Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

vai trò của huyện lộc ninh trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước (1954 -1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.81 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM T.P HỒ CHÍ MINH



PHAN NGỌC THỊNH

VAI TRÒ CỦA HUYỆN LỘC NINH
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
(1954 -1975)


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ






Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM T.P HỒ CHÍ MINH


PHAN NGỌC THỊNH


VAI TRÒ CỦA HUYỆN LỘC NINH
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC


(1954 -1975)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS VÕ XUÂN ĐÀN




Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
Lời cam đoan.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi với sự
hướng dẫn của PGS.TS Võ Xuân Đàn. Các số liệu, tài liệu nêu trong luận văn
là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ
ràng.
Tác giả

















Lời cảm ơn!
Để hoàn thành đề tài này, cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến
PGS.TS Võ Xuân Đàn kính mến đã chỉ bảo, dìu dắt tôi từ những ngày đầu
cho đến khi hoàn thành đề tài này.
Tôi rất bIết ơn đến Ban tuyên giáo huyện Lộc Ninh, Ban chỉ huy quân
sự huyện Lộc Ninh, cán bộ trong bảo tàng tỉnh Bình Phước đã nhiệt tình cung
cấp tư liệu liên quan đến đề tài cho tôi.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM,
Phòng sau Đại học, Khoa Lịch sử, Phòng công nghệ và môi trường Quân khu
7, thư viện trường, thư viện khoa học Tổng hợp Tp.HCM, Trường THPT Lộc
Ninh đã hỗ trợ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên
cứu cho đến khi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Tác giả














MỤC LỤC
3TPHẦN MỞ ĐẦU3T 1
3TI.3T 3TLÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU3T 1
3TII.3T 3TLỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ3T 2
3TIII.3T 3TNGUỒN TƯ LIỆU3T 4
3TIV.3T 3TGIỚI HẠN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU3T 5
3TV.3T 3TPHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU3T 5
3TVI.3T 3TĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI3T 6
3TVII.3T 3TCẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN3T 6
3TPHẦN NỘI DUNG3T 8
3TCHƯƠNG I3T 8
3TTỔNG QUAN VỀ HUYỆN LỘC NINH3T 8
3T1.1.3T 3TĐịa lí tự nhiên3T 8
3T1.2.3T 3TĐịa lí hành chính3T 9
3T1.3.3T 3TDân cư và truyền thống yêu nước của nhân dân huyện Lộc Ninh trong lịch sử3T 12
3T1.3.1.3T 3TCộng đồng dân cư3T 12
3T1.3.2.3T 3TKhái quát phong trào đấu tranh chống Pháp nhân dân Lộc Ninh đến năm 19543T 14
3TCHƯƠNG II3T 19
3TGÓP PHẦN TỪNG BƯỚC ĐÁNH BẠI CÁC CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỦA ĐẾ
QUỐC MỸ, TIẾN TỚI GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN QUÊ HƯƠNG (1954 -1972)3T 19
3T2.1.3T 3TQuân và dân Lộc Ninh đấu tranh giữ gìn lực lượng, đấu tranh bảo vệ phong trào
cách mạng và tham gia phong trào Đồng khởi (1954 -1960)3T 19
3T2.1.1.3T 3TChính sách của Mỹ ngụy ở Lộc Ninh sau Hiệp định Genève3T 19
3T2.1.2.3T 3TTổ chức lại lực lượng và hoạt động của chi bộ Đảng ở Lộc Ninh3T 23
3T2.1.3.3T 3TPhong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, thi hành Hiệp định Genève, chống
chính sách “tố cộng, diệt cộng” và tham gia phong trào đồng khởi của quân và dân
Lộc Ninh3T 25
3T2.2.3T 3TQuân và dân Lộc Ninh góp phần đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế
quốc Mỹ (1961 -1965)3T 28

3T2.2.1.3T 3TÂm mưu và thủ đoạn mới của Mỹ ở Lộc Ninh3T 28
3T2.2.3.3T 3TQuân và dân Lộc Ninh góp phần đánh bại âm mưu bình định, phá tan hệ thống
ấp chiến lược của Mỹ - Diệm (1961 - 1965)3T 33
3T2.3.3T 3TQuân và dân Lộc Ninh góp phần làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của
đế quốc Mỹ (1965 - 1968)3T 38
3T 2.3.1.Chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở Lộc Ninh 38
3T2.3.2.3T 3TQuân và dân Lộc Ninh phối hợp cùng bộ đội chủ lực đánh Mỹ, diệt ngụy, mở
rộng và giữ vững vùng giải phóng3T 39
3T2.4.3T 3TQuân và dân Lộc Ninh kiên trì bám trụ, phục hồi và xây dựng lực lượng phục vụ
chiến đấu, tham gia giải phóng hoàn toàn quê hương (1969 -1972)3T 45
3T2.4.1.3T 3TQuân và dân Lộc Ninh kiên cường, bám trụ, xây dựng lực lượng3T 45
3T2.4.2.3T 3TQuân và dân Lộc Ninh cùng bộ đội chủ lực tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ,
giải phóng hoàn toàn quê hương3T 50
3TCHƯƠNG III3T 55
3TLỘC NINH TRỞ THÀNH THỦ PHỦ CỦA CHÍNH PHỦ LÂM THỜI CỘNG HÒA
MIỀN NAM VIỆT NAM, CĂN CỨ ĐỊA CỦA BỘ CHỈ HUY MIỀN VÀ LÀ HẬU
PHƯƠNG TRỰC TIẾP CỦA CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH (1972 -1975)3T 55
3T3.1.3T 3TLộc Ninh sau ngày giải phóng3T 55
3T3.1.1.3T 3TXây dựng, củng cố chính quyền và phát triển lực lượng vũ trang3T 55
3T3.1.2.3T 3TTình hình kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế3T 56
3T3.2.3T 3TXây dựng Lộc Ninh trở thành trung tâm chính trị, căn cứ địa vững chắc của Bộ chỉ
huy Miền3T 59
3T3.3.3T 3TLộc Ninh – Hậu phương trực tiếp của chiến dịch Hồ Chí Minh3T 68
3TKẾT LUẬN3T 74
3TTÀI LIỆU THAM KHẢO3T 80
3TPHỤ LỤC3T 88
3TPHỤ LỤC 13T 89
3TPHỤ LỤC 23T 98







1

PHẦN MỞ ĐẦU

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Lộc Ninh là một huyện thuộc tỉnh Bình Phước, là một huyện thuộc biên
giới Tây Nam của Tổ quốc, có đường biên giới dài hơn 100km tiếp giáp với
huyện Sanuol tỉnh Kratie và Mimot, tỉnh Congpongcham của Campuchia.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Lộc Ninh giữ một vị trí
quan trọng, cố Thượng tướng Trần Văn Trà viết “Lộc Ninh trở thành một
chiến trường trọng điểm của miền Đông, cuộc chiến đấu luôn sôi động….
đóng góp xứng đáng phần mình trong suốt 2 cuộc kháng chiến trương kì đi
đến thắng lợi trọn vẹn giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất tổ quốc.
Một vinh dự lớn đối với đồng bào, chiến sỹ Lộc Ninh là trong giai đoạn cuối
của cuộc chiến tranh chống Mỹ, nơi đây trở thành trung tâm chính trị quan
trọng, nơi đặt cơ quan lãnh đạo của trung ương cục miền Nam, chính phủ
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử. Lộc Ninh còn là đoạn cuối của con đường Hồ Chí Minh lịch sử nổi
tiếng nối liền hậu phương lớn với tiền tuyến lớn” [30; tr 6].
Trong tác phẩm “Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta”, đồng
chí Võ Nguyên Giáp viết “Nói đến đấu tranh vũ trang đến xây dựng lực
lượng vũ trang cách mạng thì không thể không nói đến vấn đề căn cứ địa
cách mạng, vấn đề hậu phương của chiến tranh cách mạng”. Đó là “những
vùng giải phóng xuất hiện trong vòng vây của địch, cách mạng dựa vào đó để
tích lũy và phát triển lực lượng của mình về mọi mặt, tạo thành những trận
địa vững chắc về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, lấy đó làm nơi xuất phát

để mở rộng dần ra, cuối cùng tiến lên đánh kẻ thù lớn mạnh, giải phóng hoàn
toàn đất nước. Căn cứ địa là chỗ đứng chân của cách mạng, đồng thời là chỗ
dựa để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, đẩy mạnh đấu tranh cách
2

mạng; trên ý nghĩa đó, nó cũng là hậu phương của chiến tranh cách mạng ”
[41; tr 89 - 90].
Với những tính chất trên và do có vị trí quan trọng, nên từ khi được giải
phóng năm 1972, huyện Lộc Ninh đã được chọn làm trung tâm chính trị, căn
cứ của Bộ chỉ huy Miền, “Lộc Ninh được giải phóng năm 1972 cùng với toàn
tỉnh Phước Long được giải phóng đầu năm nay đã trở thành một căn cứ quan
trọng của ta, hiện nay trở thành một địa bàn rộng lớn rất thuận lợi cho cuộc
Tổng tiến công vào Sài Gòn sắp tới” [28; tr 81].
Trong thắng lợi chung của quân dân miền Nam trong cuộc chiến tranh
chống Mỹ, quân và dân Lộc Ninh đã có những đóng góp khá quan trọng của
mình. Tuy nhiên vai trò này của huyện Lộc Ninh chưa được đi sâu nghiên cứu
và không được đề cập nhiều trong các công trình nghiên cứu lịch sử.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay, đặc biệt Lộc
Ninh là một huyện biên giới Tây nam của Tổ quốc, việc nhận thức và giáo
dục thế hệ trẻ về truyền thống đấu tranh cách mạng của quân và dân, niềm tự
hào về những đóng góp của quê hương vào thắng lợi chung của dân tộc trong
cuộc chiến tranh chống Mỹ là hết sức cần thiết. Đã có một số công trình
nghiên cứu về huyện Lộc Ninh, nhưng chưa phản ánh toàn diện và có tính
tổng kết. Vì vậy luận văn muốn đi sâu vào nghiên cứu để tìm hiểu vấn đề này,
đồng thời góp phần vào việc nghiên cứu và giáo dục lịch sử địa phương trên
địa bàn huyện Lộc Ninh – tỉnh Bình Phước, nơi mình sinh sống và công tác là
công việc hết sức cần thiết. Đó cũng là lí do và cũng là mục đích tôi chọn đề
tài “Vai trò của huyện Lộc Ninh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954 - 1975)” để nghiên cứu.
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Đã có một số công trình nghiên cứu, các bài viết trên các tạp chí về
huyện Lộc Ninh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đó là:
Ban thường vụ tỉnh ủy Sông Bé, Lịch sử Đảng bộ Sông Bé, tập 1, 2,
1995. Công trình viết về lịch sử Đảng bộ tỉnh Sông Bé. Truyền thống lực
3

lượng vũ trang tỉnh Sông Bé (1944 -1984), Ban lịch sử quân sự, 1984. Ban
chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Phước, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Phước,
Lịch sử Bình Phước kháng chiến (1945 - 1975), NXB chính trị Quốc gia, Hà
Nội 2002. Đảng bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam - BCH Đảng bộ tỉnh Bình
Phước, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Phước (1930-1975)(sơ thảo), Ban thường
vụ tỉnh ủy ấn hành, 2000. Là một huyện của tỉnh Sông Bé (sau là Bình
Phước), các công trình trên có đề cập đến huyện Lộc Ninh trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ.
Ban chấp hành Đảng bộ huyện Lộc Ninh, Lộc Ninh lịch sử và truyền
thống, In nội bộ, 1987. Đảng bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam tỉnh Bình Phước-
BCH Đảng bộ Huyện Lộc Ninh được viết lại trên cơ sở của bản sơ thảo năm
1987: Lộc Ninh lịch sử và truyền thống (1930 -2000), NXB Tp.HCM, 2001.
Hai công trình trên chủ yếu viết về lịch sử đấu tranh cách mạng của Huyện
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hà Minh Hồng (cb) với tác phẩm: Đại đội 31 Lộc Ninh anh hùng, NXB
Tổng hợp T.P. Hồ Chí Minh, 2003. Là công trình viết về lịch sử đại đội 31
Lộc Ninh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Viết về căn cứ trong kháng chiến chống Mỹ có tác phẩm: Căn cứ của
quân ủy và bộ chỉ huy Miền trong chiến tranh chống Mỹ (1954-1975), NXB
Quân đội nhân dân, Sở văn hóa thông tin Sông Bé, Hà Nội, 1995. Công trình
có một chương viết về căn cứ của Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền trong giai
đoạn cuối của cuộc chiến tranh đó chính là căn cứ Lộc Ninh từ 1973 -1975.
Khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Hà Thị Vân Anh , Góp phần tìm
hiểu căn cứ cách mạng Lộc Ninh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước

(1954 - 1975), Trường ĐHSP Tp.HCM, 2008. Bước đầu tìm hiểu về căn cứ
Lộc Ninh trong kháng chiến chống Mỹ
Luận án tiến sĩ lịch sử của Trần Thị Nhung, Căn cứ địa ở miền Đông
Nam bộ trong cuộc kháng chiến chông Mỹ (1954 -1975), Viện KHXH tại
4

TPHCM, 2001. Có đề cập đôi nét đến căn cứ Lộc Ninh trong giai đoạn cuối của chiến
tranh.
Ngoài ra còn có các bài viết về Lộc Ninh trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ ở Lộc Ninh của Bảo tàng tỉnh Bình Phước đó là bài tác giả Tô Thị Huê:
Lộc Ninh – đoạn cuối đường Hồ Chí Minh.
Ban tuyên giáo Huyện Lộc Ninh có bài Căn cứ Lộc Ninh (1973 -
1975). Đây là bài viết về căn cứ Lộc Ninh từ 1973 -1975.
Thiếu tướng Đoàn Văn Khoan với bài Lộc Ninh trận đánh mở màn
chiến dịch Nguyễn Huệ 1972, Thông tin khoa học công nghệ và môi trường
Quân khu 7, Số 35 tháng 6-2002. Viết về diễn biến của trận đánh giải phóng
Lộc Ninh.
Các công trình nghiên cứu trên giúp hiểu về cuộc kháng chiến chống
Mỹ của huyện Lộc Ninh.Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên chưa
nghiên cứu một cách cụ thể và đánh giá về vai trò của một huyện trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Đó cũng là một vấn đề chưa được quan tâm thỏa
đáng. Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu trên, luận văn đi vào
nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về vai trò của huyện Lộc Ninh nói
chung ở miền Đông Nam bộ và ở huyện Lộc Ninh- tỉnh Bình Phước nói riêng
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975).
III. NGUỒN TƯ LIỆU
Tài liệu về lý luận chiến tranh, căn cứ địa và hậu phương trong chiến
tranh được đề cập trong các tác phẩm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, của các đồng chí lãnh tụ. Các bài nghiên cứu được
công bố trên các công trình khoa học và các tạp chí, các luận án tiến sĩ lịch sử,

các công trình sử học về cuộc kháng chiến chống Mỹ của trung ương, địa
phương đã được xuất bản và được lưu giữ trong các thư viện.
Các văn bản, tài liệu trong chiến tranh chống Mỹ có liên quan đến đề
tài được lưu giữ tại Phòng khoa học công nghệ và môi trường Quân khu 7,
5

Ban chỉ huy quân sự tỉnh Bình Phước, Ban chỉ huy quân sự huyện Lộc Ninh,
bảo tàng tỉnh Bình Phước.
IV. GIỚI HẠN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Về phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian nghiên cứu của đề tài là từ khi Hiệp định Genève
được kí kết, bắt đầu có hiệu lực (ngày 20 tháng 7 năm 1954), và kết thúc là
ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ, miền Nam hoàn
toàn giải phóng.
- Về không gian nghiên cứu của đề tài là trên địa bàn của huyện
Lộc Ninh của tỉnh Bình Phước. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tên gọi và
địa giới hành chính của Huyện có nhiều thay đổi, tuy nhiên phạm vi hành
chính được xác định là trong phạm vi hành chính của huyện Lộc Ninh theo sự
phân chia địa giới hiện nay.
Về nội dung nghiên cứu: luận văn tập trung giải quyết những nội dung
chính sau:
- Tham gia đấu tranh trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, đồng thời
xây dựng và phát triển lực lượng của quân và dân huyện Lộc Ninh, tiến tới giải
phóng Huyện, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn.
- Sau khi được giải phóng năm 1972, huyện Lộc Ninh được xây
dựng thành trung tâm chính trị và căn cứ địa vững chắc của Bộ chỉ huy Miền,
đồng thời trở thành hậu phương cho chiến trường miền Nam trong giai đoạn
cuối của cuộc chiến tranh, góp phần làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975,
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Đó là những nội dung chính mà luận văn đề cập đến.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình làm luận văn tôi sử dụng phương pháp lịch sử và
phương pháp Logic là phương pháp chủ yếu. Bên cạnh hai phương pháp đó
tôi cón sử dụng phương so sánh, phân tích, tổng hợp để xác định tính chính
6

xác của tư liệu, từ đó làm sang tỏ nội dung nghiên cứu. Và để hiểu mối liên hệ
giữa Lộc Ninh với chiến trường Nam Bộ tôi sử dụng phương pháp so sánh
lịch sử.
Đặc biệt, khi nghiên cứu về một huyện, một vấn đề khó khăn trong
nghiên cứu đó là có rất ít tư liệu thành văn để lại. Do đó tôi phải kết hợp với
phương pháp khảo sát điền dã để sưu tầm tư liệu đồng thời liên hệ trực tiếp
với một số nhân chứng lịch sử đang sinh sống tại Lộc Ninh và có tham gia
vào cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Lộc Ninh, những nhà nghiên cứu về Lộc
Ninh và Bình Phước để thẩm định tư liệu.
Ngoài ra tôi còn sử dụng phương pháp liên nghành mà các nghành khoa
học khác để lại như : địa lý quân sự, khoa học quân sự…. để nghiên cứu và
trình bày luận văn.
VI. ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
Bước đầu tìm hiểu và đánh giá vai trò của huyện Lộc Ninh trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ.
Trên cơ sở luận văn góp phần làm phong phú hơn tư liệu lịch sử dân
tộc thời kì kháng chiến chống Mỹ.
Đồng thời cũng góp phần làm phong phú tư liệu về lịch sử huyện Lộc
Ninh, phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy lịch sử ở địa phương,
nhằm phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng của quân và dân trên địa
bàn Huyện, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước hiện nay.
VII. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận
văn được chia thành 3 chương như sau:
Chương I: Đi vào khái quát về địa lí, sự thay đổi hành chính của huyện
Lộc Ninh qua các thời kỳ lịch sử và truyền thống đấu tranh của nhân dân
huyện Lộc Ninh.
7

Chương II: Quá trình đấu tranh chống Mỹ và tay sai của nhân dân
huyện Lộc Ninh từ năm 1954 đến khi giải phóng huyện ngày 7 tháng 4 năm
1972.
Chương III: Từ sau khi được giải phóng, huyện Lộc Ninh được chọn
làm trung tâm chính trị, căn cứ của Bộ chỉ huy miền trong giai đoạn cuối của
cuộc chiến tranh chống Mỹ.






8


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HUYỆN LỘC NINH
1.1. Địa lí tự nhiên
Huyện Lộc Ninh là huyện miền núi biên giới phía Tây - Bắc của tỉnh
Bình Phước, có đường biên giới dài hơn 100km tiếp giáp với huyện Sanuol
tỉnh Kratie và Mimot, tỉnh Congpongcham của Campuchia. Có 1 cửa khẩu
quốc tế Hoa Lư. Phía Tây và phía Bắc giáp Campuchia. Một phần nhỏ ranh

giới phía Tây – Nam giáp tỉnh Tây Ninh. Phía Đông giáp huyện Bù Đốp và
huyện Phước Long. Phía Nam giáp với huyện Bình Long. Lộc Ninh có tổng
diện tích tự nhiên là 86.297,52ha
P0F
1
P.
Lộc Ninh có 7/16 đơn vị hành chính có biên giới với Vương quốc
Campuchia, đây là một trong những lợi thế quan trọng về vị trí địa lý, thuận
lợi cho giao thương kinh tế với nước bạn Campuchia trong phát triển kinh tế -
xã hội thông qua cửa khẩu quốc tế Hoa Lư.
Lộc Ninh có địa hình cao từ phía Bắc, thấp dần về phía Nam, nằm
trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng
10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Phần lớn đất ở Lộc Ninh là đất đỏ bazan có độ phì nhiêu cao, phù hợp
các loại cây trồng có thu nhập cao như: cà phê, điều, hồ tiêu, cao su.
Lộc Ninh có 2 con sông lớn chạy qua là sông Măng tạo thành biên giới
tự nhiên giữa Việt Nam và Campuchia, sông Bé tạo thành ranh giới tự nhiên
giữa Lộc Ninh với huyện Phước Long. Ngoài ra còn có Suối Cần Lê là ranh
giới giữa huyện Lộc Ninh với huyện Bình Long và trên 20 con suối lớn nhỏ
trên địa bàn huyện. Với nguồn nước phong phú, thời tiết 2 mùa mưa nắng rõ

1
Số liệu do Ban tuyên giáo huyện Lộc Ninh cung cấp.
9

rệt, đặc biệt thích hợp cho sự phát triển của các loại cây công nghiệp có giá trị
xuất khẩu cao như cao, hồ tiêu, cà phê….
Trên địa bàn Huyện Lộc Ninh có nhiều loại khoáng sản có ý nghĩa kinh
tế lớn, như đá vôi, đá xây dựng, đất sét làm gạch ngói, cao lanh, cát sỏi…
Mỏ đá vôi Tà Thiết có trữ lượng lớn, khoảng 360 triệu tấn, cung cấp

nguyên liệu cho nhà máy sản xuất xi măng khoảng 2 triệu tấn/năm. Đá xây
dựng phân bố ở các xã Lộc Thành, Lộc Hưng, Lộc Quang, Lộc An. Đất sét có
thể làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng: gạch, ngói phân bố ở các xã
Lộc Hưng, Lộc Quang, Lộc Thành.
Lộc Ninh có hệ thống giao thông thuận lợi. Từ Thành phố Hồ Chí
Minh qua Thủ Dầu Một nối sang Campuchia. Ngoài ra còn có nhiều con
đường nối với quốc lộ 13 chạy lên biên giới, đi sang Tây Ninh, qua Phước
Long…. Nhiều con đường ở Lộc Ninh ngày nay đã từng là những con đường
trong hệ thống giao liên, vận tải của đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ.
Với điều kiện tự nhiên hội đủ những yếu tố thuận lợi: sông suối, thổ
nhưỡng, khí hậu, giao thông nên Lộc Ninh đã trở thành một địa bàn chiến
lược quan trọng trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, đóng vai trò là cửa
ngõ phía bắc của chiến trường miền Đông Nam bộ.
Lộc Ninh là một vùng lý tưởng để xây dựng căn cứ kháng chiến cho
cách mạng, là bàn đạp tấn công rất thuận lợi về trung tâm đầu não của địch ở
Sài Gòn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Do đó từ sau khi giải phóng
Huyện năm 1972, Lộc Ninh đã được chọn làm trung tâm chính trị của Chính
phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, nơi đặt cơ quan lãnh
đạo của Trung ương cục và Bộ chỉ huy Miền, một vùng chiến lược quan trọng
cả về quân sự, chính trị và kinh tế [
3; tr 13]. Và ngày nay, là một huyện biên
giới, Lộc Ninh còn giữ vai trò đặc biệt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
đất nước hiện nay.
1.2. Địa lí hành chính
10

Khoảng đầu công nguyên, vùng đất Nam Bộ bước vào thời kỳ lập quốc.
Căn cứ vào những ghi chép trong các thư tịch cổ Trung Quốc thì vào khoảng
thời gian đó ở phía Nam của Lâm Ấp (Chămpa), tương ứng với vùng đất Nam

Bộ ngày nay, đã xuất hiên một quốc gia có tên gọi là Phù Nam [45; tr13 -14].
Vào cuối thế kỷ VI, đầu thế kỷ VII, nhân lúc Phù Nam suy yếu, các
thuộc quốc lần lượt trở thành các vương quốc độc lập. Riêng Chân Lạp, nhân
cơ hội đó đã tấn công và chiếm lấy một phần lãnh thổ Phù Nam ở vùng hạ lưu
sông Mê Kông. Vùng đất Nam bộ đã bị phụ thuộc vào Chân Lạp [45; tr 21].
Huyện Lộc Ninh – tỉnh Bình Phước là 1 vùng đất thuộc miền Đông
Nam Bộ, như vậy có thể nói vào thời kỳ này thì Lộc Ninh thuộc Phù Nam,
tiếp đó là Chân Lạp.
Mãi tới năm 1698, miền Đông Nam bộ mới trở thành phủ huyện chính
thức của Việt Nam [39; tr 161]. Địa bàn Sông Bé dưới thời chúa Nguyễn
thuộc dinh Trấn Biên [39; tr 146]. Lúc này, Lộc Ninh thuộc dinh Trấn Biên.
Từ năm 1801, triều Nguyễn bắt đầu cho thiết lập cơ cấu hành chính và
hệ thống đồn ải để quản lý dân cư và lãnh thổ. Lúc bấy giờ, vùng Lộc Ninh
thuộc huyện Phước Long, trấn Biên Hoà (sau đổi thành tỉnh Biên Hoà).
Tháng 12 năm 1861, sau khi chiếm tỉnh thành Biên Hoà, thực dân Pháp
đưa quân tiến chiếm Lộc Ninh. Đến năm 1867, 6 tỉnh Nam kỳ đều rơi vào tay
Pháp. Thực dân Pháp đã nhanh chóng thiết lập bộ máy cai trị gồm 27 địa hạt
hành chính trên toàn Nam Kỳ. Đến năm 1889 nâng các địa hạt hành chính lên
thành tỉnh. Lúc này, Lộc Ninh trở thành một tổng của Phủ Phước Long, tỉnh
Biên Hoà và đến năm 1893 Lộc Ninh là một tổng của quận Cần Lê.
Bước sang đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp lần lượt lập nên ở vùng Lộc
Ninh - Hớn Quản các đại lý hành chính và đồn binh như đại lý hành chính
Hớn Quản
P1F
2
P (1906), đồn binh Bù Đốp (1906) để xiết chặt ách kiểm soát. Năm

2
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu trong Địa chí tỉnh Sông Bé là đại lý hành
chính tên là Hớn Quảng [39; tr 223]. Hiện nay tên gọi là Hớn Quản.

11

1912, tỉnh Thủ Dầu Một được hình thành từ một phần tỉnh Biên Hoà và một
phần của tỉnh Gia Định. Đến đây Lộc Ninh là một trong 12 tổng của Tỉnh Thủ
Dầu Một.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giới tư bản áp bức bóc lột công nhân
cao su và đồng bào cư ngụ trong vùng, thực dân Pháp giao bộ máy hành chính
địa phương cho bọn chủ đồn điền quản lý. Đơn vị hành chính cấp tổng bị bãi
bỏ. Từ năm 1927, Lộc Ninh trở thành một xã của quận Bù Đốp, tỉnh Thủ Dầu
Một, ngồm 11 làng và một số phum sóc đồng bào dân tộc. Cơ cấu hành chính
này giữ nguyên cho đến năm 1954.
Trong kháng chiến chống Pháp, theo hệ thống tổ chức của cách mạng
từ năm 1946 đến năm 1951, Lộc Ninh là một xã thuộc quận Hớn Quản, tỉnh
Thủ Dầu Một. Sau khi hợp nhất hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một thành tỉnh
Thủ Biên vào tháng 5 năm 1951, Lộc Ninh vẫn là một xã của quận Hớn Quản
thuộc tỉnh Thủ Biên.
Tháng 10 năm 1956 chính quyền Ngô Đình Diệm tách một số quận Bắc
của hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hoà để thành lập hai tỉnh mới tỉnh Bình
Long và Phước Long. Từ tháng 10 năm 1957, theo cơ cấu hành chính của Mỹ
- Diệm, Lộc Ninh là một đơn vị hành chính cấp Quận thuộc tỉnh Bình Long.
Tháng 4 năm 1972, Lộc Ninh hoàn toàn giải phóng và trở thành nơi đặt
cơ quan lãnh đạo Trung ương Cục Miền Nam và bộ chỉ huy Miền, là trung
tâm chính trị của Chính phủ cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt
Nam.
Ngày 30 tháng 1 năm 1971, Trung ương Cục miền Nam quyết định
thành lập Phân khu Bình Phước. Cuối 1972, Phân khu Bình Phước giải thể,
tỉnh Bình Phước chính thức được thành lập. Trong đó Lộc Ninh là 1 huyện
thuộc tỉnh Bình Phước.
Tháng 10 năm 1976 theo quyết định của Quốc hội khoá IV nước Cộng
Hoà xã hội chủ Nghĩa Việt Nam, tỉnh Sông Bé được thành lập rên cơ sở các

tỉnh Thủ Dầu Một và Bình Phước trước đây, bao gồm 9 huyện, thị. Ba huyện
12

Lộc Ninh, Hớn Quản, Chơn thành hợp nhất thành huyện Bình Long, thuộc tỉnh
Sông Bé.
Đến tháng 3 năm 1978, Chính Phủ nước Cộng Hoà xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam quyết định tách huyện Lộc Ninh ra khỏi huyện Bình Long và Bù
Đốp ra khỏi huyện Phước Long để thành lập huyện Lộc Ninh mới.
Ngày 1 tháng 1 năm 1997 tỉnh Sông Bé cắt các huyện Lộc Ninh, Chơn
Thành, Đồng Phú, Phước Long, Bù Đăng, Bình Long để thành lập tỉnh Bình
Phước.
Thực hiện Nghị Định 17/NĐ-CP ngày 20 tháng 2 năm 2003 về việc
thành lập huyện Bù Đốp, từ ngày 1 tháng 5 năm 2003 huyện Lộc Ninh được
tách ra thành 2 huyện Bù Đốp và Lộc Ninh. Sau khi chia tách, huyện Lộc
Ninh gồm 12 xã và 1 thị trấn, đến năm 2008 thành lập thêm 3 xã mới nâng lên
tổng số xã là 15 và 1 thị trấn
P2F
3
P.
1.3. Dân cư và truyền thống yêu nước của nhân dân huyện Lộc Ninh
trong lịch sử
1.3.1. Cộng đồng dân cư
Từ xa xưa cho đến cuối thế kỷ XIX, Lộc Ninh còn là một vùng rừng
núi hoang vu bạt ngàn. Các nhà khảo cổ đã phát hiện được nhiều di chỉ khảo
cổ ở Lộc Ninh như ở Lộc Thắng, Lộc Khánh bước đầu xác định được Lộc
Ninh từ xa xưa đã có con người cư trú khoảng từ 2500 cho đến 3000 trước
(tương ứng với thời kỳ phát triển của văn minh Đông Sơn)[3; tr 10]. Đó là vài
nhóm thuộc người Indonesien cổ nói tiếng Môn-Khmer, tổ tiên của người
S’tiêng, Mạ, M’nông, Khmer hiện nay[30; tr 17].
Tại Lộc Ninh các nhà khảo cổ học đã phát hiện một trống đồng có niên

đại cùng thời với trống đồng Đông Sơn [31; tr13].
Cho đến thế kỷ XVI, chủ nhân của vùng đất của Bình Phước là cư dân
thuộc các dân tộc S’tiêng, Châu Ro, M’nông, Tà Mun…[31; tr14].

3
Thông tin do Ban tuyên giáo huyện Lộc Ninh cung cấp.
13

Đến đầu thế kỷ XIX, Lộc Ninh chỉ có dân cư của các nhóm địa phương
khác nhau thuộc các bộ tộc S’tiêng, Mạ, M’nông, Khmer… cư trú rải rác trên
địa bàn huyện [30; tr 17].
Khi nhà Nguyễn cho thiết lập cơ cấu hành chính và hệ thống đồn ải để
quản lý, kiểm soát cư dân và lãnh thổ vào năm 1808. Đến những năm 20, 30
đầu thế kỷ XIX, người Việt, trước tiên là binh lính đồn trú và gia đình họ, bắt
đầu có mặt tại Lộc Ninh [30; tr 17].
Trong công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Tư bản Pháp đổ xô
vào chiếm đất lập đồn điền cao su. Năm 1911, Công ty cao su Xét Xô ra đời,
đặt trụ sở tại Lộc Ninh. Nguồn nhân công tại chỗ không đáp ứng đủ nhu cầu
nên bọn địa chủ tư bản đã cấu kết cùng chính quyền thực dân sử dụng lực
lượng cai mộ phu thực hiện các thủ đoạn lừa mỵ, mua chuộc và cưỡng bức
nông dân miền Bắc, miền Trung vào làm công nhân trong các đồn điền. Từ
năm 1917 đến năm 1928 hàng ngàn người các tỉnh Thái Bình, Nam Định,
Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Quảng Bình, Quảng
Trị, Quảng Nam bị lùa vào vùng Lộc Ninh, Bù Đốp. Cho đến năm 1943, đã
có hơn 20.000 đồng bào miền Bắc, miền trung vào và 8.000 đồng bào dân tộc
làm công nhân cho đồn điền cao su ở Lộc Ninh [3; tr 11].
Dân số của huyện Lộc Ninh trước Cách mạng tháng Tám có khoảng
30.000 người [3; tr 13].
Sau hiệp định Geneve năm 1954, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam lập
nên chế độ tay sai Ngô Đình Diệm. Chính quyền Diệm dùng những biện pháp

lừa bịp và cưỡng ép đồng bào Thiên chúa giáo di cư vào Nam, cải tổ việc bố
trí dân cư và tổ chức bộ máy hành chính nhằm tạo lá chắn bảo vệ thủ đô Sài
Gòn từ xa. Đồng thời để tạo bàn đạp cơ động tấn công các căn cứ kháng
chiến, tách dân ra khỏi ảnh hưởng của cách mạng. Đồng bào Thiên chúa giáo
ở xứ đạo Bùi Chu, Phát Diệm bị đẩy lên đây đã xây dựng các đồn điền Chu
Ninh 1,2,3 ở Thiện Hưng, Tích Thiện, ở Lộc Khánh… Tiếp đó, nhiều gia đình
vốn là dân vùng căn cứ kháng chiến khu 5, nhất là Quảng Nam, Quảng Ngãi
14

cũng bị lùa vào định cư ở Lộc Ninh, tại những khu trọng điểm trong kế hoạch
quân sự địa phương của Mỹ - Diệm.
Sau khi được giải phóng năm 1972, Lộc Ninh là nơi tiếp nhận hàng vạn
Việt kiều từ Campuchia chạy về tránh sự khủng bố, giết hại của bọn phản
động Lon Nol đang cầm quyền. Dân số Lộc Ninh tăng vọt từ 30.000 người
tăng vọt lên 60.000 người [30; tr 156].
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng năm 1975, hưởng ứng chủ
trương của Đảng về việc phân bố lại dân cư, xây dựng các vùng kinh tế mới,
dân nhiều địa phương thuộc Hà Sơn Bình, Bình Trị Thiên, Thành phố Hồ Chí
Minh đến Lộc Ninh làm ăn sinh sống ngày càng nhiều [30; tr 21].
Trong thời gian gần đây việc di dân tự do của đồng bào các dân tộc vào
định cư ở Lộc Ninh đã trở thành hiện tượng khá phổ biến. Dân số Lộc Ninh
tăng nhanh chóng, từ 60.000 dân năm 1987 [30; tr 21] đến năm 2006, dân số
huyện Lộc Ninh là 114.982 người, với trên 10 dân tộc anh em cùng sinh sống.
Lộc Ninh là nơi đông đảo đồng bào các dân tộc S’tiêng, M’nông sinh
sống trên địa bàn tỉnh Bình Phước và là nơi quy tụ dân cư của các miền đất
nước đến đây làm ăn, sinh sống. Họ là những người lao động nghèo khổ, bị
vua quan phong kiến, thực dân, đế quốc đàn áp, bóc lột. Do vậy, họ không
phân biệt là những người từ nơi này hay nơi khác đến mà cùng đoàn kết, giúp
đỡ lẫn nhau để tồn tại và phát triển. Họ nêu cao tinh thần thượng võ, không sợ
khó khăn gian khổ đấu tranh bất khuất trước mọi kẻ thù. Sẵn sàng hy sinh vì

sự nghiệp giải phóng quê hương, dân tộc và độc lập của Tổ quốc, vì tự do, ấm
no, hạnh phúc của con người.
1.3.2. Khái quát phong trào đấu tranh chống Pháp nhân dân Lộc
Ninh đến năm 1954
Từ năm 1862, khi triều đình nhà Nguyễn kí hiệp ước Nhâm Tuất cắt 3
tỉnh miền Đông (Biên Hòa, Gia Định, Định Tương) cho Pháp, đồng bào các
dân tộc cư trú tại vùng đất Lộc Ninh bắt đầu gánh chịu ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân.
15

Ngay từ đầu người dân Lộc Ninh đã nung nấu tinh thần đấu tranh
chống giặc. Cuộc kháng chiến chống Pháp của Pu Côm Pô ở vùng biên giới
Campuchia – Việt Nam và liên minh đoàn kết chiến đấu Pu Côm Pô – Trương
Quyền, con trai của Trương Định diễn ra từ năm 1864 trên một địa bàn rộng
lớn ở vùng rừng núi Biên Hòa dọc tuyến biên giới, đã có ảnh huởng tích cực
và được sự hưởng ứng của đồng bào Khmer, S’tiêng tại Lộc Ninh [30; tr 23].
Sang đầu thế kỷ XX, với chương trình khai thác thuộc địa được thực
dân Pháp đẩy mạnh trên toàn cõi Đông Dương. Ở các tỉnh miền Đông Nam
Bộ trong đó có huyện Lộc Ninh, sau khi thử nghiệm thành công 8000 cây cao
su, bọn tư bản Pháp đổ xô vào việc chiếm đất lập đồn điền cao su với sự cướp
đất đai của các đồng bào dân tộc. Đồng bào dân tộc ở Lộc Ninh buộc phải rời
bỏ buôn sóc, vào vùng sâu hẻo lánh để bọn tư bản Pháp lấy đất lập đồn điền.
Quá trình hình thành và phát triển các đồn điền cao su của thực dân
Pháp gắn liền với việc cướp đoạt đất đai, nương rẫy của đồng bào các dân tộc
và bóc lột thậm tệ đối với công nhân. Từ áp bức và bóc lột cùng cực của chủ
đồn điền và tay sai, đã buộc người công nhân cao su đoàn kết với các dân tộc
S’tiêng, M’nông, Châu Mạ, Châu Ro… đứng lên chống lại để bảo vệ quyền
sống của mình. Năm 1908, ở Hớn Quản, Lộc Ninh, dưới sự lãnh đạo của ông
Điểu Dố (người S’tiêng) đã nổi dậy đánh đuổi quân Pháp xâm chiếm buôn
rẫy, tiêu diệt nhiều quân địch. Trước sức mạnh của kẻ thù, nghĩa quân của ông

phải rút về Long Nguyên (Bến Cát), kiên cường chống giặc và ông đã anh dũng hy
sinh[31; tr 29].
Năm 1924 – 1925, thực dân Pháp đưa Gatille lên làm quản đạo ở khu
vực Bù Đốp và vùng tiếp giáp với biên giới Campuchia. Chính sách cai trị tàn
bạo của Gatille đã làm thổi bùng ngọn lửa đấu tranh của đồng bào S’tiêng sau
một thời gian tạm lắng. Một thủ lĩnh khác, ông Rít Đinh đã tập hợp được các
thủ lĩnh của người Stiêng, Mơ Nông kết hợp với phong trào đấu tranh của
công nhân cao su, chiến đấu chống sự đàn áp dã man của thực dân Pháp và
bọn chủ các đồn điền đối với đồng bào các dân tộc và công nhân cao su. Rít
16

Đing và nghĩa quân của ông đã phục kích, giết chết tên Gatille, đại úy quận
trưởng Bù Đốp và một số lính Pháp đi với hắn, trong lúc y đang chỉ huy làm
con đường số 14 vào năm 1925 [30; tr 25].
Bước sang thập niên 30 của thế kỷ XX, đồng bào các dân tộc ở Lộc
Ninh lại tiếp tục nổi dậy. Tiêu biểu là những chiến công của nghĩa quân
S’tiêng do Điểu Son, Điểu Giang, Điểu Mốt, Diểu Môn, Điểu Sung lãnh đạo
[30; tr 25-26].
Mặc dù các cuộc nổi dậy vũ trang của đồng bào các dân tộc đều không
thành công nhưng qua đó đã thể hiện truyền thống bất khuất, đoàn kết chống
giặc của đồng bào các dân tộc ở Lộc Ninh. Các cuộc nổi dậy đó đã khởi dậy
tinh thần yêu nước và ý chí chống ngoại xâm của đồng bào các dân tộc ở Lộc
Ninh và các địa phương lân cận, đồng thời ít nhiều đã làm cho bọn thống trị
thực dân và tay sai của chúng vô cùng lo ngại.
Bên cạnh đó, phong trào đấu tranh của công nhân ở Lộc Ninh cũng bắt
đầu nổ ra tiêu biểu là ngày 8 tháng 4 năm 1928, hàng trăm công nhân thuộc
các làng Lộc Tấn đã đấu tranh và đưa ra yêu sách đòi cải thiện dân sinh [73; tr
6]. Tuy nhiên cuộc đấu tranh bị đàn áp và giải tán.
Tháng 4 năm 1928, chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đồn
điền cao su Phú Riềng được thành lập gồm 5 hội viên do đồng chí Nguyễn

Xuân Cừ làm Bí thư. Các hội viên này đã tích cực vận động đông đảo quần
chúng lao động bước vào một thời kỳ đấu tranh có sự lãnh đạo của tổ chức
chác mạng. Từ đó, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh
phát triển mạnh mẽ hơn, nhất là phong trào đấu tranh của công nhân các đồn
điền cao su.Tháng 10 năm 1929, trên cơ sở tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên, chị bộ Đông Dương Cộng sản Đảng đồn điền cao su Phú Riềng
được thành lập. Đây là chi bộ cổng sản đầu tiên của tỉnh Thủ Dầu Một, đồng
thời cũng là chi bộ cộng sản đầu tiên của ngành cao su Việt Nam. Từ đây
phong trào cách mạng của nhân dân Lộc Ninh – Thủ Dầu Một đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhờ đó mà phong trào công nhân yêu
17

nước của các địa phương trong tỉnh có bước phát triển nhảy vọt, tiêu biểu là
phong trào công nhân Phú Riềng với sự kiện “ Phú Riềng đỏ” tháng 2 năm
1930.
Từ “Phú Riềng đỏ”, phong trào đấu tranh lan nhanh trong đó nhân dân
và công nhân đồn điền cao su Lộc Ninh chịu ảnh hưởng trực tiếp. Trong nửa
cuối năm 1930 và năm 1931, công nhân cao su trong các đồn điền Quản Lợi,
Xa Cam, Xa Trạch, Lộc Ninh, Đa Kia… lần lượt nổi dậy đấu tranh trực diện
với chủ đồn điền, buộc chúng phải giải quyết yêu sách của công nhân.
Tháng 5 năm 1935, 500 công nhân thuộc các làng, sở, đồn điền cao su
Lộc Ninh và Đa Kia đã bãi công biểu tình với tên chủ Đờ La-lăng với yêu
sách: chủ không được giảm tiền lương và không được uy hiếp công nhân [3;
tr 24]. Cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền cao su Lộc Ninh và Đa Kia đã
giành được thắng lợi [31; tr 52].
Đến năm 1938 phong trào công nhân càng lên cao do Hội ái hữu đứng
ra tổ chức, nhất là ở công ty Xét – xô.
Ngày 21 tháng 12 năm 1938, hơn 30 công nhân từ các làng của đồn
điền cao su Lộc Ninh tiếp tục tổ chức bãi công, biểu tình và cử đại diện công
nhân đưa yêu sách cho Đờ La-lăng – chủ công ty Xét – xô, với nội dung: tăng

lương cho công nhân, thi hành ngày làm việc 8 giờ, bớt từ 400 cây xuống 350
cây/ngày, công nhân bị bệnh phải có thuốc uống [31; tr 60 - 61]. Trước tình
hình trên, buộc bọn chủ đành chấp nhận yêu sách và hứa giải quyết.
Trong những năm 1938 đến 1944 phong trào đấu tranh của nhân dân và
công nhân ở Lộc Ninh vẫn diễn ra sôi nổi. Đến tháng 2 năm 1944, chi bộ
Đảng Lộc Ninh được thành lập gồm 3 đồng chí, do đồng chí Lê Đức Anh, ủy
viên Ban cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu
Một, phụ trách vấn đề dân tộc thiểu số
kiêm Bí thư chi bộ [30; tr 41].
Đến đây, Lộc Ninh đã có một chi bộ cộng sản trực tiếp lãnh đạo phong
trào cách mạng ở địa phương. Sau khi thành lập, Chi bộ Lộc Ninh khẩn
trương gây dựng và phát triển lực lượng, đẩy mạnh các hoạt động tuyên
18

truyền cách mạng trong nhân dân và công nhân, chuẩn bị đón thời cơ phát
động quần chúng công nhân và dân tộc vùng lên khởi nghĩa.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng huyện Lộc Ninh, phong trào cách
mạng ở Lộc Ninh phát triển không ngừng. Trong khí thế cách mạng tháng
Tám diễn ra trên cả nước, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Lộc Ninh
cũng diễn ra sôi nổi.
Ngày 24 tháng 8 năm 1945, nhân dân Lộc Ninh đã nhất tề nổi dậy
giành chính quyền [31; tr 80]. Lộc Ninh trở thành một trong những nơi giành
chính quyền sớm nhất trong tỉnh Thủ Dầu Một [31; tr 80].
Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa ở Lộc Ninh đã góp phần vào thắng
lợi chung của toàn tỉnh, toàn Nam bộ và cả nước. Chấm dứt ách thống trị của
thực dân Pháp và phát xít Nhật, mở ra trang sử mới trong lịch sử của nhân dân
Lộc Ninh, đồng thời tạo ra những tiền đề quan trọng để nhân dân cùng cả
nước bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), nhân dân
Lộc Ninh cùng nhân dân cả nước đã tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ,

gian khổ, đóng góp về sức người, sức của cho kháng chiến. Đưa cuộc kháng
chiến chống Pháp của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Với tinh thần yêu nước, đoàn kết, nhân dân Lộc Ninh cũng đã góp phần
vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi đậy mùa Xuân năm 1975, giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Tiểu kết Chương I
Là một huyện biên giới xa xôi của Tổ quốc, Lộc Ninh cũng có nhiều
đặc thù về xã hội và lịch sử, các tầng lớp nhân dân Lộc Ninh đã sớm có sự cố
kết cộng đồng. Ngay từ đầu khi giặc Pháp đến xâm lược, các tầng lớp nhân
dân ở đây với tinh thần yêu nước nồng nàn đã anh dũng đứng lên chống kẻ
xâm lược.
19

Có thể nói, ở Lộc Ninh đồng bào các dân tộc là những người đầu tiên
chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm.
Khi tư bản Pháp mộ phu, lập đồn điền cao su ở Lộc Ninh, khi giai cấp
công nhân ở Lộc Ninh hình thành thì phong trào đấu tranh đã bùng nổ liên
tục, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của toàn dân tộc.
CHƯƠNG II
GÓP PHẦN TỪNG BƯỚC ĐÁNH BẠI CÁC CHIẾN LƯỢC CHIẾN
TRANH CỦA ĐẾ QUỐC MỸ, TIẾN TỚI GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN
QUÊ HƯƠNG (1954 -1972)
2.1. Quân và dân Lộc Ninh đấu tranh giữ gìn lực lượng, đấu tranh bảo
vệ phong trào cách mạng và tham gia phong trào Đồng khởi (1954 -1960)
2.1.1. Chính sách của Mỹ ngụy ở Lộc Ninh sau Hiệp định Genève
Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Genève về Đông Dương được kí
kết, đánh dấu sự thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta, mở
ra bước ngoặt quan trọng trong lịch sử các mạng Việt Nam. Cũng như nhiều
địa phương khác trong cả nước, sau những năm tháng chiến đấu gian khổ,

nhân dân Lộc Ninh cũng tưng bừng, phấn khởi mừng hoà bình.
Đế quốc Mỹ đã nhòm ngó và có âm mưu thôn tính Việt Nam và Đông
Dương từ lâu, nhằm khống chế vùng Đông Nam Á, ngăn chặn phong trào giải
phóng dân tộc và phong trào cộng sản, bao vây Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa, thực hiện chiến lược toàn cầu của mình. Lợi dụng thực dân Pháp
thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương và đang trên đà suy
yếu, đế quốc Mỹ dùng áp lực buộc Pháp trao trả toàn bộ chủ quyền ở miền
Nam cho chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, nhằm biến miền Nam thành
thuộc địa kiểu mới và là căn cứ quân sự của chúng.
Để thực hiện mưu đồ trên, từ tháng 4 năm 1954, Mĩ thành lập một cơ
quan viện trợ quân sự Mỹ (Military Assistance Advisory Group – viết tắt là
MAAG) ở miền Nam Việt Nam dưới sự chỉ huy của John O'Daniel. Từ giữa
tháng 7 năm 1954, cố vấn Mỹ tấp nập đến Sài Gòn. Cùng lúc này Mỹ gạt Bửu

×