Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Đánh giá hiệu quả kinh tế của các cơ sở sản xuất nấm ăn tại huyện văn giang và huyện tiên lữ – hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.11 KB, 90 trang )

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình
của các cá nhân, tập thể để em hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu này.
Trước tiên, em xin trân trọng cảm ơn BGH trường ĐH Nông Nghiệp Hà
Nội, BCN khoa KT & QTKD, Bộ môn Tài chính đã truyền đạt cho em kiến thức cơ
bản và tạo điều kiện giới thiệu em đến địa điểm thực tập.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Ths.Bùi Thị Lâm – Giảng
viên khoa Kế toán & QTKD, cùng với PGS.TS.Trần Hữu Cường phó trưởng
khoa Kế toán & QTKD, TS.Nguyễn Duy Trình – Phó Giám đốc Trung tâm công
nghệ sinh học thực vật, chú Phạm Công Tự Giám đốc Trung tâm nấm Văn
Giang và CN.Đào Văn Việt phó trưởng phòng Marketting Trung tâm nấm Văn
Giang đã dành nhiều thời gian trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình để em có thể
hoàn thành đề tài của mình.
Trong quá trình nghiên cứu vì nhiều lý do chủ quan, khách quan, đề tài
không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Em rất mong nhận được sự thông
cảm và đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2013
Sinh viên

Vũ Thị Ngân

i


MỤC LỤC

3.2.2 Đánh giá chung kết quả, hiệu quả sản xuất nấm ăn.....................................................................................45
3.2.3Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế sản xuất nấm ăn..................................................................53
3.2.4 Một số tồn tại và hạn chế ở 2 huyện Văn Giang và Hưng Yên...................................................................62



ii


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tỷ lệ phần trăm so với chất khô.......Error: Reference source not found
Bảng 2.2: Tổng hợp mẫu điều tra khảo sát thực tế.....Error: Reference source not
found
Bảng 2.3: Ma trận SWOT.................................Error: Reference source not found
Bảng 2.4: Hiệu quả kinh tế...............................Error: Reference source not found
Bảng 3.1: Khí hậu thời tiết tỉnh Hưng Yên qua các tháng năm 2010............Error:
Reference source not found
Bảng 3.2: Diện tích, mật độ dân số năm 2010..Error: Reference source not found
Bảng 3.3: Dân số phân theo giới tính năm 2010.........Error: Reference source not
found
Bảng 3.4: Dân số phân theo khu vực năm 2010.........Error: Reference source not
found
Bảng 3.5: Thông tin chung về chủ hộ sản xuất nấm...Error: Reference source not
found
Bảng 3.6: Quy mô sản xuất nấm hộ nông dân..Error: Reference source not found
Bảng 3.7: Tình hình đầu tư chi phí sản xuất nấm sò, nấm mỡ, nấm rơm tươi tính
trên một tấn nguyên liệu...................................Error: Reference source not found
Bảng 3.8: Tình hình cơ sở vật chất của hộ trồng nấm.Error: Reference source not
found
Bảng 3.9: So sánh năng suất sản xuất nấm ăn của hộ nông dân với trung tâm
nấm Văn Giang.................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.10: So sánh năng suất trung bình với huyện Tiên Lãng...Error: Reference
source not found
Bẳng 3.11: Phân tích kết quả và hiệu quả của các hộ sản xuất nấm ăn.........Error:
Reference source not found

Bảng 3.12: So sánh giá trị sản xuất nấm của hộ nông dân và TT theo chủng loại
sản phẩm...........................................................Error: Reference source not found

iii


Bảng 3.13: So sánh chi phí sản xuất nấm của hộ nông dân và TT theo chủng loại
sản phẩm...........................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.14: So sánh các chỉ tiêu kinh tế của hộ nông dân và TT nấm...........Error:
Reference source not found
Bảng 3.15: Các giống nấm ăn và năng suất trên 1 tấn nguyên liệu...............Error:
Reference source not found
Bảng 3.16: Tổng hợp hoạt động cung cấp dịch vụ đầu vào sản xuất năm 2011....Error:
Reference source not found
Bảng 3.17: Giá tiêu thụ nấm mỡ, nấm rơm, nấm sò...Error: Reference source not
found
Bảng 3.18: Tổng hợp SWOT cơ sở sản xuất nấm ăn..Error: Reference source not
found
Bảng 3.19: Kết hợp điểm mạnh- thách thức, cơ hội- điểm yếu....Error: Reference
source not found
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Các nhân tố ảnh hưởng tới sản xuất nấm ăn....Error: Reference source
not found
Sơ đồ 2.2: Khung phân tích đề tài....................Error: Reference source not found
Sơ đồ 3.1: Kênh tiêu thụ nấm ăn......................Error: Reference source not found

iv


v



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CN, TS
CNSHTV
DVNN
HQKT
HTX
KHCN
LĐ-TB&XH
ngđ
NN-PTNT
PGĐ
TT
XHCN

Chăn nuôi, thủy sản
Công nghệ sinh học thực vật
Dịch vụ nông nghiệp
Hiệu quả kinh tế
Hợp tác xã
Khoa học công nghệ
Lao động thương binh và xã hội
Nghìn đồng
Nông nghiệp phát triển nông thôn
Phó giám đốc
Trung tâm
Xã hội chủ nghĩa


vi


PHẦN 1
MỞ ĐẦU

1.1 Đặt vấn đề
Trong những năm qua, nông nghiệp nông thôn có nhiều tiến bộ trong việc
chuyển dịch cơ cấu sản xuất và phân bố lực lượng lao động. Xuất phát từ giá trị
kinh tế của nấm nên trồng nấm ăn trở thành một nghề của nhiều hộ nông dân. Nghề
này không những tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho nông dân mà còn tận dụng
được sản phẩm phụ từ sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức sản
xuất còn một số tồn tại như: Việt Nam xuất khẩu những nguyên liệu chính cho sản
xuất nấm như rơm rạ, mùn cưa, bông phế loại, thân lõi ngô nghiền và một lượng
lớn lao động phổ thông làm việc cho các nhà máy, trang trại sản xuất nấm tại các
nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan để đổi lại nhập khẩu các sản phẩm nấm
ăn phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Một trong những biểu hiện dẫn tới tồn tại trên là do
các cơ sở sản xuất tổ chức sản xuất còn phân tán, quy mô nhỏ lẻ mang tính chất
tận dụng chưa có quy hoạch đồng bộ để phát huy hết tiềm năng sẵn có đáp ứng
được nhu cầu của thị trường, chưa chuyên môn hóa cao vừa tổ chức sản xuất
nấm nhưng lại đồng thời thu gom, sơ chế và phân phối bán buôn.
Huyện Văn Giang và huyện Tiên Lữ được quan tâm tới việc sản xuất nấm
tạo công ăn việc làm cho người dân nên có nhiều xã phát triển nghề trồng nấm,
nhiều người dân được học nghề trồng nấm làm nâng cao thu nhập và cải thiện chất
lượng cuộc sống cho người nông dân, đóng vai trò quan trọng trong việc xóa đói
giảm nghèo. Tuy nhiên, nhiều hộ trồng nấm còn băn khoăn đến lợi ích kinh tế của
việc trồng nấm nên còn do dự đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Từ vấn đề lý luận
và thực tiễn như trên, tôi xin được chọn đề tài: “Đánh giá hiệu quả kinh tế của
các cơ sở sản xuất nấm ăn tại huyện Văn Giang và huyện Tiên Lữ – Hưng


1


Yên”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng hiệu quả sản xuất một số sản phẩm nấm ăn của các
hộ và các cơ sở sản xuất nấm trên địa bàn Văn Giang và Tiên Lữ - Hưng Yên từ
đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu kinh tế sản xuất một số sản
phẩm nấm ăn đó.

1.2.2 Mục tiêu cụ thể
• Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả sản xuất
một số sản phẩm nấm ăn.
• Đánh giá hiệu quả sản xuất một số sản phẩm nấm ăn sản xuất tại địa bàn
nghiên cứu huyện Văn Giang và huyện Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên.
• Đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất một số
sản phẩm nấm ăn tại huyện Văn Giang và Tiên Lữ - Hưng Yên

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiệu quả kinh tế và các yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh tế sản xuất một số loại nấm ăn (nấm mỡ, nấm sò, nấm
rơm) của các đối tượng được chọn khảo sát là:
- Các hộ gia đình sản xuất nấm ăn
-

Cơ sở sản xuất nấm ăn khác như: Hợp tác xã, trang trại sản xuất, doanh

nghiệp sản xuất nấm ăn.

- Trung tâm nấm Văn Giang

2


Phạm vi nghiên cứu
a) Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình sản xuất một
số loại nấm ăn phổ biến được trồng tại địa bàn nghiên cứu là: nấm sò, nấm mỡ,
nấm rơm.
b) Phạm vi về không gian: Nghiên cứu trên các hộ sản xuất nấm tại huyện
Văn Giang và huyện Tiên Lữ – Hưng Yên và khu vực sản xuất nấm ăn tại trung
tâm nấm Văn Giang.
c) Phạm vi về thời gian
Đề tài tiến hành nghiên cứu tình hình sản xuất qua các năm: 2012-2013
đồng thời đề xuất các giải pháp phát triển đến năm 2015-2020.

1.4 Kết quả nghiên cứu dự kiến
- Điều tra hộ sản xuất nấm ăn trên địa bàn Tiên Lữ và Văn Giang - Hưng
Yên.
- Tình hình sản xuất và hiệu quả kinh tế của các hộ trồng nấm ăn tại địa bàn
nghiên cứu.
- Các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển nghề sản xuất nấm tại địa bàn
cũng như toàn tỉnh.

3


PHẦN 2

TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


2.1 Tổng quan tài liệu
2.1.1 Cơ sở lý luận
2.1.1.1 Một số kiến thức chung về nấm
a) Khái niệm nấm và phân loại
Nấm thuộc loài thực vật bậc thấp, không có diệp lục, chủ yếu sống ký sinh
hay cộng sinh trên xác của thực vật hoặc các chất hữu cơ rữa nát, trong tự nhiên
và môi trường nhân tạo. Căn cứ vào mục đích sử dụng và ý nghĩa kinh tế có thể
chia nấm thành các loại sau đây:
- Các nấm có chứa độc tố (gọi chung là nấm độc). Những loại nấm này
thường mọc tự nhiên. Con người trong quá trình thu hái nếu không phân biệt
được nấm độc, khi ăn phải sẽ gặp nguy hiểm.
- Các loại nấm không chứa độc tố được con người sử dụng làm thức ăn (gọi
tắt là nấm ăn). Những loại nấm này mọc từ tự nhiên đồng thời do nhu cầu con
người ngày càng nhiều, người ta đã nghiên cứu các phương pháp nuôi trồng
nhân tạo để tạo ra sản lượng ngày càng lớn và tránh sự thu hái nhầm lẫn nấm
độc trong tự nhiên. Hiện nay trên thế giới và trong nước các loại nấm này đang
được nuôi trồng, chế biến thành nguồn thực phẩm có giá trị. Các loại nấm ăn
chủ yếu hiện nay là nấm mỡ, nấm sò, nấm rơm, nấm mộc nhĩ, nấm hương…
- Các loại nấm gây hại chủ yếu trong nông lâm nghiệp thường gặp như nấm
gây bệnh xoăn lá ở khoai tây cà chua … Trong sản xuất người ta đã có nhiều
biện pháp phòng trừ các loại nấm gây hại để thu được năng suất cây trồng cao.

4


- Trong y học có nhiều loại nấm dùng làm thuốc chữa bệnh cho người và
gia súc. Một số nấm quý sản xuất ra một số chất kháng sinh penicillin như nấm
lim, nấm ngân nhĩ có nhiều ở miền núi được sử dụng để chế biến các loại thuốc
chống lão hóa.

b) Đặc điểm kỹ thuật của nấm ăn
Trong khuôn khổ nghiên cứu, đề tài tập trung tìm hiểu những đặc tính sinh
học cơ bản của một số loại nấm thông dụng: nấm sò, nấm mỡ, nấm rơm như sau:
Nấm mỡ
Nấm mỡ có tên khoa học là Agaricus bisporus, một số điều kiện sinh trưởng
và phát triển cơ bản: Nhiệt độ thích hợp trong giai đoạn hệ sợi phát triển là 2425°C, giai đoạn nấm mọc cần nhiệt độ từ 15-18°C; độ ẩm trong cơ chất (nguyên
liệu compost) từ 65-70%, độ ẩm không khí>80%; pH của môi trường nuôi trồng
cũng như nước tưới bằng 7,0-8,0 (trung tính hoặc kiềm yếu); ánh sáng không
cần thiết cả giai đoạn nuôi sợi và quả thể; độ thông thoáng vừa phải nồng độ
CO2<0,1%; nấm mỡ không sử dụng xenlulo trực tiếp mà sử dụng thức ăn là bã
“mục thứ cấp” nên ta phải có quá trình xử lí nguyên liệu và phối trộn thêm các
phụ gia (phân hữu cơ, phân vô cơ) để tạo môi trường thích hợp nhất cho nấm
phát triển gọi là compost; thời vụ nuôi trồng nấm mỡ chủ yếu trồng ở các tỉnh
phía Bắc nói chung và vùng trọng điểm đồng bằng sông Hồng nói riêng. Vụ nấm
kéo dài từ 1/10 năm trước tới 30/4 năm sau. Nhưng thời gian ủ rơm rạ chỉ giới
hạn từ 1/10 đến 5/12 dương lịch hàng năm. Tốt nhất là ủ rơm rạ từ 5/10 đến
20/10. Nếu làm sớm hoặc muộn hơn sẽ gặp thời tiết không thuận lợi, dẫn tới
năng suất thấp.
Nấm sò
Nấm sò có tên khoa học là pleurotus.sp có hình phễu lệch mọc thành cụm,
mỗi cánh nấm gồm 3 phần: mũ, phiến, cuống với một số điều kiện sinh trưởng
như sau: nhiệt độ thích hợp với nấm sò thuộc nhóm chịu lạnh từ 13-20°C và
nhóm chịu nhiệt độ cao từ 24-28°C; độ ẩm cơ chất trồng nấm từ 60-65%, độ ẩm

5


không khí>80%, pH= 6,5-7,0; ánh sáng không cần thiết trong thời kì nuôi sợi,
khi nấm hình quả thể cần ánh sáng khuếch tán; độ thông thoáng cần thiết trong
giai đoạn nuôi sợi khi nấm lên, nồng độ CO 2<0,03%; sợi nấm sò sử dụng trực

tiếp nguồn xenlulozo của cơ chất, có thể bổ sung thêm các chất phụ gia giàu chất
đạm, khoáng trong giai đoạn xử lý nguyên liệu; thời vụ sản xuất nấm sò có thể
trồng quanh năm nhưng thuận lợi nhất từ tháng 9 năm trước tới tháng 4 năm sau.
Nấm rơm
Nấm rơm có tên khoa học là Volvariella volvacea, nấm rơm có hơn 100
loài và chi khác nhau về màu sắc có loại màu xám, trắng, xám đen,… kích
thước, đường kính “cây nấm” lớn nhỏ tùy thuộc từng loại. Cấu tạo hình thái cây
nấm gồm 3 phần: bao gốc, cuống nấm và mũ nấm. Chu kỳ sinh trưởng và phát
triển của nấm rơm rất nhanh chóng. Từ lúc trồng đến lúc thu hoạch chỉ sau 12
-14 ngày. Những ngày đầu sau khi cấy giống 7 - 8 ngày sợi nấm hình thành hạt
nhỏ như hạt tấm có màu trắng, 2 - 3 ngày sau lớn rất nhanh bằng hạt ngô, quả
táo, quả trứng lúc trưởng thành trông giống như chiếc ô dù, có cấu tạo thành các
phần hoàn chỉnh; nấm rơm phát triển tốt nhất trong điều kiện nhiệt độ không khí
từ 30 -32°C, độ ẩm nguyên liệu (cơ chất) 70-75%, độ ẩm không khí 80%, pH
của cơ chất =7,0 - 7,5, nấm rơm ưa thoáng khí và nhiệt độ chênh lệch không quá
10°C giữa ngày và đêm; thời vụ trồng nấm rơm ở miền Bắc chủ yếu từ 15/4 15/9 hàng năm.
c) Vai trò của nấm ăn đối với đời sống con người
- Về mặt dinh dưỡng
Nấm ăn là loại thực vật có giá trị dinh dưỡng cao, chứa nhiều đạm, ít mỡ, ít
calo, ngoài ra nó còn có các chất có ích cho cơ thể con người như đa đường,
khoáng và sinh tố. Theo phân tích của các nhà khoa học trong 112 loài nấm có
hàm lượng bình quân: Protein 25%; lipid 8%; gluxit 60%. Ngoài ra giá trị dinh
dưỡng nấm còn có nhiều đặc tính biệt dược, có khả năng phòng và chữa bệnh
như: hạ huyết áp, chống béo phì, chữa bệnh đường ruột, tẩy máu xấu… nhiều

6


công trình nghiên cứu về y học xem nấm như một loại thuốc có khả năng phòng
và chống bệnh ung thư.[1]

Bảng 2.1: Tỷ lệ phần trăm so với chất khô
Độ ẩm

Protein

Lipit

Hydracacbon

Tro

Calo

Trứng gà

74

13

11

1

0

156

Nấm mỡ

89


24

8

60

8

381

Nấm sò

91

30

2

58

9

345

Nấm rơm

90

21


10

59

11

369

Nguồn:Zani Ferdirico,2001
- Về mặt kinh tế
Việc sản xuất nấm đã tăng thêm việc làm, tận dụng sản phẩm phụ từ nông
nghiệp, tiết kiệm được diện tích gieo trồng.
Với diện tích nhỏ vẫn có thể cho năng suất cao nhất. Vốn đầu tư thấp, quay
vòng nhanh. Chu kỳ nuôi trồng nấm ngắn, nấm sò, nấm mỡ 2 - 2,5 tháng. Do đó
khi gặp thiên tai hoặc biến động thị trường vẫn kịp dừng sản xuất hoặc chuyển
hướng canh tác, điều này lại không hề đơn giản ở các loại cây trồng khác.
Nguyên liệu sử dụng trồng nấm chủ yếu là các sản phẩm phụ trong nông
lâm nghiệp, thường thì có nhiều ở các địa phương. Phát triển trồng nấm vừa giải
quyết vấn đề về môi trường, đồng thời tạo nên sản phẩm mới và bã nấm còn có
thể sử dụng làm phân bón.
2.1.1.2 Khái niệm và phân loại hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là những chỉ tiêu đánh giá kết quả của quá trình sử dụng
các nguồn lực tự nhiên và con người trong sản xuất kinh doanh của bất kỳ một
loại hình sản xuất nào. Trong nền kinh tế thị trường, người sản xuất hàng hóa
luôn luôn quan tâm làm gì? Làm như thế nào để sản phẩm hàng hóa làm ra có
giá thành hạ, lợi nhuận thu về tối đa, chiếm lĩnh thị trường một cách nhanh
chóng nhất.
- Các quan điểm về hiệu quả kinh tế


7


Mục đích của sản xuất và phát triển kinh tế là thỏa mãn nhu cầu ngày càng
tăng về vật chất và tinh thần của toàn xã hội, trong khi nguồn lực sản xuất xã hội
có hạn và ngày càng khan hiếm. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả sản xuất là một
đòi hỏi khách quan với mọi nền sản xuất xã hội. Từ các giác độ nghiên cứu khác
nhau, các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế.
Quan điểm thứ nhất: Trước đây, người ta coi hiệu quả kinh tế là kết quả đạt
được trong hoạt động kinh tế là doanh thu trong tiêu thụ hàng hóa. Ngày nay,
các quan điểm này không còn phù hợp. Kết quả sản xuất có thể tăng lên do chi
phí tăng, mở rộng nguồn lực sản xuất. Nếu cùng một kết quả sản xuất mà có 2
mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này chúng có cùng hiệu quả.
Quan điểm thứ hai: Hiệu quả được xác định bằng nhịp độ tăng tổng sản phẩm
xã hội thu nhập quốc dân, hiệu quả sẽ cao khi nhịp độ tăng các chỉ tiêu đó cao.
Quan điểm thứ ba: Hiệu quả kinh tế là mức độ thỏa mãn yêu cầu của quy
luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội, cho rằng quỹ tiêu dùng với tính cách là
chỉ tiêu đại diện cho mức sống nhân dân, là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của nền
sản xuất xã hội, quan điểm này có ưu điểm là bám sát mục tiêu của nền sản xuất
XHCN là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Song khó khăn ở đây là phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó.
Quan điểm thứ tư: Hiệu quả kinh tế là mức độ hữu ích của sản phẩm được
sản xuất ra, tức là giá trị sử dụng của nó chứ không phải giá trị.
Quan điểm thứ năm: Hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu so sánh biểu hiện
mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng khối
lượng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong cùng một thời kỳ,
góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội, của nền kinh tế quốc dân. Ưu điểm của
quan điểm này là đã gắn kết quả với chi phí, coi hiệu quả là sự phản ánh trình độ sử
dụng chi phí. Nhược điểm của quan điểm này là chưa rõ ràng và thiếu tính khả thi ở
phương tiện ấn định và tính toán.


8


Từ những quan điểm trên cho thấy, quá trình sản xuất là sự liên hệ mật
thiết giữa các yếu tố nguồn lực đầu vào và lượng sản phảm đầu ra, kết quả của
mối quan hệ này thể hiện tính hiệu quả của sản xuất. Như vậy, HQKT ở trong
phương thức sản xuất khác nhau, ở các nền sản xuất khác nhau thì khác nhau,
tùy từng trường hợp cụ thể mà lựa chọn các chỉ tiêu phản ánh cho phù hợp.
Phân loại hiệu quả kinh tế
Căn cứ vào phạm vi và đối tượng các hoạt động kinh tế, có thể phân
HQKT như sau:
- Hiệu quả kinh tế quốc dân: là HQKT tính chung trên phạm vi quy mô
toàn bộ nền kinh tế.
- Hiệu quả kinh tế ngành: là HQKT xác định đối với trong ngành sản
xuất vật chất như: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nông thôn, nông nghiệp,
thương mại, dịch vụ....
- Hiệu quả kinh tế theo vùng, lãnh thổ là HQKT được tính toán, xem xét
và phân tích theo vùng, từng địa phương riêng biệt....
- Hiệu quả kinh tế theo đơn vị sản xuất được tính toán cho các doanh nghiệp,
công ty, trang trại, hộ nông dân thuộc các thành phần kinh tế.
Căn cứ vào yếu tố cơ bản của sản xuất, hiệu quả theo yếu tố sản xuất kinh
doanh bao gồm:
- Hiệu quả sử dụng vốn
- Hiệu quả sử dụng lao động
- Hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị
- Hiệu quả sử dụng đất đai
- Hiệu quả ứng dụng khoa học công nghệ, quản lý tiến bộ vào sản xuất
kinh doanh.
Ngoài ra, tùy theo mục đích phân tích và đặc điểm của từng quá trình sản

xuất mà HQKT có thể được xem trong khoảng thời gian ngắn, dài khác nhau.
Ví dụ: theo mùa vụ sản xuất, theo chu kỳ sản xuất, theo quý, theo năm...

9


Ý nghĩa việc nâng cao hiệu quả kinh tế
Khi xã hội càng phát triển, công nghệ ngày càng cao, việc nâng cao hiệu
quả sẽ gặp nhiều thuận lợi. Nâng cao hiệu quả sẽ làm cả xã hội có lợi hơn, lợi ích của
người sản xuất và người tiêu dùng ngày càng được tăng lên. Nâng cao hiệu quả kinh
tế là động lực làm tăng lợi nhuận, tích lũy vốn để tiếp tục đầu tư tái sản xuất mở
rộng. Nâng cao hiệu quả kinh tế là việc làm tất yếu, cần thiết, quan trọng của sự
phát triển nền sản xuất xã hội.
Có thể nói, nhiệm vụ trung tâm của công tác quản lý kinh tế là sử dụng
một cách có lợi nhất, phân phối hợp lý nhất các nguồn lực lao động và tài
nguyên. Đối với sản xuất nông lâm nghiệp điều này lại càng quan trọng, bởi vì
nguồn lực có hạn, vì vậy muốn nâng cao HQKT thì phải tiết kiệm nguồn lực.
Song việc nâng cao HQKT phải đặt trong mối quan hệ phát triển bền vững, phải
gắn việc nâng cao HQKT với hiệu quả xã hội, môi trường sinh thái trước mắt và
lâu dài.
2.1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất nấm
Sản xuất nấm ăn chủ yếu tập trung các hộ gia đình, trang trại và hợp tác
xã. Ngoài ra, có một số doanh nghiệp bước đầu tham gia sản xuất nấm theo quy
mô công nghiệp. Việc phát triển sản xuất nấm ăn phụ thuộc vào một số nguồn
lực cơ bản như: con người, cơ sở hạ tầng nhà xưởng, khả năng về vốn, trang
thiết bị, công nghệ, năng lực tổ chức sản xuất. Sản phẩm nấm ăn có thể cạnh
tranh được với các nước trong khu vực sẽ phụ thuộc và khả năng, chất lượng và
trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, đất đai, vốn sản xuất, tổ chức quá
trình sản xuất). Do đó, các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất nấm được
biểu hiện qua sơ đồ 2.1:


10


Sơ đồ 2.1: Các nhân tố ảnh hưởng tới sản xuất nấm ăn
Thị
trường
tiêu thụ
nấm

Tự
nhiên,
thời tiết,
khí hậu

Vấn đề
về chế
biến

Vấn đề
về môi
trường

Nhân
tố khác

Các nhân tố ảnh hưởng tới sản xuất nấm ăn

Sản
xuất và

cung
ứng
giống
nấm

Nguyên
liệu sản
xuất
nấm

Địa
điểm
sản
xuất
nấm

Vốn
sản
xuất

Công tác
khuyến
nông và
trình độ
của nông
dân

Nguồn:Trang 67[6]
- Sản xuất và cung ứng giống nấm: Tổ chức sản xuất là các phương pháp,
các kỹ thuật kết hợp các yếu tố của quá trình sản xuất một cách hiệu quả. Tổ

chức sản xuất nấm ăn bao gồm các công đoạn như chọn tạo giống, trồng, chăm
sóc, thu hái và thu gom sơ chế sản phẩm nấm ăn. Việc áp dụng nghiêm ngặt quy
trình sản xuất trong tất cả các khâu là yếu tố nền tảng quan trọng để đảm bảo
hiệu quả bền vững và chất lượng sản phẩm. Sản xuất nấm ăn được sản xuất theo
mô hình nào đi chăng nữa (nông hộ, trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp) nhưng

11


nếu tổ chức sản xuất và quy trình sản xuất không tốt thì hiệu quả và chất lượng
nấm ăn sẽ không đảm bảo.
- Nguyên liệu sản xuất nấm: Gồm giống nấm được coi là yếu tố quan trọng
quyết định năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất nấm ăn. Việc sử dụng các
chủng loại giống nấm trong cơ cấu mùa vụ sẽ phát huy được thế mạnh của từng
chủng loại giống nấm, đảm bảo cho sản xuất có năng suất và chất lượng nấm tối
ưu nhất. Kỹ thuật xử lý nguyên liệu đầu vào, công thức phối trộn phụ gia làm
giá thể, chăm sóc thu hái và bảo quản nấm ăn. Trong đó kỹ thuật xử lý nguyên
liệu và công thức phối trộn phụ gia làm giá thể là những nhân tố lớn ảnh hưởng
tới giá thành và chất lượng sản phẩm nấm ăn.
- Địa điểm sản xuất nấm: Là nguồn lực quan trọng, là tư liệu sản xuất
không thể thiếu của các cơ sở sản xuất nấm ăn. Địa điểm sản xuất ảnh hưởng tới
mở rộng quy mô của các cơ sở và ảnh hưởng đến việc trang bị máy móc, ứng
dụng khoa học công nghệ, liên kết trong sản xuất, tiêu thụ và tiếp cận thông tin
kiến thức.
- Công tác khuyến nông và trình độ của nông dân: (bao gồm số lượng, kỹ
năng và khả năng tiếp cận thông tin của người lao động) có vai trò quyết định
khả năng tiếp cận và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nấm ăn. Kiến thức
về khoa học, công nghệ và thị trường được coi là các yếu tố đầu vào chuyên
biệt, cung cấp nền tảng lâu dài và quyết định cho việc phát triển bền vững cho
ngành hàng sản xuất nấm.

- Vấn đề về chế biến: Sơ chế nấm ăn phục vụ cho bảo quản làm nguyên liệu
cho các nhà máy chế biến ở Việt Nam bằng hai phương pháp nấm sấy khô và
nấm muối.
- Thị trường tiêu thụ nấm: Để sản xuất nấm được nhiều và thuận lợi
thì khâu tiêu thụ phải đảm bảo là lượng sản xuất ra đủ nhu cầu của thị
trường, cơ cấu sản phẩm phải thích hợp với nhu cầu của thị trường, chất
lượng sản phẩm đảm bảo, giá sản phẩm hạ. Trong đó quan trọng nhất là chất

12


lượng sản phẩm và giá cả sản phẩm. Để có được điều này, người nghiên cứu
phải tiến hành nghiên cứu quá trình sản xuất, trồng những loại nấm có giá trị
cao chất lượng tốt, nghiên cứu quá trình sản xuất để tối thiểu hóa chi phí sản
xuất sản phẩm. Hiện nay trong công tác nghiên cứu nhu cầu của thị trường của
các hộ nông dân còn gặp khó khăn do thiếu trình độ, khả năng nắm bắt thông
tin còn hạn chế. Do đó các cơ quan chức năng, quản lý nhà nước cần vào cuộc
để hỗ trợ nông dân nắm bắt, cập nhật chính xác nhu cầu của thị trường để có kế
hoạch sản xuất nấm cụ thể hạn chế tồn đọng sản phẩm. Thị trường tiêu thụ
nấm chịu ảnh hưởng các quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung
cầu như các thị trường khác. Nó là sự kết hợp chặt chẽ giữa hai khâu sản
xuất và tiêu thụ. Nếu thị trường tiêu thụ chấp nhận thì quy mô sản xuất sẽ
được duy trì và mở rộng phát triển mở rộng.
-Vốn sản xuất: Quy mô, cơ cấu vốn đầu tư cho sản xuất nấm ăn và phương
pháp đầu tư là yếu tố đầu vào cơ bản và cần thiết để phát triển các cơ sở sản xuất
phát huy hết tiềm năng và lợi thế của vùng.
-Khí hậu và thời tiết: Trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất
nấm nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên. Mà nấm là thực vật rất
nhạy cảm với nhiệt độ và độ ẩm.
- Nhân tố khác

Giá cả sản phẩm: Để quá trình sản xuất tiêu thụ nấm được thuận
lợi thì ngoài việc đòi hỏi chất lượng sản phẩm ngày càng cao thì giá cả
đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó là thước đo cho sự lựa chọn hàng
hóa thay thế đối với người tiêu dùng. Do đó người sản xuất phải
nghiên cứu để tối thiểu hóa chi phí nhằm giảm giá thành sản phẩm.
Hành vi của người tiêu dùng: Khi thu nhập của người tiêu dùng cao, họ có
nhu cầu tiêu dùng những sản phẩm có chất lượng cao, đảm bảo sức khỏe con
người. Tuy nhiên không phải điều đó lúc nào cũng đúng vì nó bị chi phối bởi
thói quen tiêu dùng nấm của từng người.

13


2.1.2 Cơ sở thực tiễn
2.1.2.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ nấm tại Việt Nam
a)

Chủng loại, năng suất, sản lượng
Việt Nam nuôi trồng khoảng 16 loại nấm: ở miền Nam chủ yếu là nấm

rơm, nấm mộc nhĩ; ở phía Bắc là nấm sò, nấm hương, nấm mỡ, nấm linh chi…
Năng suất, sản lượng một số loại nấm chủ lực:
-Nấm rơm: năng suất từ 12-15% nấm tươi/tấn nguyên liệu khô. Sản lượng
năm 2008 đạt khoảng 64.500 tấn nấm tươi.
-Nấm sò: năng suất đạt 50-60% nấm tươi/tấn nguyên liệu khô. Sản lượng
đạt khoảng 60.000 tấn.
-Nấm mỡ: năng suất đạt 3-4% nấm khô/tấn nguyên liệu khô. Sản lượng
khoảng 300 tấn nấm khô.
Sản lượng nấm cả nước: Hàng năm đạt khoảng 250.000 tấn nấm tươi, kim
ngạch xuất khẩu khoảng 25-30 triệu USD/năm

Sản lượng của một số loại nấm chủ lực:
-Nấm rơm: 64.500 tấn, nấm sò: 60.000 tấn, nấm mỡ: 5.000 tấn
Các loại nấm được sản xuất ở các vùng chính như sau:
-Nấm rơm trồng tập trung ở các tỉnh miền Tây và Đông Nam Bộ chiếm
90% sản lượng nấm rơm cả nước.
-Nấm mỡ, nấm sò chủ yếu trồng các tỉnh miền Bắc (TP.Hà Nội, Hải
Phòng, Ninh Bình, Hưng Yên, Vĩnh Phúc) sản lượng mỗi năm đạt khoảng
30.000 tấn.[3]
b) Thị trường tiêu thụ nấm trong nước và xuất khẩu
Thị trường trong nước: Tiêu thụ nấm tươi và nấm khô là chủ yếu. Thị
trường đang tăng trưởng nhanh. Giá bán nấm tươi ở các tỉnh, thành phố lớn như:
Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh cao gấp 1,5-2 lần giá thành sản xuất (giá bán
lẻ: nấm mỡ 40.000đ/kg, nấm sò 30.000đ/kg, nấm rơm 40.000đ/kg). Riêng thành
phố Hà Nội trung bình mỗi ngày tiêu thụ khoảng 60 tấn nấm tươi các loại…

14


Trong năm 2009, Việt Nam đã xuất khẩu sang 31 thị trường: Hoa Kỳ đạt
7,7 triệu USD tăng 29,7% so với năm 2008. Giá trung bình nấm rơm muối xuất
khẩu từ mức 1299 USD/ tấn.
c) Tình hình sản xuất nấm của một số tỉnh, thành phố
-Ninh Bình: Năm 2010 có khoảng 2.600 hộ, trong đó có khoảng 500 hộ có
lán trại trồng nấm từ 100m2 trở lên, sản lượng nấm tươi khoảng 5.000 tấn.
Huyện Yên Khánh là huyện điển hình, hầu hết các xã đều trồng nấm trong đó
nổi bật là Khánh Trung, Khánh Cư, Khánh Hồng.
-Nam Định: Năm 2010 có 94 xã, thị trấn phát triển nghề trồng nấm, chủ
yếu tại các huyện Nghĩa Hưng, Xuân Trường, Giao Thủy , Ý Yên, Hải Hậu; quy
mô sản xuất tại nhiều trang trại được mở rộng từ 1,5-3 lần so với ban đầu. Sản
lượng nấm đạt khoảng 2500-3000 tấn, trong đó có khoảng 20 tấn nấm khô, giá

trị sản lượng đạt trên 33 tỷ đồng.
-Hải Phòng: Có 40 xã trồng nấm (Tiên Lãng 22 xã, Vĩnh Bảo18 xã), mỗi xã
có từ 10-30 hộ trồng nấm; từ năm 2006 đến nay mỗi năm sử dụng 3.300 tấn rơm rạ
trồng nấm các loại đạt sản lượng gần 1.000 tấn nấm, doanh thu trên 17 tỷ đồng.
-Thái Nguyên: Năm 2010, có 120 hộ gia đình, 5 hợp tác xã và 6 doanh
nghiệp, tổng quy mô diện tích nhà xưởng trồng nấm trên 70.000m2
-Bắc Giang: Có chương trình nấm của tỉnh tại xã Tiên Lục, Tân Dĩnh, Nghĩa
Hưng, xã Hoàng Thành, Hoàng Lương, mỗi huyện có từ 20-40 hộ trồng nấm.
-Vĩnh Phúc có 2 hợp tác xã Thanh Lãng 30 hộ và Thanh Trù 16 hộ tham
gia.[3]
d) Khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ nấm ở Việt Nam
Khó khăn
Nghề trồng nấm ăn còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết khí hậu.
Sản lượng chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của đất nước, chưa đáp ứng
được nhu cầu của thị trường, đóng góp cho xuất khẩu chưa cao.

15


Giá thành sản phẩm cao, đôi khi chất lượng sản phẩm chưa cao, chưa đáp
ứng được nhu cầu của thị trường.
Việc bố trí các chủng loại nấm ăn chưa phân vùng rõ rệt, sản xuất còn nhỏ
lẻ nên rất khó tập trung cho sản xuất thành vùng chuyên môn hóa để tập trung
giống và giảm chi phí thu mua tiêu thụ.
Cơ sở phục vụ nuôi trồng nấm còn thiếu, hệ thống máy móc phục vụ sản xuất
chế biến còn thiếu nhiều. Và trình độ người lao động chưa cao.
Thị trường chưa có sự ổn định rõ ràng, nên tình trạng người sản xuất bị tư
thương ép giá còn xảy ra nhiều, gây tổn hại cho người trồng nấm.
Mặt khác khó khăn hiện nay người nông dân chưa gắn kết được sản xuất
với khâu tiêu thụ, nên khi có hợp đồng lớn thì bà con nông dân chưa đáp ứng kịp

số lượng.
Thuận lợi
Nước ta có tiềm năng lớn về sản xuất nấm ăn và nấm dược liệu do có
nguồn nguyên liệu trồng nấm phong phú, nguồn lao động nông thôn dồi dào,
điều kiện thời tiết thuận lợi cho phát triển nhiều chủng loại nấm và có thể trồng
nấm quanh năm. Chúng ta đã cơ bản làm chủ được công nghệ nhân giống và sản
xuất nấm đối với các loại nấm chủ lực, thị trường tiêu thụ nấm ngày càng rộng
mở. Chính vì vậy, ngày 16/4/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định 439, đưa nấm ăn vào Danh mục sản phẩm quốc gia được ưu tiên đầu tư
phát triển.
Nước ta chuyển sang cơ chế thị trường với quan hệ cung cầu, sản xuất
nấm đã có những bước tăng trưởng cả về số lượng lẫn chất lượng. Tổng sản
lượng nấm các loại đạt tới 250.000 tấn/năm. Ngoài sản phẩm tiêu thụ nội địa,
sản phẩm xuất khẩu đạt gần 90 triệu USD/năm. Bước đầu đã có sự gắn liền với
nghiên cứu và sản xuất nấm. Nhiều cơ sở nghiên cứu, cơ sở ứng dụng tiến bộ
KHCN, Công ty,... là nơi sản xuất và cung cấp giống nấm, chuyển giao, hướng
dẫn công nghệ và trực tiếp thu mua, tiêu thụ sản phẩm. Các cơ sở này kết hợp

16


với hàng ngàn công ty, doanh nghiệp trên toàn quốc đã tạo ra một lượng lớn nấm
hàng hóa cho thị trường. Tại Hưng Yên số hộ sản xuất nấm theo các mô hình
còn nhỏ hẹp. Theo các báo cáo trong Hội thảo về: “Giải pháp phát triển nghề sản
xuất, chế biến nấm ăn – nấm dược liệu tại Đồng Nai” cho thấy: Các trang trại,
cơ sở ở miền Bắc tổ chức sản xuất nấm mỡ (mùa đông); nấm rơm (mùa hè); mộc
nhĩ đạt sản lượng hàng trăm ngàn tấn. Những cơ sở nổi bật như: HTX nấm Hùng
Sơn (Đại Từ - Thái Nguyên) đạt sản lượng 8000 tấn nấm/năm. Công ty TNHH
xuất nhập khẩu KINOKO Thanh Cao sản xuất 1,5 triệu bịch nấm/năm thu hoạch
700 tấn nấm sò tươi, 5000 tấn nấm mộc nhĩ tươi (khoảng 60 tấn mộc nhĩ khô),

Công ty mây tre xuất khẩu Phú Minh – Hưng Yên sản xuất 25 vạn bịch nấm thu
200 tấn mộc nhĩ tươi,... Một số huyện có phong trào trồng nấm và đưa cây nấm
vào cơ cấu cây trồng nông nghiệp như huyện Tiên lãng, Vĩnh bảo (Hải Phòng)
từ năm 2006 đến nay mỗi năm sử dụng 2.000 tấn rơm rạ trồng nấm các loại đạt
sản lượng 350 tấn nấm. Doanh thu 4.489 triệu đồng. Các tỉnh phía Nam phát
triển theo nhiều quy mô khác nhau từ: quy mô hộ gia đình sử dụng 1-5 tấn
nguyên liệu/năm; quy mô gia trại, trạng trại sử dụng 30- 50 tấn nguyên liệu/năm
đến quy mô Công ty, Doanh nghiệp, HTX chuyên trồng nấm sử dụng vài trăm
tới hàng ngàn tấn rơm rạ, mùn cưa, bông phế liệu,... Lực lượng lao động chủ yếu
thuê nhân công tại chỗ theo thời vụ, đầu tư trang thiết bị chủ yếu được sản xuất
trong nước.
Kết quả sản xuất nấm bước đầu đã đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho
người sản xuất trực tiếp, tạo ra hàng hóa sản phẩm nấm cho xã hội và sử dụng có
hiệu quả nguồn phế phụ liệu của sản xuất nông, lâm nghiệp, giảm thiểu ô nhiễm
môi trường.
2.1.2.2 Lược sử các vấn đề liên quan
- “Phân tích hiệu quả kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ nấm rơm ở huyện
Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng”. Đề tài đã góp phần hệ thống hóa cơ sở lí luận
về hiệu quả kinh tế nói chung và đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất và tiêu thụ
nấm rơm nói riêng đồng thời đưa ra giải pháp phù hợp với địa bàn nghiên cứu.
Đề tài tập trung vào hiệu quả kinh tế sản xuất và tiêu thụ tới các hộ nông dân

17


nên các giải pháp có ý nghĩa lớn đối với hộ dân trồng nấm là cơ sở kế thừa các
giải pháp đẩy mạnh hiệu quả sản xuất nấm rơm.
- “Nghiên cứu các hình thức liên kết sản xuất và tiêu thụ nấm ăn ở tỉnh Bắc
Giang” (luận văn thạc sĩ) ngày 10/11/2012. Trong ngành sản xuất nấm ăn thì sản
xuất nấm Rơm, nấm Sò, nấm Mỡ, Mộc Nhĩ là loại nấm đang được sản xuất chủ

yếu tại các địa phương, nấm sinh trưởng nhanh, nguyên liệu sản xuất rẻ tiền, dễ
kiếm, dễ sử dụng, kỹ thuật sản xuất và chế biến không phức tạp, nhà xưởng sản
xuất đơn giản, không đòi hỏi vốn đầu tư cao. Đây là một mặt hàng đang được
người tiêu dùng tin dùng do có hàm lượng dinh dưỡng cao, là sản phẩm sạch, là
loại rau cao cấp. Ngày nay có rất nhiều loại nấm khác có giá tri dinh dưỡng, giá
trị kinh tế cao như nấm Linh Chi, nấm Đùi Gà, nấm Trân Trâu. Ngoài ra việc sản
xuất nấm còn mang lại hiệu quả kinh tế cao giúp nông dân xoá đói giảm nghèo,
làm giàu cho bà con nông dân, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động,
các sản phẩm phụ của ngành sản xuất nấm còn làm phân vi sinh bón cho cây
trồng rất hiệu quả (nguyên liệu làm nấm Linh Chi, nấm Mỡ, nấm Rơm) và còn
tận dụng được các sản phẩm phụ như bông phế liệu, rơm rạ, mùn cưa, cỏ, bã mía
làm nguyên liệu cho sản xuất nấm, góp phần bảo vệ môi trường, hạn chế ô
nhiễm môi trường. Không những thế, ngành sản xuất nấm còn mang lại hiệu quả
kinh tế cao cho người trồng nấm, làm tăng thu nhập quốc dân (GDP) cho quốc
gia, và còn kéo theo các ngành khác phát triển mạnh như chế biến, công nghiệp.
Chính vì thế mà việc nuôi trồng và phát triển nấm ăn đang được Đảng và Nhà
nước quan tâm chú trọng.
- “Lo đầu ra, đừng học nghề trồng nấm” ngày 21/02/2012 Thứ trưởng Bộ
NN- PTNT Nguyễn Thị Xuân Thu đã có chuyến thăm, làm việc với Trung tâm
Nấm Văn Giang – Hưng Yên (Viện di truyền nông nghiệp) để bàn hướng phát
triển, nhân rộng nghề trồng nấm khi loại cây trồng này được đưa vào danh mục
sản phẩm quốc gia. Hầu hết, những người học nghề trồng nấm đều lo lắng nhất
là đầu ra cho sản phẩm. Với việc ký cam kết bao tiêu sản phẩm và hỗ trợ chỗ trợ
cho học viên trong quá trình học tập, Trung tâm CNSHTV đã đánh trúng tâm lý của
người dân nên chỉ trong thời gian ngắn, đơn vị này đã đào tạo thành công cho hàng

18


nghìn học viên nghề trồng nấm. Vì vậy việc đánh giá hiệu quả kinh tế cho các hộ sản

xuất nấm mà trung tâm nấm đã đào tạo là hết sức quan trọng.
- “Đưa nghề trồng nấm về ngoại thành” ngày 08/10/2012. Nắm bắt được
nhu cầu khát việc làm tại xã ngoại thành của Thủ đô, từ đầu năm 2012, Trung
tâm Công nghệ sinh học thực vật (Viện Di truyền nông nghiệp) phối hợp với Sở
LĐ-TB&XH Hà Nội mở các lớp dạy nghề trồng nấm, mục tiêu mang đến cho
người dân ven đô một nghề mới có thu nhập ổn định. Qua khảo sát, tham quan
các xã mở lớp dạy nghề trồng nấm ở ngoại thành Hà Nội, nhận thấy hiệu quả từ
chủ trương là không thể phủ nhận, song có một thực tế cả phía Trung tâm CNSH
thực vật và Sở LĐ-TB&XH đều thừa nhận, đó là quy mô sản xuất nấm của học
viên sau đào tạo phần lớn chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ. Nguyên nhân dẫn tới tình
trạng này, do tâm lý của bà con sợ làm ra nhiều không có đầu ra... Theo PGĐ
Trung tâm CNSH thực vật Nguyễn Duy Trình, để sản xuất nấm đạt hiệu quả cao
hơn nữa rất cần có chính sách hỗ trợ sau đào tạo để nhân rộng các mô hình. Để
làm được việc này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ban ngành của địa
phương, các xã ngoại thành là địa bàn phù hợp để dạy nghề trồng nấm vì có
nguồn nguyên liệu rơm rạ, mùn cưa, lõi ngô rất dồi dào. Vị trí địa lý gần trung
tâm nên đầu ra cho sản phẩm vô cùng thuận lợi. Chính vì vậy, TP.Hà Nội xác
định trồng nấm là một nghề cần đầu tư, chú trọng vào những năm tiếp theo.

19


×