NHỮNG GHI CHÉP CHỮ NGHĨA KHI ĐỌC
"QUỐC ÂM THI TẬP" CỦA NGUYỄN TRÃI
(Phần 2)
Bài Những ghi chép chữ nghĩa khi đọc Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi (phần 1) của Nguyễn Hùng Vĩ đã phát hiện và sửa
chữa 27 trường hợp, xuất hiện 41 lần chữ phiên sai của các thế hệ
học giả từ 1956 đến nay. Bài này chúng tôi tiếp tục phát hiện và
sửa chữa thêm 14 trường hợp, xuất hiện 20 lần nữa như đã hứa
với các độc giả trong bài trước. Các bản phiên âm nền mà chúng
tôi thực hiện khảo sát nghiên cứu là các bản phiên âm từ trước
đến nay, trong đó bản của nhóm Mai Quốc Liên (2001) được chú ý
nhiều hơn. Đây là bản phổ biến và có ảnh hưởng đến giới học
thuật trong 10 năm trở lại đây. Các văn bản chữ Nôm mà chúng
tôi tiến hành phiên âm, khảo sát gồm bản A tại Viện Nghiên cứu
Hán Nôm còn bản B chúng tôi phải dựa trên sự mách bảo của bản
phiên Trần Văn Giáp, Phạm Trọng Điềm 1956. Các phương pháp
mà chúng tôi sử dụng là văn tự học, ngữ văn học, ngữ âm lịch sử,
văn hóa học… Các vị trí được khảo sát sẽ được đánh dấu lần lượt
theo số thứ tự bài và thứ tự câu trong từng bài đó, ví dụ: 9. 6,
nghĩa là bài thứ 9 tại vị trí câu thứ 6 của bài này. Các chữ Nôm tự
tạo phần lớn sẽ không dùng font cho chữ Nôm mà sẽ ghép các yếu
tố Hán lại với nhau (A: nghĩa phù, B: âm phù) và đặt trong ngoặc
vuông [ A + B], để dễ phân tích cấu trúc cũng như thuận tiện hơn
cho việc công bố và xuất bản.
154
1. Hàu chất so le CỤM cuối làng (9. 6)
Về chữ cụm [木+禁] này, các bản phiên của Trần Văn Giáp,
Phạm Trọng Điềm (1956), Đào Duy Anh (1976), Bùi Văn Nguyên
(1994), nhóm Mai Quốc Liên (2001), Nhóm Nguyễn Tá Nhi (2008)
đều phiên là khóm. P. S1991 phiên là cụm và Từ điển chữ Nôm do GS
Nguyễn Quang Hồng chủ biên (2006) cũng phiên cụm trong phần
ngữ liệu. Chúng tôi cho rằng phiên khóm là chưa đúng vì những lẽ
sau đây:
‐ Chữ khóm trong toàn văn bản Quốc âm thi tập xuất hiện 4 lần
và được ghi bằng chữ 坎 và rất hợp nghĩa văn cảnh:
19. 1 Thương Lang mấy khóm một thuyền câu.
56. 1 Ruộng đôi ba khóm đất con ong.
150. 7 Khóm ruộng ăn ngày tháng đủ.
254. 5 Khỏe cày ruộng thánh đà nhiều khóm.
Các ngữ cảnh cho ta thấy 3 câu gắn với ruộng và 1 câu gắn
với sông. Ở đây, chữ thổ để biểu nghĩa và chữ khám để biểu âm
nên phiên khóm là ứng hợp. Đồng thời cũng cho ta thấy trong
trường hợp này, các nhà cổ học làm sách rất nhất quán, có chủ ý.
Từ điển P. de Béhaine (1772‐1773) cũng ghi Nôm chữ này và ghi
quốc ngữ là khóm với các ngữ liệu ruộng khóm (phần chia ruộng
đất, phần đất thuộc về ai) và hoa khóm (một thứ rau thơm) [5, tr.
285, 4,tr. 227]. P. Của cũng vậy với các từ một khóm, chòm khóm [, tr.
499]. Các từ điển này cũng ghi cụm bằng mã chữ [木+禁] [5, tr. 146;
4, tr. 102], [7, tr. 203]
Chữ cụm chúng ta đang nói xuất hiện 4 lần và được ghi bằng
mã chữ [bộ mộc 木+ cấm 禁 ]. Những văn cảnh xuất hiện như sau:
9. 6 Hàu chất so le cụm cuối làng.
155
18. 6 Ngày vắng chim kêu cuối cụm hoa.
126. 1 Giậu sưa sưa hai cụm trúc.
234. 1 Đất dư dưỡng được cụm hoàng tinh.
Ta thấy trong các ví dụ trên có 3 câu chữ cụm gắn loài cây
và 1 câu chữ cụm là một danh từ được đặt trong thế đối với danh
từ thuyền. Bình thường có thể giải thích cụm là một nhóm nhỏ các
mái nhà lúp xúp ở cuối làng. Nhưng không hẳn đã ấn định được
như vậy. Có thể là các đụn rơm rạ, các đống củi, các bụi cây xum
xúp, thậm chí có thể các cụm rạ trên mảnh ruộng cuối làng. Đọc
cả hai câu này ta thấy không thể ấn định một nghĩa cứng nhắc
nào cả:
Tằm ôm lúc nhúc thuyền đầu bãi
Hàu chất so le cụm cuối làng.
Về ngữ âm, chữ cấm theo cách đọc Hán Việt rõ ràng là gần
với cụm hơn khóm, ít ra là về thủy âm và chung âm. Trong từ điển
của P. de Béhaine nói trên mục chữ cụm cũng viết [ mộc + cấm] với
chú thích cụm là bụi, với ngữ liệu bụi cây. Lại ở đây nữa, ta thấy các
cụ làm bản Nôm rất chọn lọc chữ. Phần biểu ý dùng bộ mộc là hợp
lí. Từ điển chữ Nôm của Nguyễn Quang Hồng chủ biên còn
ghi cụm với các tự dạng [口+禁], [扌+禁] với các văn cảnh khác
như: Một am ở cụm Tây Lâm (Dương Từ, Hà Mậu, 12), Khu đào cụm
liễu trải qua (Dương Từ, Hà Mậu, 11), Xảy nghe bên cụm dâu xanh
(Dương Từ, Hà Mậu, 20), Khuất cụm câu buông cần nhẹ (Hồng Đức
Quốc Âm thi tập, 29a), Ít nhiều hương cụm nhặt thưa bóng cành (Hoa
Tiên, b), Rễ cụm tóc trên (Đại Nam quốc ngữ, 68a) [15, tr. 214‐215].
Từ điển chữ Nôm trích dẫn của Viện Việt học thì lại đánh đồng
giữa cụm và khóm, coi khóm là hình thức chính thức hơn. Tuy nhiên,
ngay trong một mục từ thì các soạn giả lại có các phương án phiên
156
khác nhau (thành khóm, cụm, cắm) [17, tr. 615]. Thiết nghĩ, nên
chuyển tất cả các ngữ liệu trên về dạng cụm cho chuẩn. Từ điển
này cung cấp thêm một số ngữ liệu như sau: Kỳ viên mấy cụm đào
hồng, nùm hoa sim dại con ong ước thầm (Thiên Nam ngữ lục, c.
5717‐5718), Ngọn nguồn kia lai láng mái ghềnh kia, Đèn chiếu thủy vốn
chia dòng Kinh Vị; chòm cỏ mọc tần vần bên miếu nọ, trống thôi hoa
từng ghẽ cụm lan du (Tây Hồ, 51a), sực nhìn dưới cụm phù dung, phấn
môi nắng ánh áo hồng gió bay (Song tinh bất dạ, c. 893‐894),ngoài ra,
chữ này, chúng tôi còn phát hiện dùng để ghi âm động từ cặm
hoặc cắm vì gần âm hơn: nhác trông sao đẩu về đông, chị em ra sức cho
xong mẫu này, lom lem tay cặm(cắm) chân dày, năng trồng cây ngọc cũng
ngày hữu thu (Thanh Hóa quan phong, 19a) [17, tr. 615]. Ngữ liệu
đến đây đã tạm đủ. Chúng ta có thể tiến hành phân suất nghĩa để
phân biệt từ cụm và khóm như sau. Với tiếng Việt cổ từ thế kỷ XVIII
trở về trước, cụm có nghĩa là tập hợp các tán lá của các loài cây (đây
là nghĩa phổ dụng nhất), nhưng cũng đã bắt đầu mở rộng trường
nghĩa để chỉ một tập hợp khác lớn hơn (như trong câu cụm cuối
làng), ngoài ra cụm còn là một động từ (cụ thể xin xem trường hợp
dưới); từ khóm là từ trỏ các không gian lớn hơn nhưng có sự phân
cắt, ví dụ: khóm đất, khóm ruộng, khóm nước, khóm Thương Lang. Một
số ngữ liệu bổ sung như sau: trời trời xanh, nước nước biếc, làu làu
muôn khóm pha lê (Thúy sơn, 1a), thức xuân rước gió như cười, chòm
thanh khóm dật khác vời chân du (Mai đình mộng ký, c. 153‐154). Thế
nhưng, đến cuối thế kỷ XIX, cụm và khóm đã nhập vào dùng chung:
có khách đưa cho một khóm trà, say nhè nào có bén mùi hoa (Yên Đổ, Sơn
Trà, 4a). Việc khảo sát và phân suất nghĩa cho hai từ này từ cuối thế
kỷ XIX đến nay vẫn còn bỏ ngỏ.
Tóm lại, không thể vì có một nhóm từ gần âm gần nghĩa nhau
như cụm, khụm, khúm, khóm, xóm, xúm, xụm, rúm mà khi phiên dễ
dàng tùy ý lựa chọn. Giải pháp phiên cả 8 trường hợp trên, vốn được
157
ghi có chủ ý bằng 2 mã chữ khác nhau, thành khóm cả là vô tình đã
làm nghèo chữ nghĩa của Nguyễn Trãi.
2. Cây CỤM chồi cành chim kết tổ. (11. 4)
Về câu thơ này cũng không có sự thống nhất khi phiên. Trần
Văn Giáp, Phạm Trọng Điềm (1956) đã phiên chữ Nôm [艸+禁]
là cớm và chú thích Cây cớm: Cây lá um tùm. Đào Duy Anh (1976) vì
cho rằng chữ cấm là do chữ diệp lộn thành nên phiên là rợp. Bùi
Văn Nguyên (1994) phiên là rậm. Nhóm Mai Quốc Liên (2001) cũng
theo phiên là rậm còn Nguyễn Tá Nhi (2008) trở lại phiên cớm. Tự
điển Chữ Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, và Tự điển chữ Nôm
trích dẫn của Viện Văn học cũng phiên là cớm.
Chúng tôi không đặt vấn đề chữ viết lộn vì mã chữ này vẫn
có thể cho chúng ta một số phương án đọc khác. Chữ rậm mới
nghe thì có vẻ thuyết phục cả về âm, về nghĩa và về đối thơ nhưng
nghĩ kĩ sẽ không ổn vì hầu như chưa gặp tiền lệ ghi Nôm như thế.
Tuy nhiên, phương án nào hợp lý hơn cả thì lại cần phải biện luận
một cách khá chi tiết. Với chữ cớm mà giải nghĩa là um tùm thì rõ
là ép nghĩa vì chữ cớm trong tiếng Việt dùng để chỉ trạng thái cây
bị che mất ánh sáng nên không thể quang hợp và phát triển tự
nhiên, khiến cho lá mầm có màu vàng nhạt. Mặt khác, chữ cớm là
một từ khá mới, không thấy ghi nhận trong bất cứ từ điển nào, và
cũng không thấy xuất hiện ở bất cứ ngữ liệu văn học cổ nào (ngoài
trường hợp đang bàn). Từ điển đầu tiên ghi nhận từ này là
cuốn Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến Đức năm 1931 [tr. 95].
Chúng ta gặp chữ rậm được ghi bằng các mã chữ như sau
林,甚,椹,葚,và [艸 +椹] [15, tr. 943]. Nhóm Mai Quốc Liên lấy
ngữ liệu Truyền kì mạn lục giải âm dùng chữ này (mà các ông phiên
là khóm – Nguyễn Hùng Vĩ nhấn mạnh) để dịch chữ Hán tùng rồi
158
lấy nghĩa rậm rạp, bụi rậm làm nghĩa chính để chứng minh cách
phiên rậm là quá ép nghĩa. Tùng trước hết vẫn có nghĩa là bụi. Còn
rậm là nghĩa suy ra, nghĩa phái sinh do các soạn giả tự suy đoán. Về
từ nguyên, thì rậm có thể có nguyên từ là sâm 森, từ sâm còn cho
một biến thể khác là sum trong tiếng Việt. Còn từ cụm trong chữ
Nôm vẫn được ghi nhất quán chỉ bằng 1 thanh phù duy nhất là cấm
禁 như đã nêu trên.
Cũng như ở mục 1, ta thấy cấm đã biểu âm cho cụm, thì ở
đây cấm vẫn biểu âm đó, nhất quán. Về đối thơ cụmhoàn toàn có
thể đối được với quang ở câu sau khi hai thực từ này đều chỉ trạng
thái cảnh vật:
Cây cụm chồi cành, chim kết tổ
Ao quang mấu ấu, cá nên bầy.
Cụm chồi cành là trạng thái sinh trưởng của cây cũng như
quang mấu ấu là trạng thái hiện thực của ao. Đôi phát ngôn trên
được dựng theo kết cấu đề ‐ thuyết. Nhưng đằng sau nó là có bàn
tay của thi sĩ ẩn cư. Chăm cây để dọn tổ cho chim về, làm cỏ ao để
cho cá lội. Đó là cảnh giới cao nhất về đời sống của người ẩn sĩ.
Đời sống vật chất và tinh thần nhất thể hóa làm một.
3. Khách ₫ến vườn còn hoa LIẾC (35. 5)
Chúng tôi chọn phương án phiên 落 là LIẾC trong câu thơ
này là sau một quá trình suy nghĩ nghiêm túc để đạt đến sự hợp lí
giữa chữ, nghĩa và âm đọc. Phiên lác như các tác giả khác cũng
được, nhưng rất tiếc là họ đã hiểu sai nghĩa nên dùng liếc là để
phân biệt cho rõ. Về chữ này, ta thấy:
Trần Văn Giáp, Phạm Trọng Điềm (1956) phiên là lác và chú
thích: “Hoa lác: Vườn còn lác đác mấy đóa hoa”.
159
Đào Duy Anh (1976) không đồng thuận với cách phiên hoa
lạc, ông ủng hộ cách phiên lác với nghĩa lác đác.
Bùi Văn Nguyên (1994) phiên là lạc và chú thích: “Hoa lạc:
bản Nôm ghi chữ lạc là rụng, để mượn âm, đồng thời ẩn nghĩa,
hoa lạc tức là hoa lạc mùa, trái mùa, tất nhiên, loại hoa như vậy
chỉ lác đác, chứ ít khi nở rộ, nhưng cũng quý, như khách tri âm”.
Nhóm Mai Quốc Liên (2001) cũng phiên lác và chú thích:
“Chữ Hán đọc là lạc, chữ Nôm 落. Có thể phiên là lác hoặc rác.
Lác có nghĩa là lác đác. Từ điển Génibrel có ghi 落 lác: và đã dịch
lác đác là rare (hiếm, còn ít); 落 rác và đã dịch lác rác cũng là rare.
Hoa lác đác. Trần Văn Giáp, Đào Duy Anh, PS đều phiên và giải
thích như thế. PS cũng ghi thêm một cách đọc khác là hoa lạc và
giải thích là hoa rụng (les fleurs tombées)... ”.
Nhóm Nguyễn Tá Nhi (2008) cũng đồng ý cách phiên và hiểu
như trên.
Chúng tôi thấy rằng chữ 落 trong tập thơ này với âm Hán Việt
là lạc có thể ghi âm Nôm nhiều tiếng khác nhau như lạc, rặc, lác. Với
âm lác, các tác giả phiên âm trước đây phiên cho 2 trường hợp:
Khách đến vườn còn hoa lác
Thơ nên cửa thấy nguyệt vào
và:
Giậu cúc thu, vàng nẩy lác
Sân mai tuyết, bạc che đều.
Đã đành trường hợp sau, hiểu lác là lác đác là hữu lí vì nó
đối rất chỉnh với chữ đều ở câu sau: hai trạng thái đối với nhau.
Còn trường hợp trước (là trường hợp chúng ta đang nói tới thì
lác phải là một động từ mới đối chỉnh với vào ở câu dưới đó. Vậy
160
đây phải hiểu lác là trông qua, ngó trông. Khách đến thì vườn còn
hoa để ngắm tạm / Thơ nên thì cửa đã có trăng dọi vào. Xem trong
từ điển P. de Béhaine làm vào năm 1772‐1773 trước cả khi các bậc
cổ học hoàn thành việc sưu tập và khắc in thơ Nguyễn Trãi ta gặp
chữ 落trong các ngữ liệu lác xem, lác nhìn, lác thấy. Và cũng trong
từ điển này ta gặp chữ liếc quốc ngữ và viết Nôm với tự dạng
mục目 + lạc 落. Có thể cho rằng, khi không viết với bộ mục, thì chữ
này vẫn hoàn toàn có thể đọc âm liếc. Chúng tôi chọn âm liếc là
chọn hình thức trung gian để phân biệt với lác dù có thể cổ hơn
nhưng có thể gây nhầm nghĩa[2]. Việc nhóm Mai Quốc Liên dẫn
từ điển Génibrel là thiếu khách quan vì trong từ điển này, tác giải
thích từ kép lác đác và lác rác chứ không giải thích riêng từ lác.
Không phải từ kép nào thì mỗi âm tiết của nó cũng mang nghĩa
chung cho cả từ.
4. Kẻo còn LOẠT LOẠT chữ Tương Như (36. 2)
Đây là câu thơ thực sự thú vị vì có nhiều phương án phiên
và hiểu rất khác nhau.
Các cụ Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm cẩn trọng hơn cả
khi phiên là lọt đọt. Các cụ viết trong mục Tồn nghi: “Câu 2 có
chữ lọt đọt, nguyên bản A viết chữ 律律, bản B viết chữ [糸+卞]
[糸+卞], chúng tôi tạm phiên là lọt đọt và bền bện, không biết có
đúng không, xin ghi để chất chính”.
Cụ Đào Duy Anh, 1976, phiên là lọt lọt và giải thích “còn thấy
rõ ràng mồn một chữ của Tương Như” [10, tr. 726]
Cụ Bùi Văn Nguyên, 1994, phiên là biện biệt và viết: “Biện
biệt... Tương Như: Biện biệt là phân tích cho rõ, đây theo bản B, còn
bản A lại ghi là lọt lọt, lọt thọt. Tư mã Tương Như là nhà làm phú
nổi tiếng thời Hán, chữ dùng cầu kì, nên phải biện biệt”.
161
Nhóm Mai Quốc Liên chủ trương phiên lọt lọt và dẫn thêm Vũ
Văn Kính và Paul Sneidere phiên rọt rọt. Các cụ viết trong sách: “Lọt
lọt: Luật đọc chệch thành lọt lọt, nghĩa là rõ ràng mồn một. Đào Duy
Anh cũng phiên lọt lọt và giải thích: Còn thấy rõ ràng mồn một chữ
của Tương Như. PS phiên rọt rọt, ở bảng từ vựng giải thích là
Suivre, poursuivre (theo, theo đuổi, đeo đẳng), rebattre les oreilles
(đập vào tai, nói mãi nghe đến chán tai) và dịch câu thơ này là “Il
me semble entendre sans cesse le nom de Tuong Nhu (Hình như ta
không ngừng nghe tên của Tương Như). Bản B chép[糸+卞] [糸+卞]
TVG: bền bện. Bùi Văn Nguyên: biện biệt”.
Nhóm Nguyễn Tá Nhí, 2008, đồng thuận phiên rọt rọt và giải
nghĩa là rõ ràng, rành rọt.
Các ý kiến chưa thống nhất cho dù chữ nghĩa thì rất rõ ràng
và câu thơ không đến nỗi khó hiểu như họ tưởng. Luật là nguyên
từ của loạt, tiếng Việt hiện tồn cả hai từ nhất luật và nhất loạt. Cho
nên, ở câu thơ này, chữ luật luật là loạt loạt. Thế thôi! Chúng ta
có một loạt, nhất loạt, hàng loạt, cả loạt hà cớ gì không có loạt loạt. Dễ
như vậy thì mà các cụ cựu học xưa nay không biết sao? Thực ra,
trong câu thơ trên, hình như chữ KẺO làm cho người phiên bối rối
vì nhiều người hiểu kẻo còn là một kết cấu chặt. Nếu theo dõi 12
lần xuất hiện chữ kẻo trong toàn văn bản thì ta thấy tình hình khác
như vậy và hai chữ loạt loạt sẽ sáng ra:
38. 4. ‐ Lọn thuở đông hằng bếp
Suốt mùa hè, kẻo đắp chăn
56. 2 ‐Ruộng đôi ba khóm đất con ong
Đầy tớ hay cày kẻo mượn mòng
59. 2 ‐Am quê về ở dưỡng nhàn chơi
Yên phận yên lòng kẻo tiếng hơi.
162
67. 4 ‐Gió tận rèm thay chổi quét
Trăng kề cửa kẻo đèn khêu
105. 6 ‐Lặt hoa tàn xem nguyệt rụng
Soi nguyệt xấu kẻo đèn khêu.
109. 6 ‐Mừng cùng viên hạc quen lòng thắm
Đã kẻo thuần lô bảo hẹn về.
141. 8 ‐Người cười dại khó, ta cam chịu
Đỡ kẻo lầm cầm lẫn mất lề.
146. 6 ‐Nhiều của ấy chăng qua chữ nghĩa
Dưỡng người cho kẻo nhọc chân tay.
153. 2 ‐Trong tạo hóa có cơ mầu
Hay đỗ hay dừng mới kẻo âu.
156. 4 ‐Rồi việc mới hay khuôn được thú
Khỏi quyền đã kẻo lụy chưng danh.
171. 6 ‐Có của cho người nên rộng miệng
Chẳng tham ở thế kẻo chau mày.
Trừ đi trường hợp đang bàn thì trong 11 trường hợp vừa dẫn,
có đến 10 trường hợp chữ kẻo chắc chắn có quan hệ với động từ và
duy 1 trường hợp phải biện luận: Yên phận yên lòng kẻo tiếng hơi. Khi
chúng ta hiểu tiếng hơi làthị phi thì 100% trương hợp đều là đi với
động từ. Như vậy, nghĩa của chữ kẻo là để chỉ việc chủ thể phát
ngôn chủ động thoát ra khỏi một hành động đáng lẽ phải diễn ra.
Và tất cả những chữ kẻo trên chúng ta đều có thể thay thế bằng
chữ khỏi hiện nay mà vẫn trọn nghĩa. Tất nhiên là chữ khỏi hiện
nay để chúng ta hiểu chứ không phải là chữ khỏi thời Nguyễn Trãi.
163
(Chúng tôi cũng đã so sánh 9 chữ khỏi và 12 chữ kẻo trong Quốc âm
thi tập thì thấy hai chữ này có sự phân nghĩa tinh tế nhưng khá rõ
ràng là chữ khỏi thời đó chủ yếu mang nghĩa chỉ việc chủ thể phát
ngôn chủ động ra khỏi một hiện thực không gian nào đó và vì vậy
nó thường có quan hệ với một hình thức danh từ nào đó).
Như vậy để hiểu trường hợp đang bàn, ta thay chữ kẻo bằng
chữ khỏi hiện nay, kết quả sẽ là:
Án tuyết mười thu uổng độc thư
Khỏi còn loạt loạt chữ Tương Như.
Theo sự mách bảo của cả 11 trường hợp trên thì lúc này,
chữ kẻo sẽ quan hệ với một động từ và động từ đó sẽ là độc thư.
Tác giả vừa thoát khỏi cảnh mười năm phí uổng độc thư. Cái còn
lại sau đó sẽ là loạt loạt chữ Tương Như nữa mà thôi. Chúng tôi như
đang có vẻ cố tình tách chữ kẻo khỏi chữ còn. Nhưng không phải.
Chúng ta lại dùng phép thay thế. Ví dụ, ngay bây giờ chúng ta có
phát ngôn: Bia rượu cả tuần quá say sưa. Khỏi, còn váng vất đến bây
giờ hoặc Bệnh viện năm tuần nằm chữa bệnh; khỏi, còn chất đống bao
nhiêu bài vở. Hay chúng ta có biến thể khác: Trên biển cả tháng lênh
đênh, xong lên bờ vẫn còn loạng choạng hay Hội hè từ nam chí bắc,
xong hết sạch cả tiền tiết kiệm... Chúng ta không thể nói rằng, những
câu trên là không hiểu nổi hoặc không thuần Việt. Đọc những câu
thơ của Nguyễn Trãi ta thấu hiểu tâm sự của Cụ hơn:
Án tuyết mười thu uổng độc thư
Kẻo còn loạt loạt chữ Tương Như
Nước non kể khắp quê Hà Hữu
Sự nghiệp nhàn khoe phú Tử Hư.
Có thể diễn đạt ý nhà thơ như sau: Qua khỏi 10 năm uổng
phí đọc sách thánh hiền trong nghèo khó, cái còn lại chỉ là miên
164
man những chữ của Tư mã Tương Như thôi, khắp cả nước non kể
ra cũng là ảo tưởng, khoe sự nghiệp rút cuộc là chữ nhàn trong bài
phú Tử hư. Chữ loạt loạt chính là như vậy. Điều thú vị là, bản B
cũng giống ý như vậy. Bện bện là chữ của thao tác đánh dây, xe sợi,
hết tao này nuộc nọ miên man, lớp lớp không dừng. Vậy bản B, câu
này phiên đúng là Kẻo còn bện bện chữ Tương Như. Không còn gì để
bàn nữa. Các tác giả phiên thơ đã làm rắc rối những chữ đáng ra
rất giản dị, rõ rành, đúng đắn.
5. GIẠI LÒNG ĐƠN, nhật nguyệt thâu (40. 4)
Câu thơ này cũng có nhiều cách hiểu và cách phiên khác
nhau và cần phân tích để hiểu rõ.
Trần Văn Giáp ‐ Phạm Trọng Điềm (1956) phiên là Dãi lòng
đan và giải thích lòng đan là lòng son.
Đào Duy Anh (1976) phiên Giãi lòng đơn và không chú thích.
Nhóm Mai Quốc Liên (2001) phiên là Dãi lòng son, Nhóm
Nguyễn Tá Nhi (2008) quay lại phiên và hiểu như Trần Văn Giáp ‐
Phạm Trọng Điềm (1956).
Bùi Văn Nguyên (1994) phiên Dại lòng đan và chú thích dại là
cái dại bằng phên, lòng đan là lòng son.
Đọc Quốc âm thi tập theo bản A chúng tôi thấy chữ dãi với
nghĩa là phơi ra, phôi phai xuất hiện 3 lần và đều được ghi bằng
chữ trãi 豸. Đó là các câu:
14. 4: Quĩ đông dãi, nguyệt in câu.
21. 3: Cửa song dãi, thâm hơi nắng.
213. 4: Nhà giao dãi bóng thiềm cung.
165
Trong câu thơ đang bàn, chữ giại được ghi đãi 待. Đãi âm
Hán Việt đọc giại âm Nôm là đúng. Và sự phân biệt với dãi là có
ý, ít ra là của các bậc cổ học khi làm sách này.
Giại lòng đơn là cái giại đan róng mốt sơ sài để che chắn nên
ánh mặt trời, ánh trăng có thể xuyên thấu (nhật nguyệt thâu). Trong
nghề đan lát, có những từ nghề nghiệp chỉ cách đan hoặc tả mặt
đan. Róng (hoặc lóng, dóng, nong) mốt, róng hai, róng ba, róng
bốn, róng năm... là chỉ cách gài nan. Còn để tả mặt đan khi sản
phẩm đã hoàn thành người ta nói: lòng đơn, lòng kép, lòng thia,
lòng gấm. Lòng đơn để chỉ hoa văn mặt sản phẩm đan róng mốt
tạo nên. Lòng kép để chỉ hoa văn mặt sản phẩm đan róng hai róng
ba tạo nên. Lòng thia để chỉ hoa văn mẹt sảy, nia sảy mà trên đó,
nan dọc lao đi cách quãng như ném thia lia trên mặt nước. Dụng
cụ này khi sảy, người ta sảy dọc để dễ thoát những phần tử nhẹ,
khi gằn để gạn, người ta người ta gằn ngang để dễ giữ lại cát sạn
hoặc phần tử được chọn dễ mắc vào nan dọc. Lòng gấm để chỉ hoa
văn do cách đan phức tạp tạo ra những hình như dệt gấm.
Đến đây, đọc cả hai câu thơ của Nguyễn Trãi, trước hết ta
thấy sự chỉn chu, cặn kẽ của nó:
Song cửa ngọc, vân yên cách
Giại lòng đơn, nhật nguyệt thâu.
Có thể diễn ý rõ ra cái nghĩa này như sau: Cửa ngọc là ngọc
môn, chỉ nơi ở của vua, mà nơi đó đã chìm khuất sau sương khói
xa xôi; còn ở nơi này chỉ là ngôi nhà phên vách đơn sơ, suốt ngày,
ánh mặt trời, ánh trăng có thể xuyên thấu qua.
Nhưng đó là nghĩa thực, lớp nghĩa thứ nhất của câu thơ. Bởi
vì, lòng đơn còn có nghĩa là lòng son, là đan tâm (tấm lòng trung
thành bền chặt), nhật nguyệt còn chỉ minh quân, chỉ vũ trụ, đất trời
166
cho nên câu thơ còn hàm ý biểu hiện: Tấm lòng trung thành bền
chặt của ta đã có mặt trời mặt trăng soi thấu. Ở đây, rõ ràng câu
thơ Nguyễn Trãi sử dụng yếu tố chơi chữ sâu kín và thầm lắng.
Chúng tôi cũng đã nói về yếu tố chơi chữ đã xuất hiện trong Quốc
âm thi tập khi phân tích những chữ cân cấn và thia thia trong bài
trước (Ngòi khan ước ở làm cân cấn/ Cửa quyền biếng mặc áo thia thia).
Yếu tố chơi chữ này về sau, trong thơ Nôm đã thực sự bùng nổ
với phong phú những cách thức, những quan niệm. Cũng chính
yếu tố này làm cho việc hiểu và phiên thơ Nôm nhiều khi lưỡng
lự, băn khoăn dẫn đến những giải pháp rất khác nhau, đôi tranh
với nhau. Ở trường hợp này, đọc giại lòng đơn vẫn có thể hiểu lớp
nghĩa dãi lòng son như thường khi mà giại, giãi, dãi trong tiếng khu
bốn đến nay vẫn phát âm không phân biệt và cũng còn nhiều
chứng cứ ngữ âm về sự không phân biệt này cách đây 3, 4 thế kỷ,
dù ở Bắc hay ở Trung. Khu bốn chỉ là hình thức bảo lưu khi kinh
kỳ phát triển nhanh và không ngừng mà thôi.
6. Mây QUÊN KHÁCH, nguyệt vô tình (65. 2 bản B)
Chúng tôi phiên câu này theo bản B. Bản A ghi câu này có
đảo thứ tự giữa chữ khách và chữ nguyệt và nên phiên là Mây
quen/ nguyệt khách/ vô tình.
Các bậc cựu học theo bản A mà phiên như sau:
Trần Văn Giáp ‐ Phạm Trọng Điềm (1956) phiên là Mây quen
nguyệt, khách vô tình.
Đào Duy Anh (1976) phiên là Mây quyến nguyệt, khách vô tình.
Những người phiên sau như Bùi Văn Nguyên (1994), nhóm
Mai Quốc Liên (2001), nhóm Nguyễn Tá Nhĩ (2008) chắc vì thấy mây
quyến nguyệt rất lọn ý nên phiên theo mà không băn khoăn gì cả.
167
Chúng tôi thấy chữ quyến vốn là chữ Hán 眷 đã có cách đọc
Hán Việt rất quen thuộc và tiện lợi với các nét nghĩa quyến
nhớ hay gia quyến, thân quyến. Trong Quốc âm thi tập, chữ này vẫn
là một từ Hán Việt thông dụng thời Nguyễn Trãi với nghĩa là
quyến rủ, lôi cuốn, quấn quýt, quyến luyến xuất hiện 5 lần trong
những bài sau:
1. 3: Con đòi trốn dường ai quyến.
62. 3: Dịp huyện hoa còn quyến khách.
70. 4: Đìa thanh, đêm quyến nguyệt vô tâm.
119. 4: Quyến trúc mai kết bạn tri âm.
215. 5: Đêm có mây nào quyến nguyệt.
Nghĩa rất trọn và chữ rất rõ. Vậy, trong câu thơ đang bàn,
với chữ 涓 này, chúng ta không thể phiên là quyến được. Chỉ có
thể phiên quen hoặc quên mà thôi.
Có thể, những người chủ trương phiên quyến là do ảnh
hưởng cách ngắt nhịp câu thơ làm đôi của những người phiên đầu
tiên (Mây quen nguyệt// khách vô tình) và thấy cụm mây quen
nguyệt nghe cầu kỳ, nghĩa nông cạn mà đổi thành mây quyến
nguyệt, bất chấp chữ trên văn bản. Nhưng nếu ta ngắt nhịp khác đi
thì chữ quen vẫn trọn ý:
Non Phú Xuân cao/ nước Vị thanh
Mây quen/ nguyệt khách/ vô tình.
Cảnh ẩn dật như Nghiêm Quang câu ở Phú Xuân, Lã Vọng
câu ở sông Vị, mây là người quen, nguyệt là khách khứa, tất cả
mọi chuyện đều vô sự, không phải nghĩ ngợi. Có thể, những bậc
cổ học biên soạn Quốc âm thi tập đã hiểu theo hướng này nên giữ
chữ quen 涓. Nhưng cũng có điều cần nói là so với câu thơ ở bài 64
168
câu 6 thì ta thấy ý có ngược lại: Mây khách khứa, nguyệt anh tam.
Nguyễn Trãi không coi nguyệt là khách!
Bản B cho ta một dị bản thú vị và chúng tôi thấy bản này về
ý nghĩa rất trọn vẹn và khả dụng hơn: [雨+迷]涓客月無情. Chúng
ta có thể phiên là Mây quên khách/ nguyệt vô tình. Mây quên khách là
cụm từ lấy ý từ câu thơ của Đào Tiềm, một mẫu hình ẩn dật: Vân
vô tâm dĩ xuất tụ (Mây vô tâm, cứ tụ lại rồi cứ tan đi). Vô tâm như
vậy thì quên khách thơ là chuyện đương nhiên. Còn nguyệt vô
tình hay nguyệt vô tâm là điều mà Nguyễn Trãi đã từng nói đến.
Ông làm thơ trong tâm thế một người ẩn dật, lánh đời. Trong quá
trình tìm hiểu thơ quốc âm của Nguyễn Trãi, chúng tôi thấy bản B
còn lưu nhiều yếu tố cổ đáng được chú ý kĩ.
7. Nắng quáng, SƯA SƯA bóng trúc che (79. 1)
Chúng tôi lựa chọn sưa sưa thay cho thưa thưa như các bản
phiên từ trước tới nay dù nghĩa không khác nhau. Chữ Nôm viết
疎疎 và cách đọc Hán Việt là sơ sơ. Chữ này cũng thường dùng
ghi thưa với nghĩa chỉ một hành động nói năng trong văn Nôm.
Tuy nhiên, Nguyễn Trãi cách chúng ta đã hơn 500 năm và thời của
ông, chữ Nôm đang hoàn thiện với tư cách là một hệ thống văn tự,
nó vẫn giữ cách phát âm cổ. Trong Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi không xuất hiện chữ thưa với nghĩa là động từ chỉ một loại
hành động nói năng nên chúng ta không có để so sánh. Chữ
sưa này với nghĩa chỉ một thực trạng vật chất không dày, ngược
với mau, xuất hiện 6 lần và đều có thể phiên sưa cả:
79. 1: Nắng quáng sưa sưa bóng trúc che
126. 1: Giậu sưa sưa hai khóm trúc
225. 4: Bóng sưa ánh nước động người vay
169
226. 1: Bóng sưa ánh nước động người vay (lặp câu trên trong
kiểu thơ thủ vĩ tương liên).
Hiện tường dùng / th / để ghi / s / là việc hay thấy trong các
văn bản cổ. Trong văn bản Thiền tông khóa hư ngữ lục cho Tuệ Tĩnh
giải nghĩa có dùng chữ thượng thượng 尚尚 để ghi từ sảng sảng: Sảng
sảng thửa những tiếng đàn địch hứng thổi lại gọi rằng ấy thực tiếng
rồng ngâm; Rân rân thửa những tiếng chuông trống rôm rả gọi là ếch
kêu. tr. 41b [18, tr. 153]
Hiện nay đi thực tế các vùng Bắc Ninh, Hà Tây cũ hay Nam
Định chúng tôi vẫn gặp phát âm sưa này trong sự phân biệt
với thưa động từ chứ không chỉ vùng khu bốn mới dùng phổ biến.
Phiên thưa dễ hiểu với mọi người ngày nay hơn nhưng phiên
sưa cũng không phải là không hiểu, hơn nữa giữ được âm hưởng
cổ của văn bản. Chúng tôi lựa chọn là vì thế.
8. Cây im, thư thất LẶNG bằng the (79. 2)
Trần Văn Giáp ‐ Phạm Trọng Điềm (1956) phiên câu này
là Cây im, thưa thớt sáng bằng the và chú thích Cây im: Cây không có
gió động, bóng nắng thưa thớt chiếu xuống như một bức rèm the căng
lên trên.
Đào Duy Anh (1976) cho chữ 烺 chép lộn thành 浪, nên
phiên lặng bằng the, và chú thích là “sáng như là có căng the, ánh
sáng lọt qua mà sáng hơi hơi (vì có bóng trúc che thưa thưa cho
nên ánh sáng lọt qua mà phòng đọc sách được sáng). [10, tr. 754]
Bùi Văn Nguyên (1994), Nhóm Mai Quốc Liên (2001) phiên
theo GS Đào Duy Anh.
Nhóm Nguyễn Tá Nhi (2008) phiên Cây im thư thất rắng bằng
the và chú thích Rắng bằng: Tựa như.
170
Hồng Đức Quốc âm thi tập cũng có câu tương tự và trước nay
đều nhất loạt được phiên là: thừa lương đình vắng sáng bằng the (3a).
Chúng tôi thấy chữ 浪 trong câu trên phải phiên lặng mới
đúng cả về ngữ âm cả về ngữ nghĩa. Bài thơ được làm trong một
buổi trưa hè nắng nóng, ít gió:
Nắng quáng, sưa sưa bóng trúc che
Cây im, thư thất lặng bằng the.
Nắng quáng là nắng nhìn lóa cả mắt. Ấy vậy mà mấy ngọn
trúc chỉ che được phần thưa thớt mà thôi. Gió chưa có nên cây
đứng im còn phòng đọc sách thì lặng như the vậy (đây là một lối
nói cổ hơn của cụm lặng như tờ). Tả như vậy là đủ thấy cái bức nực
của nắng hè. Chúng ta bây giờ đọc sách viết bài có phòng máy
lạnh hoặc có quạt cây. Khi mất điện, ta sẽ hiểu ngay ra Nguyễn
Trãi. Chốn ẩn dật của Nguyễn Trãi thuở xưa, chân núi Côn Sơn,
đâu chỉ xuân hoa nở, thu trăng trong mà còn sẽ gặp những ngày
hè nóng nực. Cụ viết về cái cảnh đó để lại cho chúng ta hôm nay.
Nói lặng như tờ được thì ắt hẳn nói lặng bằng the cũng chắc chắn là
được. Chữ “lặng” ở đây vừa là tĩnh lặng vừa là không có một mảy
gió nào, không chút rung rinh. Thế mới bức.
9. SAN SÁT KỀ song, giấc hòe (79. 8)
Đây là câu kết của bài 79 là bài chúng tôi vừa sửa chữ cho
câu 1 và câu 2. Ba chữ San sát kề các tác giả trước đây phiên có
khác nhau.
Trần Văn Giáp ‐ Phạm Trọng Điềm (1956) phiên là Sàn sạt cài
song giấc hòe và giải thích cài song là cài cửa sổ để ngủ.
Đào Duy Anh (1976) phiên là thơn thớt và chú là “chúng tôi
thấy trong Bạch Vân thi tập chữ 撻 đều dùng để nói cái thớt, cho
171
nên chúng tôi cho rằng hai chữ trên có thể phiên là thơn thớt” [10,
tr. 755]
Bùi Văn Nguyên (1994) cũng phiên Thơn thớt cài song giấc hòe.
Nhóm Mai Quốc Liên (2001) phiên là Thớt thớt cài song giấc
hòe và giải thích thơn thớt hay thớt thớt có nghĩa là qua loa, sơ sài.
Nhưng cách phân suất nghĩa như vậy là rất có vấn đề về mặt âm
và ngữ nghĩa. Vì động từ là cài song, cho nên âm đọc phỏng đoán và
kéo theo là tạo nghĩa phỏng đoán là “qua loa sơ sài”. Cách tự gán âm
và gán nghĩa cho âm đọc mà không kiểm chứng qua từ điển cổ và
ngữ cảnh như vậy sẽ gây nên nhiều điều bất cập.
Nhóm Nguyễn Tá Nhi (2008) phiên là Thít thít kề song giấc
hòe và giải thích thít thít là thin thít, ngủ say. Nhưng xét văn cảnh,
trời giữa trưa nắng nôi như thế, đến nỗi không đọc nổi sách,
không nói năng bàn bạc được gì, làm sao có thể ngủ “thin thít”
cho được; mặt khác, đã giấc hòe thì khó mà thin thít được vì trong
đó chứa đầy những mộng mơ, ảo tưởng và bừng tỉnh, thất vọng.
Tuy nhiên, chúng tôi coi đây là cách phiên khả dĩ nhất từ trước
cho đến nay.
Vậy chữ 掑窻 phải phiên là kề song như bản của Nguyễn Tá
Nhi (2008). Chữ trong văn cảnh tương tự tại vị trí 97. 4 cũng phiên
Kề song gió trúc nàm nàm [14, tr. 859, 860], và vị trí 158. 4 cũng
phiên thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh [14, tr. 1001]. Hai chữ
mang âm đọc Hán Việt thát thát 撻撻 có thể đọc là sát sát hoặc san
sát vì đây có dấu hiệu viết kiểu từ láy âm. Hai chữ san sát trong
ngữ cảnh này phải hiểu là liền kề theo nghĩa ban sơ của từ này, là
sít vào chứ không hiểu bày đặt lớp lớp, ken dày như nét nghĩa của
tiếng Việt hiện đại. Ngày nay ta vẫn nói: “Dịch cái bàn san sát
vào”; “Kê cái sập san sát vào tường” và vẫn hiểu. Nhưng san
sát và kề đứng liền nhau thì có lặp lời không? Theo chúng tôi thì
172
không phải là lặp. Bởi kề ở đây là động từ, và nó có một biến âm
khác là kê và có thể còn có thêm ghé nữa trong câu thuyền kề bãi.
Phân suất nghĩa của từ này ta thấy, kề là động từ cập vật với nghĩa
là dịch chuyển vị trí để sát gần với một không gian hay sự vật cụ
thể nào đó. Trong câu thơ này chữ san sát là trạng từ cho động
từ kề. Nếu có người cho rằng đây là một phát ngôn lặp lời thì cách
nói dân dã cũng có những cách nói như sát kề, kề sát, kề cạnh, kề sít.
Phân tích tiếp chủ thể của hành động kề: câu kề song gió trúc nàm
nàm thì chủ thể của hành động kề là một hợp thể của gió và trúc,
gió đưa cành trúc quệt nhẹ vào song cửa khiến cho cái tĩnh càng
lặng hơn; còn ở câu thơ này, chủ thể kề song không ai khác chính là
nhà thơ, trưa hè nóng ai chả kê gối sát ra gần cửa sổ nơi có gió
Nam nhẹ hẩy hẩy thi thoảng đưa vào.
Giờ đây, đọc cả bài thơ chúng ta sẽ hiểu Nguyễn Trãi hơn:
Nắng quáng, sưa sưa bóng trúc che
Cây im, thư thất lặng bằng the
Tỏ tường phiến sách: con Chu Dịch
Bàn bạc lòng nhân: cái quýt chè
Đòi thuở khó khăn chăng xuýt ải
Thấy nơi xao xác đã mày nề
Ngày nhàn gió khoan khoan đến
San sát kề song giấc hòe.
Bài thơ về HÈ mà dùng che làm khởi vận là có lựa chọn. Độ
tập trung của ngôn ngữ, của hình ảnh hướng mạnh mẽ đến sự im
ắng và bức sốt: Nắng thì quáng, bóng trúc thì sưa, cây im, phòng
sách lặng, cái thẻ nhớ trang (con Chu Dịch) nằm im trong quyển
sách (nhường việc đọc sách cho nó), việc đàm luận nhân tình thế
173
thái thì đã có cây quýt cây chè đứng im kia, đến tiếng xuýt xoa
trong lúc khó khăn cũng chả thèm bật lên nữa, chỉ cụp mắt xuống
(mày nề) khi thấy khắp nơi xao xác; ngày nhàn trôi, thỉnh thoảng
mới có tí gió (gió khoan khoan đến: lâu lâu mới có chút gió đến),
nằm kề sát bên cửa sổ đánh một giấc chiêm bao. Cũng phải nói
thêm là chúng tôi không đồng thuận với cách phiên quýt chè (câu 5)
ra quých chòe (chích chòe) của Paul Shneider mà Nhóm Mai Quốc
Liên (2001) phiên theo vì nó xa xôi và rách việc cả về chữ, về
nghĩa, về sự trọn vẹn cả bài thơ. Dưới phiên là quých chòe được hà
cớ gì hai chữ chu dịch ở trên không phiên luôn là chù dích cho nó
đối hẳn đi. Chù dích là loài chuột chù hay kêu dích dích ở trong các
thư thất.
10. Chông gai NÉ ₫ường danh lợi (80. 3)
Cái tiếng né này trên bản chữ Nôm in rất rõ bằng chữ nễ 你.
Tuy nhiên, các bản phiên đưa ra cách đọc khác nhau.
Trần Văn Giáp ‐ Phạm Trọng Điềm (1956) phiên là Chông
gai nhẹ đường danh lợi và từ đó, Bùi Văn Nguyên (1994) cũng đồng
ý như vậy.
P. S phiên: Chông gai nể đường danh lợi.
Nhóm Mai Quốc Liên (2001) phiên Chông gai nhẻ đường danh
lợi và giải thích như sau: “Nhẻ. Chữ Nôm viết 你, TVG,PTĐ
phiên nhẹ, Đào Duy Anh: nhỉ, Bùi Văn Nguyên: nhẹ, PS nể; chúng
tôi phiên nhẻ và hiểu nhẻ là đầy, như Từ điển Génibrel giải thích ở
mục nhe nhẻ: Plein, rempli de. Từ nhẻ với nghĩa là đầy ở câu 3 đối
với từ no là đủ ở câu 4, rất rõ ràng về ý nghĩa lại rất chỉnh về luật
đối trong thơ”.
Nhóm Nguyễn Tá Nhi (2008) phiên Chông gai né đường danh
lợi nhưng không có chú thích. Chúng tôi cho rằng cách phiên này
là đúng và phân tích các cách phiên như sau:
174
‐ Cách phiên NHẸ rất trọn nghĩa, chỉnh đối, hợp ý thơ nhưng
bị vướng về mặt chữ. Có năm chữ nhẹ trong cả văn bản này đều
được viết bằng chữ nhĩ 珥, đó là:
9. 4: Bè Trương Khiên nhẹ, khách sang.
30. 5: Thân đà hết lụy thân nên nhẹ.
78. 1: Tiêu sái tự nhiên nhẹ hết mình.
248. 1: Ngẫm hay sự thế nhẹ bằng lông.
250. 2: Xòe hai cánh nhẹ mười phân.
Có thể, các tác giả này đã đọc chữ nễ thành nhân 亻+ 尓 nhĩ nên
phiên là nhẹ. Chúng tôi vẫn cho rằng, ở đây là chữ nễ nguyên khối.
‐ Cách phiên NHỈ (hư tự) vừa không hợp chữ như trên vừa
không hợp đối với chữ no là thực tự ở câu 4.
‐ Cách phiên NỂ không hợp ý thơ lắm vì người ẩn dật e
không cần nể hoặc kiêng nể con đường danh lợi lắm chông gai.
Còn nếu coi nể như một hình thức uyển ngữ mang tính châm biếm
cũng không tương thông với ý toàn bài lắm: Một tâm sự buồn
nghiêm nghị, chiêm nghiệm.
Cách phiên NHẺ và hiểu nhẻ là đầy thì phải bàn lại. Cách
phiên này dẫn từ điển Génibrel (năm 1898) nhưng không đáng tin
cậy vì mấy lí do như sau. Thứ nhất, trong từ điển này không có
chữ nễ 你 đọc là nhẻ. Cái chữ đọc là nhẻ là chữ [口+ 尓] [8, tr. 556].
Thứ hai, không có chữ nhẻ nào được chú thích là đầy cả mà chỉ có
từ nhe nhẻ ở mục nhe (ghi Nôm là [ 兒+小]) được chú trong khi đưa
ngữ liệu như sau: “Đầu nhe nhẻ những chấy (T), Têt e couvert de
poux” [8, tr. 556]; và ở mục nhẻ (ghi Nôm là [口+ 尓]) chú như sau:
“Nhe nhẻ (T), Plein, rempli de. (V. Nhe, 3)” [8, tr. 556]. Như vậy, ở
đây, tác giả từ điển chú nghĩa cho cả từ kép chứ không cho riêng
chữ NHẺ đang bàn. Không phải từ kép nào, từ lấp láy nào thì mỗi
175
lời của nó đều mang nghĩa, bởi vậy không thể rút ra một thành tố
và thành tố đó đủ đại diện cho nghĩa cả từ. Ví dụ: nhan nhản, lai
rai, sa sả, lải nhải, nhồm nhoàm, xăm xắp, lểu thểu, lang thang, lỗ mỗ,
lênh đênh, tung tăng, hớn hở, nhởn nhơ, xun xoe… Ở đây, từ điển chú
nghĩa không sai vì họ đã chú cả từ kép, chỉ người sử dụng từ điển
đã tùy tiện rút ra một chữ rồi cấp nghĩa cả từ cho nó để phục vụ
cho ý mình là sai thôi. Thứ ba, vì thế, các từ điển trước và sau
Génibrel của người bản ngữ đã không hề có từ đơn NHẺ với
nghĩa là đầy. Đến nay, nhiều từ điển chữ Nôm đã ra đời vẫn
không có mục từ đơn NHẺ với nghĩa đầy vì không có ngữ liệu thứ
hai nào. Có thể khẳng định, cách phiên này đã tưởng tượng ra
thêm một chữ cho kho tàng tiếng Việt mà thôi!
Chữ nễ 你 này phiên được là né vì:
‐ Đã có trong các từ điển như vậy. Ví dụ Từ điển P. de Béhaine
(1772‐1773) chữ Nôm 你 [5, tr. 396] và chữ quốc ngữ né (nghĩa là
tránh) với các ngữ liệu né mình, tránh mình. Từ điển Aj. L. Taberd
(1838) cũng tương tự [6, tr. 329]. Đại Nam quấc âm tự vị của Huinh
Tinh Paulus Cua (1896) có chữ Nôm 你 và quốc ngữ là Né và chú
nghĩa: Né. n. Tránh mình cho khỏi [7, tr. 687]. Chính từ điển của
Génibrel (1898) cũng có chữ Nôm né 你 và đưa các ngữ liệu né
mình, né xuống, né lại, ké né. [8, tr. 483]
‐ Phiên chữ né vẫn đảm bảo luật đối của câu thơ:
Chông gai né đường danh lợi
Mặn lạt no mùi thế tình.
Theo Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử
yếu (1942), luật đối trong thơ luật đường bắt buộc thực tự đối thực
tự, hư tự đối với hư tự. Trong 2 câu thơ trên, tất cả đều là thực tự.
Hơn nữa né và no không chỉ cùng là thực tự mà còn cùng là động
từ. Nếu có phân biệt thì một bên là động từ chỉ hành động, một
176
bên là động từ chỉ trạng thái. Nhưng các cụ ngày xưa không quan
niệm như vậy. Đó là sản phẩm câu nệ của một số người ngày nay.
Xem chữ né có hợp nghĩa câu thơ không, chưa cần phân tích,
chúng ta làm các phép đảo và sẽ thấy các phương án đều trọn nghĩa:
‐ Né chông gai đường danh lợi
No mặn lạt mùi thế tình.
‐ Né đường danh lợi chông gai
No mùi thế tình mặn lạt.
‐ Đường danh lợi chông gai: né
Mùi thế tình mặn lạt: no.
‐ Đường danh lợi né chông gai
Mùi thế tình no mặn lạt...
Nguyễn Trãi làm bài thơ khi đã thấy mình là già hòa lú, vậy
mà chưa báo đáp được công sở sinh của cha mẹ. Về ẩn dật, đối với
đường danh lợi vốn lắm chông gai thì đã tránh được. Cuộc sống
dân dã thì mặn lạt chỉ cần theo ẩm thực của thế tình. Bầu bạn là
một hai phiến sách. Công danh giờ đáng đổi dăm ba chén rượu.
Chỉ thế thôi cần chi hơn nữa. Chỉ cầu cho được ngồi coi thiên hạ
thái bình. Đọc cả bài thơ, ta hiểu tâm sự của vĩ nhân:
Tơ tóc chưa hề báo sở sinh
Già hòa lú, tủi nhiều hành
Chông gai né đường danh lợi
Mặn lạt no mùi thế tình
Sách một hai phiên làm bậu bạn
Rượu năm ba chén đổi công danh
Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa
Cầu một ngồi coi đời thái bình.
177
11. Tài LỌN công danh hợp mọi bề (141. 1)
Bản Đào Duy Anh (1976) phiên là LUẬN và giải thích là: luận
về công danh thì thấy tài của mình là hợp mọi bề. Nhóm Mai Quốc
Liên (2001) đã kế thừa cả cách phiên lẫn cách chú này. Tự dạng của
chữ này được ghi bằng 論, đọc theo âm Hán Việt là luận, nghĩa là
bàn luận. Trong văn bản phiên âm QÂTT của nhóm Mai Quốc Liên,
chữ luận còn được phiên thành trọn ở các vị trí sau 38. 3: trọn thuở
đông hằng nhờ bếp, 53. 6: già được trọn ấy là tiên, 58. 1: buồng văn đắp
cửa trọn ngày thu, 187. 8: trung hiếu cương thường lòng đỏ, tự nhiên
trọn nghiệp ba thân, 194. 1: mười hai tháng trọn mười hai, và được
phiên thành lọn ở ba vị trí là 216. 7: dầu thấy xuân lan cùng lọn được,
94. 1: ngồi coi tháng lọn lẫn ngày qua, 109. 1: lấy đâu xuất xử lọn hai bề.
Sở dĩ có sự phiên bất nhất như vậy vì mỗi đồng tác giả có phương
pháp phiên âm khác nhau.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng vị trí này nên đọc là lọn chứ
không phải là luận vì những lý do như sau.
Tài lọn là một từ được dịch từ chữ toàn tài trong Hán văn.
Đây là một phong cách thường thấy trong ngữ văn cổ điển. Ngay
trong QÂTT có những ví dụ khác như rừng Nho được dịch từ Nho
lâm, cửa thông dịch từ chữ tùng quan (cửa chùa), nhà cả dịch chữ đại
hạ, một dường dịch chữ nhất dạng (thảy đều như nhau), khách đăm
chiêu dịch từ chữ tả hữu (bề tôi thân cận),… Với nét nghĩa là toàn
tài, chúng ta thử đọc lại đôi câu thơ đầu:
Tài lọn công danh hợp mọi bề
Dại ngay nên thiếu kẻ khen chê
Liên thơ tạo nên sự đối lập thường thấy trong tâm thế của
người ở ẩn. Kẻ toàn tài thì cả công lẫn danh đều hợp đủ mọi bề.
Còn ta vừa thẳng tính vừa dại dột (đến ẩn cư giữa chốn núi rừng
này) nên chẳng có kẻ nào biết đến mà buông lời khen chê cả.
178