá
trị bị xã hội lên án, bài trừ. Lý tƣởng mà mọi xã hội đều hƣớng tới là công bằng,
bình đẳng, không có áp bức bóc lột mọi ngƣời đƣợc sống tự do hạnh phúc cùng
đoàn kết để xã hội phát triển. Nói đến văn hóa không chỉ nói đến những giá trị văn
hóa riêng lẻ mà là nói đến tổng thể các giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Trong đó
mọi giá trị văn hóa đều có mối quan hệ với nhau và cùng phát triển theo sự phát
triển của xã hội. Văn hóa là một tổng thể vì chúng có mặt trong mọi hoạt động sống
của con ngƣời: văn hóa, giáo dục, văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị, văn hóa pháp
luật... đặc biệt văn hóa trong sản xuất vật chất thuộc quan hệ xã hội nói chung. Các
lĩnh vực này nhìn một cách thuần túy thì chƣa đƣợc gọi là văn hóa, chỉ khi nào bản

thân các lĩnh vực đó phù hợp với cuộc sống của con ngƣời, đáp ứng các mục tiêu
nhân bản vì sự phát triển của con ngƣời thì nó mới có tính văn hóa. Ví dụ: khi sản
xuất công cụ lao động là văn hóa, nhƣng sản xuất vũ khí phục vụ chiến tranh là
hành vi phi văn hóa.”
“Nói đến văn hóa là nói đến những gì con ngƣời sáng tạo ra. Văn hóa là sản
phẩm do con ngƣời sáng tạo ra. Nói cách khác là cái tự nhiên thứ hai do con ngƣời

11


nhận thức thế giới và tự ý thức về mình, nó tạo ra một thế giới tối ƣu cho mình. Sự
sáng tạo không phải là bừa bãi mà nó theo một quy luật của tự nhiên của xã hội.
Văn hóa là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn, từ thực tiễn con ngƣời nhào
nặn tự nhiên ra cái mới. Quá trình đó, thành quả của nó là văn hóa. Tƣ liệu sinh hoạt
nhƣ cơm ăn, áo mặc đến các tƣ liệu sản xuất đều là thành quả của lao động.”
“Những công cụ sinh hoạt hằng ngày tinh vi hiện đại là điều kiện cho con
ngƣời khám phá thế giới tự nhiên, hiểu sâu sắc chính bản thân mình. Có thể nói văn
hóa là sản phẩm là kết quả những sáng tạo mà con ngƣời có đƣợc từ các hoạt động
thực tiễn. Văn hóa đƣợc nhắc đến nhƣ một hiện tƣợng mang tính lịch sử. Theo dòng
lịch sử, những gì tốt đẹp đều đƣợc loài ngƣời lƣu giữ tích lũy và truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Kho tàng giá trị văn hóa không ngừng đƣợc bổ sung phong
phú và giàu có. Văn hóa là tổng thể các giá trị tốt đẹp của một cộng đồng ngƣời
trong quá trình lịch sử mấy nghìn năm. Nó thể hiện sức sống mãnh liệt và bản lĩnh
của một dân tộc.”
“Theo nghĩa tổng quát nhất truyền thống là những yếu tố di tồn văn hóa xã
hội thể hiện trong chuẩn mực hành vi, tƣ tƣởng, phong tục tập quán, thói quen, lối
sống, cách ứng xử của cộng đồng ngƣời đƣợc hình thành trong lịch sử và đã trở
lên ổn định, đƣợc truyền từ đời này sang đời khác và đƣợc lƣu giữ lâu dài hàng
nghìn năm. Lịch sử cho thấy rằng truyền thống mang trong bản thân nó có tính hai
mặt rõ rệt:”

“Thứ nhất, truyền thống góp phần suy tôn, giữ gìn những gì quý giá, cốt cách,
nền tảng cho sự phát triển, sự vận động đi lên của cộng đồng dân tộc. Xét từ mặt
này thì truyền thống mang ý nghĩa tích cực, cái góp phần tạo nên sức mạnh, là chỗ
dựa không thể thiếu của dân tộc trên con đƣờng đi tới tƣơng lai.”
“Thứ hai, truyền thống đồng thời còn là mảnh đất hết sức thuận lợi cho sự
dung dƣỡng, duy trì và làm sống lại các mặt lạc hậu bảo thủ lỗi thời khi điều kiện và
hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi. Nó có tác dụng không nhỏ trong việc kìm hãm, níu
kéo làm chậm sự phát triển của một quốc gia, dân tộc và hạn chế giao lƣu hoặc thi
hành chính sách đóng cửa với thế giới bên ngoài vì nhiều lý do khác nhau. Hay nói

12


một cách khác nhắc đến giá trị truyền thống là nhắc đến những truyền thống nào đã
có sự đánh giá, đã đƣợc thẩm định nghiêm ngặt của thời gian, đã có sự chọn lọc, sự
phân định và khẳng định ý nghĩa tích cực của chúng đối với xã hội trong giai đoạn
lịch sử nhất định. Mỗi dân tộc dù ở trình độ văn minh cao hay thấp đang phát triển
hay đã phát triển thì cũng có những truyền thống đặc trƣng của riêng mình. Hệ
thống giá trị đó chính là sự kết tinh của tất cả những gì tốt đẹp nhất qua các thời đại
lịch sử khác nhau để làm nên bản sắc riêng của dân tộc đó. Nó đƣợc truyền lại cho
thế hệ sau và cùng với thời gian, cùng với sự tiến triển của lịch sử sẽ đƣợc bổ sung
thêm vào các giá trị mới. Trong hệ thống các giá trị Việt Nam có không ít những giá
trị mà chúng ta có thể bắt gặp ở nhiều dân tộc khác. Điều đó cũng dễ hiểu bởi vì
trong cái dân tộc không bao giờ nằm ngoài cái nhân loại.”
1.2.1.2. Quan niệm về văn hóa truyền thống
Truyền thống là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt không thể nói đến sự phát
triển nếu không có sự kế thừa và phát huy những điều tốt đẹp có trong quá khứ.
“Thuật ngữ truyền thống xuất phát từ tiếng Latinh có nghĩa là lƣu truyền,
luân chuyển, mang lại trao lại. Trong bách khoa toàn thƣ liên xô định nghĩa: “truyền
thống là tục lệ, trật tự, quy tắc cƣ xử truyền từ đời này sang đời khác”. Trong từ

điển tiếng việt giải thích: “truyền thống là đức tính, tập quán, tƣ tƣởng, lối sống
đƣợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác”.”
“Truyền thống là cái có trong lịch sử, trong những điều kiện lịch sử nào đó
nhƣng có khi những điều kiện đó không còn nữa mà truyền thống vẫn còn. Đó là biểu
hiện tính bền vững của truyền thống. Tính bền vững tƣơng đối của truyền thống là có
thể bị suy thoái hoặc mất đi. Truyền thống thƣờng mất đi khi các điều kiện làm nảy
sinh nó, nuôi dƣỡng nó không còn đƣợc duy trì. Lúc này nảy sinh ra hiện tƣợng “đứt
gãy truyền thống”. Trong những điều kiện mới của xã hội, truyền thống mới đƣợc nảy
sinh cùng với thời gian sẽ cố định trở lại thành bền vững. Truyền thống tốt và truyền
thống xấu là hai mặt đối lập trong truyền thống dân tộc cùng hình thành trong lịch sử
của dân tộc, từ những điều kiện lịch sử tự nhiên xã hội nhất định chịu tác động của tính
cộng đồng, tính giai cấp của dân tộc. Điều này đƣợc Hồ Chí Minh khẳng định thói

13


quen và truyền thống lạc hậu là kẻ địch to lớn, nó ngấm ngầm cản trở cách mạng tiến
bộ, chúng ta lại không thể trấn áp nó mà phải cải tạo nó rất cẩn thận và lâu dài.”
“Từ những quan niệm trên chúng ta có thể hiểu: “truyền thống là những yếu
tố sinh hoạt văn hóa, tƣ tƣởng, tình cảm...hình thành trong quá trình lịch sử của mỗi
dân tộc, của mỗi giai cấp, một địa phƣơng, một đơn vị nào đó, truyền từ này sang
đời khác, thế hệ trƣớc sang thế hệ sau. Truyền thống có phần tích cực giúp vào sự
tồn tại và phát triển, nhƣ truyền thống yêu nƣớc, lao động (truyền thống tốt đẹp)
cũng có phần tiêu cực xóa bỏ”.”
“Truyền thống không phải là một cái gì đó có sẵn nảy sinh trong một thời gian
và bất biến mà là chuẩn mực và quy tắc ứng xử của xã hội, của một cộng đồng lớn
hay nhỏ đƣợc lặp đi lặp lại qua nhiều thế hệ trong một không gian ít thay đổi lớn và
ăn sâu vào tiềm thức, tình cảm của con ngƣời trong đời sống. Vì thế nhận thức đƣợc
đặc điểm và bản chất của truyền thống giúp chúng ta biết trân trọng, gìn giữ và phát
huy những truyền thống tốt đẹp đồng thời biết cải tạo truyền thống xấu.”

“Điều này đối lập với những quan niệm sai lầm của các học giả và tiến sĩ khi
cho rằng: truyền thống là vĩnh cửu bất biến, chỉ có truyền thống tốt không có truyền
thống xấu, chỉ cần kế thừa phát huy mà không cần phải thay đổi hoặc bổ sung.
Truyền thống chỉ trở thành sức mạnh vật chất khi đƣợc chăm chút một cách công
phu và lâu dài bằng những biện phát và hình thức có tầm cỡ chiến lƣợc xã hội cho
tới hành vi cụ thể trong sinh hoạt gia đình, học đƣờng của mỗi ngƣời.”
Từ những định nghĩa của truyền thống nêu trên sẽ là cơ sở để xác định những
thành tố của truyền thống để dạy lại cho thế hệ sau. Truyền thống bao gồm những
thành tố cơ bản nhƣ:
“Thứ nhât, tập hợp những tƣ tƣởng tình cảm, những tập quán thói quen của
một cộng đồng (khi nghiên cứu từng truyền thống để làm tăng tính cụ thể, để xác
định rõ hơn nội dung của truyền thống, nên cụ thể hóa truyền thống thành quan
niệm tình cảm thái độ).
Thứ hai, đƣợc hình thành trong lịch sử và đã trở thành ổn định.
Thứ ba, đƣợc lƣu truyền từ đời này qua đời khác.

14


Thứ tƣ, đƣợc biểu hiện trong tâm lý, lối sống của cộng đồng (với ý nghĩa lối
sống là toàn bộ hoạt động sống của con ngƣời).”
“Truyền thống chính là một bộ phận của văn hóa, nó thể hiện tính liên tục của
văn hóa, đánh dấu trình độ phát triển và tƣơng đối ổn định của văn hóa trên lĩnh vực
sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần. Biểu hiện của nó qua mối quan hệ giữ
ngƣời với ngƣời, ổn định mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội thỏa mãn
những nhu cầu tiến bộ và hạnh phúc của cá nhân.”
1.2.1.3. Phân loại văn hóa
Phân loại sự vật và hiện tƣợng là một trong những cách nhận thức thâu tóm
bản chất của sự vật và hiện tƣợng trong tự nhiên, xã hội đa dạng phong phú. Phân
loại văn hóa là một nhu cầu chính đáng trong nghiên cứu. Theo quan niệm của

UNESCO bao gồm 2 loại:
“Di sản “văn hóa vật thể” đƣợc hiểu là những sản phẩm văn hóa có thể „sờ
thấy đƣợc”. Văn hóa vật thể là một dạng thức tồn tại của văn hóa chủ yếu dƣới dạng
vật thể có hình khối, có chiều cao, có chiều rộng, trọng lƣợng, đƣờng nét, màu sắc,
kiểu dáng tồn tại trong không gian và thời gian xác định. Di sản văn hóa vật thể
đƣợc tạo ra từ bàn tay khéo léo, tinh vi của con ngƣời và nó để lại dấu ấn lịch sử rõ
rệt. Văn hóa vật thể đƣợc khách thể hóa và tồn tại nhƣ một thực thể ngoài bản thân
con ngƣời. Di sản văn hóa vật thể luôn phải chịu sự thách thức của quy luật bào
mòn của thời gian, trong sự tác động của con ngƣời của thời đại sau. Di sản văn hóa
vật thể luôn đứng trƣớc nguy cơ biến dạng hoặc thay đổi rất nhiều so với nguyên
gốc. Hiện nay, vấn đề bảo tồn những di sản văn hóa vật thể lâu đời đòi hỏi công
nghệ kĩ thuật cao mới có thể phục nguyên lại nhƣ cũ.”
“Di sản “văn hóa phi vật thể” là dạng thức tồn tại của văn hóa không phải chủ
yếu dƣới dạng vật thể có hình khối trong không gian và thời gian, mà nó tiềm ẩn trong
trí nhớ, trong kí ức cộng đồng, ở tập tính, ở hành vi ứng xử của con ngƣời, thông qua
các hoạt động sống của con ngƣời trong sản xuất, giao tiếp xã hội mà nó thể hiện ra. Từ
đó ngƣời ta có thể nhận biết đƣợc sự tồn tại của “văn hóa phi vật thể”.”
“Đặc trƣng rõ nhất của “văn hóa phi vật thể” là nó luôn luôn tiềm ẩn trong
tâm thức của một cộng đồng, xã hội và chỉ bộc lộ ra qua hành vi và hoạt động của

15


con ngƣời. “Văn hóa phi vật thể” đƣợc lƣu giữ trong thế giới tinh thần của con
ngƣời và thông qua các hình thức diễn xƣớng, nó đƣợc bộ lộ sinh động trong tƣ
cách một hiện tƣợng văn hóa.”
“Di sản “văn hóa phi vật thể” đƣợc hiểu là các tập quán, các hình thức thể
hiện, biểu đạt tri thức, kĩ năng và kèm theo đó là các cộng cụ, đồ vật, đồ tạo tác và
các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm và một số trƣờng
hợp là cá nhân, công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Đƣợc chuyển giao từ

thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể đƣợc các cộng đồng và nhóm
không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trƣờng và mối quan hệ qua lại giữa cộng
đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về
bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa
và tính sáng tạo của con ngƣời”.[1, tr142]
“Cũng giống nhƣ di sản văn hóa vật thể, các hiện tƣợng văn hóa phi vật thể
cũng có thể bị mai một, biến dạng hoặc mất đi vĩnh viễn bởi thách thức của thời
gian, bởi sự vô ý thức của con ngƣời. Trong thực tế, chúng ta thƣờng có xu hƣớng
thêm bớt hoặc lãng quên trong quá trình lƣu giữ những giá trị phi vật thể. Cho nên,
văn hóa phi vật thể vừa có tính bền vững (trong kí ức của cộng đồng) lại vừa mang
tính mong manh và dễ bị tổn thƣơng (phụ thuộc vào cuộc sống của một cá nhân nghệ nhân với những may rủi bất ngờ). Hơn nữa, văn hóa phi vật thể còn có nguy
cơ bị biến dạng rất cao bởi tính dị bản của nó do sự can thiệp của các nhóm xã hội
qua các thời đại lịch sử. Trên cơ sở đồng thuận với quan niệm của UNESCO, Luật
Di sản văn hóa của Việt Nam phân loại văn hóa nhƣ sau:”
“Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, đƣợc lƣu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, đƣợc lƣu truyền bằng truyền miệng,
truyền nghề, trình diễn và các hình thức lƣu giữ, lƣu truyền khác, bao gồm tiếng
nói, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xƣớng
nhân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri
thức về y, dƣợc học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân
tộc và các tri thức dân gian khác. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá

16


trị lịch sử, văn hóa, khoa học bao gồm các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng
cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia,... Giá trị đặc biệt quý hiếm của bảo vật quốc
gia đƣợc thể hiện bằng các tiêu chí: Hiện vật nguyên gốc, độc bàn; hình thức độc
đáo; có giá trị tiểu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học thể hiện: Là vật chứng của
một sự kiện lớn hoặc gắn bó với cuộc sống, sự ngiệp của anh hùng dân tộc, danh

nhân kiệt xuất; Là tác phẩm nghệ thuật nỏi tiếng về giá trị tƣ tƣởng - nhân văn, giá
trị thẩm mỹ và hình thức thể hiện tiêu biểu cho một khuynh hƣớng, một phong cách,
một thời đại; Là sản phẩm đƣợc phát minh, sáng chế tiêu biểu có giá trị thực tiễn
cao, có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển ở một giai đoạn lịch sử nhất định.”
“Nhƣ vậy, rõ ràng là di sản văn hóa phi vật thể luôn sống trong tâm trí con
ngƣời, đƣợc con ngƣời nắm giữ các tri thức, hiểu biết về nó để trình diễn các kĩ
năng thực hành biểu hiện giá trị của nó. Di sản văn hóa phi vật thể luôn đồng hành
cùng con ngƣời, luôn gắn với kí ức của con ngƣời theo dòng lịch sử. Di sản văn hóa
vật thể tồn tại trong tri giác, đƣợc nhận biết thông qua các giác quan của con ngƣời,
trong sự thừa nhận của một cộng đồng xã hội kéo dài theo thời gian lịch sử xã hội.”
1.2.1.4. Cấu trúc văn hóa
“Có nhiều cách tiếp cận trong việc nghiên cứu văn hóa vì vậy có nhiều quan
điểm khác nhau về cấu trúc của văn hóa. Một số tác giả chia văn hóa thành văn hóa
vật chất; văn hóa xã hội; văn hóa tinh thần hay văn hóa tƣ tƣởng… nhƣng cách chia
phổ biến và thƣờng đƣợc nhiều ngƣời thừa nhận hơn cả là cách tiếp cận chia văn
hóa thành hai lĩnh vực là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Con ngƣời có hai
nhu cầu cơ bản là là nhu cầu vật chất và nhu cầu về mặt tinh thần. Từ đó các dạng
tồn tại của văn hóa (văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể) chính là cơ sở của việc
phân chia này.”
“Văn hóa vật chất là toàn bộ những giá trị sáng tạo của con ngƣời đƣợc thể
hiện trong các sản phẩm vật chất do xã hội tạo ra và kể cả các tƣ liệu sản xuất cho
đến các tƣ liệu tiêu dùng của xã hội. Trong những giai đoạn khác nhau của xã hội
thì các sản phẩm do xã hội tạo ra cũng khác nhau, nó phản ánh các giai đoạn khác
nhau của xã hội. Những sản phẩm vật chất do con ngƣời tạo ra nhƣ: đồ ăn, đồ mặc,

17


ở, đồ dùng sinh hoạt hằng ngày, phƣơng tiện đi lại… là các giá trị văn hóa vật chất.
Cùng với quá trình lao động sản xuất, hoạt động khoa học, con ngƣời cũng không

ngừng chinh phục tự nhiên, tôn tạo thêm những cảnh đẹp của thiên nhiên để chúng
trở thành những danh lam thắng cảnh, những kì quan phục vụ chính con ngƣời, nhƣ
là: vịnh Hạ Long, Hội An, rừng Cúc Phƣơng,… Những giá trị văn hóa vật chất, vì
thế mà ngày càng phong phú, đặc sắc thêm theo sự phát triển của lịch sử xã hội.”
“Văn hóa tinh thần là toàn bộ những giá trị của đời sống tinh thần bao gồm cả
khoa học và nghiên cứu để áp dụng những thành tựu khoa học đó vào sản xuất và
sinh hoạt; trình độ học vấn; giáo dục y tế; nghệ thuật; chuẩn mực đạo đức trong
hành vi của các thành viên trong xã hội; trình độ phát triển nhu cầu của con
ngƣời;… văn hóa tinh thần còn đƣợc thể hiện trong những phong tục, tập quán,
trong những phƣơng thức giao tiếp và ngôn ngữ.”
“Việc phân chia văn hóa vât chất và văn hóa tinh thần chỉ là tƣơng đối, không
thể quá tách bạch giữa các lĩnh vực với nhau. Bởi lẽ, ngay trong văn hóa vật thể lại
có văn hóa phi vật thể và ngƣợc lại. Những giá trị văn hóa thƣờng gắn với cá nhân
nhƣng trong các cá nhân đó đã mang hay thể hiện tính xã hội, cá nhân tạo ra sản
phẩm văn hóa dựa trên cơ sở xã hội nhất định. Giá trị văn hóa của cá nhân cũng
mang tính xã hội, tính xã hội đó đã đƣợc xã hội công nhận. Cho nên văn hóa mang
tính xã hội cùng với lịch sử các giá trị văn hóa đƣợc lƣu truyền qua nhiều thế hệ, tạo
nên bản sắc văn hóa của các dân tộc và khẳng định sự tồn tại của dân tộc ấy.”
“Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần có
quan hệ biện chứng với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Khi xã hội phát triển
thì đồng thời nhu cầu vật chất cũng tăng lên. Sự sáng tạo ra các giá trị vật chất phát
triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên đó. Nhu cầu vật chất phát triển dẫn tới
nhu cầu về tinh thần cũng phát triển. Khi nhu cầu tinh thần phát triển đến một mức
độ nhất định nào đó sẽ tác động trở lại làm cho nhu cầu vật chất phát triển cao hơn.
Do đó những sáng tạo vật chất và tinh thần tác động thúc đẩy nhau cùng phát triển.”
1.2.2. Lý luận về di sản văn hoá
“Trong xu thế hội nhập quốc tế, các quốc gia dân tộc cần phải hƣớng tới việc
tôn trọng sự đa dạng văn hóa và bảo vệ, tôn vinh bản sắc văn hóa dân tộc để tạo nền
tảng tinh thần cho phát triển.


18


“Văn hóa cần đƣợc nhìn nhận nhƣ một bộ phận hữu cơ trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Kinh tế và văn hóa là hai yếu tố tƣơng tác, phụ thuộc và bổ
sung cho nhau. Và do đó, việc bảo tồn di sản văn hóa không đƣợc cản trở, mà
ngƣợc lại, còn phải tạo ra động lực cho phát triển xét dƣới góc độ tác động tới việc
hình thành nhân cách con ngƣời và đào tạo nguồn nhân lực có chất lƣợng phục vụ
trực tiếp cho phát triển.”
“Di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể) đƣợc xác định là bộ phận quan trọng
cấu thành môi trƣờng sống của con ngƣời. Di sản văn hóa là loại tài sản quý giá không
thể tái sinh và không thể thay thế nhƣng rất dễ bị biến dạng do tác động của các yếu tố
ngoại cảnh (khí hậu, thời tiết, thiên tai, chiến tranh, sự phát triển kinh tế một cách ồ ạt,
sự khai thác không có sự kiểm soát chặt chẽ. Và cuối cùng là việc bảo tồn, trùng tu
thiếu chuyên nghiệp không theo đúng những chuẩn mực khoa học v.v….).”
Con ngƣời đƣợc coi là trung tâm của quá trình phát triển. Và do đó, di sản văn
hóa phải đƣợc gắn với con ngƣời và cộng đồng cƣ dân địa phƣơng (với tƣ cách là chủ
thể sáng tạo văn hóa và chủ sở hữu tài sản văn hóa), coi việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
văn hóa lành mạnh của đông đảo công chúng trong xã hội là mục tiêu hoạt động.
“Yếu tố hiện đại là những giá trị văn hóa đƣợc sáng tạo căn bản dựa trên cơ
sở những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa
văn hóa nhân loại. Nhƣ thế, hiện đại chính là sự hội nhập giữa dân tộc và quốc tế.
Và cái gọi là hiện đại hôm nay (những giá trị văn hóa do chúng ta sáng tạo ra) sẽ trở
thành quá khứ của tƣơng lai - cái mà chúng ta gọi là cổ truyền. Rõ ràng, giữa cổ
truyền và hiện đại có rất nhiều gạch nối và sự bổ sung liên tục bởi những giá trị văn
hóa. Công tác bảo tồn và trùng tu di tích chính là hoạt động nhằm vào việc giữ gìn
ngọn lửa truyền thống văn hóa và đem đến ý nghĩa sinh động cho khái niệm truyền
thống. Có thể hiểu việc “giữ lửa và tiếp lửa” là thổi sinh khí văn hóa cổ truyền vào
hiện đại, mang hơi ấm mùa xuân vào cái hôm nay, để cho cổ truyền không bao giờ
xƣa cũ, mà luôn luôn mới và có vị trí xứng đáng trong đời sống đƣơng đại.”

“”Di sản văn hóa là sản phẩm của những điều kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế
và chính trị cụ thể qua nhiều thời kỳ lịch sử. Vì thế, mối liên hệ của các di tích lịch

19


sử và văn hóa với thời kỳ lịch sử của chúng đƣợc sáng tạo ra là những thông tin mà
những ngƣời làm công tác bảo tồn và trùng tu cần quan tâm, trong đó có hai yếu tố
quan trọng nhất là tính nguyên gốc và tính chân xác lịch sử của di tích. Tính nguyên
gốc gắn bó với những bộ phận cấu thành của di tích đƣợc sáng tạo ngay từ lúc khởi
dựng ban đầu. Còn tính chân xác lịch sử lại gắn với những dấu ấn sáng tạo đƣợc hình
thành trong quá trình tồn tại của di tích (các bộ phận kiến trúc, vật liệu, kỹ thuật xây
dựng, chức năng truyền thống và những công năng tƣơng ứng của di tích…). Nhƣ
vậy, yếu tố nguyên gốc và yếu tố chân xác lịch sử sẽ quyết định các mặt giá trị của di
tích. Đến lƣợt mình, các mặt giá trị của di tích và nhu cầu khai thác và sử dụng nó sẽ
quyết định phƣơng pháp bảo tồn và trùng tu di tích của chúng ta.””
Di sản văn hoá bao gôm có di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thế:
Di sản văn hoá vật thế là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa
học, bao gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật quốc gia
“Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn liền với cộng đồng hoặc
cá nhân, vật thể và không gian văn hoá liên quan, có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa
học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng đƣợc tái tạo và đƣợc lƣu truyền
từ thế hệ này sang thể hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các
hình thức khác.Di sản văn hoá phi vật thế bao gồm: Tiếng nói, chữ viết; Ngữ văn
dân gian; Nghệ thuật trình diễn dân gian; Tập quán xã hội và tín ngƣỡng; Lễ hội
truyền thống; Nghề thủ công truyền thống; Tri thức dân gian.”

20



×