Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Một số vấn đề về vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty TNHH cơ khí anh thư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.38 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
Một số vấn đề về vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn tại công ty TNHH cơ khí Anh Thư

Giáo viên hướng dẫn : Th.s Nguyễn Thị Hoàng Giang
Sinh viên thực hiện

: Kiều Văn Học

Khóa

: 54

Ngành

: QTKD

Lớp

: QTKDB


HÀ NỘI - 2013

PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài


Để tiến hành sản xuất kinh doanh thì cần có rất nhiều yếu tố khác nhau,
trong đó yếu tố quan trọng nhất là vốn. Vốn là chìa khóa, là điều kiện tiền
đề cho các doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu khinh tế của mình là lợi
nhuận , lợi thế và an toàn.
Trong nền kinh tế tập trung chúng ta chưa đánh giá hết được vai trò thiết
yếu của vốn nên dẫn đến hiện tượng sử dụng vốn còn nhiều hạn chế, các
doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong cơ chế này được bao tiêu cung
ứng, chính vì thế hiệu quả sử dụng vốn không được chú trọng đến, do đó
không mang lại nhiều hiệu quả.
Hiện nay, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với việc chuyển
dịch cơ chế quản lý kinh doanh đó là việc mở rộng quyền tự chủ, giao
vốn cho các doanh nghiệp tự quản lý và sử dụng theo hướng tự quyết.
Bên cạch đó nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, các
doanh nghiệp đang đối mặt với việc cạnh tranh gay gắt từ các doanh
nghiệp nước ngoài, mọi doanh nghiệp đều thấy rõ điều này. Nhưng bên
cạnh những doanh nghiệp năng động sớm thích nghi với cơ chế thị trường
mới thì còn có những doanh nghiệp đang khó khăn trong tình trạng sử
dụng vốn có hiệu quả.
Vì những lý do trên nên em chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn tại công ty TNHH cơ khí Anh Thư”. Để báo cáo tốt
nghiệp
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng quản lý vốn và phân tích tình hình sử dụng vốn,
hiệu quả sử dụng vốn tại công ty TNHH cơ khí Anh Thư.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
2


-


Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về vốn, một số biện

pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
- Thực trạng sử dụng vốn tại công ty TNHH cơ khí Anh Thư
- Những nhân tố ảnh và sự ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả sử dụng
vốn trong doanh nghiệp
- Đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty
1.3 Đối tượng phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Các vấn đề về vốn và sử dụng vốn nhằm đưa ra các biện pháp nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn tại công ty TNHH cơ khí Anh Thư
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung:
Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty TNHH cơ khí Anh Thư thể
hiện qua các tài liệu và đặc biệt là các Báo cáo tài chính, báo cáo tổng kết
của Công ty trong vòng 3 năm 2009 – 2011, từ đó đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty TNHH cơ khí Anh Thư
- Phạm vi không gian:
Đề tài được thực hiện tại công ty TNHH cơ khí Anh Thư
Địa chỉ: Phố mới – Thị trấn Trâu Quỳ - Gia Lâm – Hà Nội
- Phạm vi thời gian:
Đề tài được nghiên cứu từ số liệu thông tin của công ty trong 3 năm: 2009
đến 2012
Thời gian thực tập và thực hiện đề tài từ 16/1/2013 đến 31/5/2013
1.4 Kết quả nghiên cứu dự kiến
- Có cái nhìn tổng quát, có những hiệu biết về thực trạng tình hình quản
lý và sử dụng vốn của Công ty TNHH cơ khí Anh Thư
- Phân tích, đánh giá những giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn. Đồng thời tìm hiểu nguyên nhân ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng

vốn của Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Savico, từ đó đưa ra một
số giải pháp nâng cao hiệu quả trong quản lý và sử dụng vốn cho doanh
nghiệp.

3


PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cở sở lý luận
2.1.1 Khái niệm về vốn
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp
nào muốn tồn tại và phát triển được đều cần phải có vốn, có rất nhiều
khái niệm về vốn đã được đưa ra như:
Vốn là một khối lượng tiền tệ nào đó được đưa vào lưu thông nhằm mục
đích kiếm lời, tiền đó được sử dụng muôn hình muôn vẻ. Nhưng suy cho
cùng để mua sắm tư liệu sản xuất và trả công cho người lao động, nhằm
hoàn thành công việc sản xuất kinh doanh hay dịch vụ nào đó với mục
đích là thu về số tiền lớn hơn số tiền bỏ ra ban đầu. Do đó vốn mang lại
giá thặng dư trong cho doanh nghiệp. Quan điểm này đã chỉ mục tiêu của
quản lý là sử dụng vốn, nhưng lại mang tính trừu tượng, hạn chế về ý
nghĩa đối với hoạch toán và phân tích quản lý và sử dụng vốn của doanh
nghiệp.
Theo nghĩa hẹp thì: vốn là tiềm lực tài chính của mỗi cá nhân, mỗi doanh
nghiệp, mỗi quốc gia.
Theo nghĩa rộng thì: vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố trí
để sản xuất hàng hóa, dịch vụ như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, các
kiến thức kinh tế, kỹ thuật của doanh nghiệp được tích lũy, sự khéo léo về
trình độ quản lý và tác nghiệp của các cán bộ điều hành, cùng đội ngũ cán
bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, uy tìn của doanh nghiệp. Quan

điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc khai thác đầy đủ hiệu quả của
vốn trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, việc khai thác đầy đủ hiệu
quả của vốn trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, việc xác định vốn

4


theo quan điểm này rất khó khăn phức tạp nhất là khi nước ta trình độ
quản lý kinh té còn chưa cao và pháp luật chưa hoàn chỉnh.
Theo David Begg, Stenley Ficher, Rudiger Darubused thì: Vốn hiện là giá
trị của hàng hóa đã sản xuất được sử dụng để tạo ra hàng hóa và dịch vụ
khác. Ngoài ra còn có vốn tài chính. Bản thân vốn là một hàng hóa nhưng
được tiếp tục sử dụng vào sản xuất kinh doanh tiếp theo (trong cuốn Kinh
tế học) Quan điểm này cho thấy nguồn gốc hình thành vốn và trạng thái
biểu hiện của vốn nhưng hạn chế cơ bản là chwua thấy mục đích của việc
sử dụng vốn.
Theo K Marx, vốn là tư bản, là giá trị đem lại giá trị thặng dư. Theo
đó vốn được xem xét dưới giác độ giá trị, là một đầu vào của quá trình
sản xuất. Quan điểm này có tính khái quát cao mang ý nghĩa thực tiễn đến
tận ngày nay tuy nhiên nó hạn chế ở chỗ cho rằng vốn luôn tạo ra giá trị
thặng dư và chỉ ở khu
Vốn hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra,
tích lũy lại và những yếu tố tự nhiên...được sử dụng vào quá trình sản
xuất. Nói một cách khái quát vốn là toàn bộ tài sản được sử dụng để sản
xuất kinh doanh. Vốn tồn tại dưới hai hình thức: vốn tài chính và vốn
hiện vật. Vốn tài chính là vốn tồn tại dưới hình thức tiền tệ hay các loại
chứng khoán, còn vốn hiện vật tồn tại dưới hình thức vật chất của quá
trình sản xuất như nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu....(Giáo
trình kinh tế chính trị Mác - Lênin. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia).

Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, vốn được xem xét dưới góc độ là
một yếu tố đầu vào của không chỉ một quá trình sản xuất riêng lẻ mà là
của một quá trình sản xuất và tái sản xuất diễn ra liên tục trong suốt thời
gian tồn tại của doanh nghiệp, thậm chí ngay cả khi doanh nghiệp không
còn tồn tại thì vốn của nó lại được chuyển vào các quá trình sản xuất kinh
doanh khác. Theo quan điểm này vốn là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và
5


các quá trình tiếp theo, vốn được hiểu bằng cả tiền mặt lẫn các giá trị vật
tư, hàng hóa, tài sản của doanh nghiệp. Vốn ở đây khác với tiền tệ thông
thường khác. Tiền sẽ được coi là vốn khi chúng được bỏ vào sản xuất
kinh doanh, ngược lại nó không được coi là vốn khi chỉ được dùng để
mua sắm sản phẩm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của cá nhân và xã hội.
Quan điểm này chỉ rõ vốn là giá trị được đầu tư vào sản xuất kinh doanh
nhằm mục đích đem lại lợi nhuận, tức là mang lại giá trị thặng dư. Vốn có
hình thái biểu hiện là các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh như nhà
xưởng máy móc thiết bị, vật tư cũng như các loại hàng hóa dự trữ, các
khoản nợ, tiền mặt (ngân quỹ)...Đồng thời vốn tồn tại dưới dạng hiện vật
hoặc phi hiện vật.
Vốn kinh doanh là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của mọi doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đầu tư mưa sắm các yếu
tố đầu vào để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
như nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, nhà xưởng....(PGS-TS Đồng Thị
Thanh Phương, Th.s Nguyễn Đình Hòa, Th.s Trần thị Ý Nhi (2005) Giáo
trình quản trị doanh nghiệp. Trường đại học bán công Tôn Đức Thắng.
Nhà xuất bản thống kê)
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là cơ sở cho việc hình thành và phát
triển kinh doanh của một doanh nghiệp. Để triển khai các kế hoạch kinh
doanh, cần phải có một lượng vốn để tạo nên những tài sản cần thiết cho

hoạt động của doanh nghiệp để thực hiện thành công mục tiêu đề ra.
(ThS.Đinh Thế Hiển. Quản trị tài chính – đầu tư (Lý thuyết và ứng
dụng). Viện nghiên cứu tin học & kinh tế ứng dụng- (Institule of
Information and Business Reseach) Nhà xuất bản Lao động – Xã hội)
Tư bản (còn được gọi là vốn - K) là tất cả các yếu tố vật chất như máy
móc, thiết bị, đường sá, nhà xưởng, kho tàng, các phương tiện vận
tải...được sản xuất ra để sử dụng vào việc sản xuất chứ không phải để tiêu
dùng trực tiếp. Tư bản không phải là tiền hay các tài sản tài chính..., vì
6


những thứ này không tham gia trực tiếp vào việc sản xuất ra các hàng
hóa, dịch vụ. (TS. Trần Thị Lan Hương (2011) Kinh tế học đại cương.
Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam).
Có thể thấy, các quan điểm khác nhau về vốn ở trên, một mặt thể hiện
được vai trò tác dụng trong điều kiện lịch sử cụ thể với các yêu cầu, mục
đích nghiên cứu cụ thể. Mặt khác, trong cơ chế thị trường hiện nay, đứng
trên phương diện hoạch toán và quản lý, các quan điểm đó chưa đáp ứng
được đầy đủ các yêu cầu về quản lý đối với hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Trên cơ sở đó phân tích các quan điểm về vốn trên, khái niệm cần thể
hiện được các vấn đề sau đây:
-

Nguồn gốc sâu xa của vốn kinh doanh là một bộ phận của thu nhập

quốc dân được tái đầu tư, để phân biệt với vốn đất đai, vốn nhân lực.
- Trong trạng thái của vốn kinh doanh tham gia vào quá trình sản xuất
kinh doanh là tài sản vật chất và tài sản tài chính là cơ sở để ra các biện
pháp quản lý vốn kinh doanh của doanh nghiệp một cách có hiệu quả.

- Phải thể hiệ được mục đích sử dụng vốn đó là tìm kiếm các lợi ích
kinh tế, lợi ích xã hội mà vốn mang lại, vấn đề này sẽ định hướng cho quá
trình quản lý kinh tế nói chung, quản lý vốn doanh nghiệp nói riêng.
Từ những vấn đề nói trên, có thể nói quan niệm về vốn là: phần thu nhập
quốc dân dưới dạng tài sản vật chất và tài chính được cá nhân, các doanh
nghiệp bỏ ta để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hóa
lợi ích.
2.1.2 Vai trò của vốn
Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hóa,
do vậy bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào dù bất cứ cấp độ
nào, gia đình, doanh nghiệp hay quốc gia luôn cần một lượng vốn nhất
định dưới dạng tiền tệ.

7


Vốn là điều kiện tiền đề quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Vốn là cơ sở xác lập địa vị pháp lý của doanh nghiệp, vốn đảm
bảo cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo mục tiêu đã định.
Về mặt pháp lý:
Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên là phải có
một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải bằng lượng vốn
pháp định ( lượng vốn tối thiểu mà pháp luật quy định cho từng loại
doanh nghiệp) khi đó địa vị pháp lý mới được công nhận. Ngược lại, việc
thành lập doanh nghiệp không thể thực hiện được. Trường hợp trong quá
trình hoạt động kinh doanh, vốn của doanh nghiệp không đạt điều kiện
không đạt điều kiện mà pháp luật quy định, doanh nghiệp sẽ chấm dứt
hoạt động như phá sản, sát nhập vào doanh nghiệp khác. Như vậy, vốn
được xem là một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại
tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp trước pháp luật.

Về kinh tế:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh vốn là mạch máu của doanh
nghiệp quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. vốn không
những đảm bảo khả năng sản xuất mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền
công nghệ phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động
kinh doanh diễn ra một cách liên tục, thường xuyên.
Vốn là yếu tố quyết định đến mở rộng phạm vi hoạt đọng của doanh
nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh
doanh vốn của doanh nghiệp phải sinh lời, tức là doanh nghiệp phải có lãi
đảm bảo cho doanh nghiệp bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để doanh
nghiệp tiếp tục đầu tư sản xuất, thâm nhập vào thị trường tiềm năng từ đó
mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên
thương trường.

8


Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy thì doanh nghiệp mới
có thể sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả hơn, luôn tìm cách nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn.
2.1.3 Đặc trưng của vốn:
Để tiến hành sản xuất kinh doanh cần có tư liệu lao động, đối tượng lao
động, quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố đó để
tạo ra sản phẩm lao vụ, dịch vụ. Để tạo ra các yếu tố phục vụ cho quá
trình sản xuất kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lượng
vốn nhất định ban đầu. Có vốn doanh nghiệp mới có thể tiến hành sản
xuất kinh doanh, cũng như trả tiền lương cho lao động sản xuất, sau khi
tiến hành tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp dành một phần doanh thu để bù
đắp giá trị tài sản cố định đã hao mòn, bù đắp chi phí vật tư đã tiêu hao và
một phần để lập quỹ dự trữ cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh

tiếp theo. Như vậy có thể thấy các tư liệu lao động và đối tượng lao động
mà doanh nghiệp đầu tư cho mua sắm cho hoạt động sản xuất kinh doanh
là hình thái hiện vật của vốn sản xuất kinh doanh. Vốn bằng tiền là tiền đề
cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy vốn sản
xuất kinh doanh mang đặc trưng cơ bản sau:
-

Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định có nghĩa là vốn

được
biểu hiện bằng giá trị tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh
nghiệp.
-

Vốn phải vận động sinh lời đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh

nghiệp.

9


-

Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới có thể

phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
-

Vốn có giá trị về mặt thời gian tham gia vào quá trình sản xuất kinh


doanh, vốn luôn biến động và chuyển hoá hình thái vật chất theo thời gian
và không gian theo công thức :
T - H - SX - H’ - T’
-

Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định và phải được quản lý

chặt chẽ.
-

Vốn phải được quan niệm như một hàng hoá đặc biệt có thể mua bán

hoặc bán bản quyền sử dụng vốn trên thị trường tạo nên sự giao lưu sôi
động trên thị trường vốn, thị trường tài chính. Như vậy vốn bắt đầu là
hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vật tư hàng hoá là tư liệu lao động
và đối tượng lao động trải qua quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm lao vụ
hoặc dịch vụ vốn sang hình thái hoá sản phẩm. Khi tiêu thụ sản phẩm lao
vụ dịch vụ xong vốn lại trở về hình thái tiền tệ. Do sự luân chuyển vốn
không ngừng trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên cùng một lúc vốn
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường tồn tại dưới nhiều hình
thức khác nhau trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông.
2.1.4 Phân loại vốn
2.1.4.1 Căn cứ theo nguồn hình thành vốn
a. Vốn chủ sở hữu
Là số tiền vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp, số vốn
vay này không phải là một khoản nợ. Doanh nghiệp không phải cam kết
thanh toán, không phải trả lãi suất. Vốn chủ sở hữu được xác định là phần
còn lại trong tài sản của doanh nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ nợ phải trả
tuỳ theo loại hình doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu được hình thành theo
các cách khác nhau thông thường nguồn vốn này bao gồm:


10


+Vốn góp: là số vốn đóng góp của các thành viên tham gia thành lập
doanh nghiệp sử dụng vào mục đích kinh doanh. Đối với các công ty liên
doanh thì cần vốn góp của các đối tác liên doanh, số vốn này có thể bổ
sung hoặc rút bớt trong quá trình kinh doanh.
+Lãi chưa phân phối: Là số vốn có từ nguồn gốc lợi nhuận, là phần chênh
lệch giữa một bên là doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, từ hoạt
động tài chính và từ hoạt động bất thường khác và một bên là chi phí. Số
lãi này trong khi chưa phân phối cho các chủ đầu tư, trích quỹ thì được sử
dụng trong kinh doanh vốn chủ sở hữu.
b.Vốn vay :
Là khoản vốn đầu tư ngoài vốn pháp định được hình thành từ nguồn đi
vay, đi chiếm dụng từ các đơn vị cá nhân sau một thời gian nhất định
doanh nghiệp phải hoàn trả cho người cho vay cả gốc lẫn lãi. Vốn vay có
thể sử dụng hai nguồn chính: Vay của các tổ chức tài chính và phát hành
trái phiếu doanh nghiệp.
Doanh nghiệp càng sử dụng nhiều vốn vay thì mức độ rủi ro càng cao
nhưng để phục vụ sản xuất kinh doanh thì đây là một nguồn vốn huy
động lớn tuỳ thuộc vào khả năng thế chấp tình hình kinh doanh của doanh
nghiệp.
Thông thường một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn trên để
đảm bảo cho nhu cầu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, kết hợp lý hai
nguồn vốn này phụ thuộc vào ngành mà doanh nghiệp hoạt động cũng
như quyết định của người quản lý trên cơ sở xem xét tình hình chung của
nền kinh tế cũng như tình hình thực tế tại doanh nghiệp.
2.1.4.2 Căn cứ theo thời gian huy động vốn
a. Nguồn vốn thường xuyên


11


Đây là nguồn vốn mang tính ổn định và lâu dài mà doanh nghiệp
có thể sử dụng để đầu tư vào TSCĐ và một bộ phận tài sản lưu động tối
thiểu cần thiết cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này
bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay dài hạn của doanh nghiệp.
b. Nguồn vốn tạm thời
Đây là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng
để đáp ứng tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này thường gồm các khoản vay
ngắn hạn, các khoản chiếm dụng của bạn hàng. Theo cách phân loại này
còn giúp cho doanh nghiệp lập kế hoạch tài chính, hình thành nên những
dự định về tổ nguồn vốn trong tương lai trên cơ sở xác định về quy mô số
lượng vốn cần thiết, lựa chọn nguồn vốn và quy mô thích hợp cho từng
nguồn vốn đó, khai thác những nguồn tài chính tiềm tàng, tổ chức sử
dụng vốn có hiệu quả cao.
2.1.4.3 Căn cứ vào phạm vi nguồn hình thành
a. Nguồn vốn bên trong nội bộ doanh nghiệp
Là nguồn vốn có thể huy động từ hoạt động của bản thân doanh nghiệp
bao gồm khấu hao tài sản, lợi nhuận để lại, các khoản dự trữ, dự phòng,
các khoản thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định.
b. Nguồn vốn hình thành từ bên ngoài doanh nghiệp
Là nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động từ bên ngoài đáp ứng nhu cầu
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm:
-

Nguồn tín dụng từ các khoản vay nợ có kỳ hạn mà các ngân hàng


hay tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp vay và có nghĩa vụ hoàn trả các
khoản tiền vay nợ theo đúng kỳ hạn quy định.
-

Nguồn vốn từ liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp gồm nguồn

vốn vay có được do doanh nghiệp liên doanh, liên kết từ các doanh
nghiệp để phục vụ cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh.

12


-

Nguồn vốn huy động từ thị trường vốn thông qua việc phát hành

trái phiếu, cổ phiếu. Việc phát hành những chứng khoán có giá trị này cho
phép các doanh nghiệp có thể thu hút số tiền rộng rãi nhàn rỗi trong xã
hội phục vụ cho huy động vốn dài hạn của doanh nghiệp.
Dựa theo cách phân loại này cho phép các doanh nghiệp thấy được những
lợi thế giúp doanh nghiệp có thể chủ động trong việc huy động nguồn
vốn. Đồng thời do nhu cầu thường xuyên cần vốn doanh nghiệp phải tích
cực huy động vốn, không trông chờ ỷ lại vào các nguồn vốn sẵn có.
Đối với các nguồn vốn bên trong doanh nghiệp có thể toàn quyền tự chủ
sử dụng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển của doanh
nghiệp mà không phải trả chi phí cho việc sử dụng vốn. Tuy nhiên, điều
này dễ dẫn đến việc sử dụng vốn kém hiệu quả.
Huy động vốn từ bên ngoài tạo cho doanh nghiệp có cơ cấu tài chính linh
hoạt. Do doanh nghiệp phải trả một khoản chi phí sử dụng vốn nên doanh
nghiệp phải cố gắng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Chính vì thế, doanh

nghiệp có thể vay vốn từ bên ngoài để làm tăng nội lực vốn bên trong.
2.1.4.4 Căn cứ vào công dụng kinh tế của vốn
a. vốn cố định
là số vốn tiền tệ đầu tư cho mua sắm, xây dựng hoặc lắp đặt TSCĐ
hữu hình và chi phí đầu tư cho những TSCĐ vô hình của doanh nghiệp,
hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng.
-

Tài sản cố định hữu hình: bao gồm sáu loại sau:

Loại 1: Nhà cửa, vật kiến trúc.
Loại 2:Máy móc thiết bị dùng trong sản xuất kinh doanh.
Loại 3: Phương tiện vận tải, truyền dẫn.
Loại 4: Thiết bị và dụng cụ quản lý.
Loại 5: Cây lâu năm, súc vật làm việc và cho ra sản phẩm.
Loại 6: Tài sản cố dịnh khác.

13


-

Tài sản cố định vô hình: là những tư liệu lao động không có hình thái

vật chất nhưng vẫn thỏa mãn đủ hai điều kiện của tài sản cố định. Có thể
kể đến nh:quyền sử dụng đất, nhãn hiệu sản phẩm, bản quyền, lợi thế
thương mại, uy tín công ty,....
b. Vốn lưu động
là số tiền ứng ra về tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra một cách liên tục. Vốn lưu

động luôn được chuyển hóa qua nhiều hình thức khác nhau, bắt đầu từ
hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật tư, hàng hóa và quay trở về hình
thái tiền tệ ban đầu của nó. Quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục
do đó vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng theo chu kỳ. Đó là sự
luân chuyển của vốn lưu động. Căn cứ vào công dụng của vốn lưu động,
người ta phân chia vốn lưu động thành bà loại như sau:
-

Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ: đó là giá trị nguyên vật

liệu, nhiên liệu, phụ tùng....phục vụ cho quá trình sản xuất của doanh
nghiệp.
-

Vốn lưu động nằm trong quá trình sản xuất: đó là giá trị sản phẩm

dở dang, bán thành phẩm, các phí tổn tính vào giá thành sản phẩm dịch
vụ...
-

Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông: là giá trị thành phẩm,

hàng hóa mua ngoài...
2.1.5 Các nguồn huy động vốn
2.1.5.1 Vốn tự cung ứng
a. Khấu hao tài sản cố định

14



Tài sản cố định là những tư liếu lao động tham gia vào nhiều quá trình
sản xuất. Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định bị hao mòn dần và
chuyển dần giá trị vào giá thành sản phẩm. Hao mòn tài sản cố định là
một quá trình mang tính khách quan, phụ thuộc vào nhân tố như chất
lượng của bản thân tài sản cố định, các yếu tố tự nhiên, cường độ sử dụng
tài sản cố định,…Trong quá trình sử dụng tài sản cố định doanh nghiệp
phải xác định độ hao mòn của chúng để chuyển dần giá trị hao mòn vào
giá trị của sản phẩm được sản sản xuất ra từ tài sản cố định đó. Việc xác
định mức khấu hao tài sản cố định phụ thuộc vào thực tiễn sử dụng tài
sản cố định đó cũng như ý muốn chủ quan của con người. Đối với các
doanh nghiệp Nhà Nước trong quá trình khấu hao tài sản cố định phụ
thuộc vào ý đồ của Nhà Nước thông qua quy định, chính sách cụ thể của
cơ quan tài chính trong từng thời kỳ. Các doanh nghiệp khác có thể tự lựa
chọn thời hạn sử dụng và phương pháp tính khấu hao cụ thể. Trong chính
sách tài chính cụ thể ở từng thời kỳ, doanh có thể lựa chọn và điều chỉnh
khấu hao tài sản cố định và coi đây là công cụ điều chỉnh cơ cấu vốn bên
trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần chú ý rằng việc điều chỉnh khấu hao
không thể diễn ra một cách tuỳ tiện, không có kế hoạch mà phải dựa trên
các kế hoạch tài chính dài hạn và ngắn hạn đã xác định. Mặt khác, cần
chú ý rằng điều chỉnh tăng khấu hao tài sản cố định sẽ dẫn đến tăng chi
phí kinh doanh khấu hao tài sản cố định trong giá thành sản phẩm nên
luôn khống chế bởi giá bán sản phẩm.
b. Tích lũy tái đầu tư
Tích luỹ tái đầu tư luôn được các doanh nghiệp coi là nguồn tự cung
ứng tài chính quan trọng vì nó có ưu điểm cơ bản sau:
-

Doanh nghiệp có thể hoàn toàn chủ động.

-


Giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng.

-

Giúp các doanh nghiệp tăng thêm tiềm lực tài chính làm giảm tỉ lệ

nợ/vốn.
15


-

Càng có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện

chưa tạo được uy tín với các nhà cung ứng tài chính.
Quy mô tự cung ứng vốn tích luỹ tái đầu tư tuỳ thuộc vào hai nhân tố
chủ yếu là tổng số lợi nhuận thu được trong từng thời kỳ kinh doanh cụ
thể và chính sách phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Tổng
số lợi nhuận cụ thể thu được trong từng thời kỳ phụ thuộc vào quy mô
kinh doanh, chất lượng hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp
trong từng thời kỳ đó. Chính sách phân phối lợi nhuận trước hết tuỳ thuộc
vào từng loại hình doanh nghiệp.
2.1.5.2 Vốn cung ứng từ bên ngoài
a. Vốn từ ngân sách nhà nước
Với hình thức cung ứng từ ngân sách Nhà Nước doanh nghiệp sẽ
nhận được lượng vốn xác định từ ngân sách Nhà Nước cấp. Thông
thường hình thức này không đòi hỏi nhiều điều kiện ngặt nghèo đối với
doanh nghiệp được cấp vốn như các hình thức vốn huy động khác nhau.


16


Tuy nhiên, càng ngày hình thức cung ứng vốn từ ngân sách Nhà Nước đối
với các doanh nghiệp ngày càng thu hẹp cả về quy mô vốn và phạm vi
cung cấp vốn. Hiện nay, đối với tượng được cung cấp vốn theo hình thức
này thường phải là các doanh nghiệp Nhà Nước xác định duy trì để đóng
vai trò điều tiết nền kinh tế; các dự án đầu tư ở lĩnh vực sản xuất hàng hoá
công cộng, hoạt động công ích mà tư nhân không muốn và không có khả
năng đầu tư; các dự án lớn có tầm quan trọng đặc biệt do Nhà Nước đầu
tư.
b. Vốn vay từ ngân hàng
Vay vốn từ ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn
dưới hình thức ngắn hạn, trung hạn, dài hạn từ các ngân hàng thương mại,
đây là mối quan hệ tín dụng giữa một bên cho vay và một bên đi vay.
Với hình thức vay vốn từ ngân hàng thương mại doanh nghiệp có thể huy
động được một lượng vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các ngân hàng
cùng tham gia thẩm định dự án nếu có cầu vay đầu tư lớn. Bên cạnh đó để
có thể vay vốn từ ngân hàng thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải có uy
tín lớn, kiên trì đàm phán, chấp nhận các thủ tục ngặt nghèo. Trong quá
trình sử dụng vốn, doanh nghiệp phải tính toán trả nợ ngân hàng theo
đúng kế hoạch. Mặt khác, khi doanh nghiệp vay vốn ở các ngân hàng
thương mại có thể bị ngân hàng thương mại đòi hỏi quyền kiểm soát các
hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian cho vay, chẳng hạn;
-

Ngân hàng cho vay có thể khống chế giá trị TSCĐ để tránh “ngâm

vốn”, tránh rủi ro;
-


Doanh nghiệp sẽ không được vay thêm dài hạn nếu không có sự đồng

ý của ngân hàng cho vay;
-

Doanh nghiệp không được đem thế chấp tài sản nếu không có sự đồng

ý của ngân hàng cho vay;
-

Ngân hàng cho vay có áp đặt cơ chế kiểm soát chi phối hoạt động đầu

tư để phòng ngừa doanh nghiệp sử dụng vốn bừa bãi;
17


-

Ngân hàng cho vay có thể đòi hỏi can thiệp vào sự thay đổi ban lãnh

đạo của doanh nghiệp
c. Vốn tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp
Trong hoạt động kinh doanh do đặc điểm quá trình cung ứng hàng
hoá và thanh toán không thể khi nào cũng phải diễn ra đồng thời nên tín
dụng thương mại tồn tại là một nhu cầu khách quan. Thực chất, luôn diễn
ra đồng thời doanh nghiệp nợ khách hàng tiền và chiếm dụng tiền của
khách hàng. Nếu số tiền doanh nghiệp chiếm dụng của khách hàng lớn
hơn số tiền doanh nghiệp bị chiếm dụng thì số tiền dư ra sẽ mang bản
chất tín dụng thương mại. Có các hình thức tín dụng thương mại chủ yếu

sau:

18


Thứ nhất, doanh nghiệp mua máy móc thiết bị theo phương thức trả
chậm. Sẽ chỉ có hình thức tín dụng này nếu được ghi rõ trong hợp đồng
mua bán về giá cả, số lần trả và số tiền trả mỗi lần, khoảng cách giữa các
lần trả tiền. Như thế, doanh nghiệp có máy móc thiết bị sử dụng ngay
nhưng tiền chưa phải trả ngay, số tiền chưa trả là số tiền mà doanh nghiệp
chiếm dụng được của người cung ứng.
Trong môi trường kinh doanh hiện nay, với nhiều mặt hàng thì mua bán
chưa phải trả ngay được coi là chiến lược maketing của người bán cho
nên doanh nghiệp dễ dàng tìm kiếm tín dụng từ loại này. Đặc biệt, khi thị
trường có nhiều nhà cung ứng cạnh tranh với nhau doanh nghiệp càng có
lợi thế về giá cả, kỳ hạn trả,… Khi quá trình này diễn ra một cách thường
xuyên thì nguồn chiếm dụng này như là một nguồn tín dụng trung hoặc
dài hạn. Với phương thức tín dụng này doanh nghiệp có thể đầu tư chiều
sâu với vốn ít mà không ảnh hưởng tới tình hình tài chính của mình. Hình
thức tín dụng mua máy móc thiết bị theo phương thức trả chậm lại càng
có ý nghĩa với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu các điều kiện để vay
vốn từ các nguồn khác.
Bên cạnh đó, hình thức mua máy móc thiết bị theo phương thức trả chậm
có những hạn chế nhất định. Chẳng hạn, mua theo phương thức này
doanh nghiệp sẽ phải chịu chi phí kinh doanh sử dụng vốn khá cao. Mặt
khác, doanh nghiệp chỉ có thể mua theo hình thức trả chậm nếu doanh
nghiệp có uy tín, có truyền thống tín dụng sòng phẳng cũng như tình hình
tài chính lành mạnh.
Thứ hai, Vốn khách hàng ứng trước.
Trong quá trình kinh doanh, khi ký hợp đồng đặt hàng khách hàng thường

phải đặt cọc trước một số tiền nhất định, số tiền đặt cọc này doanh nghiệp
được sử dụng mặc dù chưa sản xuất và cung cấp sản phẩm (dịch vụ) cho
khách hàng. Tuỳ theo lượng mua hàng của khách hàng, thông thường
doanh nghiệp tín dụng từ hai nguồn:
19


- Vốn ứng trước của khách hàng lớn,
- Vốn ứng trước của người tiêu dùng.
Thông thường số vốn chiếm dụng này là không lớn. Mặt khác, để sản
xuất hàng hoá hoặc dịch vụ doanh nghiệp phải đặt hàng (nguyên vật liệu,
…) nên lại bị người cấp hàng chiếm dụng vốn của doanh nghiệp cũng
theo hình thức này nên các quá trình kinh doanh diễn ra bình thường thì
diễn ra bình thì số dư vốn chiếm dụng này là không lớn.
Tuy nhiên, kinh doanh trong thị trường hiện tại đòi hỏi doanh nghiệp phải
tính toán, cân nhắc rất cẩn thận vì không chỉ tồn tại lượng vốn nhất định
khách hàng chiếm dụng lại khi mua hàng của doanh nghiệp nhiều khi là
rất lớn.
d. Vốn tín dụng thuê mua
Trong cơ chế kinh tế thị trường phương thức tín dụng thuê mua được thực
hiện giữa một doanh nghiệp có cầu sử dụng máy móc, thiết bị với một
doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua diễn ra khá phổ biến. Sở dĩ
hình thức thuê mua diễn ra khá phổ biến vì nó đáp ứng được yêu cầu cơ
bản của bên có cầu (doanh nghiệp muốn thuê mua thiết bị) và bên đáp
ứng cầu (doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua).

20


Hình thức tín dụng thuê mua có ưu điểm rất cơ bản là giúp doanh nghiệp

sử dụng vốn đúng mục đích, khi nào doanh nghiệp có cầu về sử dụng
máy móc thiết bị cụ thể mới đặt vấn đề thuê mua và chỉ ký hợp đồng thuê
mua trong khoảng thời gian thích hợp. Doanh nghiệp không chỉ nhận
được máy móc thiết bị mà còn nhận được tư vấn đào tạo và hướng dẫn kỹ
thuật cần thiết từ doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua. Doanh
nghiệp sử dụng máy móc thiết bị có thể tránh được những tổn thất do
mua máy móc thiết bị không đúng được yêu cầu hoặc hay do mua nhầm.
Doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị cần thiết mà không phải đầu tư
một lần với vốn lớn. Mặt khác, doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị
có thể giảm được tỷ lệ nợ/vốn vì tránh phải vay ngân hàng thương mại.
Trong quá trình sử dụng máy móc, thiết bị doanh nghiệp sử dụng có thể
thoả thuận tái thuê với doanh nghiệp có chức năng thuê mua; tức là doanh
nghiệp sử dụng bán một phần tài sản thiết bị cho doanh nghiệp thuê mua
rồi lại thuê lại để tiếp tục sử dụng tài sản thiết bị đó. Với phương thức
thuê mua doanh nghiệp sử dụng có thể nhanh chóng đổi mới tài sản cố
định, nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
e. Vốn liên doanh liên kết
Với phương thức này doanh nghiệp liên doanh, liên kết với một (một số)
doanh nghiệp khác nhằm tạo vốn cho một (một số) hoạt động (dự án) liên
doanh nào đó. Các bên liên doanh ký hợp đồng liên doanh với các hoạt
động cụ thể về phương thức hoạt động, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên
có giá trị trong một khoảng thời gian nào đó. Khi hết hạn, hợp đồng liên
doanh hết hiệu lực.

21


Với phương thức liên doanh, liên kết doanh nghiệp có một lượng vốn lớn
cần thiết cho một(một số) hoạt động nào đó mà không làm tăng nợ.Vì
vậy, nhiều nhà quản trị học cho rằng phương thức này có thể được coi là

phương thức cung ứng vốn nội bộ.Trong quá trình hoạt động, các bên liên
doanh cùng chia sẻ rủi ro.
2.1.6 Hiệu quả sử dụng vốn
2.1.6.1 Khái niệm về hiệu quả sử dụng vốn
Sự phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới và Việt Nam cho thấy
muốn phát triển một doanh nghiệp phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ
bản là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Tuy nhiên
nếu nguồn tài nguyên là vô hạn, người ta có thể sản xuất hàng hoá một
cách không hạn chế, sử dụng máy móc nguyên vật liệu bừa bãi… cũng
chẳng sao. Song mọi tài nguyên như đất đai, khoáng sản…lại là một
phạm trù hữu hạn đòi hỏi ngày một nhiều và cao hơn, điều này buộc các
doanh nghiệp phải sử dụng một cách có kế hoạch các nguồn lực của mình
để tăng hiệu quả sử dụng vốn.
Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là chỉ tiêu
phản ánh kết quả tổng hợp nhất quá trình sử dụng các loại vốn. Đó là sự
tối thiểu hoá vốn cần sử dụng và tối đa hoá kết quả hay khối lượng nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh trong một giới hạn nguồn nhân tài, vật lực, phù hợp với
kinh tế hiệu quả nói chung.
Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống chỉ tiêu về khả
năng hoạt động, khả năng sinh lời độ luân chuyển vốn… Nó phản ánh
quan hệ giữa đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh thông
qua thước đo tiền tệ.
2.1.7 Nội dung, phương pháp và ý nghĩa của việc phân tích hiệu quả
sử dụng vốn
2.1.7.1 Nội dung của việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn

22


Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh của một

doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên
hai giác độ: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lý
doanh nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là
một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh
nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do vậy các
nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn của doanh nghiệp có tác động rất
lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, việc nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc
đối với doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy
được hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và quản lý sử dụng vốn
nói riêng.
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh
trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh
lời tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị
tài sản của vốn chủ sở hữu.
Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hóa thông qua hệ thống các chỉ tiêu về
khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn … Nó
phản ánh quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh
doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết
quả thu được với chi phí bỏ ra để thực hiên nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh. Kết quả thu được càng cao so với chi phí vốn bỏ ra thì hiệu quả sử
dụng vốn càng cao. Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điêù kiện
quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh. Nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau:
-

Phải khai thác nguồn lực vốn một cách triệt để nghĩa là không để vốn

nhàn rỗi mà không sử dụng, không sinh lời.

-

Phải sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm.
23


-

Phải quản lý vốn một cách chặt chẽ nghĩa là không để vốn bị sử dụng

sai mục đích, không để vốn bị thất thoát do buông lỏng quản lý.
Ngoài ra, doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích, đánh giá hiệu quả
sử dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế
và phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp trong quản lý và sử dụng
vốn. Có hai phương pháp để phân tích tài chính cũng như phân tích hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, đó là phương pháp so sánh và phương
pháp phân tích tỷ lệ.
2.1.7.2 Phương pháp của việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn
a. Phương pháp so sánh
Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện so sánh
được của chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội
dung, tính chất và đơn vị tính toán…) và theo mục đích phân tích mà xác
định gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian, kỳ phân tích
được gọi là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể đo bằng
giá trị tuyệt đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh gồm:
+

So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ

xu hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp, đánh giá sự suy giảm hay

sự giảm sút trong hoạt động sản xuất kinh doanh để có biện pháp khắc
phục trong kỳ tới.

24


+ So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy rõ mức độ phấn
đấu của doanh nghiệp.
+ So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số bình quân của ngành,
của các doanh nghiệp khác để đánh giá doanh nghiệp mình tốt hay xấu
được hay không được.
+ So sánh chiều dọc để xem xét tỷ trọng của trừng chỉ tiêu so với tổng
thể, so sánh chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến động cả về số
tương đối và số tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các liên độ kế toán
liên tiếp.
b. Phương pháp phân tích tỷ lệ
Phương pháp này dựa trên chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính.
Về nguyên tắc phương pháp này yêu cầu phải xác định được các ngưỡng,
các mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, trên
cơ sở so sánh các tỷ lệ doanh nghiệp với các tỷ lệ tham chiếu.
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính doanh nghiệp
được phân tích thành các nhóm đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ
bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ mục
tiêu thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực kinh
doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm
nhiều nhóm tỷ lệ riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính. Trong
mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo góc độ phân tích, người phân tích lựa
chọn các mục tiêu khác nhau. Để phục vụ cho mục tiêu phân tích hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta phải tính đến hao mòn vô
hình do sự phát triển không những của tiến bộ khoa học kỹ thuật…

2.1.7.3 Ý nghĩa của việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn

25


×