Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tích hợp giải thích một số hiện tượng thực tế trong đời sống khi dạy học phần điện và từ học vật lý 11 chuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.92 KB, 12 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Vật lý học là một môn khoa học thực nghiệm cũng là môn khoa học cơ
bản làm nền tảng cung cấp cơ sở lý thuyết cho một số môn khoa học ứng dụng
khác. Môn Vật lý nghiên cứu những sự vật, hiện tượng xảy ra hàng ngày, có tính
ứng dụng thực tiễn đang xảy ra trong thế giới xung quanh ta. Nó nói về các hiện
tượng cơ, nhiệt, điện, quang... xảy ra trong cuộc sống. Việc học môn Vật lí
không chỉ dừng lại ở sự tìm cách vận dụng các công thức Vật lí để giải cho xong
các bài toán và đi đến những đáp số, mà còn giải thích được các hiện tượng Vật
lí đang xảy ra trong thiên nhiên quanh ta, trong các đối tượng của nền văn minh
mà ta đang sử dụng.
Mặt khác, thực tế việc giảng dạy Vật lí hiện nay, chủ yếu dành nhiều thời
gian dạy học sinh nhận diện các dạng, loại bài toán khác nhau và cách vận dụng
các công thức Vật lí cho từng dạng, loại toán đó, mà ít chú trọng giúp học sinh
giải thích các hiện tượng Vật lí xảy ra trong tự nhiên, gần gũi với cuộc sống của
chúng ta. Nếu có giải thích thì chỉ là những hiện tượng có sẵn trong sách giáo
khoa chứ giáo viên ít sử dụng phương pháp dạy học tích hợp dưới hình thức
lồng ghép trong bộ môn Vật lí nói chung và trong các phần liên quan đến hiện
tượng Điên và Từ trong chương trình lớp 11 ban cơ bản nói riêng.
Xuất phát từ ý nghĩa và thực tế đó, tôi đã nghiên cứu đề tài “Tích hợp
giải thích một số hiện tượng thực tế trong đời sống khi dạy học phần Điện và
Từ học Vật lý 11 chuẩn”, nhằm giúp học sinh yêu thích và hiểu rõ hơn bản chất
Vật lý của các hiện tượng Điện và Từ. Từ đó dễ dàng giải thích được các hiện
tượng xảy ra xung quanh mình và làm tốt các bài tập định tính nâng cao kết quả
học tâp.
2. MỤC TIÊU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.
2.1 Mục tiêu:
Giải thích định tính được một số hiện tượng Điện và Từ thường gặp trong
đời sống hàng ngày bằng phương pháp DHTH dưới hình thức lồng ghép, nhằm
góp phần nâng cao chất lượng dạy học Vật lí ở trường THPT mà không làm quá
tải môn học.


2.2 Phạm vi nghiên cứu:
Vận dụng phương pháp DHTH dưới hình thức lồng ghép để giải thích một
số hiện tượng liên quan đến Điện và Từ trong một số tiết học ở chương trình Vật
lí lớp 11 chương trình chuẩn.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
Phần Điện và Từ chương trình SGK vật lý 11 chương trình chuẩn.
Tổ chức thực nghiệm sư phạm ở 2 lớp 11A6 và 11A7 trường THPT Vĩnh
Lộc, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
- Nghiên cứu, tìm hiểu về phương pháp DHTH và hình thức lồng ghép.
- Tìm hiểu một số hiện tượng Điện và Từ có liên quan đến các tiết học
trong chương trình Vật lí 11 chương trình chuẩn.
Trang 1


- Thực nghiệm sư phạm các phương án dạy học đã thiết kế.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến phương pháp DHTH và hình thức
lồng ghép.
- Nghiên cứu về các hiện tượng Điện và Từ trong chương trình sách giáo
khoa 11 chuẩn và các tài liệu tham khảo.
- Nghiên cứu các hiện tượng Vật lý xảy ra xung quanh chúng ta hàng
ngày có liên quan tới Điện và Từ trong chương trình SGK.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm.
- Xây dựng các hiện tượng Điện và Từ vào các tiết dạy cụ thể trong
chương trình Vật li 11chương trình chuẩn.
- Tổ chức thực nghiệm sư phạm ở 2 lớp 11A6 và 11A7 trường THPT Vĩnh
Lộc, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa.
- Xử lý kết quả thực nghiệm sư phạm bằng thuật toán thống kê.

PHẦN II: NỘI DUNG.
CHƯƠNG 1. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP VÀ HÌNH THỨC
LỒNG GHÉP TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ.
1.1. Khái niệm về dạy học tích hợp.
Quá trình DHTH được hiểu là một quá trình dạy học trong đó toàn thể các
hoạt động học tập góp phần hình thành ở học sinh những năng lực rõ ràng, có dự
tính trước những điều cần thiết cho học sinh, nhằm phuc vụ cho các quá trình
học tập tương lai, hoặc nhằm hòa nhập học sinh vào cuộc sống lao động (Xavier
Roegiers(1996)). Mục tiêu cơ bản của tư tưởng sư phạm tích hợp là nâng cao
chất lượng giáo dục học sinh phù hợp với mục tiêu giáo dục của nhà trường
nhưng không làm tăng nội dung môn học.
DHTH hướng tới việc tổ chức các hoạt động học tập, trong đó học sinh
học cách sử dụng phối hợp những kiến thức, những kĩ năng trong các tình huống
gần với cuộc sống và có ý nghĩa. Cụ thể là cần kết hợp một cách hữu cơ có hệ
thống các kiến thức (khái niệm) thuộc các môn học khác nhau thành một nội
dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề
cập trong các môn học đó.
DHTH hướng tới thiết lập mối quan hệ giữa các khái niệm khác nhau của
cùng một môn học cũng như của các môn học khác nhau, hướng tới đào tạo học
sinh có năng lực đáp ứng được thách thức lớn của xã hội ngày nay là có được
khả năng huy động có hiệu quả những kiến thức và năng lực của mình để giải
quyết một cách hữu ích một tình huống xuất hiện, hoặc có thể đối mặt với một
khó khăn bất ngờ, một tình huống chưa từng gặp. Tư tưởng sư phạm đó gắn liền
với việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề, phát triển năng lực sáng tạo của
học sinh trong quá trình dạy học.
1.2. Các mục tiêu của dạy học tích hợp.
DHTH nhấn mạnh các mục tiêu cơ bản sau:
- Làm cho các quá trình học tập có ý nghĩa phong phú hơn bằng cách đặt
quá trình học tập vào các hoàn cảnh (tình huống) để HS nhận thấy ý nghĩa của
Trang 2



các kiến thức, kỹ năng, năng lực cần lĩnh hội. Điều đó có ý nghĩa lớn trong việc
tạo động lực học tập cho HS, điều mà hiện nay nhiều học sinh đã không có được
và do đó việc học tập trở nên nặng nề, thiếu niềm vui và hứng thú. Trong quá
trình học tập như vậy, các kiến thức, kỹ năng, năng lực của HS đều được huy
động và gắn với thực tế cuộc sống.
- Phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng hơn.
Mục tiêu này đòi hỏi phải lựa chọn kiến thức, kỹ năng cốt yếu xem là quan
trọng đối với quá trình học tập của HS và dành thời gian cũng như các giải pháp
hợp lý cho chúng.
- Dạy HS sử dụng kiến thức trong hoàn cảnh cụ thể. Thể hiện ở việc:
+ Nêu bật cách thức sử dụng kiến thức đã học;
+ Tạo các tình huống học tập để HS vận dụng kiến thức một cách
sáng tạo, tự lực.
Theo yêu cầu này thì DHTH không chỉ quan tâm đánh giá việc HS hiểu
những kiến thức đã học, mà còn đánh giá khả năng vận dụng kiến thức trong các
tình huống có ý nghĩa. Hình thành và rèn luyện những kỹ năng đa thành phần
trong cuộc sống và học tập.
1.3. Vì sao phải thực hiện dạy học tích hợp.
Có thể nêu lên một số lý do của việc thực hiện DHTH ở trường phổ thông
như sau:
- DHTH góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện của Nhà trường
phổ thông.
- Vận dụng DHTH là một yêu cầu tất yếu của việc thực hiện nhiệm vụ dạy
học ở nhà trường phổ thông. Như Luật giáo dục (2005) đã nêu: “ Mục tiêu giáo
dục phổ thông là giúp học sinh phát triền toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và
sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng
tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào

cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Việc có nhiều môn
học đã được đưa vào Nhà trường phổ thông hiện nay là sự thể hiện quá trình
thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Các môn học đó phải liên kết với nhau để
cùng thực hiện mục tiêu giáo dục nêu trên.
- Mặt khác, hiện nay các tri thức khoa học và kinh nghiệm xã hội của loài
người phát triển như vũ bão, trong khi quỹ thời gian cũng như kinh phí để HS
ngồi trên ghế nhà trường là có hạn, thì không thể đưa nhiều môn học hơn nữa
vào nhà trường, cho dù những tri thức này là rất cần thiết. Chẳng hạn, ngày nay
người ta nhận thấy cần thiết phải trang bị nhiều kỹ năng sống cho HS (các kiến
thức về an toàn giao thông, về bảo vệ môi trường sống, về năng lượng và sử
dụng năng lượng, về định hướng nghề nghiệp,…) trong khi những tri thức này
không thể tạo thành môn học mới để đưa vào Nhà trường vì lí do phải đảm bảo
khối lượng kiến thức phù hợp với sự phát triển của HS.
- Dù khác nhau về đặc trưng bộ môn, song các môn học trong nhà trường
phổ thông hiện nay đều có chung nhiệm vụ là hiện thực hoá mục tiêu phát triển
toàn diện HS. Có thể nêu những nét chung cơ bản của nhiệm vụ các môn học
được dạy trong nhà trường như sau:
Trang 3


+ Hình thành hệ thống tri thức, kỹ năng theo yêu cầu khoa học bộ môn;
+ Phát triển tư duy, năng lực sáng tạo cho HS phù hợp với đặc trưng môn
học;
+ Giáo dục HS thông qua quá trình dạy học bộ môn (như hình thành thế giới
quan duy vật biện chứng, nhân sinh quan và thái độ, phẩm chất nhân cách của
người lao động mới…).
+ Góp phần giáo dục kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và chuẩn bị cho HS
tham gia lao động sản xuất, giáo dục kỹ năng sống…
Các nhiệm vụ trên chỉ có thể thực hiện được thông qua các môn học. Quá
trình xây dựng chương trình, SGK các môn học đã tích hợp nhiều tri thức để

thực hiện các nhiệm vụ trên, song không thể đầy đủ và phù hợp với tất cả các
đối tượng HS. Vì vây, trong quả trình dạy học, GV phải nghiên cứu để tích hợp
các nội dùng này một cách cụ thể cho từng môn học và phù hợp với từng đối
tượng HS ở các vùng miền khác nhau.
Mặt khác, do cùng chung các nhiệm vụ dạy học nêu trên nên các môn học
cũng có nhiều cơ hội để liên kết với nhau, tạo ra mối quan hệ liên môn.
- Do bản chất của mối liên hệ giữa các tri thức khoa học.
Lý do cần dạy học tích hợp các khoa học trong nhà trường còn xuất phát từ
chính yêu cầu phát triển của các khoa học. Các nhà khoa học cho rằng khoa học
ở thế kỷ XX đã chuyển từ phân tích cấu trúc lên tổng hợp hệ thống làm xuất
hiện các liên ngành (như sinh thái học, tự động hoá…). Vì vậy, xu thế dạy học
trong nhà trường là phải làm sao cho tri thức của HS xác thực và toàn diện. Quá
trình dạy học phải làm sao liên kết, tổng hợp hoá các tri thức, đồng thời thay thế
“ tư duy cơ giới cổ điển” bằng “ tư duy hệ thống”. Theo Xavier Rogiers, nếu nhà
trường chỉ quan tâm dạy cho HS các khái niệm một cách rời rạc, thì nguy cơ sẽ
hình thành ở HS các “Suy luận theo kiểu khép kín”, sẽ hình thành những con
người “ mù chức năng”, nghĩa là những người đã lĩnh hội kiến thức nhưng
không có khả năng sử dụng các kiến thức đó hàng ngày.
- Góp phần giảm tải học tập cho HS.
Từ góc độ giáo dục, DHTH giúp phát triển các năng lực, đặc biệt là trí
tưởng tượng khoa học và năng lực tư duy của HS, vì nó luôn tạo ra các tình
huống để HS vận dụng kiến thức trong các tình huống gần với cuộc sống. Nó
cũng làm giảm sự trùng lặp các nội dung dạy học giữa các môn học, góp phần
giảm tải nội dung học tập. Nhân đây cũng nên nhìn nhận sự giảm tải ở một góc
độ khác, nghĩa là giảm tải không chỉ gắn với việc giảm thiểu kiến thức môn
học, hoặc thêm thời lượng cho việc dạy học một nội dung kiến thức theo quy
định. Phát triển hứng thú học tập cũng có thể được xem như một biện pháp
giảm tải tâm lý học tập có hiệu quả và rất có ý nghĩa. Làm cho HS thấu hiểu ý
nghĩa của các kiến thức cần tiếp thu, bằng cách tích hợp một cách hợp lý và có
ý nghĩa các nội dung gần với cuộc sống vào môn học, từ đó tạo sự xúc cảm

nhận thức cũng sẽ làm cho HS nhẹ nhàng vượt qua các khó khăn nhận thức và
việc học tập khi đó mới trở thành niềm vui và hứng thú của HS.
1.4. Hình thức lồng ghép trong dạy học tích hợp.

Trang 4


Hình thức lồng ghép trong DHTH được thực hiện khi hầu hết các kiến thức
của môn học, hoặc nội dung của một bài học cụ thể cũng chính là các kiến thức
về Điện hoặc Từ.
1.5. Hoạt động của giáo viên trong dạy học tích hợp lồng ghép.
Hoạt động 1: Nghiên cứu chương trình, SGK để xây dựng mục tiêu dạy
học, trong đó có các mục tiêu giải thích được một (hoặc một vài) hiện tượng
Điện hoặc Từ.
Hoạt động 2: Xác định nội dung các hiện tượng cụ thể cần tích hợp. GV
lựa chọn tư liệu và phương án tích hợp, cụ thể phải trả lời các câu hỏi: tích hợp
nội dung nào là hợp lý? Thời lượng là bao nhiêu?
Hoạt động 3: Lựa chọn các phương pháp dạy học và phương tiện phù hợp,
trước hết quan tâm sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, các phương tiện
dạy học có hiệu quả cao để tăng cường tính trực quan và hứng thú học tập của
HS (như sử dụng các thí nghiệm, máy vi tính, máy chiếu…)
Hoạt động 4: Xây dựng tiến trình dạy học cụ thể. Ở đây GV cần nêu cụ
thể các hoạt động của HS, các hoạt động trợ giúp của GV.
Chương 2. XÂY DỰNG VÀ GIẢI THÍCH MỘT SỐ HIỆN TƯỢNG ĐIỆN
VÀ TỪ BẰNG PHƯƠNG PHÁP TÍCH HỢP LỒNG GHÉP TRONG
CHƯƠNG TRÌNH VẬT LÍ LỚP 11 CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN.
2.1. Một số địa chỉ và nội dung tích hợp.

Tên bài học Địa chỉ (tích
hợp vào nội

dung nào
của bài)
Bài 2:
Mục
Thuyết
I.2.Thuyết
electron.
electron.
Định luật
bảo toàn
điện tích.
MụcII.2.Sự
nhiễm điện
do tiếp xúc.

Nội dung
tích hợp
Vì sao
trong
xưởng dệt
vải người ta
phải làm
cho không
khí có độ
ẩm cao?
Vì sao xe
chở xăng
phải thả
xích lòng
thòng

xuống
đường?

Bài 7: Dòng Mục V.1.Pin
điện không điện hóa

Vì sao có
trường hợp

Giải thích

Khi máy dệt hoạt động, do ma sát,
các sợi vải có thể bị nhiễm điện, do
đó các sợi vải có thể bị rối với nhau.
Người ta phải làm cho không khí
trong xưởng có độ ẩm cao để các
điện tích xuất hiện trên các sợi vải
nhanh chóng mất đi.
Cái xích lòng thòng xuống đất của
những xe chở nhiên liệu có tác dụng
bảo hiểm cho xe trong khi chuyển
động.Bụi trong không khí thường
tích điện, nếu bụi bám đầy vào
thùng xăng của xe thì điện tích tập
trung khá lớn có thể sinh ra tia lửu
điện gây nên hỏa hoạn. Nối xích với
thùng xe và thả lòng thòng xuống
mặt đường làm cho điện tích ở
thùng xe truyền xuống đất.
Để cho điên trở trong của pin thật

nhỏ người ta đã làm lớp bột hồ trộn
Trang 5


đổi. Nguồn
điện.

(GIẢM
TẢI).

đánh rơi
pin, một lúc
sau thấy pin
nóng lên và
chẳng bao
lâu pin đã
hết điện?

Bài 8: Điện Muc
-Vì sao dây
năng. Công II.1.Định luật bếp
điện
suất điện
Joule - Lenz. mắc trong
mạch điện
bị nóng đỏ,
trong khi đó
dây
dẫn
không

bị
nóng đỏ?
- Cầu chì có
tác dụng gì?
( Hiện nay
chỉ còn sử
dụng trong
các thiết bị
điện tử)

dung dịch điện phân rất mỏng. Khi
pin bị đánh rơi có thể vỏ kẽm của
nó (cực âm) đã móp lại và chạm vào
cực dương (túi đựng chất khử cực
và thỏi than). Thành thử pin bị đoản
mạch, cường độ dòng điện lớn làm
nóng pin và tiêu hao rất nhanh năng
lượng của pin.
Các dây dẫn và bếp điện được mắc
nối tiếp trong mạch điện nên cường
độ dòng điện qua các dây dẫn là
như nhau. Nhưng điện trở của bếp
điện lớn hơn điện trở của các dây
nối,nhiệt lượng tỏa ra ở bếp điện lớn
hơn; mặt khác, dây điện bị cuốn
xoắn ốc, nhiệt tỏa ra được tập trung
hơn nên dây càng nóng đỏ.
Khi cường độ dòng điện trong dây
dẫn quá lớn thì nhiệt lượng toả ra
rất lớn có thể làm nóng đỏ dây dẫn

gây nên hoả hoạn. Những trường
hợp cường độ dòng điện đột nhiên
lớn thường xảy ra khi dây dẫn bị
chập, lúc đó điện trở quá nhỏ nên
cường độ tăng mạnh theo định luật
ôm (ta gọi là đoản mạch). Để tránh
hoả hoạn và bảo vệ các dụng cụ
dùng điện khỏi bị phá huỷ do dòng
điện quả quá lớn, ta phải làm thế
nào để trong trường hợp này mạch
điện phải bị ngắt ở một chỗ dự kiến
sẵn, chỗ đó chính là cầu chì. Cầu
chì là một đoạn dây chỉ mắc nối tiếp
trong mạch điện. Vì chỉ có điện trở
suất lớn và nhiệt độ nóng chảy thấp,
nên khi có dòng điện qua sức chịu
đựng dây chì sẽ đứt trước.Ở một số
máy móc như đài thu thanh, máy
quay đĩa người ta đã lắp cầu chì tính
toán sẵn cho từng loại máy. Chẳng
hạn cầu chì 125mA hay 200mA
v.v…có nghĩa là nếu dòng điện vượt
quá trị số 125mA hay 200mA thì
cầu chì sẽ đứt để bảo vệ máy. Khi
Trang 6


Bài 14:
Dòng điện
trong chất

điện phân.

Mục II.Bản
chất dòng
điện trong
chất điện
phân.

Vì sao xà
phòng có
thể tẩy sạch
các vết dầu
mỡ
trên
quần áo?

Bài 15:
Dòng điện
trong chất
khí.

Mục V.3.
Ứng dụng.

Vì sao đỉnh
cột thu lôi
được làm
nhọn ?

Bài 19. Từ

trường.

Mục I. Nam
châm.

Một
nam

thanh
kích

thanh
châm
một
sắt có
thước

đứt cầu chì ấy ta phải thay cầu chì
với chỉ số đúng như thế.
Xà phòng là một loại muối của axít
béo. Như ta đã biết, các chất muối
đều là chất điện phân, nghĩa là khi
hoà tan trong nước các phân tử xà
phòng bị phân lì thành các iôn. Xà
phòng thường dùng là natri stêarat
(C17 H35 COONa). Khi tan vào
nước nó bị phân li thành những iôn
stêarat âm ( catiôn). Iôn stêrat có
khả năng “Chui” vào các giọt dầu
bám chặt trên quần áo làm cho

chúng có điện tích âm và có xu
hướng đẩy các giọt dầu khác tạo
thành nhũ tương. Lúc đó ta chỉ cần
vò quần áo là những hạt nhũ tương
này sẽ bị trôi vào nước.
Sét hay đánh vào những chỗ nhô
cao trên mặt đất, cho nên để tránh
sét Franklin đã làm những cột kim
loại nhọn đầu đặt trên nóc những
toà nhà cao để “Thu” lấy sét rồi
truyền xuống đất. Nhưng thật ra cột
thu lôi còn có tác dụng làm cho một
đám mây tích điện khó gây ra sét.
Sỡ dĩ như vậy vì đầu trên của cột
thu lôi được làm nhọn. Khi có một
đám mây phần dưới tích điện âm
chẳng hạn tới gần thì do hưởng ứng,
ở đầu cột thu lôi sẽ tích điện dương.
Nên đầu cột thu lôi nhọn, các điểm
tích dương này sẽ “rò” ra khỏi mũi
nhọn tạo thành một luồng “ gió điện
dương” phóng lên đám mây làm
trung hoà nhưng điện tích âm của
nó. Mây bị mẩt rất nhiều điện tích
nên khó có thể gây ra sét được. Đó
là lý do vì sao phải làm đỉnh cột thu
lôi nhọn.
Đưa thanh nam châm lại gần thanh
sắt, thanh sắt bị hút. Nhưng nếu đưa
thanh sắt lại gần thanh nam châm

thì thanh nam châm cũng bị hút.
Như vậy làm thế nào phân biệt được
Trang 7


giống nhau,
làm thế nào
để phân biệt
được chúng
nếu không
có một vật
thứ ba làm
trung gian?

Bài 21. Từ
trường của
dòng điện
chạy trong
các dây dẫn
có hình
dạng đặc
biệt.

Mục I.Từ
trường của
dòng điện
chạy trong
dây dẫn
thẳng dài.


Làm
thế
nào
xác
định dược
vị trí đường
dây dẫn đặt
ngầm dưới
đất hay dướ
sàn
xi
măng?

thanh nào là nam châm, thanh nào
là sắt?
Ta có thể phân bệt bằng cách sau:
đưa đầu cực của một trong hai thanh
vào chính giữa thanh kia, nếu chúng
hút chặt vào nhau thì thanh đang
cầm là nam châm. Nếu chúng không
hút chặt thì thanh đang cầm là thanh
sắt. Thật vậy, đường sức của thanh
nam châm tập trung ở hai cực. Như
vậy từ trường ở gần hai đầu thanh
nam châm mạnh còn không gian
chung quanh khoảng giữa thanh
nam châm thì từ trường rất yếu. Do
đó, nếu đưa thanh sắt vào khoảng
giữa thanh nam châm thì dường như
không thấy xuất hiện lực hút hoặc

lực hút rất yếu.
Để tìm vị trí đường dây ngầm có thể
dùng một la bàn hay một kim nam
châm đặt trên một trục thẳng đứng.
Ở những vị trí xa dòng điện, kim la
bàn trỏ phương bắc- nam như bình
thường. Khi la bàn đặt đến gần dòng
điện thì kim lệch đi một góc, càng
gần dòng điện góc lệch càng lớn.
Như vậy ở những vị trí mà kim la
bàn lệch một góc lớn nhất thì ở dưới
đó có dây dẫn đặt ngầm. Tất nhiên
khi tiến hành cuộc “Thăm dò” như
vậy ta phải đóng mạch điện để trong
dây dẫn có dòng điện.

2.2 Bài minh chứng: Vận dụng phương pháp DHTH dưới hình thức
lồng ghép vào giáo án - tiết 13 " Bài 8 Điện năng. Công suất điện".
I. MỤC TIÊU
1. Kiến thức
- Nêu được công của dòng điện là số đo điện năng mà đoạn mạch tiêu thụ khi có
dòng điện chạy qua. Chỉ ra được lực nào thực hiện công ấy.
2. Kĩ năng
- Tính được điện năng tiêu thụ và công suất điện của một đoạn mạch theo các
đại lượng liên quan và ngược lại.
- Tính được nhiệt lượng tỏa ra ở một vật dẫn và công suất tỏa nhiệt của vật dẫn
đó.
Trang 8



- Giải thích được hiện tượng: dây bếp điện mắc trong mạch điện bị nóng đỏ,
trong khi đó dây dẫn không bị nóng đỏ.
- Nêu được tác dụng của cầu chì.
II. CHUẨN BỊ
1. Giáo viên: Đọc sách giáo khoa Vật lí lớp 9 để biết học sinh đã học những gì
về công, công suất của dòng điện, Định luật Jounle - Lenz và chuẩn bị các câu
hỏi hướng dẫn học sinh ôn tập.
2. Học sinh: Ôn tập phần này ở lớp 9 THCS và thực hiện các câu hỏi hướng dẫn
mà giáo viên đặt ra.
III. TIẾN TRÌNH DẠY – HỌC
Hoạt động 1 (5 phút): Kiểm tra bài cũ: Nguồn điện là gì? Suất điện động của
nguồn điện?
Hoạt động 2 (10 phút) : Tìm hiểu điện năng tiêu thụ và công suất điện.
Trợ giúp của giáo viên
Hoạt động của học
Nội dung cơ bản
sinh
I. Điện năng tiêu thụ và
công suất điện
Giới thiệu công của Ghi nhận khái niệm.
1. Điện năng tiêu thụ của
lực điện.
Thực hiện C1.
đoạn mạch
Yêu cầu học sinh thực Thực hiện C2.
A = Uq = UIt
hiện C1.
Thực hiện C3.
Điện năng tiêu thụ của
Yêu cầu học sinh thực

một đoạn mạch bằng tích
hiện C2.
của hiệu điện thế giữa hai
Yêu cầu học sinh thực
đầu đoạn mạch với cường
hiện C3.
Ghi nhận khái niệm.
độ dòng điện và thời gian
Thực hiện C4.
dòng điện chạy qua đoạn
mạch đó.
2. Công suất điện
Giới thiệu công suất
Công suất điện của một
điện.
đoạn mạch bằng tích của
Yêu cầu học sinh thực
hiệu điện thế giữa hai đầu
hiện C4.
đoạn mạch và cường độ
dòng điện chạy qua đoạn
mạch đó.
A
= UI
t
Hoạt động 3 (25 phút) : Tìm hiểu công suất toả nhiệt của vật dẫn khi có dòng điện chạy
qua.

P =


Trợ giúp của giáo viên

Giới thiệu định luật.

Hoạt động của học
sinh

Ghi nhận định luật.

Nội dung cơ bản
II. Công suất toả nhiệt
của vật dẫn khi có dòng
điện chạy qua
1. Định luật Joule – Lenz
Nhiệt lượng toả ra ở một
Trang 9


Nội dung tích hợp:
-Yêu cầu học sinh giải Suy nghĩ trả lời.
thích hiện tượng: dây
bếp điện mắc trong
mạch điện bị nóng đỏ,
trong khi đó dây dẫn
không bị nóng đỏ.
- Nêu tác dụng của cầu Suy nghĩ trả lời.
chì?
Giới thiệu công suất toả Ghi nhận khái niệm.
nhiệt của vật dẫn.
Yêu cầu học sinh thực Thực hiện C5.

hiện C5.

vật dẫn tỉ lệ thuận với điện
trở của vật đãn, với bình
phương cường độ dòng
điện và với thời gian dòng
điện chạy qua vật dẫn đó
Q = RI2t

2. Công suất toả nhiệt của
vật dẫn khi có dòng điện
chạy qua
Công suất toả nhiệt ở vật
dẫn khi có dòng điện chạy
qua được xác định bằng
nhiệt lượng toả ra ở vật dẫn
đó trong một đơn vị thời
gian.
P =

Q
= UI2
t

Hoạt động 4 (5 phút) : Củng cố, giao nhiệm vụ về nhà.
Trợ giúp của giáo viên
Hoạt động của học sinh
Cho học sinh tóm tắt những kiến Tóm tắt những kiến thức cơ bản.
thức cơ bản đã học trong bài.
Yêu cầu học sinh về nhà làm các bài Ghi các bài tập về nhà.

tập 5 đến 10 trang 49 sgk và 8.3, 8.5,
8.7 sbt.
CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. Đối tượng thực nghiệm sư phạm
- Tôi chọn 2 lớp 11 thuộc Trường THPT Vĩnh Lộc tôi đang giảng dạy, lớp
11A3 làm thực nghiệm (TN) và lớp 11A7 làm đối chứng (ĐC) cho đề tài này.
- Giảng dạy tiết 13 "Điện năng. Công suất điện"- Vật lí 11 chương trình
chuẩn.
3.2. Về kết quả kiểm tra đánh giá thực nghiệm sư phạm
Tôi chọn hai bài kiểm tra để đánh giá, trong đó một bài kiểm tra 1 tiết
phần Điện và một bài kiểm 15 phút phần Từ. Do số bài kiểm tra là hai nên tôi
tính điểm trung bình mỗi học sinh đạt được theo công thức sau và làm tròn điểm
thành số nguyên.
Trang 10


xi =

Trong đó:

Lớp

x15   2.x1T 
3

x15 là điểm bài kiểm tra 15 phút
x1T là điểm bài kiểm tra 1 tiết
Bảng kết quả thực nghiệm
Số học sinh đạt điểm xi


TN


số
39

0%

0%

ĐC

100
%
34

0

1

3

6

23,1
%
11

100
%


0%

2,94
%

8,82
%

17,6
%

32,4
%

1
0

2
0

3
0
0%

4
1

5
9


2,6%

6
5

7
10

8
7

9
6

10
1

12,8
%
6

25,6
%
4

17,9
%
2


15,4
%
1

2,6%

17.6
%

11,8
%

5,9
%

2,9
%

0%

0

3.3. Phân tích kết quả thực nghiệm
Dựa vào số liệu tính toán ở trên tôi rút ra được những nhận xét sau đây:
- Tỉ lệ học sinh kiểm tra đạt loại trung bình và yếu của lớp TN giảm đáng
kể so với lớp ĐC. Ngược lại số học sinh đạt loại khá, giỏi của lớp TN cao hơn
lớp ĐC.
Như vậy, về mặt vận dụng kiến thức và giải thích các hiện tượng của học
sinh lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng.
- Từ việc phân tích số liệu thực nghiệm tôi đi đến kết luận:

+ Giả thiết nêu trên đã được kiểm chứng là đúng đã kiểm nghiệm
thông qua thực nghiệm..
+ Việc tổ chức dạy học theo tiến trình đề xuất đã đem lại hiệu quả
trong việc nâng cao kiến thức cho học sinh. Nếu được áp dụng phương pháp
DHTH vào trong quá trình dạy học Vật lí ở các trường phổ thông hiện nay chắc
chắn sẽ góp phần phát triển tư duy sáng tạo của học sinh, nhằm nâng cao chất
lượng dạy học trong nhà trường.
Phần III KẾT LUẬN.
Dựa vào kết quả quá trình nghiên cứu, kết quả thực nghiệm sư phạm, đối
chiếu với mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tôi đã đạt được những kết
quả sau:
1. Về mặt lý luận: Đưa ra được phương pháp DHTH dưới hình thức lồng
ghép vào bộ môn Vật lí.
2. Về mặt nghiên cứu ứng dụng: Phương pháp DHTH dưới hình thức lồng
ghép đã có tác dụng tốt trong việc phát triển năng lực tư duy và khả năng giải
thích định tính một số hiện tượng Điện và Từ cho HS.
3. Khả năng ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn
Qua kết quả của đợt thực nghiệm sư phạm tôi đã tiến hành, cho phép rút
ra được kết luận bước đầu về tính khả thi và hiệu quả của việc sử dụng phương
pháp DHTH dưới hình thức lồng ghép để rèn luyện khả năng giải thích một số
Trang 11


hiện tượng Điện và Từ cho HS, để góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Vật
lí.
Trong điều kiện hiện nay việc đưa phương pháp DHTH dưới hình thức
lồng ghép vào dạy học là khả thi và rất cần thiết. Bởi giải thích được các hiện
tượng Điện và Từ gần gũi với cuộc sống sẽ gây được hứng thú cao độ, kích thích
lòng ham hiểu biết, trí tò mò, phát huy tính tích cực, độc lập cuả HS.
Những kết luận này một lần nữa khẳng định việc sử dụng phương pháp

DHTH dưới hình thức lồng ghép vào dạy học nhằm rèn luyện năng lực tư duy,
sáng tạo, khả năng giải thích các hiện tượng Vật lí cho HS là đúng đắn và thiết
thực, phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta hiện nay.
Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, những nội dung, phương pháp
DHTH giải thích các hiện tượng trong đời sống phần Điện và Từ Vật lý 11
chương trình chuẩn mà tôi đưa ra mới chỉ là một phần trong số những nội dung,
những phương pháp mà chúng ta có thể áp dụng để thay đổi phương pháp giảng
dạy theo hướng tích cực nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong
học tập. Trong thời gian tới mong nhận được sự chia sẻ, đóng góp thiết thực của
các nhà quản lý giáo dục, các nhà nghiên cứu về giáo dục, các ý kiến đóng góp
của quý thầy cô đồng nghiệp, nhằm đưa nội dung giải thích các hiện tượng
trong đời sống vào dạy học đạt kết quả cao hơn nữa, từng bước hình thành cho
học sinh thói quen và ý thức tự học, sáng tạo, tự giải thích được các hiện tượng
xảy ra xung quanh mình. Bên cạnh đó trang bị cho các em kiến thức khoa học
về môn học một cách đầy đủ nhất.
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu, quý thầy cô tổ Lý – Tin - CN, đã
giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi thực hiện đề tài này. Cám ơn các em học sinh đã
đóng góp ý kiến xây dựng bài học, để tiết học đạt kết quả tốt nhất.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm của mình viết. Không sao
chép của người khác.
Người viết sáng kiến

Nguyễn Văn Nam

Trang 12




×