Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Tri thức hà nội trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước 1954 1975 (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.91 KB, 103 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ

TRẦN XUÂN VŨ

TRI THỨC CÁCH MẠNG HÀ NỘI
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC 1954 - 1975

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học

TS. CHU THỊ THU THỦY

HÀ NỘI 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập, nghiêm túc của
riêng tôi. Trong quá trinh nghiên cứu, tôi đã kế thừa thành quả của các nhà
khoa học, nhà nghiên cứu, thầy cô và các bạn sinh viên chuyên ngành khoa
học lịch sử với sự biết ơn và tôn trọng. Các số liệu trong khóa luận là trung
thực. Những kết quả trong khóa luận chưa được công bố bất kì công trình
nào.
Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2017
Sinh viên

Trần Xuân Vũ



LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến Cô giáo- Người hướng
dẫn khoa học TS. Chu Thị Thu Thủy đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi suốt
quá trình nghiên cứu khóa luận.
Xin chân thành cảm ơn các cán bộ, nhân viên Thư viện Quốc gia đã chỉ
tận tụy trong khâu tìm kiếm tài liệu phục vụ nghiên cứu khóa luận.
Cho phép tôi gửi lời cảm ơn đến Khoa Lịch Sử- Trường Đại Học Sư
Phạm Hà Nội II đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và
hoàn thành khóa luận.
Xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn động viên và chia sẻ
trong quá trình học tập và nghiên cứu khóa luận này.

Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2017
Sinh viên

Trần Xuân Vũ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 5
5. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu ................................................... 6
6. Những đóng góp của khóa luận ................................................................ 6
7. Kết cấu của khóa luận ................................................................................ 7
CHƯƠNG 1. TRÍ THỨC CÁCH MẠNG HÀ NỘI VÀ BỐI CẢNH
LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954 - 1975................... 8
1.1. TRÍ THỨC CÁCH MẠNG HÀ NỘI...................................................... 8

1.1.1. Khái quát về trí thức và trí thức cách mạng Việt Nam..................... 8
1.1.2. Trí thức cách mạng Hà Nội ............................................................ 11
1.2. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
1954 - 1975 .................................................................................................. 12
1.2.1. Trí thức cách mạng và phong trào đấu tranh cách mạng giải
phóng dân tộc trước 1954......................................................................... 12
1.2.2. Tình hình và nhiệm vụ cách mạng Việt Nam sau tháng 7-1954..... 13
Chương 2. HOẠT ĐỘNG TRÍ THỨC CÁCH MẠNG HÀ NỘI TRONG
CÔNG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ 1954 - 1975 ......................... 21
2.1. TRONG XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN VÀ ĐẤU TRANH CHÍNH
TRỊ................................................................................................................ 21
2.1.1. Tham gia xây dựng chính quyền cách mạng .................................. 21
2.1.2 Tham gia mặt trận thống nhất dân tộc ............................................ 23
2.1.3. Tham gia vào đấu tranh chính trị ................................................... 25


2.2. TRÊN MẶT KINH TẾ ......................................................................... 31
2.3. TRONG PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, GIÁO DỤC, Y TẾ VÀ BÁO
CHÍ............................................................................................................... 33
2.4. TRÊN MẶT TRẬN QUÂN SỰ ........................................................... 39
2.5. TRÊN MẶT TRẬN NGOẠI GIAO ..................................................... 42
2.6. VAI TRÒ TRÍ THỨC CÁCH MẠNG HÀ NỘI TRONG CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯƠC 1954 - 1975 ........................ 51
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 57
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Trong mọi thời kỳ lịch sử phát triển của thế giới cũng như của nước ta,
đội ngũ trí thức luôn là lực lượng quyết định trong sáng tạo, truyền bá tri thức,
có vai trò vô cùng to lớn trong việc sáng tạo ra những giá trị tinh thần cũng
như vật chất của nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ tài ba của dân
tộc ta đã khẳng định: “Tri thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước
khác như thế, ở Việt Nam càng như thế... Địa vị những người tri thức ái quốc
Việt Nam cùng với toàn thể đồng bào, kiến thiết nước Việt Nam mới, một
nước Việt Nam thống nhất, độc lập, tự do, hạnh phúc”. [31, tr.156].
Trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, rất nhiều tri thức đã có
những đóng góp công sức và tài trí cho công cuộc kháng chiến và kiến quốc,
làm nên những thàng công cuộc kháng chiến và kiến quốc, làm nên những
thành công trên nhiều lĩnh vực như quân sự, y tế, văn hóa, giáo dục. Tại Đại
hội VII (1991) Đảng ta nhận định vai trò của tri thức: “Trong cách mạng dân
tộc dân chủ, vai trò của giới tri thức đã quan trọng, trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội chủ nghĩa vai trò của tri thức đã quan trọng hơn. Giai cấp công nhân
nếu không có đội ngũ tri thức của mình và bản thân công- nông không được
nâng cao kiến thức, không dần dần được tri thức hóa thì không thể xây dựng
được chủ nghĩa xã hội” [16].
Hà Nội từ xưa đã là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước,
được tạo lập qua hàng ngàn năm lịch sử. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê,
Mạc (từ thế kỷ thứ XI đến thế kỷ thứ XVIII), Thăng Long - Đông Đô - Đông
Kinh không ngừng được củng cố và hoàn thiện và trở thành đầu não chính trị
của nhà nước phong kiến tập quyền. Đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đóng đô ở
Huế, Thăng Long được đổi tên thành Hà Nội (năm 1831) và vẫn giữ vai trò
quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa. Trong lịch sử dân tộc, Thăng Long -

1


Hà Nội luôn là mục tiêu đánh chiếm hàng đầu của các cuộc chiến tranh xâm

lược và nổi bật với các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và trở thành truyền
thống yêu nước tiêu biểu cho tinh thần quật khởi của dân tộc, là nơi học tập
sinh sống và làm việc của nhiều bậc nhân sĩ, tri thức của thời đại.
Sau khi Pháp rút khỏi nước ta (16-5-1954) , Mỹ liền nhảy vào thay Pháp
dựng lên chính quyền tay sai, âm mưu chia cắt nước Việt Nam lâu dài, biến
miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, khu quân sự của chúng ở khu
vực Đông Nam Á, để thực hiện âm mưu trên chúng cùng chính quyền tay sai
thực hiện nhiều cuộc càn quét bình định ở miền Nam và ra sức phá hoại miền
Bắc (Hà Nội - Hải Phòng là chiến trường chủ yếu). Trước tình hình đất nước
như vậy hầu hết tri thức Hà Nội đã bỏ cuộc sống tiện nghi, êm ấm lên đường
vào các chiến trường và các chiến khu đầy gian nan và thiếu thốn để cùng
Đảng và nhân dân kháng chiến chống Mỹ, với mục đích thu non sông Việt
Nam về một mối, thống nhất nước nhà.
Đóng góp trí thức Việt Nam nói chung, tri thức Hà Nội nói riêng trong
hai mốt năm kháng chiến chống Mỹ rất quan trọng, cơ bản và mang tính
quyết định trên nhiều lĩnh vực xây dựng chính quyền, xây dựng lực lượng,
quân sự, y tế, văn hóa, giáo dục và đối ngoại,... lực lượng tri thức Hà Nội là
một bộ phận không thể tách rời khỏi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Những đóng góp của họ là vô cùng lớn lao, để lại nhiều bài học quý báu.
Chính vì vậy, việc tìm hiều đội ngũ trí thức Hà Nội trong kháng chiến chống
Mỹ sẽ làm cơ sở cho sự tiếp bước của đội ngũ trí thức trong giai đoạn mới,
đáp ứng những yêu cầu đặt ra của đất nước và thời đại, thực hiên mục tiêu
phát triển.
Thực hiện đề tài, một mặt góp phần tìm hiểu và đánh giá những đóng
góp của trí thức cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ trên tất cả các
mặt chính trị - xã hội, đưa tới thắng lợi cuối cùng của quân và dân ta; đồng


thời, hình thành luận cứ để Đảng và Nhà nước nhìn nhận, đánh giá đúng vai
trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất

nước hiện nay. Nghiên cứu sẽ góp thêm một cái nhìn về hoạt động từ đó có
thể rút ra vai trò của trí thức trong lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc giai
đoạn 1954 - 1975, làm cơ sở cho việc đánh giá, đề xuất những hướng phát
triển chiến lược về tri thức trong giai đoạn mới. Hơn nữa, “ôn cố tri tân”, đề
tài mong muốn góp phần giáo dục truyền thống, tinh thần đấu tranh cách
mạng của cha ông cho thế hệ trẻ, về lòng tự hào đối với truyền thống đấu
tranh của đồng bào và nhân sĩ trí thức.
Từ những lí do trên tôi quyết đinh chọn đề tài:“ Tri thức Hà Nội trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954- 1975” để làm khóa luân tốt
nghiệp của mình. Đồng thời là tài liệu cho các tác giả sau muốn nghiên cứu
vấn đề này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kể từ khi đất nước giành được độc lập năm 1945 đến nay, ở nước ta đã
có nhiều công trình nghiên cứu về trí thức Việt Nam nói chung và trí thức
cách mạng nói riêng.
Từ khi Hồ Chủ tịch viết “Thư gửi anh em văn hóa và trí thức Nam bộ”
ngày 25-5-1947, với những căn dặn: Ngòi bút của các bạn cũng là những
vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà mà anh em văn hóa và trí
thức phải làm cũng như là những chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng
chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Vấn đề trí thức
đã được dẫn đề cập ngày một nhiều hơn trong các văn kiện, công trình nghiên
cứu.
Năm 1958, Đảng Lao động Việt Nam xuất bản cuốn “Chính sách
của Đảng Lao động Việt Nam đối với trí thức”, bàn đến những chính sách đối
với trí thức cách mạng. Trong tác phẩm này Hồ Chí Minh - lãnh tụ của Đảng
Lao Động Việt Nam đã có nhiều bài viết, bài nói nêu cao vai trò của trí
thức trong sự


nghiệp cách mạng. Gần hai mươi năm sau (năm 1976), nhà xuất bản Sự Thật đã

tập hợp, bổ sung và xuất bản với nhan đề “Về vấn đề trí thức và cách mạng”.
Năm 1960, Đảng Xã hội Việt Nam xuất bản tác phẩm “Ký ức và cảm
nghĩ”, mặc dù chỉ là một tập hợp các bài nhật ký, ký ức, hồi ký, nhưng đã
phản ánh được những suy nghĩ và tư tưởng của trí thức Việt Nam trong những
chặng đường tham gia hoạt động kháng chiến.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu, các tác phẩm viết về trí thức
mang tính chất khảo tả, về vai trò, cuộc đời sự nghiệp của trí thức Việt Nam
cũng được xuất bản dưới hình thức hồi ký. Một trong số những hồi ký, hồi ức
lịch sử tiêu biểu có thể kể đến như: Quê hương và Cách mạng của Hoàng Anh
xuất bản năm 1990; Đường vào khoa học của tôi của Giáo sư Tôn Thất Tùng,
xuất bản năm 2000; Người lính già Đặng Văn Việt chiến sĩ đường số 4 anh
dũng, xuất bản năm 2001; Nhớ lại một thời, xuất bản năm 2002; Nhớ nghĩ
chiều hôm, Đào Duy Anh xuất bản năm 2003... Các hồi ký trên đã đề cập đến
những hoạt động của trí thức cách mạng nói chung và tri thức cách mạng Hà
Nội nói riêng tham gia cuộc kháng chiến, kiến quốc 1945-1975.
Những năm gần đây có rất nhiều tác giả đã dày công nghiên cứu, đi sâu
tìm hiểu về trí thức cách mạng Việt Nam trong lịch sử kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ. Tiêu biểu có các giả Hàm Châu với tác phẩm: Người trí
thức quê hương, xuất bản năm 2000 và 2005; Nguyễn Văn Khánh với tác
phẩm: Một số vấn đề về trí thức Việt nam, xuất bản năm 2001 và Trí thức với
Đảng, Đảng với trí thức trong sự nghiệp giải phóng đất nước xuất bản năm
2004; Trọn đời đi theo Bác của Nguyễn Thanh Sơn (NXB Trẻ, 2005),..
Ngoài ra khi nói về trí thức miền Bắc nói chung và tri thức Hà Nội nói
riêng cũng có rất nhiều luân án chuyên ngành đề cập tới như: Vai trò của trí
thức Hà Nội trong công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, trên các tạp trí của
Đảng Công Sản Việt Nam cũng phát hành nhiều số báo đề cập về vấn đề trí


thức trong công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu về vấn đề tri thức Hà Nội trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước

1954-1975.
Vì vậy trên cơ sở kế thừa những bài nghiên cứu, công trình có liên quan.
Tôi mạnh dạn đề xuất và thực hiện đề tài Trí thức cách mạng Hà Nội trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954- 1975 như một hướng tiếp cận
nghiên cứu chuyên sâu, tập trung về vấn đề trí thức Hà Nội trong lịch sử cách
mạng của dân tộc.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu một cách có hệ thống về những
hoạt động của tri thức Hà Nội trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), từ
đó rút ra được những nhận xét chung của đội ngũ tri thức Hà Nội đóng góp
vào thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những hoạt động của tri thức Hà Nội trong bối cảnh cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở Miền
Nam giai đoạn 1954-1975.
- Làm rõ nhưng đóng góp của tri thức Hà Nội trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ 1954- 1975, trên các lĩnh vực quân sự, xây dựng lực lượng chính
trị, kinh tế kháng chiến, giáo dục y tế và mặt trận ngoại giao,...
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khóa luận nghiên cứu là đội ngũ tri thức Hà Nội trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ 1954-1975.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu các hoạt động của tri
thức Hà Nội trong cuộc kháng chiến, kiến quốc diễn ra trên toàn quốc.


- Về thời gian: từ năm 1954 đến năm 1975.
5. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu

* Nguồn tư liệu:
Để thực hiện khóa luận này, tôi sử dụng nhiều nguồn tư liệu khác nhau
bao gồm:
- Tài liệu lưu trữ tại Thư viện quốc gia Việt Nam, Thành ủy, Uỷ ban
nhân dân thành phố Hà Nội, các bảo tàng...
- Hồi kí của các đồng chí lãnh đạo, các nhà tri thức đã từng tham gia hoạt
động trong công cuộc kháng chiến,kiến quốc 1954-1975.
- Các văn kiện của Trung ương Đảng, chính phủ, Hồ Chí Minh toàn tập
và lich sử Đảng bộ địa phương để tìm hiểu về chính sách của Đảng đối với tri
thức.
- Công trình, bài nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan đã xuất
bản, công bố trên sách, báo, tạp chí nghiên cứu chuyên ngành.
* Phương pháp nghiên cứu
-

Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận Mác xít, tư tưởng

Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức. Trong
quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chủ yếu:
phương pháp lịch sử, kết hợp với phương pháp logic.
-

Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so

sánh, tổng hợp, kết hợp với khảo sát thực tiễn, trực tiếp tiếp cận nhân chứng
để làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu.
6. Những đóng góp của khóa luận
Đề tài là công trình nghiên cứu có hệ thống và tương đối toàn diện về
hoạt động của trí thức cách mạng Hà Nội trong công cuộc kháng chiến chống
Mỹ 1954-1975 sẽ đóng góp:



- Về mặt khoa học: cung cấp tư liệu quan trọng cho các nhà nghiên cứu
quan tâm đến vấn đề trí thức nói chung, đặc biệt là trí thức Hà Nội. Đồng thời
bổ sung nguồn tư liệu quan trọng về quá trình tham gia hoạt động cách mạng
của các nhà trí thức trong lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975.
- Về mặt thực tiễn: kết quả của khóa luận làm cơ sở cho việc giáo dục
truyền thống đấu tranh cách mạng cho thế hệ trẻ về những tấm gương trí thức
cách mạng Hà Nội. Đồng thời, rút ra bài học kinh nghiệm góp phần cho Đảng
Cộng sản Việt Nam xây dựng, sử dụng trí thức vào công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo Nghị quyết trung ương 7, khóa X.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, khóa luận gồm 2 chương:
- Chương 1 : Trí thức cách mạng Hà Nội và bối cảnh lịch sử cách mạng
Việt Nam giai đoạn 1954- 1975.
- Chương 2: Hoạt động trí thức cách mạng trong công cuộc kháng chiến
chống Mỹ 1954 -1975.


CHƯƠNG 1
TRÍ THỨC CÁCH MẠNG HÀ NỘI VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ
CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954 - 1975
1.1. TRÍ THỨC CÁCH MẠNG HÀ NỘI
1.1.1. Khái quát về trí thức và trí thức cách mạng Việt Nam
* Khái niệm trí thức
Việc xác định trí thức là ai có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên
cứu và bàn luận đề tài. Hiện nay có rất nhiều định nghĩa và khái niệm về tri
thức cả ở Việt Nam và trên thế giới được hàng trăm các nhà khoa học quan
tâm. Sau đây là một số định nghĩa về trí thức:
Trong tiếng Anh, người trí thức “Intellectuals” là những người dùng tri

thức để tham gia đóng góp bằng cách viết sách, viết báo, góp ý, tranh luận về
những vấn đề xã hội - chính trị.
Trên sách báo và các diễn đàn ở Việt Nam, trí thức cũng được định nghĩa
và hiểu khá khác nhau. Theo từ điển Tiếng Việt của GS. Nguyễn Lân và Đại
từ điển tiếng Việt của GS. Nguyễn Như Ý, “trí thức” là người chuyên làm
việc, lao động trí óc (trí là hiểu biết, thức là biết) [50, tr.1705]. Nhiều ý kiến
luận giải khái niệm này, gắn vai trò xã hội bên cạnh vấn đề chuyên môn, thậm
chí có ý kiến cho rằng là yếu tố tiên quyết: “Không có khí tiết, không là trí
thức. Không dám nói lên sự thật, không phải là trí thức. Không trung thực,
không phải là trí thức. Không dám bảo vệ chân lý, không phải là trí thức”
(GS. Phạm Song). Cụ thể hơn, trí thức phải có đủ ba đặc điểm: “Một là có học
vấn cao (không phải bằng cấp); hai là nhân cách phải tiêu biểu, nêu gương
tốt cho xã hội; ba là khí tiết bảo vệ chân lý, lẽ phải. Nếu thiếu một trong ba
đặc điểm đó thì dù thế nào chăng nữa cũng không thể gọi là trí thức” (Nhà
báo Hữu Thọ).


Theo V.I Lê Nin thì trí thức:
...bao hàm không những chỉ các nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm
tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của những nghề tự do nói chung,
các đại biểu của lao động trí óc ( tức là những người mà người Anh gọi là
brai worker), khác với những đại biểu của lao động chân tay [42; Tr.372]
Trong Nghị Quyết số 27-NQTW (6/8/2008) của Đảng Cộng sản Việt
Nam về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”, đã đưa ra 3 cách hiểu về trí thức với những đặc trưng cơ bản:
- Trí thức là người lao động trí óc, có hiểu biết sâu và rộng, thông
thường, có trình độ đại học và tương đương trở lên, có năng lực sáng tạo, có
trình độ phát triển về trí tuệ, nhạy bén với cái mới và quan tâm đến đổi mới để
phát triển.
- Trí thức có trình độ chuyên môn sâu, rộng trong một lĩnh vực nhất

định, được hình thành qua đào tạo, bồi dưỡng và phát triển không ngừng bằng
con đường tự đào tạo, lao động và hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân.
- Trí thức có nhu cầu cao về đời sống tinh thần và hướng tới các giá trị
chân - thiện - mỹ; có lòng tự trọng, khát vọng tự do, dân chủ, công bằng.
Từ cách hiểu trên, Nghị quyết trung ương đưa ra khái niệm: “Trí thức là
những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn
nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri
thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã
hội”[1]. Khái niệm này đã khái quát những đặc trưng và tiêu chí cơ bản nhất
của trí thức hiện nay trong nhìn nhận, đánh giá trí thức. Đồng thời, khái niệm
đã xác định một số đặc điểm cơ bản, phổ quát nhất làm cơ sở cho việc đề xuất
mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức.
Qua các định nghĩa trên đây thì khái niệm trí thức được đề cập ở các dấu
hiệu cơ bản sau: một tầng lớp xã hội, lao động trí óc phức tạp, có trình độ học


vấn cao, có kiến thức sâu rộng trong các lĩnh vực khác nhau của văn hóa,
khoa học, kĩ thuật. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ ở các dấu hiệu đó để xã định
người trí thức thì chưa đủ, Theo tôi, người trí thức chân chính không chỉ đòi
hỏi ở sự hiểu biết mà còn phải là người có đạo đức trong sáng.
* Trí thức cách mạng Việt Nam
Trí thức cách mạng Việt Nam là một khái niệm được đưa ra để phản ánh
một tầng lớp trí thức của xã hội gắn với thời kỳ đấu tranh cách mạng, giải
phóng dân tộc. Từ lý luận và thực tiễn, Hồ Chủ Tịch khẳng định trí thức là
phải người hiểu biết cả về lý thuyết lẫn thực hành, lý luận phải đem ra thực
hành, thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên
đạn), thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn
lung tung, cũng như không có tên. Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời
học thì phải hành. Trên cơ sở đó, Người đã đưa ra khái niệm cụ thể và đầy đủ
về trí thức cách mạng: “là người “vừa hồng vừa chuyên”, là người “vừa có

tài vừa có đức”, trong đó đức là cái gốc/nền tảng, tài là cái quan trọng”.
Trí thức Việt Nam xuất hiện trong lịch sử như những đại biểu chân chính
về tư tưởng văn hóa, tài năng trí tuệ và nhân cách của cả dân tộc, gắn với các
cuộc cách mạng đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước. Trong lịch sử
tư tưởng và truyền thống dân tộc Việt Nam, trí thức thường được gọi là kẻ sĩ.
Ngoài tài trí, nhân cách kẻ sĩ đáng nể trọng bởi họ nặng lòng thương dân, yêu
nước, ngay thẳng, cương trực, thanh tao, trọng chân lý, đạo nghĩa, trọng dân,
thân dân và chính tâm.
* Đặc điểm trí thức cách mạng Việt Nam
Trí thức Việt Nam qua mọi thời kỳ lịch sử đều mang đặc điểm chung:
xuất thân từ xã hội dựa trên nền tảng nông nghiệp, của một đất nước hình
thành và phát triển gắn với các cuộc đấu tranh chống xâm lăng; có tính cách
cần cù, ham học hỏi, ý thức tự hào dân tộc và lòng yêu nước; rất gắn bó với


quần chúng nhân dân. Tùy từng giai đoạn lịch sử, tầng lớp này có những biểu
hiện khác nhau về vai trò nhiệm vụ lịch sử, về cách thức tư duy và hành
động... Nhưng nét tương đồng dễ nhận thấy giữa các thế hệ trí thức là phẩm
chất đặc trưng, sự gắn bó máu thịt với nhân dân, dân tộc, thể hiện rõ nhất ở
tầng lớp trí thức cách mạng trong thời kỳ đấu tranh chống ngoại xâm, giải
phóng dân tộc.
Trí thức Việt Nam xuất hiện trong lịch sử như những đại biểu chân chính
về tư tưởng văn hóa, tài năng trí tuệ và nhân cách của cả dân tộc, gắn với các
cuộc cách mạng đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước. Trong lịch sử
tư tưởng và truyền thống dân tộc Việt Nam, trí thức thường được gọi là kẻ sĩ.
Ngoài tài trí, nhân cách kẻ sĩ đáng nể trọng bởi họ nặng lòng thương dân, yêu
nước, ngay thẳng, cương trực, thanh tao, trọng chân lý, đạo nghĩa, trọng dân,
thân dân và chính tâm.
Trí thức cách mạng ra đời sau Cách mạng Tháng Tám -1945, là một đội
ngũ trí thức có lòng yêu nước và tự hào dân tộc, có trình độ chuyên môn cao

và nhân cách tốt, đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc.
Trí thức cách mạng Việt Nam thể hiện tinh thần cách mạng cao, sự gắn
bó với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đồng hành với nhân dân lao
động trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, kháng chiến và kiến quốc.
Trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trí thức có vai trò quyết
định đến công cuộc đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Hệ giá trị và lý tưởng sống của người trí thức cách mạng hiện
nay là: Tổ quốc - Nhân dân - Dân tộc - Thời đại và Chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Trí thức cách mạng Hà Nội
Tôi quan niệm trí thức cách mạng Hà Nội bao gồm: những người lao
động trí óc, được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn, có khả năng sáng


tạo khoa học, hoạt động trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,văn hóa, xã
hội, khoa học công nghệ, có hộ khẩu thường trú tại Hà Nội và đặc biệt là tham
gia vào các cuộc kháng chiến kiến quốc của kháng chiến dân tộc.
* Đặc điểm của trí thức cách mạng Hà Nội:
Khác với trí thức cả nước nói chung hầu hết trí thức Hà Nội đều trưởng
thành trong một môi trường vật chất lý tưởng: đa số trí thức được xuất thân từ
những gia đình giàu có, có truyền thống hiếu học,yêu nước... như: Nhà hoạt
động chính trị - tướng lĩnh quân đội: Đồng chí Vũ Lăng, Văn Tiến Dũng,
Ngoãn Ngọc Doãn, Nguyễn Anh Đệ, Đặng Trần Đức, Nguyễn Công Tiến...
một số y bác sĩ: Trần Duy Hưng, Đỗ Xuân Hợp,.. kiến trúc sư: Tạ Mỹ
Thuật... một số nhà giáo: Đào Duy Anh, Đỗ Đức Dục, Bùi Trang Chước...,
một số doanh nhân trí thức: Trịnh Văn Bô, Nguyễn Văn Sơn...
Tuy nhiên, do sinh ra và lớn lên trên vùng đất chứa đựng nhiều đau
thương mất mát bởi chiến tranh, ảnh hưởng tinh thần yêu nước, yêu quê
hương, sớm nhận thức nỗi đau nô lệ và mất nước, nên tinh thần cách mạng có
điều kiện phát huy. Họ từ bỏ cuộc sống giàu sang đi kháng chiến, đóng góp

tài sản, ruộng đất, nhà cửa, tiền bạc cho cách mạng và hơn hết là sự cống hiến
nhiệt tình tài năng, trí tuệ trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc giai
đoạn1954- 1975 .
1.2. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954
- 1975
1.2.1. Trí thức cách mạng và phong trào đấu tranh cách mạng giải phóng
dân tộc trước 1954
Trí thức cách mạng ra đời sau CMT8-1945, là một đội ngũ trí thức có
lòng yêu nước và tự hào dân tộc, có trình độ chuyên môn cao và nhân cách
tốt, đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp đấu tranh và xây dựng đất nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Trí thức cách mạng giai đoạn này xuất


thân từ các giai cấp, tầng lớp xã hội như dân nghèo thành thị, tiểu tư sản, tư
sản được giác ngộ chân lý cách mạng, nhưng chủ yếu là công nhân và nông
dân,… từ 3 nguồn đào tạo trong nước, nước ngoài, và chính quyền Pháp. Quá
trình hình thành phản ánh xu hướng “Công – Nông hóa trí thức”, hình thành
tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa. Từ nhiều giai tầng trong xã hội, khi đứng
vào hàng ngũ của Đảng, họ trở thành trí thức cộng sản, rèn luyện, tu dưỡng
theo bản chất giai cấp công nhân. Trí thức cách mạng giai đoạn này đã góp
phần quan trọng vào việc nâng cao về chất chủ nghĩa yêu nước thành chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trí thức cách mạng Việt Nam thể hiện tinh thần
cách mạng cao, sự gắn bó với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đồng
hành với nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước,
kháng chiến và kiến quốc.
1.2.2. Tình hình và nhiệm vụ cách mạng Việt Nam sau tháng 7-1954
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do
Đảng lãnh đạo đã giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc
dân chủ trên phạm vi cả nước vẫn chưa hoàn thành. Miền Bắc được hoàn toàn

giải phóng, song miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của thực dân và tay
sai. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền.
Ở miền Bắc, mặc dù thực dân Pháp rất ngoan cố, nhưng do tinh thần đấu
tranh kiên quyết của nhân dân ta, nên đến ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối
cùng đã rút khỏi Hà Nội và ngày 16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh
Pháp đã phải rút khỏi miền Bắc. Ngay sau khi hòa bình lập lại, nhân dân miền
Bắc khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến
hành thực hiện các nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo
tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.


Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc
địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
Để thực hiện âm mưu nói trên, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký
kết, ngày 7-7-1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng
Chính phủ bù nhìn thay Bửu Lộc. Ngày 17-7-1955, theo chỉ đạo của Mỹ,
Diệm tuyên bố không hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước và ngày
23-10-1955 đã tổ chức cái gọi là "trưng cầu dân ý" để phế truất Bảo Đại, đưa
Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống.
Sau khi dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ - Diệm đã liên tiếp
mở các cuộc hành quân càn quét để bình định miền Nam, áp đặt chế độ thực
dân kiểu mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Thực chất, đây là một cuộc chiến
tranh đơn phương đẫm máu chống lại nhân dân miền Nam trong tay không có
vũ khí. Với chính sách "tố cộng", "diệt cộng", loại cộng sản ra ngoài vòng
pháp luật để trừng trị, và với khẩu hiệu "thà giết nhầm hơn bỏ sót", chúng
thẳng tay đàn áp tất cả các lực lượng chống đối. Chỉ tính đến cuối năm 1955,
hàng chục vạn cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng đã bị bắt và bị giết
hại.
Đứng trước những biến đổi phức tạp nêu trên, lịch sử lại đặt cho Đảng ta

một yêu cầu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa
cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp với tình hình mới của đất nước và phù
hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Xuất phát từ việc nhận thức sâu
sắc tình hình thế giới và đặc điểm cơ bản của tình hình đất nước sau tháng 71954, trải nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ
trương chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng đã từng
bước hình thành đó là: Chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội
và tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam quyết tâm đưa
non sông Việt Nam về một mối.


* Chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Sau khi hòa bình được lập lại, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Tuy
nhiên, miền Bắc bước vào khôi phục kinh tế trong điều kiện có nhiều khó
khăn. 143.000 ha ruộng đất bị bỏ hoang, hàng trăm ngàn gia đình không
có nhà ở, hàng chục vạn người không có việc làm, nhiều tệ nạn do xã hội cũ
để lại còn hoành hành, phần lớn xí nghiệp ngừng hoạt động, hàng hoá
khan hiếm. Nhiệm vụ trước mắt là tếp quản những vùng giải phóng theo quy
định của Hiệp định Giơnevơ. Việc tiếp quản đó bước đầu thuận lợi, nhân dân
ta đã làm chủ hoàn toàn Thủ đô từ ngày 10-10-1954. Hướng đấu tranh chủ
yếu của nhân dân miền Bắc thời kỳ này là chống âm mưu của địch dụ dỗ,
cưỡng ép đồng bào ta di cư vào Nam. Trong hoạt động này, do chậm phát
hiện và chưa thấy hết âm mưu thâm độc của Mỹ - Pháp, nên gần một triệu
người miền Bắc
đã bị cưỡng ép di cư vào Nam.
Xuất phát từ tình hình trên, Đảng chủ trương đưa miền Bắc quá độ
lên chủ nghĩa xã hội và đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng từng
bước được hình thành và phát triển.
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của
miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân,
trước hết là phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định xã hội, ổn

định đời sống nhân dân, tăng cường và mở rộng hoạt động quan hệ quốc
tế... để sớm đưa miền Bắc trở lại bình thường sau chín năm chiến tranh.
Hội nghị lần thứ bảy tháng 3-1955 và lần thứ tám tháng 8-1955 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã nhận định: Mỹ và tay sai đã hất
cẳng Pháp ở miền Nam, công khai lập nhà nước riêng chống phá Hiệp định
Giơnevơ, đàn áp phong trào cách mạng. Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai,


củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ,
điều


cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc
đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Để củng cố miền Bắc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ, trước hết
cần hoàn thành cải cách ruộng đất, chia ruộng đất cho nông dân, xóa bỏ
chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ; đưa miền Bắc tiến dần từng
bước lên chủ nghĩa xã hội; kiện toàn lãnh đạo các cấp và củng cố Mặt trận
Dân tộc thống nhất.
Hội nghị đề ra kế hoạch 3 năm (1955 - 1957) với những mục têu cụ thể:
- Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, trên cơ sở đó phát
triển sản xuất, nhằm giảm bớt khó khăn cho nhân dân. Phấn đấu phục hồi
mức sản xuất năm 1939 - năm có mức sản xuất cao nhất ở Việt Nam thời
Pháp thuộc.
- Chủ trương khôi phục nông nghiệp là trọng tâm. Ban hành nhiều chính
sách khuyến nông.
- Đề ra chính sách khôi phục tiểu thủ công nghiệp và công thương
nghiệp. Ban hành nhiều chính sách bảo hộ cho các xí nghiệp công, tư thương
nghiệp được phát triển sản xuất để phục vụ dân sinh; không vội vàng thủ tiêu
những công thương nghiệp tư nhân, nếu thấy có lợi cho nền kinh tế. Coi trọng

thành phần kinh tế quốc doanh, tạo điều kiện cho thành phần này dần dần
giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Tháng 12-1957, Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã đánh giá thắng lợi về khôi phục kinh tế và đề ra nhiệm vụ soạn thảo
đường lối cách mạng trong giai đoạn mới. Đến tháng 11-1958, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười bốn đề ra kế hoạch ba năm
phát triển kinh tế - văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể
và kinh tế tư bản tư doanh (1958-1960).


Hội nghị xác định cải tạo kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và
buôn bán nhỏ, tư bản tư doanh, chuyển sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất
thành


sở hữu tập thể xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức toàn dân và tập thể.
Lấy cải tạo làm trọng tâm nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, cải thiện đời
sống nhân dân, củng cố chế độ dân chủ nhân dân. Xây dựng, củng cố miền
Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Tháng 4-1959, Hội nghị lần thứ mười sáu Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa II) thông qua hai nghị quyết quan trọng: Nghị quyết về vấn đề
hợp tác hóa nông nghiệp và Nghị quyết về vấn đề cải tạo công thương nghiệp
tư bản tư doanh.
Về hợp tác hóa nông nghiệp, Hội nghị xác định hình thức và bước đi của
hợp tác xã là: hợp tác hóa đi trước cơ giới hóa, do vậy hợp tác hóa phải đi đôi
với thủy lợi hóa và tổ chức lại lao động, để phát huy tính ưu việt và sức mạnh
của tập thể. Hội nghị chỉ rõ ba nguyên tắc cần được quán triệt trong suốt quá
trình xây dựng hợp tác xã là: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.
Về cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, Hội nghị chủ trương cải
tạo hòa bình đối với giai cấp tư sản. Về chính trị, vẫn coi giai cấp tư sản là

thành viên của Mặt trận Tổ quốc, về kinh tế không tịch thu tư liệu sản
xuất của họ, mà dùng chính sách chuộc lại, thông qua hình thức công
tư hợp doanh, sắp xếp công việc cho người tư sản trong xí nghiệp, dần dần
cải tạo họ thành người lao động.
Chủ trương đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội đã tạo nên những chuyển
biến cách mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta. Miền Bắc
được củng cố, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương ổn
định, vững mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
* Chủ trương tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam
Nắm vững âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ ở Việt Nam và Đông
Dương, nên ngay trước ngày ký Hiệp định Giơnevơ, Hội nghị lần thứ sáu Ban


Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) từ ngày 15 đến ngày 17-7-1954, đã chỉ
rõ: "Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang
trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi
việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ".
Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào và cán bộ
chiến sĩ cả nước: "Trung Nam Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ
thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng"
Về cách mạng miền Nam, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9-1954 nêu
rõ: Đế quốc Mỹ và tay sai đang mưu tính, phá hoại Hiệp định Giơnevơ nhằm
chia cắt lâu dài Việt Nam. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam phải
chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ của Đảng ở
miền Nam trong giai đoạn mới là: "lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh
thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ,...
cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời phải
lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp,
phá cơ sở của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng, chống những

hành động tiến công của địch, ngụy, giữ lấy quyền lợi quần chúng đã giành
được trong thời kỳ kháng chiến, nhất là ở những vùng căn cứ địa và vùng
du kích cũ của ta" [14; tr. 308].
Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về tình hình và công tác của các đảng
bộ miền Nam, tháng 10-1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập, do Lê Duẩn, ủy
viên Bộ Chính trị làm Bí thư.
Từ thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam,
tháng
8-1956, Lê Duẩn đã dự thảo Đường lối cách mạng miền Nam. Bản Đường lối
cách mạng miền Nam được đưa ra thảo luận tại Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ họp
tháng 12-1956.


×