Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Tổ chức bộ máy nhà nước thời trần (1226 1400) (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 118 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
=====o0o=====

ĐỖ THỊ LƠ

TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
THỜI TRẦN (1226 - 1400)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học:
ThS. Nguyễn Văn Nam

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận với đề tài “Tổ chức bộ máy Nhà nước thời Trần (12261400)” em được thực hiện tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, dưới sự
động viên, khích lệ của các thầy cô, bạn bè và gia đình.
Em gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô khoa Lịch sử đã đào tạo
và trang bị cho em những kiến thức cơ bản giúp em thực hiện khóa luận này.
Đồng thời, em xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, những người đã
động viên, khuyến khích, tạo mọi điều kiện để em có thể thực hiện khóa luận
thành công.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Th.S Nguyễn Văn Nam
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt thời gian làm khóa luận.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, em không tránh khỏi những thiếu
sót, kính mong các thầy cô nhận xét và góp ý để bài khóa luận của em được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


Sinh viên thực hiện

ĐỖ THỊ LƠ


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan những vấn đề em trình bày trong khóa luận là kết quả
nghiên cứu của bản thân em, được sự hướng dẫn tận tình của Th.S Nguyễn
Văn Nam, không trùng với kết quả của các công trình nghiên cứu khác.
Nếu sai sót em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Sinh viên thực hiện

ĐỖ THỊ LƠ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................ 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 6
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu................................................ 7
6. Những đóng góp mới của bài khóa luận .................................................... 8
7. Bố cục của bài khóa luận ........................................................................... 8
Chương 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH BỘ MÁY NHÀ NƯỚC THỜI TRẦN
(1226-1400)..................................................................................................... 10
1.1. Sự thành lập của nhà Trần .................................................................... 10
1.2.Tổ chức bộ máy nhà nước trước thời Trần ............................................ 12
1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử .......................................................................... 12
1.2.2. Chính quyền trung ương ................................................................. 15

1.2.3. Chính quyền địa phương................................................................. 20
1.3. Sự mô phỏng tổ chức bộ máy nhà nước Trung Hoa............................. 23
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 25
Chương 2. TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC THỜI TRẦN (1226-1400) .. 26
2.1. Tổ chức chính quyền Trung ương thời Trần......................................... 26
2.1.1. Mô hình tổ chức .............................................................................. 26
2.1.2. Văn Ban........................................................................................... 31
2.1.3. Võ Ban............................................................................................. 37
2.1.4. Hoạn Quan...................................................................................... 40
2.1.5. Chức quan đứng đầu kinh đô.......................................................... 40
2.2. Tổ chức chính quyền địa phương ......................................................... 42
2.3. Hoạt động của các cơ quan kiểm tra, giám sát cấp Trung ương........... 47
2.4. Cơ chế tuyển bổ, khảo khóa, thưởng phạt và chế dộ hưu trí đối với
quan lại thời Trần ......................................................................................... 51


2.4.1. Cơ chế tuyển bổ quan lại ................................................................ 51
2.4.2. Chế độ khảo khóa, thưởng phạt...................................................... 53
2.4.3. Chế độ hưu trí ................................................................................. 54
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 55
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC THỜI
TRẦN (1226-1400) ......................................................................................... 57
3.1. Đặc điểm ............................................................................................... 57
3.1.1. Nền quân chủ quý tộc đậm tính chất dòng họ ................................ 57
3.1.2. “Lưỡng đầu chế” tồn tại xuyên suốt triều đại................................ 60
3.1.3. Bộ máy nhà nước chuyển dần từ quân chủ quý tộc sang quân chủ
quan liêu.................................................................................................... 63
3.1.4. Bộ máy mang tính dân tộc cao ....................................................... 64
3.1.5. Bộ máy nhà nước vững mạnh hơn trước đó và có những nét độc
đáo, đặc thù............................................................................................... 66

3.2. Vai trò.................................................................................................... 70
3.2.1. Tạo ra sức mạnh để phát triển kinh tế, văn hóa, ngoại giao.......... 70
3.2.2. Giúp Đại Việt bảo vệ và mở rộng bờ cõi........................................ 72
3.2.3. Giúp quản lý tốt hơn các cấp hành chính địa phương ................... 73
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 73
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 77
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam có một lịch sử lâu đời và nhiều truyền thống tốt đẹp.
Lịch sử lâu đời đó do chính con người Việt Nam đã xây dựng, tạo lên những
truyền thống hào hùng, vẻ vang của dân tộc. Từ trong sự nghiệp dựng nước và
giữ nước, nhân dân Việt Nam đã tạo nên ý thức dân tộc, ý chí kiên chung, tinh
thần yêu nước nồng nàn và lòng dũng cảm để xây dựng nên những giá trị cơ
bản, góp phần quan trọng làm nên sự nghiệp cách mạng, bảo vệ Tổ quốc,
chống các thế lực đế quốc xâm lược, thống nhất đất nước. Công lao to lớn đó
của ông cha và tổ tiên chúng ta qua mấy nghàn năm lịch sử rất đáng tự hào và
để giáo dục cho các thế hệ mai sau, nhất là trong công cuộc xây dựng đất
nước ở thời kì hiện nay.
Lịch sử lâu đời của một dân tộc cũng là lịch sử lâu đời của công cuộc
xây dựng Nhà nước, xây dựng hệ thống hành chính quản lí Nhà nước, trong
công cuộc đó, bất kì dân tộc nào cũng phải quan tâm tới hai yếu tố “dân tộc”
và “hiện đại”. Yếu tố hiện đại thông thường gắn với ý trí và nguyện vọng của
con người; yếu tố dân tộc phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử mỗi dân tộc và
mang ý thực tiễn.
Do điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội của Việt Nam, dựng nước và
giữ nước luôn luôn gắn liền với nhau. Vì vậy ở mỗi giai đoạn lịch sử, tầng lớp

thống trị của mỗi triều đại, mỗi thời kì không chỉ lo xây dựng Nhà nước, củng
cố hành chính quốc gia cho phù hợp với yếu tố thời đại của mình mà còn
quan tâm tới yếu tố dân tộc. Bởi ngoài nhiệm vụ thống trị và bóc lột, Nhà
nước phải được sự ủng hộ của nhân dân cả trong thời bình và thời chiến để
giữ vững biên cương, bảo vệ Tổ quốc và trong xây dựng đất nước.
Tổ chức bộ máy Nhà nước thời Trần không chỉ được kế thừa từ các
triều đại khác trước đó mà các vua Trần còn biết dựa vào hoàn cảnh thực tiễn

1


và ý chí nguyện vọng của nhân dân, của tầng lớp quý tộc Trần để xây dựng.
Có thể khẳng định, trong thời kì cai trị của mình, các vị vua nhà Trần đã xây
dựng được một nhà nước vững mạnh - đủ sức lãnh đạo nhân dân xây dựng đất
nước và đánh bại ba lần đế chế Mông Nguyên hùng mạnh rộng lớn nhất thế
giới lúc đó, tạo nên hào khí Đông A sống mãi trong lòng dân tộc. Đó là một
thành tựu, là bước tiến dài trên con đường xây dựng bộ máy quốc gia thời
trung đại, tạo những tiền đề quan trọng để hoàn thành quá trình phong kiến
hóa ở Việt Nam vào thời kì Lê sơ thế kỉ XV.
Nghiên cứu đề tài này góp phần làm sáng tỏ tổ chức bộ máy nhà nước
thời Trần đồng thời giúp chúng ta thấy được sự phát triển của lịch sử tổ chức
bộ máy nhà nước Việt Nam thời trung đại. Cũng thông qua công trình nghiên
cứu góp phần hiểu rõ hơn lịch sử triều Trần với tư cách một triều đại tồn tại
lâu dài và có những thành tựu to lớn với lịch sử dân tộc.
Điểm lại các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ Ngô Quyền đến
kháng chiến chống Pháp có 12 lần thì ít nhất có 8 lần do nhà nước đứng ra
lãnh đạo. Ở đó tính dân tộc được đặt lên trên hết.
Trong thời kì phong kiến, bên cạnh những yếu tố bất ổn thì hầu hết các
triều đại có nhiều thời gian thịnh trị. Muốn có điều đó thì phải có một hệ thống
hành chính quốc gia ổn định, có một hệ thống quan lại trung thành, tâm huyết.

Cải cách của Lê Thánh Tông và Minh Mạng đều được tiến hành khi đất
nước vào thời kì ổn định và thống nhất. Thời Minh Mạng sau cải cách có 30
tỉnh. Cả hai nhà nước đều tìm cách hạn chế quan lại. Thời Lê Thánh Tông có
khoảng 5.370 quan lại, thời Minh Mạng có khoảng 20.000 quan lại (trừ cấp
xã) với mục đích xây dựng được đội ngũ quan lại trung thành và có nền hành
chính ổn định, quan lại có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng.
Công cuộc cải cách hành chính hiện tại đang diễn ra ở nước ta cũng đặt
ra yêu cầu tìm hiểu tổ chức bộ máy nhà nước trong lịch sử để kế thừa, phát


huy và phát triển những kinh nghiệm của quá khứ phục vụ cho sự nghiệp xây
dựng đất nước hiện tại và tương lai.
Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn như trên, em chọn đề tài “Tổ chức bộ
máy
nhà nước thời Trần (1226-1400)” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu này đã được đặt ra từ sớm, có khá nhiều tác giả đã
nghiên cứu vấn đề nhà nước quân chủ chuyên chế trong thời kì phong kiến
Việt Nam, trong đó có những công trình nghiên cứu có giá trị về thể chế nhà
nước quân chủ quý tộc Trần. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu có
liên quan như:
Trước Cách mạng tháng Tám 1945:
Các tư liệu, tài liệu đương thời như chính sử Đại việt sử kí toàn thư của
Ngô Sĩ Liên và một công trình nghiên cứu rất quan trọng là Lịch triều hiến
chương loại chí của Phan Huy Chú, đặc biệt là phần Quan chức chí là tư liệu
quý về tổ chức bộ máy nhà nước thời Trần, ghi chép tổ chức, vai trò các cơ
quan cũng như các chức quan thời kì nhà Trần.
Thế kỉ XVIII nhà sử học Lê Qúy Đôn đã bước đầu tìm hiểu về tổ chức
bộ máy nhà nước Lý, Trần, Lê Sơ và chính quyền Đàng Trong ghi trong Đại
Việt thông sử.

Sang thế kỉ XIX, Phan Huy Chú nối tiếp việc làm của Lê Qúy Đôn
trong cuốn Lịch triều Hiến Chương Loại Chí.
Sau đó nhà sử học Đặng Xuân Bảng trong Sử học bị khảo tác giả so
sánh bộ máy Nhà nước Việt Nam qua các thời kì, nêu tên các quan chức các
thời kì.
Trong thời kì Pháp thuộc có tác phẩm: Việt Nam quốc sử khảo của
Phan Bội Châu, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Tổ chức Nhà nước An
Nam của A. Pelonster…cũng đã đề cập đến bộ máy nhà nước thời Trần nhưng
rất sơ lược.


Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945đến nay:
Song song với việc nghiên cứu lịch sử dân tộc, một số tác giả đã tìm
hiểu sâu hơn hệ thống hành chính thời phong kiến như:
Cuốn Lịch sử Việt Nam, tác giả Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm,
Lê Mậu Hãn xuất bản năm 2010 là cuốn thông sử đề cập hầu hết những sự kiện
lớn ở Việt Nam trong đó có vấn đề “Chế độ quân chủ quý tộc” thời nhà Trần,
tuy nhiên vấn đề này chưa được các tác giả đi sâu tìm hiểu và có hệ thống.
Tác phẩm “Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX” của Đào
Duy Anh, tác phầm do nhà xuất bản Văn hóa thông tin xuất bản năm 2002.
Tác phẩm này đã được trình bày một cách cụ thể từ nhà nước phong kiến tự
chủ Lý cho tới nhà Trần. Mặc dù chưa nghiên cứu sâu nhưng cũng đã đưa ra
được những cơ sở để giúp người đọc có được nguồn tư liệu, hiểu biết thêm về
vấn đề liên quan đến tổ chức chính quyền ở trung ương và địa phương dưới
thời Trần.
Cuốn Lịch sử Việt Nam từ thời nguyên thuỷ đến năm 1858, tác giả
Trương Hữu Quýnh- Nguyễn Cảnh Minh và Cuốn Tiến trình lịch sử Việt
Nam- PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc chủ biên, nhà xất bản giáo dục, Hà Nôi
2012 cũng hệ thống lại các vương triều phong kiến Việt Nam về tình hình
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nói chung và vương triều Trần nói riêng

cũng được đề cập.
Các công trình nghiên cứu thông sử do các nhà khoa học biên soạn đã
được công bố nhiều năm qua như bộ Lịch sử Việt Nam nhiều tập của tập thể
các tác giả uỷ ban khoa học xã hội xuất bản năm 1971, nhóm biên soạn (Trần
Văn Giàu, Trần Bạch Đắng…)
Giáo trình của tập thể tác giả Đại học tổng hợp Hà Nội, bộ Lịch sử Việt
Nam nhiều tập, các công trình hợp thành sách viết về triều Trần cũng đã được
xuất bản trong những năm qua như tuyển tập những bài nghiên cứu về triều
Trần, Lịch sử vương triều Trần.


Các bộ sách trên có trình bày giản lược thiết chế chính trị nước ta
trước đây.
Ngoài ra còn có Tạp chí nghiên cứu lịch sử, các học giả trong và ngoài
nước nghiên cứu về vấn đề “lưỡng đầu chế”, hiện tượng “song trùng lãnh
đạo” trong bộ máy Nhà nước thời Trần như PGS. TS Nguyễn Văn Kim, PGS.
TS Trần Ngọc Vương xuất bản ngày 21/05/2010.
Cần phải kể đến các báo, tạp chí, tập san như “Phương thức tuyển dụng
quan lại thời Trần”, tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 07, 2006 của Nguyễn Thị
Phương Chi cũng đã đề cập đến nội dung cách thức tuyển chọn quan lại ở
vương triều Trần.
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử với bài viết “Chiến lược phòng thủ đất
nước qua hệ thống thái ấp thời Trần”, tạp trí nghiên cứu lịch sử số 08 của
Nguyễn Thị Phương Chi đề cập những nội dung bao chùm về vai trò của quý
tộc Trần trong các cuộc kháng chiến chống quân Mông- Nguyên.
Như vậy, nghiên cứu Tổ chức bộ máy nhà nước thời Trần đã có một
quá trình lịch sử với khá nhiều tác giả quan tâm. Tuy nhiên hầu hết các công
trình nghiên cứu được công bố đều viết dưới dạng khảo cứu, giáo trình bài
giảng phục vụ giảng dạy, tìm hiểu một cách khái quát chung và gắn với các
lĩnh vực khác nên mới chỉ mô tả được một số thiết chế quan trọng của nhà

nước quân chủ như chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, tổ chức
quân đội…, chứ chưa quan tâm đúng mức đến các thành tố khác của tổ chức
nhà nước quân chủ như: pháp luật, việc kiểm tra giám sát, việc đào tạo, tuyển
dụng quan lại, nhiệm vụ, quyền lợi, khảo khóa quan lại, vấn đề khen thưởng,
kỉ luật, hưu trí của quan lại… nên đề tài nghiên cứu chưa có hệ thống và
chuyên sâu. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên cũng đã đề cập được
nhiều khía cạnh của đề tài, đây là nguồn tư liệu quan trọng để tác giả tham
khảo trong quá trình nghiên cứu đề tài.


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Đề tài nhằm làm rõ việc tổ chức chính quyền trung ương và địa phương
dưới triều đại phong kiến Trần để nhìn thấy rõ được sự tiến bộ, phát triển của
triều đại so với các triều đại trước. Đồng thời có thể rút ra được những nhận
định, đánh giá về vấn đề này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu cơ sở để nhà Trần tổ chức bộ máy Nhà nước. Thông qua việc
tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử thời Trần và tổ chức bộ máy Nhà nước các vương
triều phong kiến trước đó ở Việt Nam để rút ra những cơ sở, tiền đề cho nhà
Trần tổ chức bộ máy Nhà nước.
Nghiên cứu tổ chức bộ máy Nhà nước ở Trung ương và địa phương,
các thiết chế chính trị và phương thức vận hành của Nhà nước.
Nghiên cứu tính chất, đặc điểm và vai trò của Tổ chức bộ máy Nhà
nước thời Trần (1226-1400) trong việc quản lý, xây dựng đất nước, chống
giặc ngoại xâm; bước tiến trong quản lý làng xã chính quyền địa phương và
chỉ ra những kinh nghiệm quý báu từ tổ chức bộ máy Nhà nước thời Trần.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tổ chức bộ máy nhà nước thời Trần (1226-1400).

4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Về không gian: Tổ chức bộ máy Nhà nước trên lãnh thổ quốc gia Đại
Việt thời kì nhà Trần
Về thời gian: Vương triều Trần từ năm 1226-1400. Trong quá trình
nghiên cứu để làm rõ hơn tác giả đã mở rộng thời gian nghiên cứu tới các
triều đại trước triều Trần (Ngô, Đinh- Tiền Lê, Lý).


5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu
Tư liệu gốc:
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú do nhà xuất bản
khoa học xã hội xuất bản năm 1992.
Đại Việt thông sử và Kiến văn tiểu lục của Lê Qúy Đôn do nhà xuất bản
khoa học xã hội xuất bản năm 1978.
Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê do nhà
xuất bản khoa học xã hội xuất bản năm 2009.
Tư liệu từ bảo tàng Lịch sử Việt Nam, địa chỉ số 1, Tràng Tiền, Hà Nội.
Tư liệu xuất bản:
Các cuốn sách, giáo trình như Lịch sử Việt Nam của Trương Hữu
Quýnh, Tiến trình Lich sử Việt Nam của PGS. TS Nguyễn Quang Ngọc viết
về tình hình kinh tế, chin trị, xã hội thời Lý, Trần
Tập san “Đường lối trị nước của vương triều Trần giữa hai cuộc kháng
chiến chống Mông- Nguyên năm 1258- 1285” của Trần Thị Thái Hà; Tạp chí
nghiên cứu lịch sử “Đào tạo và trọng dụng nhân tài ở Thăng Long thời Trần”
của Nguyễn Thị Phương Chi.
Các nguồn tư liệu tìm kiếm khác.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Để thực hiện đề tài này, người viết đã dựa trên cơ
sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

quan điểm của Đảng về nghiên cứu khoa học lịch sử. Đó là kim chỉ nam trong
quá trình hệ thống, sử lí, khai thác và sử dụng tư liệu có liên quan đến nội
dung nghiên cứu.
- Về phương pháp nghiên cứu: người viết vận dụng phương pháp lịch
sử, phương pháp logic nhằm đảm bảo tính khách quan trong nghiên cứu các


sự kiện, hiện tượng lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các phương
pháp khác như phân tích, so sánh, tổng hợp, liệt kê… để rút ra những nhận xét
cần thiết.
6. Những đóng góp mới của bài khóa luận
Lần đầu tiên, khóa luận đã tập hợp được hệ thống khá đầy đủ các nguồn
tài liệu về tổ chức bộ máy thời Trần. Các tài liệu này không chỉ giúp làm sáng
tỏ tổ chức bộ máy nhà nước thời Trần mà còn góp phần tìm hiểu tổ chức bộ
máy nhà nước của các triều đại khác, của chế độ phong kiến Việt Nam.
Khóa luận là công trình đầu tiên trình bày một cách hệ thống, toàn diện
về tổ chức bộ máy nhà nước thời Trần. Đề tài đã làm rõ tổ chức bộ máy nhà
nước trên các khía cạnh: pháp luật, việc kiểm tra giám sát, việc đào tạo, tuyển
dụng quan lại, nhiệm vụ, quyền lợi, khảo khóa quan lại, vấn đề khen thưởng,
kỉ luật, hưu trí của quan lại… Qua đó rút ra những đặc điểm, vai trò của tổ
chức bộ máy nhà nước thời Trần. Việt Nam đã và đang tiến hành cải cách
hành chính quốc gia, từ trung ương xuống địa phương, đề tài khoa học này sẽ
góp phần nhỏ giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý, các nhà
nghiên cứu… những bài học kinh nghiệm bổ ích và quý báu trong khi thực
hiện chức trách của mình.
Công trình nghiên cứu là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh
viên chuyên nghành lịch sử Việt Nam cổ- trung đại, cho việc dạy và học Lịch
sử Việt Nam trong giai đoạn này ở chương trình phổ thông và những ai có
nhu cầu đi sâu vào tìm hiểu về lịch sử nhà Trần.
7. Bố cục của bài khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo bài
khóa luận chia thành 3 chương:
Chương 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH BỘ MÁY NHÀ NƯỚC THỜI
TRẦN (1226-1400)


Chương 2: TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC THỜI TRẦN (12261400)
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
THỜI TRẦN (1226-1400)


Chương 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH BỘ MÁY NHÀ NƯỚC THỜI TRẦN (1226-1400)
1.1. Sự thành lập của nhà Trần
Thế kỷ X được coi là thế kỷ bản lề trong lịch sử dân tộc ta, thế kỷ đã
đánh dấu sự chuyển biến lớn lao có ý nghĩa như những bước ngoặt lịch sử
trọng đại. Những chuyển biến lớn lao đó đều xoay quanh một trục trung tâm
là chống Bắc thuộc, giành độc lập dân tộc, chống dứt họa Bắc thuộc hơn 1000
năm và mở ra thời kỳ phát triển lâu dài cho đất nước.
Sự thành lập và củng có chính quyền độc lập từ nền móng ban đầu của
chính quyền họ Khúc, họ Dương rồi đến nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê. Nền độc lập
được củng cố sau hơn 1000 năm Bắc thuộc đó là cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm của Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền đã tạo ra thế và lực tương
đối của đất nước. Thừa hưởng hơn 1000 năm Bắc thuộc, xã hội ta không khỏi
không chứa đựng những mối quan hệ khác nhau, phức tạp và mâu thuẫn. Mối
quan hệ ấy được biểu hiện với xu hướng cát cứ và trỗi dậy và điều đó được
biểu hiện rõ nhất cuối thời Ngô- Loạn 12 sứ quân. Năm 944, Ngô Quyền mất,
Dương Tam Kha cướp ngôi các hào trưởng địa phương nổi dậy. Đinh Bộ Lĩnh
hùng cứ Hoa Lư (Ninh Bình), rồi tiếp đến “Loạn 12 sứ quân” phải có một
cuộc đấu tranh mới: Đấu tranh cho sự thống nhất đất nước, cho sự xác định

một lãnh thổ nhất định và chỉ như vậy mới có điều kiện xây dựng một nhà
nước vững chắc, bền vững.
Năm 981 hoàng hậu họ Dương đã khoắc áo long cổn cho Lê Hoàn và
mời ông lên ngôi Hoàng Đế. Năm 1005, Lê Hoàn mất, các con của Lê Hoàn
huy động lực lượng trong các thái ấp của mình đánh lẫn nhau trong vòng tám
tháng để giành ngôi báu. Năm 1006, Lê Long Việt lên ngai vàng được ba
ngày thì bị em là Lê Long Đĩnh giết hại để cướp ngôi. Long Đĩnh vừa tàn bạo
vừa ham mê tửu, sắc, vừa bị bệnh không ngồi được, nên khi coi chầu phải


nằm, sử cũ gọi là vua Ngoạ Triều. Tình hình chính trị cuối thời Lê ngày càng
thối nát, nhân dân oán giận.
Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết, triều thần chán ghét nhà Tiền Lê, vì
vậy, các sư tăng và đại thần, đứng đầu là sư Vạn Hạnh, tôn Điện tiền chỉ huy
sứ là Lý Công Uẩn lên làm vua mở đầu cho vương triều Lý (1010-1025).
Nhà Lý đến thời vua Nhân Tông (1072-1127) đã đạt được đỉnh cao của
sự thịnh trị. Nhưng từ đời Anh Tông (1138-1175) về sau chính sự dần dần suy
kém. Các vua lên ngôi thì nhỏ tuổi (Thần Tông 11 tuổi, Anh Tông 5 tuổi, Cao
Tông 2 tuổi…) và đều chết yểu (Thần Tông chết năm 21 tuổi, Cao Tông chết
năm 27 tuổi…) quyền hành nằm trong tay ngoại thích mà không ít là bọn mọt
nước hại dân, lộng hành tham bạo.Từ khỏang giữa thế kỉ XII, triều Lý bắt đầu
thoái hoá và lao nhanh vào con đường suy vong. Đất nước lâm vào cảnh loạn
lạc, giặc cướp tứ tung.
Chính trị thối nát, kinh tế tiêu điều khiến lòng căm hờn của nhân dân
ngày càng bốc cao. Các cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra như cuộc nổi dậy của
Thân Lợi (1140), năm 1152 người miền Đại Hoành (Ninh Bình) cũng nổi dậy
dậy do Nùng Khả Lai chỉ huy. Các hào trưởng lớn như Đoàn Thượng, Đoàn
Chủ nổi dậy ở Hồng Châu (Hải Dương và Hải Phòng)…
Phong trào khởi nghĩa cuối cùng bị thất bại nhưng đã làm lay chuyển
toàn bộ quyền thống trị của nhà Lý, nhân lúc chính quyền trung ương suy yếu

và tàn tạ, các thế lực phong kiến địa phương lại trỗi dậy âm mưu cát cứ.
Trong khoảng hai mươi năm đầu thế kỉ XIII, đất nước lâm vào cảnh loạn lạc
do những cuộc chiến tranh đẫm máu giữa các phe phái phong kiến gây ra.
Trong các thế lực cát cứ bấy giờ thì tương đối mạnh nhất có họ Trần ở
Hải Ấp (Thái Bình), Đoàn Thượng ở Hồng Châu (Hải Hưng), Nguyễn Tự ở
Quốc Oai (Hà Tây), Nguyễn Nộn ở Bắc Giang (Hà Bắc). Trong tình hình đó
nhà Lý luôn tỏ ra bất lực, nhân dân ngày càng khổ cực vì các cuộc chiến.


Trong các cuộc chiến tranh đó, thế lực nhà Trần dần dần phát triển và
trở thành mạnh nhất. Cuối cùng, họ Trần khống chế được chính quyền trung
ương đang hấp hối và chiến thắng các thế lực cát cứ khác. Cuối năm 1225,
triều Lý phải rời khỏi vũ đài chính trị để nhường chỗ cho một vương triều mới
- vương triều Trần (1226-1400).
Vua cuối cùng của triều Lý là Huệ Tông bị bệnh cuồng và không có
con trai, phải nhường ngôi cho công chúa Chiêu Thánh mới lên bảy tuổi (tức
Lý Chiêu Hoàng).
Lúc bấy giờ họ Trần đã nắm giữ mọi chức vụ trong triều. Ngày 10
tháng 1 năm 1226, do sự bố trí của Trần Thủ Độ- người cầm đầu thế lực họ
Trần lúc đó. Lý Chiêu Hoàng tuyên bố cho chồng mình là Trần Cảnh- một
người của phái họ Trần. Trần Cảnh lên ngôi (tức Trần Thái Tông) lập ra triều
Trần [13, tr.185].
Với sự thành lập vương triều Trần, chế độ trung ương tập quyền được
khôi phục và cuộc nội chiến giữa các thế lực phong kiến chấm dứt. Về khách
quan, điều đó phù hợp với nguyện vọng hoà bình, thống nhất của nhân dân và
yêu cầu phát triển của lịch sử. Triều Trần thay thế triều Lý là một Triều đại
mất hết sinh khí vào một hoàn cảnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đó là lúc
những đoàn quân viễn chinh của đế quốc Mông Cổ đang làm mưa làm gió
trên lục địa Á-Âu, đe doạ nghiêm trọng đến vận mệnh của các dân tộc trên thế
giới và đất nước ta cũng đang bước vào một cơn thử thách nguy hiểm nhất

trong lịch sử kể từ khi dựng nước cho đến lúc đó.
1.2.Tổ chức bộ máy nhà nước trước thời Trần
1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử
Sau hơn một nghìn năm đấu tranh lâu dài và quyết liệt, nhân dân ta đã
giành được độc lập. Bối cảnh lịch sử mới của đất nước đã đặt ra yêu cầu xây
dựng và quản lý nhà nước độc lập, tự chủ để vừa giữ vững nền độc lập, vừa


tạo tiền đề cho sự phát triển đất nước. Các triều đại từ họ Khúc, Ngô, Đinh
đến Tiền Lê đã nối tiếp nhau xây dựng nhà nước phong kiến độc lập theo mô
hình quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền với những thành tựu đáng kể.
Đầu năm 905, nhân sự suy yếu của nhà Đường, Khúc Thừa Dụ đã lãnh
đạo nhân dân khởi nghĩa giành lấy chính quyền, ách đô hộ bị lật đổ, Khúc
Thừa Dụ dựng nền tự chủ, lập chính quyền mới và sau đó nhà Đường buộc
phải phong ông làm Tiết độ sứ. Nền thống trị của phong kiến phương Bắc về
cơ bản chấm dứt.
Năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, nối tiếp sự nghiệp của cha, Khúc Hạo
lên thay đã tiến hành nhiều cải các về các mặt xây dựng một đất nước độc lập,
tự chủ. Nhà nước đầu tiên của thời đại mới được xây dựng. Khúc Hạo đã bãi
bỏ mô hình tổ chức hành chính thời Đường, điều chỉnh lại các đơn vị hành
chính trong nước, cho đổi hương làm giáp và lấy giáp làm đơn vị cơ sở.
Ngoài ra, họ Khúc còn đặt thêm nhiều giáp mới, thể hiện việc mở rộng và
củng cố nền độc lập, tự chủ của nhà nước và tách khỏi phạm vi thế lực của
phong kiến Trung Quốc. Ngoài ra, họ Khúc còn đặt chế độ thuế khoá, bước
mới chỉ là một chính quyền tự chủ ở thời kì phôi thai, nền móng cho sự ra đời
của một chính quyền độc lập, tự chủ, kiện toàn ở thời kì sau.
Năm 931, sau khi đánh bại quân Nam Hán, Dương Đình Nghệ lại xưng
là tiết độ xứ, về chính trị không có sự thay đổi.
Năm 939, danh tướng Ngô Quyền sau khi đánh bại quân xâm lược Nam
Hán với chiến thắng Bạch Đằng vang dội đã quyết định xưng vương, bãi bỏ

chế độ tiết độ sứ, xây dựng cung điện, triều đình, đặt trăm quan, chế định triều
phẩm phục, đóng đô ở Cổ Loa- Đông Anh- Hà Nội.
Đứng trước yêu cầu chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc mọi
người đã đoàn kết lại. Nhưng khi nguy cơ ngoại xâm bị đẩy lùi thì bắt đầu
xuất hiện các mâu thuẫn.


Cuối thời Ngô xu hướng cát cứ trỗi dậy dẫn đến “Loạn 12 sứ quân”
phải có một cuộc đấu tranh mới: Đấu tranh cho sự thống nhất đất nước, cho
sự xác định một lãnh thổ nhất định và chỉ như vậy mới có điều kiện xây dựng
một nhà nước vững chắc, bền vững. Năm 981 hoàng hậu họ Dương đã khoắc
áo long cổn cho Lê Hoàn và mời ông lên ngôi Hoàng Đế. Hệ thống quan lại
đơn giản, chưa hình thành các cơ quan hành chính.
Bấy giờ chế độ giáo dục nho học thời Bắc thuộc ít ảnh hưởng tới cư
dân người Việt. Do đó bấy giờ qua lại giữa Đại Việt và các triều đại phong
kiến phương Bắc thường do nhà sư đảm nhận.
Tiếp theo nhà Đinh- Tiền Lê, đến thời Lý chế độ trung ương tập quyền
ngày càng được tăng cường. Đây là thời kì phong kiến độc lập tự chủ luôn
phải thường trực đấu tranh chống ngoại xâm và cũng là thời kì mở đầu cho
quá trình phong kiến hóa ở Việt Nam.
Sau khi lên ngôi đặt niên hiệu Thuận Thiên, Lý Công Uẩn ban Chiếu
rời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Từ năm 1010, Thăng Long với cái thế
“Rồng cuộn Hổ ngồi” đã trở thành kinh đô của Đại Việt.
Xã hội Đại Việt dưới thời Lý là một bước phát triển khá cơ bản so với
các triều đại trước ở thế kỉ X, nền độc lập được xác lập vững chắc.
Cùng với đó, sự nghiệp kháng chiến chống giặc ngoại xâm bảo vệ tổ
quốc như sợi dây vô hình đã thắt chặt khối đại đoàn kết toàn dân, là một trong
những nhân tố quan trọng chi phối việc xây dựng hệ thống hành chính quốc
gia thời kỳ này.
Chịu ảnh hưởng của hơn 1000 năm Bắc thuộc, các triều đại phong kiến

Việt Nam vừa thiết lập một bộ máy nhà nước theo mô hình bộ máy nhà nước
của Trung Hoa, vừa mang những nét mới phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của
dân tộc.


1.2.2. Chính quyền trung ương
1.2.2.1 Nhà nước thời Đinh- Tiền Lê
Năm 905- 907: Chính quyền họ Khúc, Khúc Thừa Dụ xưng tiết độ sứ,
sau đó Khúc Hạo lên thay tiến hành một loạt các cải cách. Khúc Thừa Dụ chỉ
xưng là tiết độ sứ có thể lúc đó khi vừa mới giành được độc lập thế và lực của
ta còn yếu và đó cũng là một hình thức ngoại giao.
Năm 938, sau khi đánh thắng quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương
đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình), đặt trăm quan chế định triều nghi. Sau khi
Ngô Quyền Mất, anh em cát cứ dẫn đến loạn 12 sứ quân điều này chứng tỏ
chính quyền trung ương chưa đủ mạnh.
Sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hòang đế, bỏ niên
hiệu của hoàng đế Trung Hoa tự đặt niên hiệu là Thái Bình, đặt tên nước là
Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Bước đầu xây dựng bộ máy nhà nước và
chính quyền.
Điều đó đã khẳng định sự tồn tại của một quốc gia độc lập ở phía Nam
Trung Quốc, từ thời Đinh đến Tiền Lê bước đầu xây dựng được Nhà nước
độc lập tự chủ lâu dài.
Về thể chế, đó là một nhà nước quân chủ chuyên chế Trung ương tập
quyền. Tuy nhiên thể chế ấy, vua thực chất là các thủ lĩnh quân sự (vừa chinh
phục các dân tộc thiểu số, vừa trực tiếp đi chống ngoại xâm). Vua trực tiếp
nắm quyền xét quan chức, phân chia các đơn vị hành chính, xét sử vụ
kiện lớn, tiếp đón sứ thần ngoại quốc, chủ trì các hoạt động ngoại giao, ban
hành chế độ thuế khóa và binh dịch.
Theo thể định chế, cha truyền con nối (người trong hoàng tộc và phải là
con trưởng). Giúp việc cho vua là một số quan đại thần.

Từ nhà Đinh, Tiền Lê bắt đầu đặt các chức Trấn tướng, và Trấn quốc
bộc xạ quản lý các vùng xa, chủ yếu giao cho các hoàng tử trông coi.


VUA
CÁC QUAN ĐẠI THẦN
Thái sư, Tổng quản, Chi hậu, Phụng
quốc

BAN VĂN

BAN VÕ

BAN TĂNG

Nha hiệu,

Ngoại giáp,

Đại sư, Pháp

Quản Giáp, Đô

Nha nội, Tả hữu

sư, Tăng lực,

hộ phủ sĩ sứ

điền chỉ huy sứ


Đạo sĩ

Tổ chức chính quyền trung ương thời Tiền Lê
Tổ chức bộ máy Nhà nước trong thế kỉ X từ chính quyền họ Khúc đến
Tiền Lê còn đơn sơ về mặt thiết chế, chức danh và còn gần dựa theo quan
chế nhà Đường, nhà Tống.
Nhà nước là sản phẩm của cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, chính
quyền từ họ Khúc đến Tiền Lê ngày càng được củng cố từ trung ương đến địa
phương. Đó là một chính quyền độc lập têu biểu cho chủ quyền quốc gia của
nước ta. Tính độc lập tự chủ của nhà nước được củng cố và nâng cao dần theo
mức độ thắng lợi của cuộc đấu trang giải phóng dân tộc và quá trình xây
dựng lực lượng của đất nước.
Nhìn vào toàn bộ cục diện, bên cạnh tính độc lập ngày càng cao còn có
cuộc đấu tranh chống cát cứ, xây dựng và củng cố chính quyền tập chung bởi
chỉ có nhà nước trung ương mới có thể lãnh đạo nhân dân chống ngoại
xâm


và lãnh đạo nhân dân thúc đẩy phát triển kinh
tế.
1.2.2.2. Nhà nước thời Lý
Thời Lý tiếp nối công cuộc xây dựng đất nước của thời kì Ngô- ĐinhTiền Lê. Trên cơ sở đó nhà Lý xây dựng bộ máy nhà nước ngày càng hoàn
chỉnh, nền độc lập được củng cố vững chắc hơn.
Từ thời Lý trở đi, kinh tế có bước phát triển mạnh so với thời kì trước
trên cả 3 mặt: Nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp.
+ Trong nông nghiệp chú ý đến khai hoang, làm thủy lợi, thể hiện vai
trò của Nhà nước và các chức quan.
+Thủ công nghiệp: quan xưởng và các chức quan phụ trách quản lý.
+Thương nghiệp phát triển, xuất hiện các cảng như Vân Đồn, thể hiện

vai trò quan trọng của nhà nước trong việc quản lý.
Ngoại giao và kháng chiến chống ngoại xâm liên quan tới hai vấn đề:
+Thứ nhất trong ngoại giao phải giữ được an ninh và chủ quyền quốc gia
+Thứ hai kháng chiến chống ngoại xâm nhà nước cũng phải đoàn kết
toàn dân điều này liên quân đến việc tổ chức bộ máy nhà nước và quan lại.
Thực tế điều đó được thể hiện trong cuộc kháng chiến chống Tống xâm lược
dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt (1075-1077).
Văn hóa, xã hội: Thời Lý tư tưởng chính thống là Phật Giáo do đó bộ
máy nhà nước thời kì này rất gần dân và mang tnh dân chủ. Cũng từ năm
1075 lập Văn miếu và tuyển chọn thi cử tầng lớp quan lại được tuyển chọn và
tầng lớp Nho sĩ phát triển. Tính quan liêu trong bộ máy quan lại được thể
hiện rõ rệt.


VUA
TỂ TƯỚNG

Á TƯỚNG (Tả

(Phụ quốc thái

Hữu tham

úy)

tri chính sự)

Tam thái, Tam thiếu, Thái úy, Thiếu úy
Tả Hữu bộc xạ, Tả Hữu phúc tâm


SẢNH (Thượng thư

Viện

sảnh, Trung thư

(Hàn lân viện, Khu

sảnh)

mật việt, Quốc sử
viện)
Các bộ
Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công

Một số cơ quan khác
(Quốc tử giám, khuyến nông ty)

Tổ chức chính quyền Trung ương thời Lý


Bộ máy nhà nước thời Lý, đứng đầu là Vua, nguyên tắc chung vẫn là
cha truyền con nối:
Vua là người có chức vị cao nhất trong triều, là người đại diện cho
quyền thống trị của dòng họ cầm quyền, cũng là người đại diện cho quốc gia,
thay trời trị dân. Nắm toàn bộ quyền hành chính trị, quân sự, ngoại giao, lễ
nghi (Vương quyền gắn với thần quyền). là người phong chức quan cao
cấp,trực tiếp nghe các quan báo cáo tình hình và dâng sớ đề nghị các vấn đề
chính sự, là người ban hành chế độ thuế khóa, lệnh kiểm duyệt dân binh.
Về ngoại giao, vua là người trực tiếp nhận sắc phong, tiếp đãi các sứ

thần nước ngoài, chịu trách nhiệm về thái độ của mình với tư cách là người
đại diện cho dân tộc.
Trong các ngày lễ của quốc gia, vua là người chủ tế.
Vua là người thống lĩnh quân đội, chỉ huy quân trong chiến tranh.
Vua là người ban hành luật pháp.
Giúp việc cho vua là bộ máy quan lại gồm nhiều cấp bậc: gần vua nhất
là một số đại thần, không có số lượng nhất định, thông thưởng gồm có
các chức: Tam Thái (Thái sư, Thái phó,Thái bảo); Tam Thiếu (Thiếu sư, Thiếu
phó, Thiếu bảo); Tư đồ, Phụ quốc Thái úy, Tả Hữu bộc xạ. Những người này
được bàn bạc việc nước cùng với vua.
Bên dưới có một số chức vụ quan trọng như: Tả Hữu phúc tâm; Hữu
gián nghị đại phu, là những người gần gũi, thân cận vua, khuyên răn vua lúc
cần.
Dưới cấp đại thần là một hệ thống các cơ quan chỉ đạo các hoạt
động của Nhà nước gọi chung là Hành khiển (là tên gọi một số quan chức
thừa hành cấp cao).
Bên dưới gồm một loạt các đài, viện, ty, tư, cục.


Như vậy, trong hệ thống hành chính thời Lý chúng ta đã thấy các bộ


×