Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Những khảo cứu từ văn hóa truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.71 KB, 94 trang )

NHỮNG GHI CHÉP CHỮ NGHĨA KHI ĐỌC
"QUỐC ÂM THI TẬP" CỦA NGUYỄN TRÃI
(Phần 2)
Bài Những  ghi  chép  chữ  nghĩa  khi  đọc Quốc  âm  thi  tập của 
Nguyễn  Trãi (phần  1)  của  Nguyễn  Hùng  Vĩ  đã  phát  hiện  và  sửa 
chữa 27 trường hợp, xuất hiện 41 lần chữ phiên sai của các thế hệ 
học  giả  từ  1956  đến  nay.  Bài  này  chúng  tôi  tiếp  tục  phát  hiện  và 
sửa  chữa  thêm  14  trường  hợp,  xuất  hiện  20  lần  nữa  như  đã  hứa 
với các độc giả trong bài trước. Các bản phiên âm nền mà chúng 
tôi  thực  hiện  khảo  sát  nghiên  cứu  là  các  bản  phiên  âm  từ  trước 
đến nay, trong đó bản của nhóm Mai Quốc Liên (2001) được chú ý 
nhiều  hơn.  Đây  là  bản  phổ  biến  và  có  ảnh  hưởng  đến  giới  học 
thuật trong 10 năm  trở lại đây.  Các văn bản chữ Nôm mà chúng 
tôi tiến hành phiên âm, khảo sát gồm bản A tại Viện Nghiên cứu 
Hán Nôm còn bản B chúng tôi phải dựa trên sự mách bảo của bản 
phiên  Trần  Văn  Giáp,  Phạm Trọng Điềm  1956. Các  phương pháp 
mà chúng tôi sử dụng là văn tự học, ngữ văn học, ngữ âm lịch sử, 
văn hóa học… Các vị trí được khảo sát sẽ được đánh dấu lần lượt 
theo  số  thứ  tự  bài  và  thứ  tự  câu  trong  từng  bài  đó,  ví  dụ:  9.  6, 
nghĩa là bài thứ 9 tại vị trí câu thứ 6 của bài này. Các chữ Nôm tự 
tạo phần lớn sẽ không dùng font cho chữ Nôm mà sẽ ghép các yếu 
tố Hán lại với nhau (A: nghĩa phù, B: âm phù) và đặt trong ngoặc 
vuông [ A + B], để dễ phân tích cấu trúc cũng như thuận tiện hơn 
cho việc công bố và xuất bản.  

154  


1. Hàu chất so le CỤM cuối làng (9. 6)

Về  chữ cụm [木+禁]  này,  các  bản  phiên  của  Trần  Văn  Giáp, 


Phạm  Trọng  Điềm  (1956),  Đào  Duy  Anh  (1976),  Bùi  Văn  Nguyên 
(1994),  nhóm  Mai  Quốc  Liên  (2001),  Nhóm  Nguyễn  Tá  Nhi  (2008) 
đều phiên là khóm. P. S1991 phiên là cụm và Từ điển chữ Nôm do GS 
Nguyễn  Quang  Hồng  chủ  biên  (2006)  cũng  phiên cụm trong  phần 
ngữ liệu. Chúng tôi cho rằng phiên  khóm là chưa đúng vì những lẽ 
sau đây: 
‐ Chữ khóm trong toàn văn bản Quốc âm thi tập xuất hiện 4 lần 
và được ghi bằng chữ 坎 và rất hợp nghĩa văn cảnh: 
19. 1  Thương Lang mấy khóm một thuyền câu.  
56. 1  Ruộng đôi ba khóm đất con ong.  
150. 7  Khóm ruộng ăn ngày tháng đủ.  
254. 5  Khỏe cày ruộng thánh đà nhiều khóm.  
Các ngữ cảnh cho ta thấy 3 câu gắn với ruộng và 1 câu gắn 
với  sông.  Ở  đây,  chữ thổ để  biểu  nghĩa  và  chữ khám để  biểu  âm 
nên  phiên khóm là  ứng  hợp.  Đồng  thời  cũng  cho  ta  thấy  trong 
trường hợp này, các nhà cổ học làm sách rất nhất quán, có chủ ý. 
Từ điển P. de Béhaine (1772‐1773) cũng ghi Nôm  chữ này và ghi 
quốc  ngữ  là khóm với  các  ngữ  liệu ruộng  khóm (phần  chia  ruộng 
đất,  phần  đất  thuộc  về  ai)  và hoa  khóm (một  thứ  rau  thơm)  [5,  tr. 
285, 4,tr. 227]. P. Của cũng vậy với các từ một khóm, chòm khóm [, tr. 
499]. Các từ điển này cũng ghi cụm bằng mã chữ [木+禁] [5, tr. 146; 
4, tr. 102], [7, tr. 203] 
Chữ cụm chúng ta đang nói xuất hiện 4 lần và được ghi bằng 
mã chữ [bộ mộc 木+ cấm 禁 ]. Những văn cảnh xuất hiện như sau: 
9. 6   Hàu chất so le cụm cuối làng.  

 

155 



18. 6  Ngày vắng chim kêu cuối cụm hoa.  
126. 1  Giậu sưa sưa hai cụm trúc.  
234. 1  Đất dư dưỡng được cụm hoàng tinh.  
Ta  thấy  trong  các  ví  dụ  trên  có  3  câu  chữ cụm gắn  loài  cây 
và 1 câu chữ cụm là một danh từ được đặt trong thế đối với danh 
từ thuyền. Bình thường có thể giải thích cụm là một nhóm nhỏ các 
mái nhà lúp xúp ở cuối làng. Nhưng không hẳn đã ấn định được 
như vậy. Có thể là các đụn rơm rạ, các đống củi, các bụi cây xum 
xúp, thậm chí có thể các cụm rạ trên mảnh ruộng cuối làng. Đọc 
cả  hai  câu  này  ta  thấy  không  thể  ấn  định  một  nghĩa  cứng  nhắc 
nào cả: 
Tằm ôm lúc nhúc thuyền đầu bãi 
Hàu chất so le cụm cuối làng.  
Về  ngữ  âm,  chữ cấm theo  cách  đọc  Hán  Việt  rõ  ràng  là  gần 
với cụm hơn khóm, ít ra là về thủy âm và chung âm. Trong từ điển 
của P. de Béhaine nói trên mục chữ cụm cũng viết [ mộc + cấm] với 
chú thích cụm là bụi, với ngữ liệu bụi cây. Lại ở đây nữa, ta thấy các 
cụ làm bản Nôm rất chọn lọc chữ. Phần biểu ý dùng bộ mộc là hợp 
lí.  Từ  điển  chữ  Nôm  của  Nguyễn  Quang  Hồng  chủ  biên  còn 
ghi cụm với  các  tự  dạng  [口+禁],  [扌+禁]  với  các  văn  cảnh  khác 
như: Một am ở cụm Tây Lâm (Dương Từ, Hà Mậu, 12), Khu đào cụm 
liễu  trải  qua (Dương  Từ,  Hà  Mậu,  11), Xảy  nghe  bên  cụm  dâu  xanh 
(Dương Từ, Hà Mậu, 20), Khuất cụm câu buông cần nhẹ (Hồng Đức 
Quốc Âm thi tập, 29a), Ít nhiều hương cụm nhặt thưa bóng cành (Hoa 
Tiên, b), Rễ cụm tóc trên (Đại Nam quốc ngữ, 68a) [15, tr. 214‐215]. 
Từ  điển  chữ  Nôm  trích  dẫn của  Viện  Việt  học  thì  lại  đánh  đồng 
giữa cụm và khóm, coi khóm là hình thức chính thức hơn. Tuy nhiên, 
ngay trong một mục từ thì các soạn giả lại có các phương án phiên 


156  


khác  nhau  (thành khóm,  cụm,  cắm)  [17,  tr.  615].  Thiết  nghĩ,  nên 
chuyển  tất  cả  các  ngữ  liệu  trên  về  dạng cụm cho  chuẩn.  Từ  điển 
này cung cấp thêm một số ngữ liệu như sau: Kỳ viên mấy cụm đào 
hồng,  nùm  hoa  sim  dại  con  ong  ước  thầm (Thiên  Nam  ngữ  lục,  c. 
5717‐5718), Ngọn nguồn kia lai láng mái ghềnh kia, Đèn chiếu thủy vốn 
chia  dòng  Kinh  Vị;  chòm  cỏ  mọc  tần  vần  bên  miếu  nọ,  trống  thôi  hoa 
từng ghẽ cụm lan du (Tây Hồ, 51a), sực nhìn dưới cụm phù dung, phấn 
môi nắng ánh áo hồng gió bay (Song tinh bất dạ, c. 893‐894),ngoài ra, 
chữ  này,  chúng  tôi  còn  phát  hiện  dùng  để  ghi  âm  động  từ  cặm 
hoặc cắm vì gần âm hơn: nhác trông sao đẩu về đông, chị em ra sức cho 
xong mẫu này, lom lem tay cặm(cắm) chân dày, năng trồng cây ngọc cũng 
ngày  hữu  thu (Thanh  Hóa  quan  phong,  19a)  [17,  tr.  615].  Ngữ  liệu 
đến đây đã tạm đủ. Chúng ta có thể tiến hành phân suất nghĩa để 
phân biệt từ cụm và khóm như sau. Với tiếng Việt cổ từ thế kỷ XVIII 
trở về trước, cụm có nghĩa là tập hợp các tán lá của các loài cây (đây 
là nghĩa phổ dụng nhất), nhưng cũng đã bắt đầu mở rộng trường 
nghĩa  để  chỉ  một  tập  hợp  khác  lớn  hơn  (như  trong  câu cụm  cuối 
làng), ngoài ra cụm còn là một động từ (cụ thể xin xem trường hợp 
dưới); từ khóm là từ trỏ các không gian lớn hơn nhưng có sự phân 
cắt, ví dụ: khóm đất, khóm ruộng, khóm nước, khóm Thương Lang. Một 
số  ngữ  liệu  bổ  sung  như  sau: trời  trời  xanh,  nước  nước  biếc,  làu  làu 
muôn  khóm  pha  lê (Thúy  sơn,  1a), thức  xuân  rước  gió  như  cười,  chòm 
thanh khóm dật khác vời chân du (Mai đình mộng ký, c. 153‐154). Thế 
nhưng, đến cuối thế kỷ XIX, cụm và khóm đã nhập vào dùng chung: 
có khách đưa cho một khóm trà, say nhè nào có bén mùi hoa (Yên Đổ, Sơn 
Trà, 4a). Việc khảo sát và phân suất nghĩa cho hai từ này từ cuối thế 
kỷ XIX đến nay vẫn còn bỏ ngỏ.  

Tóm lại, không thể vì có một nhóm từ gần âm gần nghĩa nhau 
như cụm,  khụm,  khúm,  khóm,  xóm, xúm,  xụm,  rúm  mà  khi  phiên  dễ 
dàng tùy ý lựa chọn. Giải pháp phiên cả 8 trường hợp trên, vốn được 

 

157 


ghi có chủ ý bằng 2 mã chữ khác nhau, thành khóm cả là vô tình đã 
làm nghèo chữ nghĩa của Nguyễn Trãi.  
2. Cây CỤM chồi cành chim kết tổ. (11. 4)

Về câu thơ này cũng không có sự thống nhất khi phiên. Trần 
Văn  Giáp,  Phạm  Trọng  Điềm  (1956)  đã  phiên  chữ  Nôm  [艸+禁] 
là cớm và chú thích Cây cớm: Cây lá um tùm. Đào Duy Anh (1976) vì 
cho  rằng  chữ cấm là  do  chữ diệp lộn  thành  nên  phiên  là rợp.  Bùi 
Văn Nguyên (1994) phiên là rậm. Nhóm Mai Quốc Liên (2001) cũng 
theo phiên là rậm còn Nguyễn Tá Nhi (2008) trở lại phiên cớm. Tự 
điển Chữ Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, và Tự điển chữ Nôm 
trích dẫn của Viện Văn học cũng phiên là cớm.  
Chúng tôi không đặt vấn đề chữ viết lộn vì mã chữ này vẫn 
có  thể  cho  chúng  ta  một  số  phương  án  đọc  khác.  Chữ  rậm mới 
nghe thì có vẻ thuyết phục cả về âm, về nghĩa và về đối thơ nhưng 
nghĩ kĩ sẽ không ổn vì hầu như chưa gặp tiền lệ ghi Nôm như thế. 
Tuy nhiên, phương án nào hợp lý hơn cả thì lại cần phải biện luận 
một cách khá chi tiết. Với chữ cớm mà giải nghĩa là um tùm thì rõ 
là ép nghĩa vì chữ cớm trong tiếng Việt dùng để chỉ trạng thái cây 
bị  che  mất  ánh  sáng  nên  không  thể  quang  hợp  và  phát  triển  tự 
nhiên, khiến cho lá mầm có màu vàng nhạt. Mặt khác, chữ cớm là 

một từ khá mới, không thấy ghi nhận trong bất cứ từ điển nào, và 
cũng không thấy xuất hiện ở bất cứ ngữ liệu văn học cổ nào (ngoài 
trường  hợp  đang  bàn).  Từ  điển  đầu  tiên  ghi  nhận  từ  này  là 
cuốn Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến Đức năm 1931 [tr. 95].  
Chúng  ta  gặp  chữ rậm được  ghi  bằng  các  mã  chữ  như  sau 
林,甚,椹,葚,và [艸 +椹] [15, tr. 943]. Nhóm Mai Quốc Liên lấy 
ngữ liệu Truyền kì mạn lục giải âm dùng chữ này (mà các ông phiên 
là  khóm – Nguyễn Hùng Vĩ nhấn mạnh) để dịch chữ Hán tùng rồi 

158  


lấy  nghĩa rậm  rạp,  bụi  rậm làm  nghĩa  chính  để  chứng  minh  cách 
phiên rậm là quá ép nghĩa. Tùng trước hết vẫn có nghĩa là bụi. Còn 
rậm là nghĩa suy ra, nghĩa phái sinh do các soạn giả tự suy đoán. Về 
từ  nguyên,  thì rậm có  thể  có  nguyên  từ  là sâm 森,  từ   sâm còn  cho 
một  biến  thể  khác  là sum trong  tiếng  Việt.  Còn  từ  cụm trong  chữ 
Nôm vẫn được ghi nhất quán chỉ bằng 1 thanh phù duy nhất là cấm 
禁 như đã nêu trên.  
Cũng  như  ở  mục  1,  ta  thấy cấm đã  biểu  âm  cho cụm,  thì  ở 
đây cấm vẫn  biểu  âm  đó,  nhất  quán.  Về  đối  thơ cụmhoàn  toàn  có 
thể đối được với quang ở câu sau khi hai thực từ này đều chỉ trạng 
thái cảnh vật: 
Cây cụm chồi cành, chim kết tổ 
Ao quang mấu ấu, cá nên bầy.  
Cụm chồi  cành là  trạng  thái  sinh  trưởng  của cây cũng  như  
quang mấu  ấu là  trạng  thái  hiện  thực  của ao.  Đôi  phát  ngôn  trên 
được dựng theo kết cấu đề ‐ thuyết. Nhưng đằng sau nó là có bàn 
tay của thi sĩ ẩn cư. Chăm cây để dọn tổ cho chim về, làm cỏ ao để 
cho  cá  lội.  Đó  là  cảnh  giới  cao  nhất  về  đời  sống  của  người  ẩn  sĩ. 

Đời sống vật chất và tinh thần nhất thể hóa làm một.  
3. Khách ₫ến vườn còn hoa LIẾC (35. 5)

Chúng  tôi  chọn  phương  án  phiên  落  là  LIẾC  trong  câu  thơ 
này là sau một quá trình suy nghĩ nghiêm túc để đạt đến sự hợp lí 
giữa  chữ,  nghĩa  và  âm  đọc.  Phiên lác như  các  tác  giả  khác  cũng 
được,  nhưng  rất  tiếc  là  họ  đã  hiểu  sai  nghĩa  nên  dùng liếc là  để 
phân biệt cho rõ. Về chữ này, ta thấy: 
Trần  Văn  Giáp,  Phạm  Trọng  Điềm  (1956)  phiên  là lác và  chú 
thích: “Hoa lác: Vườn còn lác đác mấy đóa hoa”.  

 

159 


Đào  Duy  Anh  (1976)  không  đồng  thuận  với  cách  phiên hoa 
lạc, ông ủng hộ cách phiên lác với nghĩa lác đác.  
Bùi  Văn  Nguyên  (1994)  phiên  là lạc và  chú  thích:  “Hoa  lạc: 
bản  Nôm  ghi  chữ lạc là  rụng,  để  mượn  âm,  đồng  thời  ẩn  nghĩa, 
hoa  lạc  tức  là  hoa  lạc  mùa,  trái  mùa,  tất  nhiên,  loại  hoa  như  vậy 
chỉ lác đác, chứ ít khi nở rộ, nhưng cũng quý, như khách tri âm”.  
Nhóm  Mai  Quốc  Liên  (2001)  cũng  phiên lác và  chú  thích: 
“Chữ  Hán  đọc  là  lạc,  chữ  Nôm  落.  Có  thể  phiên  là  lác  hoặc  rác. 
Lác có  nghĩa  là lác  đác.  Từ  điển  Génibrel  có  ghi  落 lác:  và  đã  dịch 
lác đác là rare (hiếm, còn ít); 落 rác và đã dịch lác rác cũng là rare. 
Hoa  lác  đác.  Trần  Văn Giáp,  Đào Duy Anh,  PS  đều  phiên  và  giải 
thích như thế. PS cũng ghi thêm một cách đọc khác là hoa lạc và 
giải thích là hoa rụng (les fleurs tombées)... ”.  
Nhóm Nguyễn Tá Nhi (2008) cũng đồng ý cách phiên và hiểu 

như trên.  
Chúng tôi thấy rằng chữ 落 trong tập thơ này với âm Hán Việt 
là lạc có thể ghi âm Nôm nhiều tiếng khác nhau như lạc, rặc, lác. Với 
âm lác, các tác giả phiên âm trước đây phiên cho 2 trường hợp: 
Khách đến vườn còn hoa lác  
Thơ nên cửa thấy nguyệt vào 
và: 
Giậu cúc thu, vàng nẩy lác  
Sân mai tuyết, bạc che đều.  
Đã  đành  trường  hợp  sau,  hiểu lác là  lác  đác  là  hữu  lí  vì  nó 
đối  rất  chỉnh  với  chữ đều ở  câu  sau:  hai  trạng  thái  đối  với  nhau. 
Còn  trường  hợp  trước  (là  trường  hợp  chúng  ta  đang  nói  tới  thì 
lác phải là một động từ mới đối chỉnh với vào ở câu dưới đó. Vậy 

160  


đây phải hiểu lác là trông qua, ngó trông. Khách đến thì vườn còn 
hoa để ngắm tạm / Thơ nên thì cửa đã có trăng dọi vào. Xem trong 
từ điển P. de Béhaine làm vào năm 1772‐1773 trước cả khi các bậc 
cổ học hoàn thành việc sưu tập và khắc in thơ Nguyễn Trãi ta gặp 
chữ  落trong các  ngữ  liệu lác xem, lác nhìn, lác  thấy.  Và cũng trong 
từ  điển  này  ta  gặp  chữ liếc quốc  ngữ  và  viết  Nôm  với  tự  dạng 
mục目 + lạc 落. Có thể cho rằng, khi không viết với bộ mục, thì chữ 
này  vẫn  hoàn  toàn  có  thể  đọc  âm liếc.  Chúng  tôi  chọn  âm liếc là 
chọn  hình  thức  trung  gian  để  phân  biệt  với lác  dù  có  thể  cổ  hơn 
nhưng  có  thể  gây  nhầm  nghĩa[2].  Việc  nhóm  Mai Quốc Liên  dẫn 
từ điển Génibrel là thiếu khách quan vì trong từ điển này, tác giải 
thích  từ  kép lác  đác và lác  rác chứ  không  giải  thích  riêng  từ lác. 
Không  phải  từ  kép  nào  thì  mỗi  âm  tiết  của  nó  cũng  mang  nghĩa 

chung cho cả từ.  
4. Kẻo còn LOẠT LOẠT chữ Tương Như (36. 2)

Đây là  câu thơ  thực  sự  thú vị vì có  nhiều  phương án phiên 
và hiểu rất khác nhau.  
Các cụ Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm cẩn trọng hơn cả 
khi  phiên  là lọt  đọt.  Các  cụ  viết  trong  mục  Tồn  nghi:  “Câu  2  có 
chữ lọt  đọt,  nguyên  bản  A  viết  chữ  律律,  bản  B  viết  chữ  [糸+卞] 
[糸+卞],  chúng  tôi  tạm  phiên  là lọt  đọt và bền  bện,  không  biết  có 
đúng không, xin ghi để chất chính”.  
Cụ Đào Duy Anh, 1976, phiên là lọt lọt và giải thích “còn thấy 
rõ ràng mồn một chữ của Tương Như” [10, tr. 726] 
Cụ  Bùi  Văn  Nguyên,  1994,  phiên  là biện  biệt và  viết:  “Biện 
biệt... Tương Như: Biện biệt là phân tích cho rõ, đây theo bản B, còn 
bản A lại ghi là lọt lọt, lọt thọt. Tư mã Tương Như là nhà làm phú 
nổi tiếng thời Hán, chữ dùng cầu kì, nên phải biện biệt”.  

 

161 


Nhóm Mai Quốc Liên chủ trương phiên lọt lọt và dẫn thêm Vũ 
Văn Kính và Paul Sneidere phiên rọt rọt. Các cụ viết trong sách: “Lọt 
lọt: Luật đọc chệch thành lọt lọt, nghĩa là rõ ràng mồn một. Đào Duy 
Anh cũng phiên lọt lọt và giải thích: Còn thấy rõ ràng mồn một chữ 
của  Tương  Như.  PS  phiên rọt  rọt,  ở  bảng  từ  vựng  giải  thích  là 
Suivre, poursuivre (theo, theo đuổi, đeo đẳng), rebattre les oreilles 
(đập vào tai, nói mãi nghe đến chán tai) và dịch câu thơ này là “Il 
me semble entendre sans cesse le nom de Tuong Nhu (Hình như ta 

không ngừng nghe tên của Tương Như). Bản B chép[糸+卞] [糸+卞] 
TVG: bền bện. Bùi Văn Nguyên: biện biệt”.  
Nhóm Nguyễn Tá Nhí, 2008, đồng thuận phiên rọt rọt và giải 
nghĩa là rõ ràng, rành rọt.  
Các ý kiến chưa thống nhất cho dù chữ nghĩa thì rất rõ ràng 
và câu thơ không đến nỗi khó hiểu như họ tưởng. Luật là nguyên 
từ của loạt, tiếng Việt hiện tồn cả hai từ nhất luật và nhất loạt. Cho 
nên,  ở  câu  thơ  này,  chữ luật  luật là  loạt  loạt.  Thế  thôi!  Chúng  ta 
có một loạt, nhất loạt, hàng loạt, cả loạt hà cớ gì không có loạt loạt. Dễ 
như vậy thì mà các cụ cựu học xưa nay không biết sao? Thực ra, 
trong câu thơ trên, hình như chữ KẺO làm cho người phiên bối rối 
vì  nhiều  người  hiểu kẻo  còn là  một  kết  cấu  chặt.  Nếu  theo  dõi  12 
lần xuất hiện chữ kẻo trong toàn văn bản thì ta thấy tình hình khác 
như vậy và hai chữ loạt loạt sẽ sáng ra: 
38. 4. ‐ Lọn thuở đông hằng bếp 
Suốt mùa hè, kẻo đắp chăn 
56. 2 ‐Ruộng đôi ba khóm đất con ong 
Đầy tớ hay cày kẻo mượn mòng 
59. 2 ‐Am quê về ở dưỡng nhàn chơi 
Yên phận yên lòng kẻo tiếng hơi.  
162  


67. 4 ‐Gió tận rèm thay chổi quét 
Trăng kề cửa kẻo đèn khêu 
105. 6 ‐Lặt hoa tàn xem nguyệt rụng 
Soi nguyệt xấu kẻo đèn khêu.  
109. 6 ‐Mừng cùng viên hạc quen lòng thắm 
Đã kẻo thuần lô bảo hẹn về.  
141. 8 ‐Người cười dại khó, ta cam chịu 

Đỡ kẻo lầm cầm lẫn mất lề.  
146. 6 ‐Nhiều của ấy chăng qua chữ nghĩa 
Dưỡng người cho kẻo nhọc chân tay.  
153. 2 ‐Trong tạo hóa có cơ mầu 
Hay đỗ hay dừng mới kẻo âu.  
156. 4 ‐Rồi việc mới hay khuôn được thú 
Khỏi quyền đã kẻo lụy chưng danh.  
171. 6 ‐Có của cho người nên rộng miệng 
Chẳng tham ở thế kẻo chau mày.  
Trừ đi trường hợp đang bàn thì trong 11 trường hợp vừa dẫn, 
có đến 10 trường hợp chữ kẻo chắc chắn có quan hệ với động từ và 
duy 1 trường hợp phải biện luận: Yên phận yên lòng kẻo tiếng hơi. Khi 
chúng  ta  hiểu tiếng  hơi làthị  phi thì  100%  trương  hợp  đều  là  đi  với 
động  từ.  Như  vậy,  nghĩa  của  chữ kẻo là  để  chỉ  việc  chủ  thể  phát 
ngôn chủ động thoát ra khỏi một hành động đáng lẽ phải diễn ra. 
Và  tất  cả  những  chữ kẻo trên  chúng  ta  đều  có  thể  thay  thế  bằng 
chữ khỏi hiện  nay  mà  vẫn  trọn  nghĩa.  Tất  nhiên  là  chữ   khỏi   hiện 
nay để chúng ta hiểu chứ không phải là chữ khỏi thời Nguyễn Trãi. 

 

163 


(Chúng tôi cũng đã so sánh 9 chữ khỏi và 12 chữ  kẻo  trong  Quốc âm 
thi tập thì thấy hai chữ này có sự phân nghĩa tinh tế nhưng khá rõ 
ràng là chữ khỏi thời đó chủ yếu mang nghĩa chỉ việc chủ thể phát 
ngôn chủ  động ra khỏi một  hiện thực không gian nào đó và vì vậy 
nó thường có quan hệ với một hình thức danh từ nào đó).  
Như vậy để hiểu trường hợp đang bàn, ta thay chữ kẻo bằng 

chữ khỏi hiện nay, kết quả sẽ là: 
Án tuyết mười thu uổng độc thư 
Khỏi còn loạt loạt chữ Tương Như.  
Theo  sự  mách  bảo  của  cả  11  trường  hợp  trên  thì  lúc  này, 
chữ kẻo sẽ  quan  hệ  với  một  động  từ  và  động  từ  đó  sẽ  là  độc  thư. 
Tác giả vừa thoát khỏi cảnh mười năm phí uổng độc thư. Cái còn 
lại sau đó sẽ là loạt loạt chữ Tương Như nữa mà thôi. Chúng tôi như 
đang có vẻ cố tình tách chữ kẻo khỏi chữ còn. Nhưng không phải. 
Chúng ta lại dùng phép thay thế. Ví dụ, ngay bây giờ chúng ta có 
phát ngôn: Bia rượu cả tuần quá say sưa. Khỏi, còn váng vất đến bây 
giờ hoặc Bệnh  viện  năm  tuần  nằm  chữa  bệnh;  khỏi,  còn  chất  đống bao 
nhiêu bài vở. Hay chúng ta có biến thể khác: Trên biển cả tháng lênh 
đênh,  xong  lên bờ  vẫn  còn  loạng  choạng hay Hội  hè  từ  nam  chí  bắc, 
xong hết sạch cả tiền tiết kiệm... Chúng ta không thể nói rằng, những 
câu trên là không hiểu nổi hoặc không thuần Việt. Đọc những câu 
thơ của Nguyễn Trãi ta thấu hiểu tâm sự của Cụ hơn: 
Án tuyết mười thu uổng độc thư 
Kẻo còn loạt loạt chữ Tương Như 
Nước non kể khắp quê Hà Hữu 
Sự nghiệp nhàn khoe phú Tử Hư.  
Có  thể  diễn  đạt  ý  nhà  thơ  như  sau:  Qua  khỏi  10  năm  uổng 
phí  đọc  sách  thánh  hiền  trong  nghèo  khó,  cái  còn  lại  chỉ  là  miên 
164  


man những chữ của Tư mã Tương Như thôi, khắp cả nước non kể 
ra cũng là ảo tưởng, khoe sự nghiệp rút cuộc là chữ nhàn trong bài 
phú  Tử  hư.  Chữ loạt  loạt chính  là  như  vậy.  Điều  thú  vị  là,  bản  B 
cũng giống ý như vậy. Bện bện là chữ của thao tác đánh dây, xe sợi, 
hết tao này nuộc nọ miên man, lớp lớp không dừng. Vậy bản B, câu 

này phiên đúng là Kẻo còn bện bện chữ Tương Như. Không còn gì để 
bàn nữa. Các tác giả phiên thơ đã làm rắc rối những chữ đáng ra 
rất giản dị, rõ rành, đúng đắn.  
5. GIẠI LÒNG ĐƠN, nhật nguyệt thâu (40. 4)

Câu  thơ  này  cũng  có  nhiều  cách  hiểu  và  cách  phiên  khác 
nhau và cần phân tích để hiểu rõ.  
Trần  Văn  Giáp  ‐  Phạm  Trọng  Điềm  (1956)  phiên  là Dãi  lòng 
đan và giải thích lòng đan là lòng son.  
Đào Duy Anh (1976) phiên Giãi lòng đơn và không chú thích.  
Nhóm  Mai  Quốc  Liên  (2001)  phiên  là Dãi  lòng  son,  Nhóm 
Nguyễn Tá Nhi (2008) quay lại phiên và hiểu như Trần Văn Giáp ‐ 
Phạm Trọng Điềm (1956).  
Bùi Văn Nguyên (1994) phiên Dại lòng đan và chú thích dại  là 
cái dại bằng phên, lòng đan là lòng son.  
Đọc Quốc  âm  thi  tập theo  bản  A  chúng  tôi  thấy  chữ dãi với 
nghĩa là phơi ra, phôi phai xuất hiện 3 lần và đều được ghi bằng 
chữ trãi 豸. Đó là các câu: 
14. 4: Quĩ đông dãi, nguyệt in câu.  
21. 3: Cửa song dãi, thâm hơi nắng.  
213. 4: Nhà giao dãi bóng thiềm cung.  

 

165 


Trong  câu  thơ  đang  bàn,  chữ giại được  ghi đãi 待.  Đãi âm 
Hán Việt đọc giại âm Nôm là đúng. Và sự  phân biệt với dãi là có 
ý, ít ra là của các bậc cổ học khi làm sách này.  

Giại lòng đơn là cái giại đan róng mốt sơ sài để che chắn nên 
ánh mặt trời, ánh trăng có thể xuyên thấu (nhật nguyệt thâu). Trong 
nghề đan lát, có những từ  nghề nghiệp chỉ cách đan hoặc tả mặt 
đan.  Róng  (hoặc  lóng,  dóng,  nong)  mốt,  róng  hai,  róng  ba,  róng 
bốn,  róng  năm...  là  chỉ  cách  gài  nan.  Còn  để  tả  mặt  đan  khi  sản 
phẩm đã hoàn thành người ta nói: lòng đơn, lòng kép, lòng thia, 
lòng  gấm.  Lòng  đơn để  chỉ  hoa  văn  mặt  sản  phẩm  đan  róng  mốt 
tạo nên. Lòng kép để chỉ hoa văn mặt sản phẩm đan róng hai róng 
ba tạo nên. Lòng thia để chỉ hoa văn mẹt sảy, nia sảy mà trên đó, 
nan dọc lao đi cách quãng như ném thia lia trên mặt nước. Dụng 
cụ này khi sảy, người ta sảy dọc để dễ thoát những phần tử nhẹ, 
khi gằn để gạn, người ta người ta gằn ngang để dễ giữ lại cát sạn 
hoặc phần tử được chọn dễ mắc vào nan dọc. Lòng gấm để chỉ hoa 
văn do cách đan phức tạp tạo ra những hình như dệt gấm.  
Đến  đây,  đọc  cả  hai  câu  thơ  của  Nguyễn  Trãi,  trước  hết  ta 
thấy sự chỉn chu, cặn kẽ của nó: 
Song cửa ngọc, vân yên cách 
Giại lòng đơn, nhật nguyệt thâu.  
Có thể diễn ý rõ ra cái nghĩa này như sau: Cửa ngọc là ngọc 
môn, chỉ nơi ở của vua, mà nơi đó đã chìm khuất sau sương khói 
xa xôi; còn ở nơi này chỉ là ngôi nhà phên vách đơn sơ, suốt ngày, 
ánh mặt trời, ánh trăng có thể xuyên thấu qua.  
Nhưng đó là nghĩa thực, lớp nghĩa thứ nhất của câu thơ. Bởi 
vì, lòng  đơn còn  có  nghĩa  là  lòng  son,  là đan  tâm (tấm  lòng  trung 
thành bền chặt), nhật nguyệt còn chỉ minh quân, chỉ vũ trụ, đất trời 

166  


cho nên câu thơ còn hàm ý biểu hiện: Tấm lòng trung thành bền 

chặt của ta đã có mặt trời mặt trăng soi thấu. Ở đây, rõ ràng câu 
thơ  Nguyễn  Trãi  sử  dụng  yếu  tố  chơi  chữ  sâu  kín  và  thầm  lắng. 
Chúng tôi cũng đã nói về yếu tố chơi chữ đã xuất hiện trong Quốc 
âm  thi  tập  khi  phân  tích  những  chữ cân  cấn và thia  thia trong  bài 
trước (Ngòi khan ước ở làm cân cấn/ Cửa quyền biếng mặc áo thia thia). 
Yếu  tố  chơi  chữ  này  về  sau,  trong  thơ  Nôm  đã  thực  sự  bùng  nổ 
với  phong  phú  những  cách  thức,  những  quan  niệm.  Cũng  chính 
yếu tố này làm cho việc hiểu và phiên thơ Nôm nhiều khi lưỡng 
lự, băn khoăn dẫn đến những giải pháp rất khác nhau, đôi tranh 
với nhau. Ở trường hợp này, đọc giại lòng đơn vẫn có thể hiểu lớp 
nghĩa dãi lòng son như thường khi mà giại, giãi, dãi trong tiếng khu 
bốn  đến  nay  vẫn  phát  âm  không  phân  biệt  và  cũng  còn  nhiều 
chứng cứ ngữ âm về sự không phân biệt này cách đây 3, 4 thế kỷ, 
dù ở Bắc hay ở Trung. Khu bốn chỉ là hình thức bảo lưu khi kinh 
kỳ phát triển nhanh và không ngừng mà thôi.  
6. Mây QUÊN KHÁCH, nguyệt vô tình (65. 2 bản B)

Chúng  tôi  phiên  câu  này  theo  bản  B.  Bản  A  ghi  câu  này  có 
đảo  thứ  tự  giữa  chữ khách và  chữ nguyệt và  nên  phiên  là Mây 
quen/ nguyệt khách/ vô tình.  
Các bậc cựu học theo bản A mà phiên như sau: 
Trần Văn Giáp ‐ Phạm Trọng Điềm (1956) phiên là Mây quen 
nguyệt, khách vô tình.  
Đào Duy Anh (1976) phiên là Mây quyến nguyệt, khách vô tình.  
Những  người  phiên  sau  như  Bùi  Văn  Nguyên  (1994),  nhóm 
Mai Quốc Liên (2001), nhóm Nguyễn Tá Nhĩ (2008) chắc vì thấy mây 
quyến nguyệt rất lọn ý nên phiên theo mà không băn khoăn gì cả.  

 


167 


Chúng tôi thấy chữ quyến vốn là chữ Hán 眷 đã có cách đọc 
Hán  Việt  rất  quen  thuộc  và  tiện  lợi  với  các  nét  nghĩa  quyến 
nhớ hay gia quyến, thân quyến. Trong Quốc âm thi tập, chữ này vẫn 
là  một  từ  Hán  Việt  thông  dụng  thời  Nguyễn  Trãi  với  nghĩa  là 
quyến rủ, lôi cuốn, quấn quýt, quyến luyến xuất hiện 5 lần trong 
những bài sau: 
1. 3:  Con đòi trốn dường ai quyến.  
62. 3: Dịp huyện hoa còn quyến khách.  
70. 4: Đìa thanh, đêm quyến nguyệt vô tâm.  
119. 4: Quyến trúc mai kết bạn tri âm.  
215. 5: Đêm có mây nào quyến nguyệt.  
Nghĩa    rất  trọn  và  chữ  rất  rõ.  Vậy,  trong  câu  thơ  đang  bàn, 
với  chữ  涓  này,  chúng  ta  không  thể  phiên  là quyến  được.  Chỉ  có 
thể phiên quen hoặc quên mà thôi.  
Có  thể,  những  người  chủ  trương  phiên  quyến là  do  ảnh 
hưởng cách ngắt nhịp câu thơ làm đôi của những người phiên đầu 
tiên  (Mây  quen  nguyệt//  khách  vô  tình)  và  thấy  cụm mây  quen 
nguyệt nghe  cầu  kỳ,  nghĩa  nông  cạn  mà  đổi  thành mây  quyến 
nguyệt, bất chấp chữ trên văn bản. Nhưng nếu ta ngắt nhịp khác đi 
thì chữ quen vẫn trọn ý: 
Non Phú Xuân cao/ nước Vị thanh 
Mây quen/ nguyệt khách/ vô tình.  
Cảnh ẩn dật như Nghiêm Quang câu ở Phú Xuân, Lã Vọng 
câu  ở  sông  Vị,  mây  là  người  quen,  nguyệt  là  khách  khứa,  tất  cả 
mọi chuyện đều vô sự, không phải nghĩ ngợi. Có thể, những bậc 
cổ học biên soạn Quốc âm thi tập đã hiểu theo hướng này nên giữ 
chữ quen 涓. Nhưng cũng có điều cần nói là so với câu thơ ở bài 64 


168  


câu  6  thì  ta  thấy  ý  có  ngược  lại: Mây  khách  khứa, nguyệt  anh  tam. 
Nguyễn Trãi không coi nguyệt là khách! 
Bản B cho ta một dị bản thú vị và chúng tôi thấy bản này về 
ý nghĩa rất trọn vẹn và khả dụng hơn: [雨+迷]涓客月無情. Chúng 
ta có thể phiên là Mây quên khách/ nguyệt vô tình. Mây quên khách là 
cụm từ lấy ý từ câu thơ của Đào Tiềm, một mẫu hình ẩn dật: Vân 
vô tâm dĩ xuất tụ (Mây vô tâm, cứ tụ lại rồi cứ tan đi). Vô tâm như 
vậy  thì  quên  khách  thơ  là  chuyện  đương  nhiên.  Còn nguyệt  vô 
tình hay nguyệt  vô  tâm là  điều  mà  Nguyễn  Trãi  đã  từng  nói  đến. 
Ông làm thơ trong tâm thế một người ẩn dật, lánh đời. Trong quá 
trình tìm hiểu thơ quốc âm của Nguyễn Trãi, chúng tôi thấy bản B 
còn lưu nhiều yếu tố cổ đáng được chú ý kĩ.  
7. Nắng quáng, SƯA SƯA bóng trúc che (79. 1)

Chúng  tôi  lựa  chọn sưa  sưa thay  cho thưa  thưa như  các  bản 
phiên từ trước tới nay dù nghĩa không khác nhau. Chữ Nôm viết 
疎疎  và  cách  đọc  Hán  Việt  là sơ  sơ.  Chữ  này  cũng  thường  dùng 
ghi thưa  với  nghĩa  chỉ  một  hành  động  nói  năng  trong  văn  Nôm. 
Tuy nhiên, Nguyễn Trãi cách chúng ta đã hơn 500 năm và thời của 
ông, chữ Nôm đang hoàn thiện với tư cách là một hệ thống văn tự, 
nó  vẫn  giữ  cách  phát  âm  cổ.  Trong Quốc  âm  thi  tập của  Nguyễn 
Trãi  không  xuất  hiện  chữ thưa với  nghĩa  là  động  từ  chỉ  một  loại 
hành  động  nói  năng  nên  chúng  ta  không  có  để  so  sánh.  Chữ 
sưa này  với  nghĩa  chỉ  một  thực  trạng  vật  chất  không  dày,  ngược 
với mau, xuất hiện 6 lần và đều có thể phiên sưa cả: 
79. 1:    Nắng quáng sưa sưa bóng trúc che 

126. 1:   Giậu sưa sưa hai khóm trúc 
225. 4:   Bóng sưa ánh nước động người vay 

 

169 


226. 1:   Bóng sưa ánh nước động người vay (lặp câu trên trong 
kiểu thơ thủ vĩ tương liên).  
Hiện tường dùng / th / để ghi / s / là việc hay thấy trong các 
văn bản cổ. Trong văn bản Thiền tông khóa hư ngữ lục cho Tuệ Tĩnh 
giải nghĩa có dùng chữ thượng thượng 尚尚 để ghi từ sảng sảng: Sảng 
sảng thửa  những  tiếng  đàn  địch  hứng  thổi  lại  gọi  rằng  ấy  thực  tiếng 
rồng ngâm; Rân rân thửa những  tiếng chuông trống rôm rả  gọi là ếch 
kêu. tr. 41b [18, tr. 153] 
Hiện nay đi thực tế các vùng Bắc Ninh, Hà Tây cũ hay Nam 
Định  chúng  tôi  vẫn  gặp  phát  âm sưa này  trong  sự  phân  biệt 
với thưa động từ chứ không chỉ vùng khu bốn mới dùng phổ biến. 
Phiên thưa dễ  hiểu  với  mọi  người  ngày  nay  hơn  nhưng  phiên 
sưa cũng không phải là không hiểu, hơn nữa giữ được âm hưởng 
cổ của văn bản. Chúng tôi lựa chọn là vì thế.  
8. Cây im, thư thất LẶNG bằng the (79. 2)

Trần  Văn  Giáp  ‐  Phạm  Trọng  Điềm  (1956)  phiên  câu  này 
là Cây im, thưa thớt sáng bằng the và chú thích Cây im: Cây không có 
gió động, bóng nắng thưa thớt chiếu xuống như một bức rèm the căng 
lên trên.  
Đào  Duy  Anh  (1976)  cho  chữ  烺  chép  lộn  thành  浪,  nên 
phiên lặng bằng the, và chú thích là “sáng như là có căng the, ánh 

sáng  lọt  qua  mà sáng  hơi  hơi  (vì  có  bóng  trúc  che  thưa  thưa  cho 
nên ánh sáng lọt qua mà phòng đọc sách được sáng). [10, tr. 754] 
Bùi  Văn  Nguyên  (1994),  Nhóm  Mai  Quốc  Liên  (2001)  phiên 
theo GS Đào Duy Anh.  
Nhóm Nguyễn Tá Nhi (2008) phiên Cây im thư thất rắng bằng 
the và chú thích Rắng bằng: Tựa như.  

170  


Hồng Đức Quốc âm thi tập cũng có câu tương tự và trước nay 
đều nhất loạt được phiên là: thừa lương đình vắng sáng bằng the (3a).  
Chúng  tôi  thấy  chữ  浪  trong  câu  trên  phải  phiên lặng mới 
đúng cả về ngữ âm cả về ngữ nghĩa. Bài thơ được làm trong một 
buổi trưa hè nắng nóng, ít gió: 
Nắng quáng, sưa sưa bóng trúc che 
Cây im, thư thất lặng bằng the.  
Nắng quáng là nắng nhìn lóa cả mắt. Ấy vậy mà mấy ngọn 
trúc  chỉ  che  được  phần  thưa  thớt  mà  thôi.  Gió  chưa  có  nên  cây 
đứng im còn phòng đọc sách thì lặng như the vậy (đây là một lối 
nói cổ hơn của cụm lặng như tờ). Tả như vậy là đủ thấy cái bức nực 
của  nắng  hè.  Chúng  ta  bây  giờ  đọc  sách  viết  bài  có  phòng  máy 
lạnh  hoặc  có  quạt  cây.  Khi  mất  điện,  ta  sẽ  hiểu  ngay  ra  Nguyễn 
Trãi.  Chốn  ẩn  dật  của  Nguyễn  Trãi  thuở  xưa,  chân  núi  Côn  Sơn, 
đâu chỉ xuân hoa nở, thu trăng trong mà còn sẽ gặp những ngày 
hè nóng nực. Cụ viết về cái cảnh đó để lại cho chúng ta hôm nay. 
Nói lặng như tờ được thì ắt hẳn nói lặng bằng the cũng chắc chắn là 
được. Chữ “lặng” ở đây vừa là tĩnh lặng vừa là không có một mảy 
gió nào, không chút rung rinh. Thế mới bức.  
9. SAN SÁT KỀ song, giấc hòe (79. 8)


Đây  là  câu  kết  của  bài  79  là  bài  chúng  tôi  vừa  sửa  chữ  cho 
câu  1  và  câu  2.  Ba  chữ San  sát kề các  tác  giả  trước  đây  phiên  có 
khác nhau.  
Trần Văn Giáp ‐ Phạm Trọng Điềm (1956) phiên là Sàn sạt cài 
song giấc hòe và giải thích cài song là cài cửa sổ để ngủ.  
Đào  Duy Anh  (1976)  phiên  là thơn  thớt và  chú  là  “chúng  tôi 
thấy  trong Bạch  Vân  thi  tập chữ  撻  đều  dùng  để  nói  cái  thớt,  cho 

 

171 


nên chúng tôi cho rằng hai chữ trên có thể phiên là thơn thớt” [10, 
tr. 755] 
Bùi Văn Nguyên (1994) cũng phiên Thơn thớt cài song giấc hòe.  
Nhóm  Mai  Quốc  Liên  (2001)  phiên  là Thớt  thớt  cài  song  giấc 
hòe và  giải  thích thơn  thớt hay thớt thớt có  nghĩa  là  qua  loa,  sơ  sài. 
Nhưng cách phân suất nghĩa như vậy là rất có vấn đề về mặt âm 
và ngữ nghĩa. Vì động từ là cài song, cho nên âm đọc phỏng đoán và 
kéo theo là tạo nghĩa phỏng đoán là “qua loa sơ sài”. Cách tự gán âm 
và gán nghĩa cho âm đọc mà không kiểm chứng qua từ điển cổ và 
ngữ cảnh như vậy sẽ gây nên nhiều điều bất cập.  
Nhóm  Nguyễn  Tá  Nhi  (2008)  phiên  là Thít  thít  kề  song  giấc 
hòe và giải thích thít thít là thin thít, ngủ say. Nhưng xét văn cảnh, 
trời  giữa  trưa  nắng  nôi  như  thế,  đến  nỗi  không  đọc  nổi  sách, 
không  nói  năng  bàn  bạc  được  gì,  làm  sao  có  thể  ngủ  “thin  thít” 
cho được; mặt khác, đã giấc hòe thì khó mà thin thít được vì trong 
đó chứa đầy những mộng mơ, ảo tưởng và bừng tỉnh, thất vọng. 

Tuy  nhiên,  chúng  tôi  coi  đây  là  cách  phiên  khả  dĩ  nhất  từ  trước 
cho đến nay.  
Vậy  chữ  掑窻  phải  phiên  là kề  song như  bản  của  Nguyễn  Tá 
Nhi (2008). Chữ trong văn cảnh tương tự tại vị trí 97. 4 cũng phiên 
Kề  song  gió  trúc  nàm  nàm [14,  tr.  859,  860],  và  vị  trí  158.  4  cũng 
phiên thuyền  kề  bãi  tuyết  nguyệt  chênh  chênh [14,  tr.  1001].  Hai  chữ 
mang âm đọc Hán Việt thát thát 撻撻 có thể đọc là sát sát hoặc san 
sát vì  đây  có  dấu  hiệu  viết  kiểu  từ  láy  âm.  Hai  chữ san  sát trong 
ngữ cảnh này phải hiểu là liền kề theo nghĩa ban sơ của từ này, là 
sít vào chứ không hiểu bày đặt lớp lớp, ken dày như nét nghĩa của 
tiếng  Việt  hiện  đại.  Ngày  nay  ta  vẫn  nói:  “Dịch  cái  bàn  san  sát 
vào”;  “Kê  cái  sập  san  sát  vào  tường”  và  vẫn  hiểu.  Nhưng  san 
sát và kề đứng  liền  nhau  thì  có  lặp  lời  không?  Theo  chúng  tôi  thì 

172  


không phải là lặp. Bởi kề ở đây là động từ, và nó có một biến âm 
khác  là kê và  có  thể  còn  có  thêm ghé nữa  trong  câu thuyền  kề  bãi. 
Phân suất nghĩa của từ này ta thấy, kề là động từ cập vật với nghĩa 
là dịch chuyển vị trí để sát gần với một không gian hay sự vật cụ 
thể  nào  đó.  Trong  câu  thơ  này  chữ san  sát là  trạng  từ  cho  động 
từ kề. Nếu có người cho rằng đây là một phát ngôn lặp lời thì cách 
nói dân dã cũng có những cách nói như sát kề, kề sát, kề cạnh, kề sít. 
Phân tích tiếp chủ thể của hành động kề: câu kề song gió trúc nàm 
nàm thì chủ thể của hành động kề là một hợp thể của gió và trúc, 
gió đưa cành trúc quệt nhẹ vào song cửa khiến cho cái tĩnh càng 
lặng hơn; còn ở câu thơ này, chủ thể kề song không ai khác chính là 
nhà  thơ,  trưa  hè  nóng  ai  chả  kê  gối  sát  ra  gần  cửa  sổ  nơi  có  gió 
Nam nhẹ hẩy hẩy thi thoảng đưa vào.  

Giờ đây, đọc cả bài thơ chúng ta sẽ hiểu Nguyễn Trãi hơn: 
Nắng quáng, sưa sưa bóng trúc che 
Cây im, thư thất lặng bằng the 
Tỏ tường phiến sách: con Chu Dịch 
Bàn bạc lòng nhân: cái quýt chè 
Đòi thuở khó khăn chăng xuýt ải 
Thấy nơi xao xác đã mày nề 
Ngày nhàn gió khoan khoan đến 
San sát kề song giấc hòe.  
Bài thơ về HÈ mà dùng che làm khởi vận là có lựa chọn. Độ 
tập trung của ngôn ngữ, của hình ảnh hướng mạnh mẽ đến sự im 
ắng và bức sốt: Nắng thì quáng, bóng trúc thì sưa, cây im, phòng 
sách  lặng,  cái  thẻ  nhớ  trang  (con  Chu  Dịch)  nằm  im  trong  quyển 
sách (nhường việc đọc sách cho nó), việc đàm luận nhân tình thế 

 

173 


thái  thì  đã  có  cây  quýt  cây  chè  đứng  im  kia,  đến  tiếng  xuýt  xoa 
trong lúc khó khăn cũng chả thèm bật lên nữa, chỉ cụp mắt xuống 
(mày nề) khi thấy  khắp nơi xao xác; ngày nhàn trôi, thỉnh  thoảng 
mới  có  tí  gió  (gió  khoan  khoan  đến:  lâu  lâu  mới  có  chút  gió  đến), 
nằm  kề  sát  bên  cửa  sổ  đánh  một  giấc  chiêm  bao.  Cũng  phải  nói 
thêm là chúng tôi không đồng thuận với cách phiên quýt chè (câu 5) 
ra quých chòe (chích chòe) của Paul Shneider mà  Nhóm Mai Quốc 
Liên  (2001)  phiên  theo  vì  nó  xa  xôi  và  rách  việc  cả  về  chữ,  về 
nghĩa, về sự trọn vẹn cả bài thơ. Dưới phiên là quých chòe được hà 
cớ  gì  hai  chữ chu  dịch ở  trên  không  phiên  luôn  là chù  dích cho  nó 

đối hẳn đi. Chù dích là loài chuột chù hay kêu dích dích ở trong các 
thư thất. 
10. Chông gai NÉ ₫ường danh lợi (80. 3)

Cái tiếng né này trên bản chữ Nôm in rất rõ bằng chữ nễ 你. 
Tuy nhiên, các bản phiên đưa ra cách đọc khác nhau.  
Trần  Văn  Giáp  ‐  Phạm  Trọng  Điềm  (1956)  phiên  là Chông 
gai nhẹ đường danh lợi và từ đó, Bùi Văn Nguyên (1994) cũng đồng 
ý như vậy.  
P. S phiên: Chông gai nể đường danh lợi.  
Nhóm Mai Quốc Liên (2001) phiên Chông gai nhẻ đường danh 
lợi và  giải  thích  như  sau:  “Nhẻ.  Chữ  Nôm  viết  你,  TVG,PTĐ 
phiên nhẹ,  Đào  Duy Anh: nhỉ,  Bùi  Văn  Nguyên: nhẹ,  PS nể;  chúng 
tôi phiên nhẻ và hiểu nhẻ là đầy, như Từ điển Génibrel giải thích ở 
mục nhe nhẻ: Plein, rempli de. Từ nhẻ với nghĩa là đầy ở câu 3 đối 
với từ no là đủ ở câu 4, rất rõ ràng về ý nghĩa lại rất chỉnh về luật 
đối trong thơ”.  
Nhóm Nguyễn Tá Nhi (2008) phiên Chông gai né đường danh 
lợi nhưng không có chú thích. Chúng tôi cho rằng cách phiên này 
là đúng và phân tích các cách phiên như sau: 
174  


‐ Cách phiên NHẸ rất trọn nghĩa, chỉnh đối, hợp ý thơ nhưng 
bị  vướng  về  mặt  chữ.  Có  năm  chữ nhẹ trong  cả  văn  bản  này  đều 
được viết bằng chữ nhĩ 珥, đó là: 
9. 4:   Bè Trương Khiên nhẹ, khách sang.  
30. 5:   Thân đà hết lụy thân nên nhẹ.  
78. 1:   Tiêu sái tự nhiên nhẹ hết mình.  
248. 1:  Ngẫm hay sự thế nhẹ bằng lông.  

250. 2:  Xòe hai cánh nhẹ mười phân.  
Có thể, các tác giả này đã đọc chữ nễ thành nhân 亻+ 尓 nhĩ nên 
phiên là nhẹ. Chúng tôi vẫn cho rằng, ở đây là chữ nễ nguyên khối.  
‐ Cách phiên NHỈ (hư tự) vừa không hợp chữ như trên vừa 
không hợp đối với chữ no là thực tự ở câu 4.  
‐  Cách  phiên  NỂ  không  hợp  ý  thơ  lắm  vì  người  ẩn  dật  e 
không  cần  nể  hoặc  kiêng  nể  con  đường  danh  lợi  lắm  chông  gai. 
Còn nếu coi nể như một hình thức uyển ngữ mang tính châm biếm 
cũng  không  tương  thông  với  ý  toàn  bài  lắm:  Một  tâm  sự  buồn 
nghiêm nghị, chiêm nghiệm.  
Cách  phiên  NHẺ  và  hiểu nhẻ là  đầy  thì  phải  bàn  lại.  Cách 
phiên này dẫn từ điển Génibrel (năm 1898) nhưng không đáng tin 
cậy  vì  mấy  lí  do  như  sau.  Thứ  nhất,  trong  từ  điển  này  không  có 
chữ nễ 你 đọc là nhẻ. Cái chữ đọc là nhẻ là chữ [口+ 尓] [8, tr. 556]. 
Thứ hai, không có chữ nhẻ nào được chú thích là đầy cả mà chỉ có 
từ nhe nhẻ ở mục nhe (ghi Nôm là [ 兒+小]) được chú trong khi đưa 
ngữ liệu như sau: “Đầu nhe nhẻ những chấy (T), Têt e couvert de 
poux” [8, tr. 556]; và ở mục nhẻ (ghi Nôm là [口+ 尓]) chú như sau: 
“Nhe nhẻ (T), Plein, rempli de. (V. Nhe, 3)” [8, tr. 556]. Như vậy, ở 
đây, tác giả từ điển chú nghĩa cho cả từ kép chứ không cho riêng 
chữ NHẺ đang bàn. Không phải từ kép nào, từ lấp láy nào thì mỗi 

 

175 


lời của nó đều mang nghĩa, bởi vậy không thể rút ra một thành tố 
và  thành  tố  đó  đủ  đại  diện  cho  nghĩa  cả  từ.  Ví  dụ: nhan  nhản,  lai 
rai, sa sả, lải nhải, nhồm nhoàm, xăm xắp, lểu thểu, lang thang, lỗ mỗ, 

lênh đênh, tung tăng, hớn hở, nhởn nhơ, xun xoe… Ở đây, từ điển chú 
nghĩa không sai vì họ đã chú cả từ kép, chỉ người sử dụng từ điển 
đã tùy tiện rút ra một chữ rồi cấp nghĩa cả từ cho nó để phục vụ 
cho  ý  mình  là  sai  thôi.  Thứ  ba,  vì  thế,  các  từ  điển  trước  và  sau 
Génibrel  của  người  bản  ngữ  đã  không  hề  có  từ  đơn  NHẺ  với 
nghĩa  là đầy.  Đến  nay,  nhiều  từ  điển  chữ  Nôm  đã  ra  đời  vẫn 
không có mục từ đơn NHẺ với nghĩa đầy vì không có ngữ liệu thứ 
hai  nào.  Có  thể  khẳng  định,  cách  phiên  này  đã  tưởng  tượng  ra 
thêm một chữ cho kho tàng tiếng Việt mà thôi! 
Chữ nễ 你 này phiên được là né vì: 
‐ Đã có trong các từ điển như vậy. Ví dụ Từ điển P. de Béhaine 
(1772‐1773)  chữ  Nôm  你  [5,  tr.  396]  và  chữ  quốc  ngữ né (nghĩa  là 
tránh) với các ngữ liệu né mình, tránh mình. Từ điển Aj. L. Taberd 
(1838) cũng tương tự [6, tr. 329]. Đại Nam quấc âm tự vị của Huinh 
Tinh Paulus Cua (1896) có chữ Nôm 你 và quốc ngữ là Né và chú 
nghĩa: Né. n. Tránh mình cho khỏi [7, tr. 687]. Chính từ điển của 
Génibrel  (1898)  cũng  có  chữ  Nôm né 你  và  đưa  các  ngữ  liệu né 
mình, né xuống, né lại, ké né. [8, tr. 483] 
‐ Phiên chữ né vẫn đảm bảo luật đối của câu thơ: 
Chông gai né đường danh lợi 
Mặn lạt no mùi thế tình.  
Theo  Dương  Quảng  Hàm  trong Việt  Nam  văn  học  sử 
yếu (1942), luật đối trong thơ luật đường bắt buộc thực tự đối thực 
tự, hư tự đối với hư tự. Trong 2 câu thơ trên, tất cả đều là thực tự. 
Hơn nữa né và no không chỉ cùng là thực tự mà còn cùng là động 
từ.  Nếu  có  phân  biệt  thì  một  bên  là  động  từ  chỉ  hành  động,  một 

176  



bên là động từ chỉ trạng thái. Nhưng các cụ ngày xưa không quan 
niệm như vậy. Đó là sản phẩm câu nệ của một số người ngày nay.  
Xem  chữ né có  hợp  nghĩa  câu  thơ  không,  chưa  cần  phân  tích, 
chúng ta làm các phép đảo và sẽ thấy các phương án đều trọn nghĩa: 
‐ Né chông gai đường danh lợi 
No mặn lạt mùi thế tình.  
‐ Né đường danh lợi chông gai 
No mùi thế tình mặn lạt.  
‐ Đường danh lợi chông gai: né 
Mùi thế tình mặn lạt: no.  
‐ Đường danh lợi né chông gai 
Mùi thế tình no mặn lạt...  
Nguyễn Trãi làm bài thơ khi đã thấy mình  là già hòa lú, vậy 
mà chưa báo đáp được công sở sinh của cha mẹ. Về ẩn dật, đối với 
đường danh lợi vốn lắm chông gai thì đã tránh được. Cuộc sống 
dân dã thì  mặn lạt chỉ cần theo ẩm thực của thế tình. Bầu bạn là 
một  hai  phiến  sách.  Công  danh  giờ  đáng  đổi  dăm  ba  chén  rượu. 
Chỉ thế thôi cần chi hơn nữa. Chỉ cầu cho được ngồi coi thiên hạ 
thái bình. Đọc cả bài thơ, ta hiểu tâm sự của vĩ nhân: 
Tơ tóc chưa hề báo sở sinh 
Già hòa lú, tủi nhiều hành 
Chông gai né đường danh lợi 
Mặn lạt no mùi thế tình 
Sách một hai phiên làm bậu bạn 
Rượu năm ba chén đổi công danh 
Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa 
Cầu một ngồi coi đời thái bình.  
 

177 



11. Tài LỌN công danh hợp mọi bề (141. 1)

Bản Đào Duy Anh (1976) phiên là LUẬN và giải thích là: luận 
về công danh thì thấy tài của mình là hợp mọi bề. Nhóm Mai Quốc 
Liên (2001) đã kế thừa cả cách phiên lẫn cách chú này. Tự dạng của 
chữ này được ghi bằng 論, đọc theo âm Hán Việt là luận, nghĩa là 
bàn luận. Trong văn bản phiên âm QÂTT của nhóm Mai Quốc Liên, 
chữ luận còn  được  phiên  thành trọn ở  các  vị  trí  sau  38.  3: trọn  thuở 
đông hằng nhờ bếp, 53. 6: già được trọn ấy là tiên, 58. 1: buồng văn đắp 
cửa  trọn  ngày  thu,  187.  8: trung  hiếu  cương  thường  lòng  đỏ,  tự  nhiên 
trọn  nghiệp  ba  thân,  194.  1: mười  hai  tháng  trọn  mười  hai,  và  được 
phiên thành lọn ở ba vị trí là 216. 7: dầu thấy xuân lan cùng lọn được, 
94. 1: ngồi coi tháng lọn lẫn ngày qua, 109. 1: lấy đâu xuất xử lọn hai bề. 
Sở dĩ có sự phiên bất nhất như vậy vì mỗi đồng tác giả có phương 
pháp phiên âm khác nhau.  
Tuy  nhiên,  chúng  tôi  cho  rằng  vị  trí  này  nên  đọc  là lọn chứ 
không phải là luận vì những lý do như sau.  
Tài  lọn là  một  từ  được  dịch  từ  chữ toàn  tài trong  Hán  văn. 
Đây là một phong cách thường thấy trong ngữ văn cổ điển. Ngay 
trong QÂTT có những ví dụ khác như rừng Nho được dịch từ Nho 
lâm, cửa thông dịch từ chữ tùng quan (cửa chùa), nhà cả dịch chữ đại 
hạ, một  dường dịch  chữ nhất  dạng (thảy  đều  như  nhau), khách  đăm 
chiêu dịch từ chữ tả hữu (bề tôi thân cận),… Với nét nghĩa là toàn 
tài, chúng ta thử đọc lại đôi câu thơ đầu: 
Tài lọn công danh hợp mọi bề 
Dại ngay nên thiếu kẻ khen chê 
Liên  thơ  tạo  nên  sự  đối  lập  thường  thấy  trong  tâm  thế  của 
người ở ẩn. Kẻ toàn tài thì cả công lẫn danh đều hợp đủ mọi bề. 

Còn ta vừa thẳng tính vừa dại dột (đến ẩn cư giữa chốn núi rừng 
này) nên chẳng có kẻ nào biết đến mà buông lời khen chê cả.  

178  


×