Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua dạy trẻ kể lại chuyện theo đồ chơi, theo tranh (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.5 KB, 78 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
======

VŨ THỊ THU UYÊN

PHÁT TRIỂN LỜI NÓI MẠCH LẠC CHO TRẺ
MẪU GIÁO LỚN THÔNG QUA DẠY TRẺ KỂ LẠI
CHUYỆN THEO ĐỒ CHƠI, THEO TRANH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp phát triển ngôn ngữ
Người hướng dẫn khoa học

TH.S LÊ BÁ MIÊN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trường Đại học sư
phạm Hà Nội 2, các thầy cô giáo khoa Giáo dục Mầm non đã giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi cho em trong suốt khóa học.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Th.S Lê Bá Miên là người
đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo giúp em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cô giáo và các bé
lớp 5TA6, trường Mầm non Đại Thịnh – Mê Linh – Hà Nội đã giúp em hoàn
thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 03 tháng 05 năm 2017
Sinh viên


Vũ Thị Thu Uyên


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Đề tài “Phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo
lớn thông qua dạy trẻ kể lại chuyện theo đồ chơi, theo tranh” là kết quả
nghiên cứu của riêng mình, khóa luận không sao chép từ tài liệu sẵn có nào. Đề
tài chưa được công bố trong bất cứ một công trình khoa học nào khác.
Hà Nội, ngày 03 tháng 05 năm 2017
Sinh viên
Vũ Thị Thu Uyên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1.Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 3
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 5
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 6
7. Giới thuyết đề tài ........................................................................................ 6
8. Kết cấu khóa luận ....................................................................................... 6
NỘI DUNG........................................................................................................ 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN............................................ 7
1.1. Cơ sở lý luận............................................................................................ 7
1.1.1. Lời nói mạch lạc và đặc trưng lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo lớn 7
1.1.1.1. Khái niệm lời nói mạch lạc ......................................................... 7
1.1.1.2. Các kiểu lời nói mạch lạc............................................................ 7
1.1.1.3. Đặc trưng lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo lớn ......................... 8

1.1.1.4. Sự cần thiết phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn ......
9
1.1.1.5. Nhiệm vụ phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn ....... 10
1.1.2. Một số đặc điểm của trẻ mẫu giáo lớn ............................................. 11
1.1.2.1. Đặc điểm tâm lý........................................................................ 11
1.1.2.2. Đặc điểm sinh lý ....................................................................... 13
1.1.2.3. Đặc điểm tư duy ....................................................................... 15
1.1.2.4. Đặc điểm ngôn ngữ................................................................... 15
1.2. Cơ sở thực tiễn....................................................................................... 18
1.2.1. Chương trình học của trẻ mẫu giáo lớn ở trường mầm non.............. 18
1.2.2. Thực tiễn dạy học ở trường mầm non Đại Thịnh ............................. 19


CHƯƠNG 2: DẠY TRẺ KỂ CHUYỆN THEO ĐỒ CHƠI, THEO TRANH .... 23
2.1. Dạy trẻ kể chuyện theo đồ chơi............................................................. 23
2.1.1. Tầm quan trọng của việc dạy trẻ kể chuyện theo đồ chơi................. 23
2.1.2. Đặc điểm của dạy trẻ kể chuyện theo đồ chơi.................................. 23
2.1.3. Yêu cầu trong giờ dạy trẻ kể lại chuyện theo đồ chơi ...................... 24
2.1.4. Quy trình thực hiện khi dạy trẻ kể chuyện theo đồ chơi................... 25
2.1.5. Các biện pháp sử dụng trong khi dạy trẻ kể chuyện theo đồ chơi.... 28
2.1.5.1. Biện pháp quan sát.................................................................... 28
2.1.5.2. Biện pháp cô đặt các lời kể miêu tả........................................... 28
2.1.5.3. Biện pháp trò chơi .................................................................... 29
2.2. Dạy trẻ kể chuyện theo tranh.................................................................. 29
2.2.1. Tầm quan trọng của việc dạy trẻ kể chuyện theo tranh .................... 29
2.2.2. Đặc điểm của dạy trẻ kể chuyện theo tranh...................................... 30
2.2.3. Yêu cầu trong giờ dạy trẻ kể lại chuyện theo tranh .......................... 31
2.2.4. Quy trình thực hiện dạy trẻ kể lại chuyện theo tranh ....................... 32
2.2.5. Các biện pháp sử dụng tranh trong giờ dạy trẻ kể chuyện theo tranh35
2.2.5.1. Biện pháp sử dụng tranh kết hợp với lời kể mẫu của cô ............ 36

2.2.5.2. Biện pháp sử dụng tranh kết hợp với cho trẻ kể lại chuyện ....... 36
2.2.5.3. Biện pháp sử dụng tranh kết hợp với trò chuyện theo hệ thống
câu hỏi................................................................................................... 37
2.2.5.4. Biện pháp cho trẻ kể chuyện theo tranh trẻ tự vẽ....................... 38
2.3. Một số giáo án dạy trẻ kể lại truyện ....................................................... 40
2.3.1. Giáo án dạy trẻ kể lại truyện theo tranh ........................................... 40
2.3.2. Giáo án dạy trẻ kể chuyện theo đồ chơi ........................................... 44
KẾT LUẬN...................................................................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 52


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trẻ em là những mầm non tương lai của đất nước nên trẻ luôn nhận được rất
nhiều sự quan tâm của gia đình, nhà trường và xã hội để có thể phát triển toàn
diện về mọi mặt. Trong thời đại nền kinh tế ngày một phát triển như hiện nay thì
trẻ em cũng ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Giáo dục mầm non là khâu
đầu tiên của quá trình đào tạo nên nhân cách con người, là mắt xích đầu tiên
trong hệ thống giáo dục quốc dân. Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục mầm non là
hình thành cho trẻ những cơ sở ban đầu của nhân cách con người mới.
Ngày nay trẻ em được quyền phát triển về tất cả mọi mặt như: đức, trí, văn,
thể, mỹ. Trong các mục tiêu giáo dục toàn diện cho trẻ mầm non, phát triển
ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất. Những nghiên
cứu thuộc nhiều lĩnh vực như: Tâm lý học, giáo dục học, ngôn ngữ học…. đã chỉ
ra vai trò to lớn của ngôn ngữ đối với sự phát triển của trẻ. Ngôn ngữ đóng vai
trò vô cùng quan trọng, quyết định trực tiếp đến sự thành công của con người, sự
hình thành và phát triển của xã hội loài người. Ngôn ngữ là công cụ để tư duy, là
chìa khóa để nhận thức và là vũ khí để chiếm lĩnh kho tàng tri thức của nhân
loại. Ngôn ngữ có nhiệm vụ đặc biệt trong việc tiếp thu kiến thức nói riêng và
giáo dục trẻ trở thành những con người phát triển toàn diện nói chung. Ngôn ngữ

của trẻ phát triển tốt sẽ giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt, góp phần to lớn vào
việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Do đó, việc rèn luyện và phát
triển ngôn ngữ cho trẻ là hết sức quan trọng và phải bắt đầu từ sớm ngay từ lứa
tuổi mầm non.
Phát triển ngôn ngữ ở độ tuổi mẫu giáo là việc làm vô cùng quan trọng và
không hề đơn giản cần phải hoàn thành ở độ tuổi mẫu giáo lớn để chuẩn bị hành
trang vững chắc cho trẻ bước vào lớp một. Ở độ tuổi 5 – 6 tuổi, yêu cầu đối với

1


trẻ không chỉ dừng lại ở việc phát triển vốn từ, câu mà bắt buộc trẻ phải nói
mạch lạc. Do đó, trẻ phải hiểu và biết sử dụng từ để thể hiện suy nghĩ, tiếp nhận
thông tin từ người khác một cách rõ ràng, chính xác. Trẻ phải có khả năng trình
bày đúng, có trình tự, có hình ảnh một nội dung nhất định góp phần phát triển tư
duy logic của trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ trong giao tiếp sẽ
giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn khoa học khác như: Làm quen với toán,
môi trường xung quanh, âm nhạc, tạo hình…đặc biệt là bộ môn làm quen với
văn học. Bộ môn làm quen văn học thông qua dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện, đóng
kịch…tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động nhiều; giúp trẻ phát triển trí nhớ,
ngôn ngữ và tư duy logic; khả năng cảm thụ cái hay, cái đẹp, cái tốt, cái xấu của
mọi vật xung quanh trẻ. Trong đó kể chuyện là hình thức rất phù hợp để phát
triển ngôn ngữ cho trẻ. Đặc điểm tâm lý của trẻ ở giai đoạn này là trẻ rất thích
được nghe cô giáo và người lớn kể chuyện. Trẻ có thể ngồi hàng giờ chỉ để nghe
cô kể chuyện rồi nhẹ nhàng đi vào giấc ngủ say sưa với chàng hoàng tử, nàng
công chúa hay những ông Bụt, bà Tiên trong các câu chuyện cổ tích. Nghe
người khác kể chuyện với trẻ đã là điều rất thú vị nhưng trẻ thường luôn muốn
được tự mình kể chuyện, tự mình nói nói lên những hiểu biết, suy nghĩ, cảm xúc
về những thứ xung quanh mà trẻ thấy. Tuy nhiên khả năng truyền đạt những
thái độ, cảm xúc thông qua lời nói của trẻ trong lời kể vẫn chưa phát triển đầy

đủ. Vì vậy đây chính là thời điểm thích hợp để chúng ta dạy trẻ kể chuyện.
Thông qua việc dạy trẻ kể lại chuyện theo các bức tranh, đồ chơi hay các vật
thực xung quanh sẽ góp phần phát triển lời nói mạch lạc ở trẻ.
Vấn đề phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn luôn là vấn đề
được các nhà nghiên cứu quan tâm và khai thác.Tất cả những nghiên cứu đó đều
nhằm mục đích tìm ra những biện pháp, phương thức tốt nhất để phát triển lời
nới mạch lạc cho trẻ. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy, trẻ mầm non đặc biệt là trẻ
5 – 6 tuổi, hiện tượng trẻ nói câu què, câu cụt khá phổ biến. Cùng với việc phát

2


triển của xã hội, các chương trình giải trí, phim ảnh, âm nhạc, sách truyện hoặc
từ chính các bậc cha mẹ, việc trẻ “nói bậy, chửi tục” cũng là vấn đề rất đáng lo
ngại. Bên cạnh đó là hàng loạt lỗi sai như : sắp xếp từ không chính xác; dùng từ
không đúng nghĩa; dùng từ trùng lặp, dài dòng; kết hợp từ sai… dẫn đến việc
hiểu sai, hiểu nhầm, khó hiểu. Do đó, việc phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ là
rất cần thiết.
Chính vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Phát triển lời nói mạch lạc
cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua dạy trẻ kể lại chuyện theo đồ chơi, theo tranh”
làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình. Chúng tôi nghĩ rằng đây là một đề
tài rất hấp dẫn và thiết thực với những người quan tâm đến trẻ em và ngành giáo
dục mầm non.
2. Lịch sử vấn đề
Từ trước đến nay những vấn đề về trẻ em đều được các nhà khoa học rất quan
tâm. Đặc biệt là việc phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ đã có rất nhiều nghiên
cứu khoa học thành công và được xã hội ghi nhận.
Trong cuốn “Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo”, NXB
ĐHSP, năm 2004 tác giả Nguyễn Xuân Khoa đã nghiên cứu rất kỹ sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo. Trên cơ sở những đánh giá chung về đặc điểm sinh

lý của trẻ ở lứa tuổi này và dựa trên mối quan hệ của bộ môn ngôn ngữ học với
những bộ môn khác ông đã đưa ra được một số phương pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ mầm non, trong đó bao gồm cả vấn đề phát triển lời nói mạch lạc
cho trẻ.
Cùng với Nguyễn Xuân Khoa, Đinh Hồng Thái trong cuốn “Giáo trình
phương pháp phát triển lời nói trẻ em”, NXB ĐHSP, năm 2007 đã viết rất chi
tiết về lời nói mạch lạc và các hình thức, phương pháp phát triển lời nói mạch
lạc cho trẻ mẫu giáo.

3


Luận án tiến sĩ của Vũ Thị Hương Giang, ĐHSP Hà Nội, năm 2007 đã bàn
về “Một số phương pháp dạy trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện với đồ chơi nhằm phát
triển lời nói mạch lạc”. Luận án này đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận của việc
phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua kể chuyện với đồ
chơi, thực trạng việc sử dụng các biện pháp dạy trẻ kể chuyện với đồ chơi nhằm
phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ ở các trường mầm non hiện nay. Bên cạnh đó,
trong luận án của mình Vũ Thị Hương Giang còn xây dựng được một số biện
pháp kể chuyện với đồ chơi rất sáng tạo, phát huy tốt khả năng sử dụng lời nói
mạch lạc ở trẻ.
Cũng nghiên cứu về việc dạy trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện theo tranh, Nguyễn
Thùy Linh lại có cái nhìn ở góc độ khác. “Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo kể
chuyện theo tranh liên hoàn có chủ đề”, Nguyễn Thùy Linh đã tìm được phương
thức hiệu nghiệm dùng tranh liên hoàn có chủ đề trong việc dạy trẻ mẫu giáo
lớn kể lại chuyện.
Luận án tiến sĩ “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ
5 – 6 tuổi thông qua kể chuyện theo tranh” của Nguyễn Thị Xuân , ĐHSP Hà
Nội đã điều tra được thực trạng về việc sử dụng các biện pháp dạy trẻ kể chuyện
theo tranh và thực trạng việc sử dụng ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi.

Nguyễn Thị Xuân đã đưa ra được kết luận khoa học và đề xuất những kiến nghị
về biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ .
Luận án “Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi kể lại chuyện văn
học nhằm phát triển lời nói mạch lạc” của Âu Thị Hảo đã điều tra thực trạng
ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá và kiểm
tra giả thiết khoa học, đồng thời xử lý kết quả nghiên cứu bằng toán thống kê.
Hồ Lam Hồng cũng nghiên cứu vấn đề này trong luận văn : “Sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua kể chuyện”.

4


Có thể nói hầu hết các công trình nghiên cứu, các nhà khoa học đều đưa ra
được những biện pháp hữu hiệu nhằm phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ;
đồng thời cụ thể hóa các cơ sở lý luận có liên quan như: đặc điểm phát triển
ngôn ngữ của trẻ mầm non, biểu hiện lời nói mạch lạc của trẻ 5 – 6 tuổi, đặc
điểm lời nói mạch lạc của trẻ, các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển lời nói
mạch lạc của trẻ. Ở mỗi công trình là những khía cạnh, những ý kiến khác nhau
của từng người. Đây chính là những tài liệu bổ ích, làm cơ sở giúp chúng tôi tìm
hiểu cơ sở lý luận cho đề tài của mình.
Tuy nhiên cho tới thời điểm này, chưa có một ai và chưa có công trình nào
đi sâu vào khai thác việc phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn thông
qua dạy trẻ kể lại chuyện theo đồ chơi, theo tranh. Với đề tài nghiên cứu này,
chúng tôi đã tìm được cho mình một hướng đi riêng dựa trên sự tìm hiểu, đánh
giá và thực nghiệm của chính bản thân.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài của chúng tôi nhằm đạt 2 mục đích sau:
- Đề tài hướng tới góp phần phát triển tư duy logic cho trẻ nhằm phục vụ cho
việc giao tiếp.
- Là tư liệu để xây dựng một kiểu bài kể chuyện theo đồ chơi, theo tranh.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, chúng tôi cần thực hiện 3 nhiệm vụ sau :
- Đọc tài liệu nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
- Đi thực tế ở trường mầm non để có cơ sở thực tiễn.
- Xử lý tư liệu.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp

5


- Phương pháp thống kê
Quá trình nghiên cứu được tiến hành như sau :
+ Bước 1 : Đọc lý luận về vấn đề nghiên cứu
+ Bước 2 : Đi khảo sát thực tế để thu thập tư liệu về việc kể chuyện của trẻ ở
lớp mầm non
+ Bước 3 : Lên thống kê xử lý số liệu
+ Bước 4 : Viết khóa luận
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : Thông qua kể chuyện theo đồ chơi, theo tranh để phát
triển lời nói mạch lạc cho trẻ.
- Phạm vi nghiên cứu : trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi)
7. Giới thuyết đề tài
- Tập trung phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn.
8. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, Nội dung của khóa luận gồm hai
chương :
- Chương 1 : Cơ sở lý luận và thực tiễn

- Chương 2 : Dạy trẻ kể chuyện theo đồ chơi, theo tranh.

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Lời nói mạch lạc và đặc trưng lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo lớn
1.1.1.1. Khái niệm lời nói mạch lạc
Có rất nhiều các nhà sư phạm đã nêu ra định nghĩa về lời nói mạch lạc của
trẻ em và chúng có những điểm giống và khác nhau. Trong cuốn “Giáo trình
phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non” của PGS.TS Đinh Hồng Thái đã nêu ra định
nghĩa của tiến sĩ ngôn ngữ học Xôkhin người Nga – tác giả của nhiều cuốn sách
giáo khoa, phương pháp về phát triển ngôn ngữ trẻ em. Ông đã định nghĩa như
sau:
“Lời nói mạch lạc được hiểu là sự diễn đạt mở rộng một nội dung xác định,
được thực hiện một cách logic, tuần tự, chính xác, đúng ngữ pháp và có tính
biểu cảm”.
Chúng tôi sẽ sử dụng khái niệm này làm cơ sở lý luận xuyên suốt trong
khóa luận của mình.
1.1.1.2. Các kiểu lời nói mạch lạc
Các nhà ngôn ngữ học đã nghiên cứu và cho rằng có 2 kiểu lời nói mạch lạc
đó là hội thoại và độc thoại.
- Lời nói hội thoại là câu chuyện giữa hai hay nhiều chủ thể nói năng, bao
gồm những phản ứng tương hỗ của các cá nhân giao tiếp với nhau, các phản ứng
tự phát một cách bình thường được xác định bởi hoàn cảnh hoặc lời nói của
những người tham gia đối thoại.
Có 2 hình thức hội thoại đó là nói chuyện và đàm thoại

+ Nói chuyện là câu chuyện giữa hai hay nhiều người không nhất thiết
phải theo một chủ đề nhất định, được phát triển nhưng không được chuẩn bị kĩ

7


từ trước. Đây là hình thức đơn giản nhất của ngôn ngữ nói. Nó mang tính hoàn
cảnh và những người nói chuyện hiểu được nhau. Cần nhờ các hình thức diễn
đạt khác như nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, giọng nói…
+ Đàm thoại là câu chuyện về một chủ đề nào đó được chuẩn bị kĩ càng
với một hệ thống câu hỏi được sắp xếp, tổ chức theo kế hoạch. Nó sử dụng
nhiều hình thức ngôn ngữ tỉnh lược, những phương tiện biểu cảm phi ngôn ngữ,
các đặc tính biểu cảm của lời nói đóng vai trò quan trọng.
Lời nói hội thoại trẻ nắm tương đối dễ vì chúng được nghe nhiều trong đời
sống hàng ngày.
- Lời nói độc thoại là câu chuyện của một chủ thể nói năng trước nhiều đối
tượng giao tiếp. Đây là hình thức ngôn ngữ phức tạp nhất về tư duy và hình
thức. Người nói phải có vốn kiến thức rộng, chuẩn bị bài nói cẩn thận về nội
dung, kỹ năng ngôn ngữ tốt. Biết trình bày một cách sáng tỏ, biết kiểm tra, kiểm
soát các hình thức ngôn từ.
Trẻ học độc thoại khó vì ít nghe trong đời sống hàng ngày.
1.1.1.3. Đặc trưng lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo lớn
Ở trẻ mẫu giáo lớn, lời nói mạch lạc đã đạt trình độ cao hơn so với trẻ ở các
lứa tuổi trước là mẫu giáo bé và mẫu giáo nhỡ. Chẳng hạn:
Trẻ mẫu giáo bé phù hợp với hình thức đơn giản của lời nói đối thoại (trả
lời câu hỏi) nhưng đứa trẻ thường xa rời với nội dung câu hỏi. Chúng mới chỉ
bắt đầu nắm được kỹ năng bày tỏ một cách mạch lạc những ý nghĩ của mình,
mắc nhiều lỗi trong xây dựng câu đặc biệt là câu phức.
Lời nói của trẻ mang tính tình huống, chủ yếu là diễn đạt một cách vội
vàng. Những lời nói mạch lạc đầu tiên của trẻ được cấu tạo từ hai đến ba câu

nhưng cũng được xem đó chính là sự thể hiện mạch lạc. Dạy lời nói đối thoại
cho trẻ mẫu giáo bé và sự phát triển của nó sau đó là cơ sở để hình thành lời nói
độc thoại.


Sự phát triển lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo nhỡ lại chịu ảnh hưởng lớn
của việc tích cực hóa vốn từ (khối lượng từ lúc này đạt khoảng 700 từ), lời nói
của trẻ đã được mở rộng hơn, có trật tự hơn mặc dù cấu trúc còn chưa hoàn
thiện.
Trẻ mẫu giáo nhỡ bắt đầu học đặt những câu chuyện nhỏ theo tranh, theo
đồ chơi. Nhưng phần lớn câu chuyện của trẻ chỉ đơn thuần là mô phỏng lại mẫu
của người lớn. Trong độ tuổi này diễn ra sự phát triển mạnh mẽ lời nói văn cảnh,
có nghĩa là nói mà chỉ tự mình hiểu được.
Ở trẻ mẫu giáo lớn để trả lời các câu hỏi trẻ đã sử dụng các câu tương đối
chính xác ngắn gọn và khi cần thì mở rộng. Ở trẻ phát triển kỹ năng nhận xét lời
nói và câu trả lời của các bạn, bổ sung hoặc sửa chữa các câu trả lời đó.
Ví dụ 1: Trẻ thưa với cô: Cô ơi, bạn Nhung đi học mà vẫn khóc nhè như thế
là chưa ngoan cô nhỉ?
Ví dụ 2: Cô đàm thoại với trẻ:
Cô giáo: - Các con thấy hôm nay quần áo cô mặc có đẹp không?
Trẻ: - Con thấy ngày nào cô cũng mặc đẹp ạ.
1.1.1.4. Sự cần thiết phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn
Phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn góp phần chuẩn bị phương
tiện phát triển tư duy trực quan hình tượng ở giai đoạn cao hơn, hình thành
những cơ sở ban đầu cho sự xuất hiện kiểu tư duy logic ở giai đoạn phát triển
tiếp theo; giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh mình một cách đầy đủ , chính
xác và sâu sắc hơn. Đồng thời góp phần mở rộng phạm vi giao tiếp, phát triển
cảm xúc, tình cảm và tâm lý trẻ nói chung; nâng cao kỹ năng ngôn ngữ nói
chung của trẻ lứa tuổi này.
Như vậy, lời nói mạch lạc là một hình thức ngôn ngữ rất cần thiết cho trẻ

mẫu giáo 5 – 6 tuổi. Nó là phương tiện thỏa mãn hàng loạt nhu cầu của trẻ (nhu
cầu nhận thức, giao tiếp, phối hợp hoạt động…) đáp ứng sự phát triển của trẻ ở


giai đoạn này. Chính vì vậy, một trong những nội dung phát triển ngôn ngữ cho
trẻ ở trường mầm non là cần phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo, đặc
biệt là mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi).
1.1.1.5. Nhiệm vụ phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn
Phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo tức là phát triển kỹ năng diễn
đạt mạch lạc trong hai kiểu lời nói (đối thoại và độc thoại) thông qua ba nhiệm
vụ sau :
- Nhiệm vụ thứ nhất là phát triển vốn từ và kỹ năng sử dụng từ ngữ trong
lời nói của trẻ.
Từ là một thể thống nhất giữa âm thanh và ý nghĩa, cho nên khi cung cấp
cho trẻ một từ mới cần phải tiến hành song song các nhiệm vụ như: giúp trẻ
nhận thức mặt ý nghĩa của từ, dạy trẻ phát âm đúng từ đó đồng thời giúp trẻ biết
sử dụng từ để nói năng rõ ràng, mạch lạc, có nội dung. Việc phát triển nội dung
từ ngữ, mở rộng vốn từ và dạy trẻ biết cách sử dụng từ ngữ để diễn đạt ý nghĩ
của mình được tiến hành đồng thời trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, không
thể tách rời nhau trong quá trình trẻ tham gia vào các hoạt động ở trường mầm
non.
- Nhiệm vụ thứ hai là hình thành và phát triển cấu trúc ngữ pháp của trẻ
Trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi học nắm cấu trúc ngữ pháp Tiếng Việt không phải
bằng cách phân tích các thành phần câu, đặc điểm ngữ pháp tiếng Việt… mà trẻ
học bằng cách trực tiếp tham gia vào các hoạt động ở trường mầm non (hoạt
động vui chơi, hoạt động học tập, lao động, tham quan, dạo chơi…). Dưới sự
hướng dẫn của cô giáo, trẻ được nghe cô nói, bạn nói sau đó trẻ ghi nhớ các cấu
trúc ngữ pháp một cách tổng quát. Nhờ sự lặp đi lặp lại các cấu trúc ngữ pháp
mà trẻ nghe được, trẻ nhập tâm, bắt chước và tập sử dụng vào các tình huống
khác trong hoạt động ngôn ngữ của trẻ.

- Nhiệm vụ thứ ba là giáo dục ngữ âm cho trẻ mẫu giáo lớn


Giáo dục ngữ âm cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi là giáo dục kỹ năng ghi
nhận, phân biệt các loại âm thanh và quá trình tái hiện âm thanh. Hai quá trình
này được phát triển đồng thời trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Phát triển
ngữ âm cho trẻ mẫu giáo lớn được tiến hành dựa trên cơ sở trực quan và hành
động. Để phát triển khả năng ghi nhận và phân biệt các loại âm thanh cho trẻ, cô
giáo không cần phát âm rõ ràng các âm tiết rời rạc cho trẻ nghe mà phải gắn với
lời nói của mình. Với các tình huống cụ thể trong quá trình tổ chức các hoạt
động đa dạng của trẻ ở trường mầm non nhằm giúp trẻ được nghe các âm thanh
đa dạng, các ngữ điệu khác nhau trong lời nói. Đồng thời, để rèn luyện kỹ năng
tái hiện âm thanh, cô giáo có thể tổ chức cho trẻ kể lại chuyện theo tác phẩm văn
học, đọc thơ, diễn kịch hoặc thông qua hoạt động vui chơi.
Tóm lại, việc phát triển lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi được
thực hiện thông qua ba nhiệm vụ: phát triển vốn từ, đặc biệt là mặt ngữ nghĩa
của từ; hình thành cấu trúc ngữ pháp tiếng việt và rèn luyện kỹ năng phát âm.
Ba nhiệm vụ này được tiến hành đồng thời trong mối quan hệ chặt chẽ vói
nhau, tương hỗ lẫn nhau. Sự mạch lạc trong lời nói của trẻ 5 – 6 tuổi được thể
hiện ở cách dùng từ ngữ, cách sử dụng câu và cách cấu âm như thế nào để người
nghe hiểu một cách trọn vẹn, đầy đủ ý nghĩa, tình cảm của trẻ. Nếu như việc
trao đổi, đàm thoại giữa cô giáo với trẻ, giữa trẻ với trẻ là hình thức phát triển
khả năng mạch lạc trong lời nói đối thoại thì việc kể chuyện cho trẻ nghe và
dạy trẻ kể lại chuyện là hình thức phát triển khả năng mạch lạc trong lời nói độc
thoại.
1.1.2. Một số đặc điểm của trẻ mẫu giáo lớn
1.1.2.1. Đặc điểm tâm lý
Ý thức về cái tôi phát triển mạnh. Trẻ hiểu được chính mình và biết được
phẩm chất của mình, trẻ biết được những người xung quanh đối xử với mình ra
sao, chúng bắt đầu ý thức được những hoạt động của bản thân. Trẻ hay đưa ra

các lời nhận xét về bản thân mình và người khác. Trẻ thích tự mình quyết định


việc của mình. Trẻ bắt đầu thích nghe chuyện có chút kịch tính, phức tạp hơn
chuyện của trẻ 4 tuổi.
Tính hiếu kì phát triển mạnh: Trẻ có sự tưởng tượng rất phong phú chính vì
thế mà chúng rất hiếu kỳ, cái gì cũng muốn tìm hiểu, muốn biết. Khi thấy cái gì
mới lạ, trẻ tò mò ngắm nghía; được đi ra ngoài thì ngó trước ngó sau và luôn
miệng đặt câu hỏi “tại sao?”. Để thỏa mãn cho sự tò mò trẻ thường thích hỏi
han, thăm dò để tìm ra đáp án. Vì thế cha mẹ nên cố gắng giải thích cho con
mình hiểu một cách chi tiết, đừng quá qua loa. Nếu không trẻ sẽ cảm thấy mất
đi hứng thú để tìm hiểu mọi vật xung quanh, mà chúng chỉ dựa vào những
suy đoán của mình.
Tâm lý không ổn định: Trẻ có tâm lý không ổn định, lúc khóc lúc cười, hay
giận hờn và nổi cáu. Chúng bắt đầu có tính ích kỷ, không muốn chia sẻ bất cứ
cái gì là của mình và thích đặt mình là trung tâm. Trẻ rất nhạy cảm hay tủi thân
nếu bố mẹ không chú ý, buồn nếu bị mắng và thường cảm thấy rất có lỗi nếu
làm sai việc gì. Trẻ cũng hiếu thắng, luôn mong muốn mình phải làm đúng, làm
tốt mọi việc. Ở độ tuổi này trẻ rất thích xem phim hoạt hình, múa rối, truyện
tranh… tất cả những phim ảnh có hình tượng cụ thể. Dễ rơi vào trạng thái lúng
túng, xấu hổ.
Chuẩn bị về mặt tâm lý cho trẻ vào lớp một là bước ngoặt quan trọng trong sự
phát triển của trẻ.
* Đặc điểm tri giác:
Trẻ mẫu giáo thường tri giác những gì phù hợp với nhu cầu, những gì thường
gặp hoặc được giáo viên chỉ dẫn. Tính cảm xúc thể hiện rất rõ khi trẻ tri giác.
Những gì trực quan rực rỡ, sinh động được trẻ trực giác tốt hơn. Điều này cho
thấy tính cần thiết phải đảm bảo tính trực quan trong dạy học nói chung và trong
dạy kể chuyện nói riêng.
* Đặc điểm chú ý:



Chú ý không chủ định phát triển mạnh ở trẻ 5 – 6 tuổi. Sự chú ý của trẻ tập
trung vào những gì mới mẻ, rực rỡ. Chú ý có chủ định còn thiếu, các em chỉ
thực sự chú ý khi có động cơ cần thúc đẩy như: được cô khen, được các bạn biểu
dương, thán phục… Vì vậy khen thưởng có ý nghĩa lớn với các em.
* Đặc điểm trí nhớ:
Ở tuổi này trí nhớ trực quan phát triển mạnh hơn trí nhớ từ ngữ logic. Các trẻ
ghi nhớ những sự vật, hiện tượng cụ thể dễ dàng hơn nhiều so với những lời giải
thích dài dòng, khuynh hướng ghi nhớ máy móc là đặc điểm nổi bật và cần được
phát huy trong môn kể chuyện cho trẻ.
* Đặc điểm tưởng tượng:
Trẻ mẫu giáo là tuổi thần tiên, lứa tuổi có nhiều trí tưởng tượng phong phú
nhất, trẻ có thể tưởng tượng mình được gặp Hoàng tử, Công chúa hay hóa thân
thành Lọ Lem, Bạch Tuyết… Đó là những giấc mơ hết sức hồn nhiên và đáng
yêu của trẻ. Song tưởng tượng của trẻ còn tản mạn, rời rạc. Những đồ dùng trực
quan sinh động, những cử chỉ điệu bộ, ngôn ngữ giàu nhạc điệu của giáo viên là
điều kiện tốt để trẻ hình thành tưởng tượng.
* Sự phát triển nhân cách:
Trẻ từ 3 – 6 tuổi là thời điểm quan trọng cho việc hình thành và phát triển
nhân cách. Ở lứa tuổi này, những tác động giáo dục từ phía nhà giáo dục ảnh
hưởng chủ đạo đến sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ thơ. Trong giai
đoạn 5 – 6 tuổi, sự phát triển nhân cách của trẻ tương đối êm đềm, phẳng lặng.
Tuy nhiên cũng có những biểu hiện rõ nét mới: trẻ dễ xúc động, khó kìm hãm
cảm xúc. Tình cảm của trẻ gắn liền với đặc điểm trực quan, hình ảnh cụ thể.
1.1.2.2. Đặc điểm sinh lý
Ở trẻ mẫu giáo lớn, sự phát triển diễn ra chậm hơn so với giai đoạn trước.


- Về số lượng: Chiều cao trung bình tăng từ 4 – 6cm, đạt 105,5 – 125,5cm;

cân nặng tăng khoảng 1 – 2,5kg, đạt khoảng 15,7kg, có sự thay đổi rõ rệt về
chất lượng.
- Về hệ thần kinh: trẻ 5 – 6 tuổi cường độ và tính linh hoạt của các quá trình
thần kinh tăng lên rõ rệt. Trẻ có thể tập trung chú ý vào một đối tượng nhất định
trong thời gian 25 – 30 phút. Đồng thời, ở lứa tuổi này vai trò của hệ thống tín
hiệu thứ hai ngày càng tăng. Tư duy bằng từ ngày càng tăng, ngôn ngữ bên
trong xuất hiện. Chức năng khái quát hóa của từ đã có bước nhảy vọt gần như
người lớn ở chỗ sự khái quát hóa được thể hiện theo hoạt động với đồ vật. Vì
thế tư duy bằng hành động vẫn giữ vai trò quan trọng trong thần kinh cấp cao
của trẻ.
Ở lứa tuổi này trẻ có thể học đọc và học viết. Ngoài ra, do sự phát triển của
hệ thần kinh nên số lần ngủ trong ngày và thời gian ngủ của trẻ cũng giảm
xuống còn 11 giờ/ngày.
- Cơ quan phân tích: Trẻ 5 – 6 tuổi đã có khả năng phân biệt được một số màu
trung gian. Trẻ có khả năng thu nhận và phân biệt những kích thích (hình dáng,
màu sắc…) càng phong phú. Nhưng mức độ phong phú đó lại phụ thuộc vào sự
luyện tập của từng trẻ.
- Về hệ vận động: trẻ 5 – 6 tuổi có sự phối hợp vận động của nhiều nhóm cơ
như ở người lớn. Còn việc tiếp thu những thói quen và vận động còn phụ thuộc
vào đặc điểm của từng cơ thể trẻ, nhất là sự luyện tập phù hợp.
- Về hệ tuần hoàn: thành phần máu của trẻ cũng tăng lên và biến đổi về chất:
huyết sắc tố 80 – 90%; hồng cầu 4,5 – 5 triệu đơn vị; bạch cầu 7 – 10 nghìn; tiểu
cầu 200 – 300 nghìn. Ngoài ra, tần số co bóp của tim cũng tăng lên từ 80 – 110
lần/phút.


- Về hệ hô hấp: khe thanh âm ngắn, thanh đới ngắn, trẻ có giọng nói cao
hơn so với người lớn. Nhịp thở của trẻ giảm dần, cơ quan phát âm của trẻ
phát triển và hoàn thiện làm cho ngôn ngữ của trẻ cũng phát triển.
Tóm lại, trẻ 5 – 6 tuổi thì não bộ và thần kinh đã phát triển và dần hoàn

thiện nên trẻ rất dễ bị kích động. Do vậy người lớn và giáo viên cần tránh quát
mắng, nạt nộ trẻ, ngắt lời thô bạo khi trẻ đang tham gia học tập, vui chơi. Giáo
viên cần nhẹ nhàng, dịu gàng và tế nhị trong quá trình dạy trẻ kể chuyện.
1.1.2.3. Đặc điểm tư duy
Sự phát triển tư duy ở độ tuổi 5 – 6 tuổi mạnh mẽ về kiểu loại, các thao
tác và thiết lập nhanh chóng các mối quan hệ giữa các sự kiện, hiện tượng;
thông tn giữa mới và cũ, gần và xa…
Tư duy trực quan – hành động và tư duy trực quan – hình ảnh vẫn tiếp tục
phát triển, nghĩa là trẻ em giải quyết nhiệm vụ vẫn phải dựa vào các thao
tác bằng tay và các hình ảnh trực quan.
Đặc điểm nổi trội của trẻ ở giai đoạn này là xuất hiện một loại tư duy trực
quan mới: tư duy trực quan – sơ đồ. Đây là trình độ phát triển cao nhất của
tư duy trực quan – hình ảnh, đây cũng là cơ sở để trẻ em phát triển tư duy
tưởng tượng.
Kiểu tư duy này tạo ra cho trẻ một khả năng phản ánh những mối liên hệ
tồn tại khách quan, không bị phụ thuộc vào hành động hay ý muốn chủ
quan của bản thân đứa trẻ.
Có nhiều dạng tri thức nếu chỉ giải thích bằng lời hay tổ chức hành động với
đồ vật trẻ trẻ vẫn không thể lĩnh hội được. Nhưng nếu tổ chức cho trẻ hành
động với sơ đồ trực quan thì trẻ sẽ lĩnh hội được một cách dễ dàng. Ví dụ: chỉ
cần một sơ đồ đơn giản là một tờ giấy được cắt ra làm nhiều mảnh rồi từ
những mảnh đó chắp lại với nhau để tạo thành tờ giấy như cũ thì việc làm


đó giúp trẻ hiểu rõ một nguyên lý khá trừu tượng là: bất cứ một đối tượng
nguyên vẹn nào cũng có


thể chia ra thành nhiều bộ phận nhỏ và lại có thể khôi phục những bộ phận đó
lại thành một chỉnh thể. Tư duy trực quan – sơ đồ giúp trẻ một cách có hiệu

lực để lĩnh hội những tri thức ở trình độ khái quát cao, từ đó mà hiểu được bản
chất của sự vật. Tuy nhiên tư duy của trẻ vẫn bị sơ đồ khống chế hoàn toàn
cho nên trẻ chưa tiếp thu được những mối quan hệ trừu tượng tách khỏi sơ đồ,
nghĩa là chưa tiếp thu được khái niệm khoa học, chỉ khi vào học lớp một thì trẻ
mới tiếp thu được.
Tư duy của trẻ đang có bước chuyển biến quan trọng, tự nhận biết những
sự vật hiện tượng cụ thể chuyển sang nhận biết những hình ảnh khái quát đó
là chuẩn cảm giác.
1.1.2.4. Đặc điểm ngôn ngữ
Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục trẻ trở thành
con người phát triển toàn diện. Sự phát triển chậm trễ về mặt ngôn ngữ
có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của trẻ, đặc biệt là trẻ 5 – 6 tuổi. Cho nên
cần phải xác định rõ các đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ như: phát âm,
vốn từ, ngữ pháp… để đề ra nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức
phát triển ngôn ngữ cho trẻ đúng lúc và phù hợp.
* Đặc điểm phát âm (ngữ âm, ngữ điệu):
- Trẻ 5 – 6 tuổi: đã dần hoàn thiện về mặt ngữ âm. Các phụ âm đầu, âm cuối,
âm đệm, thanh điệu dần được định vị. Trẻ phát âm đúng hầu hết các hình
thức của âm thanh ngôn ngữ của tiếng mẹ đẻ và phát âm đúng ngay cả những
âm và vần khó, khả năng sử dụng giọng nói biểu cảm hơn.
Ví dụ: khúc khuỷu, thuyền buồm, nghênh ngang, loanh quanh…
- Trẻ học và bắt chước ngữ điệu của người lớn rất tốt, bước đầu đã biết sử
dụng các phát triển đơn giản của giọng như cao độ, cường độ, trường
độ.


Ví dụ: Khi kể chuyện diễn cảm trẻ biết lên giọng, xuống giọng, biết ngắt, nghỉ
đúng chỗ.



* Đặc điểm vốn từ:
- Trẻ mẫu giáo lớn vốn từ đang ở thời kỳ phát cảm. Vì vậy, số lượng từ tăng
nhanh khoảng 1300 – 2000 từ; danh từ và động từ vẫn chiếm ưu thế, số lượng
tính từ và các loại từ khác đã tăng dần lên; có khả năng sử dụng tính từ chỉ
mức độ, đặc điểm tính chất của sự vật hiện tượng; trẻ sử dụng từ rất nhanh và
sáng tạo.
- Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ tính chất không gian như: cao - thấp,
dài – ngắn, rộng – hẹp; các từ chỉ tốc độ như: nhanh - chậm; các từ chỉ màu
sắc: xanh, đỏ, vàng, đen, trắng... Ngoài ra các từ có khái niệm tương đối như:
hôm qua, hôm nay, ngày mai... trẻ dùng còn chưa chính xác. Một số trẻ còn
biết sử dụng các từ chỉ màu sắc khó hơn như: xanh lá cây, da cam, tm, xám.
Tuy nhiên trẻ sử dụng một số từ còn chưa chính xác.
Ví dụ: Hoa có thít ăn kem không? (thích)
* Đặc điểm phát triển ngữ pháp:
- Trẻ đã biết dùng câu chính xác và dài hơn.
 Câu ghép chính phụ: Con thích bông hoa thôi, màu bông hoa đẹp mà bạn
Mai lại hái rồi.
 Câu phức đẳng lập: Vân đi chơi, Vân không làm bài tập.
- Trẻ ít sử dụng câu cụt hơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp trẻ dùng từ
không chính xác. Ví dụ: Mẹ ơi, con muốn cái váy kia!
Chủ yếu trẻ vẫn sử dụng câu đơn mở rộng.
* Đặc điểm sự phát triển các loại ngôn ngữ:
Bước sang giai đoạn 5 – 6 tuổi hình thành ở trẻ ba loại ngôn ngữ: Ngôn ngữ
ngữ cảnh; ngôn ngữ tình huống; ngôn ngữ giải thích (ngôn ngữ mạch
lạc).


- Ngôn ngữ ngữ cảnh: Trẻ biết dùng ngôn ngữ mô tả những điều mắt
thấy, tai nghe cho người lớn hiểu mà không dựa vào tình huống cụ thể. Yêu
cầu với loại ngôn ngữ này trẻ phải diễn đạt rõ ràng, khúc chiết.



×