Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Mục
Tên đề mục
Trang
1.
Lý do chọn đề tài
2
2.
Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3
3.
Đối tượng nghiên cứu
3
4.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
3
5.
Phương pháp nghiên cứu
3
PHẦN II: NỘI DUNG
Mục
Tên đề mục
Trang
1.
Cơ sở lí luận
3,4
2.
Thực trạng
5,6
3.
Giải pháp, biện pháp
7
PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Mục
Tên đề mục
Trang
1.
Kết luận
17
2.
Kiến nghị
18
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
1
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh là một nhiệm vụ quan trọng, không
thể thiếu được của người giáo viên. Nếu không thực hiện tốt nhiệm vụ này,
có thể nói người giáo viên chưa hoàn thành được sứ mệnh cao cả của mình là
biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo đối với HS.
Trước đây, trong thực tiễn của giáo dục và dạy học ở các nhà trường nói
chung và cấp tiểu học nói riêng. Học sinh chịu áp lực rất lớn của nhiều yếu
tố. Đó là áp lực của bệnh thành tích, của việc thi cử, của sự học dưới nhiều
hình thức… khiến cho các em khó có thể phát triển được hứng thú trong học
tập. Chỉ khi nào người học không chịu áp lực, được thoải mái, vui vẻ, có nhu
cầu cao trong tìm tòi, khám phá thì khi đó hứng thú học tập mới thực sự đựoc
phát triển. Trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn và của gia
đình là tạo cho học sinh có thật nhiều cơ hội được học tập, trải nghiệm một
cách tự nhiên, thoải mái, không bị gò bó với nhiều hình thức, biện pháp học
tập đa dạng phát huy tính tích cực nhận thức trong học tập của các em.
Trên cơ sở giúp học sinh nắm vững nội dung kiến thức cơ bản của bài
học, môn học, giáo viên sẽ tạo cho các em có điều kiện, khả năng tự học
một cách cụ thể. Với quan điểm của lý luận dạy học hiện đại, dạy học là
khơi gợi, thắp sáng ở HS những tri thức, niềm tin, sự sáng tạo thì trong quá
trình dạy học, giáo viên phải loại bỏ kiểu dạy áp đặt, nhồi nhét kiến thức,
thuyết giảng một chiều. Học sinh nắm vững, hiểu rõ nội dung kiến thức cơ
bản, cốt lõi của bài học, môn học là nền tảng để các em tiếp tục đi sâu, tìm
hiểu, nghiên cứu, khám phá sự sâu sắc, sinh động của bài học; đặc biệt là sự
vận dụng các kiến thức của bài học, môn học trong thực tiễn.
Trong dạy học hiện đại, vai trò của giáo viên là cực kỳ quan trọng,
quyết định đến chất lượng dạy học nhưng như thế không có nghĩa là giáo
viên làm thay học sinh. Theo đó, giáo viên chỉ là người thiết kế, tổ chức, điều
khiển, hướng dẫn quá trình học tập của học sinh. Trong quá trình học tập của
học sinh , đặc biệt là khi học ở nhà, việc giáo viên hướng dẫn học sinh tự
học, biết cách học là quan trọng nhất. Học thuộc lòng theo kiểu học vẹt, thiên
về ghi nhớ không còn phù hợp. Học ở lớp cũng như học ở nhà, học sinh phải
biết cách học để nắm và hiểu được nội dung cơ bản của bài học, môn học.
Do đó, là một giáo viên đứng lớp và cũng là một giáo viên chủ nhiệm, tôi
luôn trăn trở và tự nhủ mình nên làm gì đây để học sinh có khả năng tự học,
tự có ý thức tìm tòi, khám phá, tự chiếm lĩnh được kiến thức một cách hứng
thú là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của người giáo viên. Để điều này
tiến hành một cách chu đáo, có kế hoạch, phương pháp thích hợp và mang lại
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
2
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
hiệu quả cao nhất. Nhằm xây dựng cho mỗi cá nhân học sinh khả năng tự
học và mang tính chất giáo dục toàn diện, phát huy khả năng tự quản, tự giác,
tích cực, sáng tạo của học sinh dưới sự chỉ đạo thống nhất về chương trình
học.
Vậy trước tình hình đổi mới không ngừng, liên tục của đất nước và của thế
giới về giáo dục với việc đào tạo ra những con người lao động sáng tạo, làm
chủ bản thân, làm chủ đất nước – có cả đức lẫn tài. Vì vấn đề phát huy tính
tích cực, tự giác, tự học cho học sinh là một trong các phương hướng góp
phần cải cách giáo dục.
Vì thế tôi đã chọn đề tài: Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3
trong Mô hình dạy học VNEN.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
a. Mục tiêu
Đánh giá thực trạng về năng lực tự học của học sinh ở lớp cũng như ở
nhà. Thông qua đó đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực tự học cho
học sinh một cách có hiệu quả.
b. Nhiệm vụ của của đề tài
Tìm hiểu thực trạng về năng lực tự học của học sinh ở lớp cũng như ở
nhà. Phân tích nguyên nhân, tìm ra những vấn đề liên quan đến về năng lực tự
học của học sinh. Từ đó đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực tự
học cho học sinh lớp 3.
3. Đối tượng nghiên cứu
Bồi dưỡng và phát huy năng lực tự học cho học sinh khối lớp 3
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Học sinh lớp 3A năm học 2015 – 2016; lớp 3A năm học 2016 – 2017; lớp
3B năm học 2017 2018 tại trường TH Lý Tự Trọng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp quan sát
Phương pháp điều tra
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
Phương pháp thử nghiệm.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận để thực hiện đề tài
Những năm gần đây nền kinh tế của nước ta có nhiều sự thay đổi nhưng
Đảng và nhà nước vẫn đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, để đảm
3
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
bảo chất lượng dạy và học. Một trong những tư tưởng đổi mới GD& ĐT
hiện nay là tăng cường rèn luyện các kĩ năng cho học sinh trong đó có kĩ năng
tự học. Trong nghị quyết của Đảng, Luật giáo dục và các văn bản của Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Luật giáo dục đã xác định: “Mục tiêu của giáo dục phổ
thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt
Nam Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân…( Điều
23Luật giáo dục).
Tự học hiểu theo đúng bản chất là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng
các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) và có khi cả cơ
bắp (sử dụng các phương tiện) cùng các phẩm chất, cả động cơ, tình cảm,
cả nhân sinh quan, thế giới quan, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại,
lòng say mê… để chiếm lĩnh một lĩnh vực kiến thức nào đó, biến lĩnh vực đó
thành sở hữu của mình.
Tự học là một xu thế tất yếu, bởi vì quá trình giáo dục thực chất là quá
trình biến người học từ khách thể giáo dục thành chủ thể giáo dục (tự giáo
dục). Tự học giúp nâng cao kết quả học tập của học sinh và chất lượng giáo
dục của nhà trường, là biểu hiện cụ thể của việc đổi mới phương pháp dạy
học ở các trường tiểu học.
Dù trong bất kỳ hoàn cảnh, sự kiện nào của đời sống hàng ngày, luôn có
những điều mới mẻ bổ sung vào vốn kiến thức đã có. Chính vì vậy, tự học là
việc đi liền với quá trình phát triển và đạt tới sự thành công của mỗi con
người. Theo tôi “Dạy học không chỉ đơn thuần là đưa ra kiến thức cho học
sinh mà điều thực sự quan trọng là cung cấp cho học sinh phương pháp tự
học, để học sinh không chỉ đạt kết quả tốt tại một thời điểm mà luôn có tâm
thế cho việc trau dồi và tìm hiểu kiến thức phục vụ cho đời sống hiện tại và
công việc sau này”. Xuất phát từ suy nghĩ trên, tôi cố gắng đưa vào bài học
nhiều hình thức học tập khác nhau để khuyến khích và phát huy khả năng tự
học của học sinh. Trong ba năm gần đây, một hình thức học tập mới tôi đã cố
gắng đưa vào trong các môn Toán; Tiếng Việt, Tự nhiên và xã hội cho học
sinh lớp 3, đó là để học sinh phát huy tối đa kỹ năng tự học của mỗi cá nhân,
mỗi nhóm, thực hiện những dự án nhỏ phù hợp với từng chủ đề môn học,
giúp học sinh vận dụng kĩ năng tự học và các kĩ năng mềm khác. Mỗi dự án
nhỏ kéo dài trong một tuần, trong đó, các nhóm sẽ chuẩn bị nội dung, chia sẻ
với các bạn trong lớp về các chủ đề ở các môn như: Toán, Tiếng Việt, Tự
nhiên và Xã hội. Các công việc chi tiết đều được thảo luận, lập kế hoạch bởi
các thành viên trong nhóm; nhóm trưởng sẽ điều phối dưới sự hỗ trợ của giáo
viên. Không những thu thập tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau như sách báo,
internet, các nhóm còn tiến hành phỏng vấn thầy cô bộ môn để trình bày đề
tài phong phú hơn. Một số học sinh khối lớp 3 chia sẻ “ Con thấy khả năng tự
học của mình được nâng cao, vừa biết được kiến thức rộng hơn vừa hiểu sâu
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
4
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
hơn sau khi nghe phần trình bày của các bạn và phần tổng kết của cô”. Được
khuyến khích tự do lựa chọn những chủ đề, hình thức khác nhau, sản phẩm
dự án đã thể hiện rõ tính sáng tạo của học sinh. Các bản tin đều sinh động, dí
dỏm mang lại những điều bất ngờ thú vị cho cô giáo và các bạn trong lớp.
Với hoạt động này, học sinh được làm chủ kiến thức, tự thể hiện những kiến
thức về các môn học dưới ngôn ngữ và phương pháp của mình. Em Bích
Ngọc lớp 3B chia sẻ: “ Qua cách học tập này con thấy mình tự khám phá
được nhiều kiến thức, khả năng tiếp nhận thông tin và quản lý nhóm của con
ngày càng hoàn thiện hơn”. Với phương châm người học chính là người tự
chủ, chủ động trong việc tích lũy kiến thức, tôi cố gắng định hướng và
khuyến khích học sinh rèn luyện tinh thần tự học, tự trau dồi. Làm được việc
này chính là chúng ta đã dần dần cung cấp và hình thành cho HS những giá trị
bền vững, giúp các em thành công trong tương lai.
2. Thực trạng
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm trong nhiều
năm qua, bản thân tôi nhận thấy rằng: Sản phẩm giáo dục mà chúng ta tạo ra
không thấy trước mắt như bao sản phẩm của các ngành nghề khác. Đặc biệt
là sự hình thành năng lực tự học của học sinh không phải một ngày, một buổi
là có được mà phải trải qua một thời gian dài rèn luyện, cho nên để đảm nhận
công việc này chúng ta phải thật sự kiên trì, nhẫn nại, chịu khó và phải tốn
nhiều thời gian công sức để tìm hiểu. lắng nghe tâm tư nguyện vọng của
từng đối tượng học sinh trong lớp. Bình tĩnh, nhẫn nại trước những tình
huống xảy ra trong cũng như ngoài lớp học. Từ đó đề ra kế hoạch, phương
pháp giáo dục thích hợp cho từng trường hợp đặc biệt bằng cả tấm lòng yêu
thương, nhân ái, bao dung của người thầy.
Đầu năm 2015 2016, tôi được ban Lãnh đạo nhà trường phân công chủ
nhiệm lớp 3A, năm học 2016 – 2017 chủ nhiệm lớp 3C, năm học 2017 – 2018
chủ nhiệm lớp 3B. Dù 3 lớp khác nhau nhưng khi tiếp nhận tôi đều gặp
những thuận lợi và khó khăn chung như sau:
a. Thuận lợi
Trường đã và đang thực hiện dạy và học theo Mô hình mới VNEN. Đây
là một thuận lợi lớn đối với bản thân tôi và kể cả học sinh trong quá trình rèn
luyện ý thức tự giác, năng lực tự học cho HS.
Hầu hết học sinh có ý thức tốt trong học tập. Tích cực tham gia các
phong trào của lớp. Hầu hết các em có những kĩ năng cơ bản trong họat động
nhóm như: kĩ năng lãnh đạo nhóm, kĩ năng hợp tác; giải quyết tình huống,....
Được sự quan tâm của chính quyền địa phương, ban lãnh đạo nhà
trường, đội ngũ giáo viên bộ môn có chuyên môn vững, nhiệt tình trong giảng
dạy.
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
5
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
Được sự nhiệt tình phối hợp chặt chẽ giữa các cha mẹ học sinh cũng
như các đoàn thể cộng đồng trong và ngoài nhà trường với giáo viên chủ
nhiệm lớp.
Luôn có ý thức tự trau dồi, luôn cố gắng phát huy vai trò là người cố
vấn cho học sinh trong mọi thời điểm dù cho đó là ở lớp hay ở nhà. Cố gắng
là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Vì vốn các em thích học theo người
lớn đặc biệt đó là thầy cô giáo của các em, thích bắt chước nên trong tư duy
các em cũng có những suy luận nhất định. Các em sẽ phân vân, nghi ngờ khi
người thầy nói lý thuyết suông mà không thực hành. Nên chính vì thế bản
thân giáo viên cũng phải cho HS thấy mặc dù đã là giáo viên, đã là cô giáo
nhưng cô cũng vẫn đang tích cực rèn luyện, tích cực tự học và khám phá
những điều mới mẻ xung quanh. Làm đựoc như thế vừa là tấm gương cho
HS noi theo cũng là để tích lũy thêm vốn hiểu biết cho bản thân nhằm phục
vụ cho công tác dạy và học.
Tìm kiếm, trao đổi kinh nghiệm với các bạn đồng nghiệp, xây dựng
nên phương pháp giáo dục thích hợp, kịp thời động viên khuyến khích khi các
em tự khám phá ra những điều mới mẻ cho dù là nhỏ nhất. Việc khuyến
khích, động viên kịp thời nhằm giúp các em có động lực phấn đấu, xác định
được mục đích của việc đến trường là để học và hiểu được “vì sao cần phải
học, học để làm gì ?”
b. Khó khăn
Mặc dù các em đã được học tập, trải nghiệm, làm quen Mô hình trường
học mới nhưng một số em vẫn còn rất rụt rè, thiếu chủ động, tự tin , chưa có
năng lực tự giải quyết các tình huống có vấn đề, chưa có khả năng tự học,
chưa phát huy hết vai trò của tất cả thành viên trong các nhóm học tập theo
Mô hình trường học mới VNen.
Một số học sinh có biểu hiện ỷ lại, ý thức tự giác chưa cao vì các em
chưa được hình thói quen tự học ngay từ bé. Mặc khác do nhiều yếu tố tác
động khác nhau như: ở nhà bố mẹ không tạo điều kiện cho con tự học mà hay
cho xem phim hoạt hình, cha mẹ dành phần lớn thời gian để kiếm tiền nên
không có thời gian quan tâm chăm sóc con cái, gia đình có kinh tế không ổn
định, sự quan tâm đến việc học của con còn hạn chế, nhiều phụ huynh dành
sự quan tâm đến con cái chưa phù hợp, không phải phụ huynh nào cũng sẵn
sàng hợp tác với giáo viên nên giáo viên khó thỏa thuận, khó liên hệ với gia
đình để phối hợp giáo dục. Dẫn đến kết quả học tập – năng lực tự học ở lớp
cũng như ở nhà của một số em vẫn còn hạn chế.
Hơn nữa, trong xu thế phổ cập học sinh trong lứa tuổi này được xã hội
ưu ái nên các em thường có nhiều yêu sách với giáo viên khi không hoàn thành
nhiệm vụ học tập. Còn nhiều em kiến thức cơ bản chưa hoàn thành, nói gì
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
6
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
đến những kiến thức xung quanh cần khám phá để phục vụ cho đời sống
hiện tại, cho tương lại.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã nâng cao chất lượng cuộc sống,
nhưng các em hay bị cuốn hút theo những trò chơi không có lợi, làm lãng phí
thời gian khi ở nhà mà không biết cách tìm tòi, khám phá những kiến thức rất
bổ ích qua phương tiện hiện đại để tích lũy cho bản thân
Nếu giáo viên từ chối lắng nghe học sinh bày tỏ cho dù đó là môi truờng
trong lớp học hay ngoài lớp học thì chắc chắn trong lớp vẫn còn những học
sinh có biểu hiện thiếu hứng thú, thiếu tích cực tìm tòi khám phá trong quá
trình tự học.
Hình thành ý thức tự học cho học sinh là một công tác khó khăn, đòi hỏi
giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian, công sức cho công tác này, nhưng thực
tế giáo viên chưa có nhiều thời gian đầu tư.
Một số giáo viên bộ môn không cùng quan điểm nên gặp khó khăn trong xử lí
một số tình huống giáo dục học sinh. Ở lớp một số thầy cô có thói quen làm
thay cho học sinh.
c. Kết quả khảo sát
Theo kết quả khảo sát của HS lớp 3B, trường TH Lý Tự Trọng năm
học 2017 – 2018 nêu lên thực trạng về hoạt động tự học của học sinh có 81,8
% HS chọn hình thức học một mình, 33,3 % HS chọn nhóm bạn để cùng học
tập và chỉ có 6.1 % HS chọn hình thức học với người thân. Kết quả khảo sát
cũng cho thấy, về kỹ năng tự học, có khoảng 27, 2 % 54,5 % HS còn lúng
túng khi sử dụng các kỹ năng tự học. Mức độ sử dụng thành thạo các kỹ năng
tự học của HS còn quá thấp ( chỉ từ 6,1 – 12,1 %).
Về ý kiến của GV bộ môn đối với thời gian tự học của HS, có khoảng
34,8 % 38,9 % ý kiến GV cho rằng HS chỉ tự học một ngày từ 1 giờ đến 2
giờ và có 6,5 % 15,7% ý kiến GVcho rằng HS tự học 3 giờ và trên 3 giờ mỗi
ngày. Ý kiến của các HS về thời gian tự học cũng tương đối tương tự với các
ý kiến của các GV về vấn đề này khi có 24,2% 45,1% cho rằng các em chỉ
tự học từ 1 giờ đến 2 giờ trong một ngày và có 9,1 % 15, 2 % HS cho biết đã
tự học 3 giờ và trên 3 giờ mỗi ngày.
Qua kết quả khảo sát, có thể thấy rằng thực trạng về hoạt động tự học
của HS vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Theo kết quả trên, tỉ lệ HS tự học từ 1
đến 2 giờ chiếm khá cao. Bên cạnh đó, nhiều HS vẫn còn lúng túng khi sử
dụng các kỹ năng tự học. Nguyên nhân một phần là do các em chưa có ý thức
tự giác trong quá trình học tập, một phần khác là do các em chưa được định
hướng một cách cụ thể trong hoạt động tự học của bản thân. Do vậy, vai trò
của người GV trong việc phát triển kỹ năng tự học của HS nhằm góp phần
nâng cao chất lượng dạy và học là hết sức quan trọng.
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
7
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Những giải pháp được nêu trong đề tài đã giúp tôi có nhiều kinh nghiệm,
phương pháp, biện pháp để nâng cao năng lực tự học cho HS. Khi vận dụng
biện pháp này, tôi thấy kĩ năng, năng lực tự học của học sinh được nâng lên
rõ rệt.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp và biện pháp
b.1. Tạo động lực và hứng thú để phát triển kỹ năng tự học cho HS
Muốn học sinh có ý thức tự học thì trước hết các em phải yêu thích môn
học đó. Vì vậy cần tạo cho HS niềm say mê môn học. Tôi đã dùng tiết dạy
để giới thiệu về môn học, về những giá trị của môn học trong thực tiễn bằng
những ví dụ minh họa cụ thể nhằm kích thích động cơ học tập ở các em.
Trong quá trình dạy học, tôi đã lồng ghép một số kiến thức các môn học một
cách tự nhiên ở hoạt động khởi động hoặc hoạt động kết thúc tiết học. Ví
dụ: Ở môn Tự nhiên & Xã hội, có thể làm được điều này thông qua cách đặt
vấn đề bằng những câu chuyện hay đơn giản chỉ là những câu hỏi thú vị như:
Tại sao nước làm tắt lửa ?; Tại sao đồng hồ chạy từ trái sang phải? Câu hỏi
vừa đặt ra tưởng chừng rất đơn giản nhưng để trả lời được câu hỏi này đòi
hỏi HS cần phải có những hiểu biết nhất định. Hay như câu hỏi: “Băng
phẳng và băng mấp mô, thứ nào trơn hơn? ”. Trên thực tế, đa số HS khi được
hỏi thường trả lời là băng phẳng trơn hơn, nhưng sự thật lại không phải như
vậy. Đó chính là điểm hấp dẫn, thú vị khi giáo viên đưa ra câu trả lời và giải
thích.
Hướng dẫn cho HS cách xây dựng kế hoạch học tập từ ban đầu. Ngay
từ tiết học đầu tiên của môn học, tôi không dạy ngay mà giới thiệu sơ lược
về chương trình, nội dung và phương pháp học một cách khái quát nhất để
khơi gợi hứng thú học tập cho học sinh và từ đó, tự xây dựng cho mình kế
hoạch học tập phù hợp. GV phải làm cho HS hiểu rõ: mọi kế hoạch phải
được xây dựng dựa trên mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể và HS hoàn toàn
có thể phấn đấu thực hiện được từng mục tiêu nếu có kế hoạch thời gian
được xây dựng chi tiết. Chẳng hạn, trong quá trình giảng dạy mỗi chủ đề, tôi
đã cung cấp cho HS nội dung và thời gian học và kiểm tra để HS nắm rõ.
Đồng thời, có thể cho HS đánh dấu vào trong sách bài nào học ngày nào, đến
tiết nào sẽ kiểm tra. Muốn HS tự xây dựng kế hoạch học tập thì GV phải là
người cung cấp đầy đủ kế hoach dạy và học của các môn học.
Hướng dẫn cho HS cách tìm và đọc sách hoặc tài liệu liên quan đến môn
học. GV cần nhấn mạnh cho HS thấy rằng, kiến thức môn học không chỉ gói
gọn trong nội dung Sách HD, trong bài giảng của cô mà đến từ nhiều nguồn
khác nhau. Do đó, tôi đã tìm hiểu và giới thiệu cho HS những cuốn sách hay,
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
8
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
những tài liệu bổ ích liên quan đến môn học như: Hàng vạn câu hỏi vì sao ?
Cây ơi bạn đến từ đâu ? Những bài toán vui; Người dân tộc Khơ mú sống
như thế nào ?........ và khuyến khích các em tự tìm kiếm, tự phân tích và tổng
hợp kiến thức. GV cũng có thể giới thiệu địa chỉ một số trang web, hoặc các
trang diễn đàn trao đổi kinh nghiệm học tập để HS tham khảo thêm. Ví dụ:
Để được tư vấn trực tiếp về các phương pháp tự học hãy truy cập vào
website: hanoiacademy.com.vn hoặc gọi vào hotline: 0986.94.0909 để được
giúp đỡ hoặc tìm kiếm những thông tin hữu ích khác qua mạng Inrnet của
trường hoặc tại gia đình.
Dạy cho HS cách ghi chép và nghe giảng vì đây là những kỹ năng học tập
vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập của HS. Dù
được học ở bất kì chương trình nào, cấp học nào đi nữa thì khi các em đã có
đủ khả năng ghi chép thì hãy rèn luyện cho các em ghi chép lại một vài điều
cảm thấy bổ ích, thích thú đối với bản thân qua các giờ học. Điều này phải
được thực hiện một cách tự nguyện nhờ vào quá trình rèn luyện của GV.
Trình độ nghe và ghi chép của học sinh ở mỗi môn học khác nhau là khác
nhau, tùy thuộc vào đặc thù của từng môn học và phương pháp giảng dạy của
từng giáo viên. Vì thế tôi đã phối hợp với các giáo viên bộ môn để rèn cho HS
kĩ năng này. Khi học tập HS thường mang lối học thụ động, quen tách việc
nghe và ghi chép ra khỏi nhau, thậm chí nhiều HS chỉ chờ GV đọc mới có thể
ghi chép được nội dung bài học, nếu ngược lại thì bỏ trống vở. Điều này
khiến HS có tâm lí ức chế, ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận kiến thức. Để
khắc phục vấn đề này, tôi xây dựng cho HS thói quen ghi chép, bên cạnh nội
dung của bài học có chừa khoảng trắng cho HS ghi chép hoặc ghi vào sổ tay
những vấn đề mà GV mở rộng hoặc những điều các em thấy thích thú trong
giờ học. Đối với các vấn đề mà HS còn chưa rõ, có thể đánh dấu để hỏi lại
GV hoặc tìm hiểu thêm. Rèn luyện cho HS cách ghi chép nhanh bằng các hình
thức gạch chân, bằng sơ đồ hình vẽ đơn giản những ý chính. Đối với các vấn
đề quan trọng, tôi nhấn mạnh, lặp lại nhiều lần để HS tiếp thu đễ dàng hơn.
Hướng dẫn cho HS cách học bài. GV nên giới thiệu và hướng dẫn cho
HS tự học theo nhiều hình thức khác nhau. Huớng dẫn HS cách phân tích,
tổng hợp, vận dụng tri thức vào từng tình huống thực tiễn, học cách nhận xét,
đánh giá, so sánh đối chiếu các kiến thức khác… Cách tự học này sẽ giúp cho
HS có thể học được cách rèn luyện được năng lực tư duy logic, tư duy trừu
tượng và phát triển tư duy sáng tạo trong việc tìm ra những hướng tiếp cận
mới đối với các vấn đề trong học tập, trong cuộc sống..
Ở cuối mỗi tiết hoc, tôi thường giao nhiệm vụ cụ thể cho HS ở tiết học
tiếp theo. Để phát huy tối đa năng lực tự học và thúc đẩy HS tận dụng hết
thời gian tự học, GV cần giao nhiệm vụ cụ thể cho HS.
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
9
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
Ví dụ: Khi học bài: Gam (PPCT tiết 65). Giao nhiệm vụ cụ thể cho các
nhóm như: Mỗi nhóm sẽ có cân đồng hồ, cân đĩa, một số loại thực phẩm như
đường, muối, rau;…để thực hành cân. Môn Tiếng Việt: Học chủ đề về quê
hương, cuối tiết yêu cầu HS sưu tầm trước một số bài hát về quê hương.
Việc tự học sẽ diễn ra rất tự nhiên. Các nhóm sẽ phân công nhiệm cho nhau
để tìm kiếm bài hát từ nhiều nguồn thông tin khác nhau. Sau khi đã tiếp nhận
được kiến thức cũ, các em có thể tìm hiểu kiến thức mới. Có như thế, các em
mới định hướng được cụ thể các nhiệm vụ mình cần làm tiếp theo. Khi có sự
chuẩn bị trước ở nhà, việc học trên lớp sẽ trở nên có hiệu quả hơn rất nhiều.
Vấn đề tự học ở HS là một vấn đề không hề đơn giản. Muốn hoạt động
học tập đạt kết quả cao, đòi hỏi HS phải tự giác, không ngừng tìm tòi học
hỏi. Ngoài ra, sự định hướng của người thầy đóng vai trò quyết định thúc đẩy
sự thành công trong việc chiếm lĩnh tri thức của học sinh. Vì đây là một loại
hoạt động, một loại lao động đặc biệt đòi hỏi HS phải có hứng thú trong học
tập, tự học. Có hứng thú học tập, tự học sẽ giúp HS khắc phục được những
áp lực, sự mệt mỏi, đối phó trong quá trình học tập. Cũng có thể khi mới bắt
tay vào tự học, học sinh chưa có hứng thú, hoặc ít hứng thú, nhưng chính
trong quá trình tự học, với những khám phá mới, cách tiếp cận mới, học sinh
từ chỗ ít hứng thú đến nhiều hứng thú, từ chỗ việc học chỉ là một loại hoạt
động bình thường (là nghĩa vụ) dần dần trở thành một sự đam mê, tự giác, có
sự thôi thúc từ bên trong như một nhu cầu tự thân của học sinh vậy.
Ngoài ra, tôi tìm hiểu và nắm chắc một số văn bản qui định, thông tư
đánh giá xếp loại học sinh để từ đó đưa ra các qui tắc thưởng phạt theo tinh
thần tự chủ được gọi là “kỉ luật tích cực”. Điều này tạo động lực thúc đẩy
rất tích cực cho việc hình thành năng lực tự học ở mỗi học sinh.
b.2. Nhóm kĩ năng học sinh cần có khi tự học
Kỹ năng tự học của HS được hiểu đó là những việc làm, hành động,
thao tác cụ thể của các em trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Con đường tích
lũy, thu thập cũng phải tuân theo những quy định phù hợp, tránh tùy tiện.
Muốn được như vậy, HS phải được rèn luyện một số kỹ năng tự học quan
trọng. Đó là kỹ năng định hướng, tìm kiếm thông tin, xác định tài liệu, tìm tài
liệu, lựa chọn tài liệu, đọc tài liệu, ghi chép tài liệu, phân tích tài liệu, sử
dụng tài liệu. Đứng trước các nguồn tư liệu, thông tin phong phú, đa dạng
HS phải biết lựa chọn những tư liệu, thông tin phù hợp, cốt lõi nhất, gắn với
yêu cầu học tập của mình, giúp cho việc học tập có kết quả hữu hiệu. Với
thông tin trên mạng, HS cũng cần được trang bị tri thức nhất định (về đường
lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước; về pháp luật, đạo đức, thẩm mỹ…) để
không bị những thông tin xấu không đúng với bản chất của sự vật, hiện
tượng làm rối nhiễu, sai lạc cách tiếp nhận của mình. Điều này là vô cùng
quan trọng. Ngoài ra, trong số các kỹ năng HS cần được rèn luyện, kỹ năng sử
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
10
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
dụng CNTT là một kỹ năng quan trọng. Đồng thời, xuyên suốt các yêu cầu
đối với hoạt động tự học nhằm đạt được một năng lực nhất định, HS cần có
các phẩm chất, đức tính như cần cù, chăm chỉ, không ngại khó khăn, có ý thức
vượt khó khăn, có nhu cầu tìm hiểu, khám phá cái mới của tri thức…
Kỹ năng tự học hiểu cụ thể hơn là khả năng thực hiện một hệ thống các
thao tác tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động tự học trên cơ sở vận dụng các
kinh nghiệm có liên quan đến hoạt động đó. Có bao nhiêu loại hình học tập
thì có bấy nhiêu loại hình kỹ năng chuyên biệt.
Tiếp thu những quan điểm trên, tôi phân chia hoạt động tự học bao gồm
các nhóm kỹ năng cơ bản sau:
b.2.1. Kỹ năng định hướng
Trước tiên, để quá trình tự học diễn ra thành công cần hình thành cho
HS cơ sở định hướng của hành động. Đó là hệ thống định hướng và chỉ dẫn
mà chủ thể có thể sử dụng nó để thực hiện một hành động xác định nào đó.
Nó có chức năng nhận thức đối tượng, vạch kế hoạch, kiểm tra và điều chỉnh
hành động theo kế hoạch. Để có được cơ sở định hướng, HS phải trả lời
được các câu hỏi:
Học nhằm mục đích gì ? Học vì yêu thích môn học, vì trách nhiệm với
gia đình và xã hội, hay vì để được khen, được đánh giá cao.
Thái độ học tập ra sao ? Học với tinh thần, thái độ nghiêm túc hay hời
hợt, qua loa.
Học như thế nào ? HS nên chọn phương pháp nào là phù hợp với bản
thân.
b.2.2. Kỹ năng lập kế hoạch học tập
Mọi việc sẽ dễ dàng hơn nếu HS xác định được mục tiêu, nội dung và
phương pháp học. Cho nên tôi đã hướng dẫn HS xây dựng kế hoạch học tập.
Trên cơ sở bộ khung đã được thiết lập đó, HS có thể tiếp cận và chiếm lĩnh
tri thức một cách dễ dàng. Trong quá trình lập kế hoạch phải chú ý một số
điểm sau:
Thứ nhất, phải xác định tính hướng đích của kế hoạch. Đó có thể là kế
hoạch ngắn hạn, dài hạn, thậm chí kế hoạch cho từng môn, cho từng chủ đề.
Kế hoạch phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm, từng
giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình.
Thứ hai, khi lập kế hoạch, phải chọn đúng trọng tâm, cần xác định
được cái gì là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công
sức cho nó.
b.2.3. Kỹ năng thực hiện kế hoạch
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
11
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
Muốn thực hiện thành công kế hoạch mình đã tạo lập, HS cần có một
số kỹ năng sau:
Tiếp cận thông tin: lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều
nguồn khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe
giảng, xem truyền hình, tra cứu từ Internet, làm thí nghiệm…Trong hoạt động
này rất cần có sự tỉnh táo để chọn lọc thông tin một cách thông minh và linh
hoạt.
Xử lí thông tin: việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao giờ
diễn ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được.
Quá trình này có thể được tiến hành thông qua các kỹ năng ghi chép, phân tích,
đánh giá, tóm lược, tổng hợp, so sánh…
Vận dụng tri thức, thông tin: thể hiện qua việc vận dụng thông tin tri
thức khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo
luận, xử lí các tình huống, viết báo cáo,…
Trao đổi, phổ biến thông tin: việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông
tin tri thức thông qua các hình thức: thảo luận, thuyết trình, tranh luận… là
công việc cuối cùng của quá trình tiếp nhận tri thức.
b.2.4. Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm
Khi HS tự đánh giá được kết quả học tập của mình, các em sẽ tự đánh
giá được năng lực học tập của bản thân, hiểu được cái gì mình làm được, cái
gì mình chưa làm được để từ đó có hướng phát huy hoặc khắc phục. Để có
kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, học sinh cần:
Tự trả lời câu hỏi trong tài liệu hướng dẫn học tập bằng cách xác định
yêu cầu của câu hỏi, dự kiến câu trả lời, tái hiện các kiến thức liên quan, tập
trình bày câu trả lời trước nhóm hoặc trước lớp để tìm ra chỗ sai từ đó khắc
phục.
Tự đặt câu hỏi để tự mình giải quyết hoặc thảo luận cùng bạn bè.
Làm các bài tập của thầy cô giao cho, hoặc các bài tập bản thân tự tìm kiếm
sau đó tự mình kiểm tra đáp án để rút kinh nghiệm,….
b.3. Hình thành năng lực tự học cho học sinh trong giờ học chính
khóa
Để làm được điều này đòi hỏi mỗi giáo viên phải có hiểu biết cơ bản
về nội dung chương trình của lớp học, cấp học; mạnh dạn đổi mới cách thiết
kế và tổ chức lớp học trong đó các hoạt động thực hành cần được thực hiện
thường xuyên. Đồng thời, chuyển quá trình dạy học một cách hình thức, áp
đặt của của giáo viên thành quá trình tự học, tự tìm tòi, khám phá của học
sinh. Trong quá trình dạy học trên lớp, tôi thực hiện theo trình tự:
Giúp học sinh nắm được mục tiêu nhiệm vụ học tập; Tự mình giải
quyết nhiệm vụ học tập. Khi gặp khó khăn mới trao đổi với bạn (khi đó các
12
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
nhóm học tập sẽ tương tác và hình thành thói quen tự học một cách tự nhiên
theo nhu cầu của chính các em). Các bạn trong nhóm trao đổi bài kiểm tra cho
nhau, nói cho nhau kết quả, cách làm của mình. Báo cáo kết quả học tập
trước lớp cho các bạn và cô giáo. Khi được công nhận hoàn thành nhiệm vụ
trước đó thì thực hiện nhiệm vụ học tập mới.
Ở các tiết dạy nhất là trong Mô hình dạy học VNEN, vị trí quan sát thật
sự rất quan trọng và cần thiết. Vì thế, tôi đã chọn vị trí quan sát thật thích hợp
để quan sát thái độ, cử chỉ nét mặt. Nếu phát hiện em nào gặp khó khăn, kịp
thời có biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ. Nếu nhiệm vụ học tập là vấn đề khó với
đa số học sinh, tôi mới hướng dẫn chung với cả lớp. Mặc khác học sinh đã
rất thuận lợi trong trao đổi, tương tác, theo việc kê bàn ghế bố trí phù hợp, kê
theo nhóm, học sinh ngồi đối diện với nhau theo Mô hình mới giúp các em
hợp tác, tương tác nhóm dễ dàng hơn. Với cách tổ chức dạy học như vậy,
cách đánh giá học sinh cũng được chuyển trọng tâm từ đánh giá "kết thúc",
đánh giá "tổng kết" sang đánh giá quá trình, đánh giá "tiến trình"; chuyển đánh
giá "bằng điểm số"sang đánh giá "bằng nhận xét". Việc đánh giá quá trình
phát triển, đánh giá sự tiến bộ mới là đánh giá thiết thực và hiệu quả nhất cho
sự phát triển của mỗi học sinh. Điều này đòi hỏi giáo viên phải thường xuyên
quan sát, theo dõi cá nhân học sinh, nhóm học sinh trong quá trình học tập để
có nhận định, động viên hoặc gợi ý, hỗ trợ kịp thời đối với từng việc làm,
từng nhiệm vụ của mỗi cá nhân hoặc của cả nhóm học sinh. Đồng thời tôi cố
gắng quan sát từng học sinh đưa ra những nhận định, nhận xét về một số
biểu hiện của phẩm chất và năng lực của học sinh để kịp thời động viên,
khuyến khích các em có động lực học tập. Đưa ra biện pháp hỗ trợ và điều
chỉnh những kiến thức mà học sinh chưa đạt yêu cầu.
Ví dụ: Trong giờ học toán đa số HS trong cùng một nhóm rất khó khăn
trong việc thực hiện phép chia số có bốn chữ số cho số có một chữ số trong
trường hợp số bị chia có chứa chữ số 0 ở hàng trăm. Trong trường hợp này
tôi kịp thời gợi ý, hỗ trợ để các em giải quyết được vấn đề một cách nhanh
chóng, không để lãng phí thời gian của cả nhóm.
Từ đó, động viên, khích lệ, giúp học sinh khắc phục khó khăn, phát huy
ưu điểm và các tố chất riêng, sửa chữa khuyết điểm để ngày càng tiến bộ.
Hiện nay sách hướng dẫn theo chương trình VNEN được thiết kế khá
phù hợp, các nội dung, nhiệm vụ học tập cho cá nhân, nhóm, cả lớp khá rõ
ràng. Tuy nhiên sách giáo khoa theo chương trình hiện hành không như vậy.
Điều này là một thuận lợi lớn cho mỗi giáo viên trong quá trình hình thành kĩ
năng tự học cho HS. Vì thế, tôi luôn tâm huyết, đầu tư công sức để thiết kế
các nhiệm vụ học tập thật linh hoạt, phù hợp với điều kiện của lớp để phát
huy tối đa sở truờng và năng lực tự học của từng cá nhân, nhóm học sinh.
b.4. Một số phương pháp tự học ở ngoài giờ học chính khóa.
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
13
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
Mỗi khi làm bất kỳ việc gì dù lớn hay nhỏ cũng phải hướng dẫn học
sinh có kế hoạch, mục tiêu và phương pháp cụ thể, rõ ràng. Để áp dụng các
phương pháp tự học hiệu quả ngoài giờ học chính khóa, cần phải tạo cho HS
thói quen xây dựng kế hoạch học tập thật khoa học, xác định được khối kiến
thức mà HS cần phải trau dồi, phân bổ thời gian cho từng loại kiến thức cụ
thể nếu không muốn HS lãng phí thời gian cho một mớ kiến thức hỗn độn
trong đầu.
Khi đã có kế hoạch thì phải có mục tiêu, phương pháp cụ thể sẽ là động
lực học tập thúc đẩy của HS. Bởi HS phải biết mình cần phải học vì cái gì,
những loại kiến thức đó sẽ phục vụ vào công việc gì trong học tập cũng như
trong cuộc sống của các em. Khi đó các em sẽ chủ động học và đề ra các
phương pháp tự học để có đủ kiến thức thực hiện mục tiêu mà bản thân đã
đề ra. Sau đây là một số phương pháp tự học ngoài giờ lên lớp:
b.4.1. Sự kiên trì, nhẫn nại
Việc học không đơn giản là việc ngồi vào bàn ghi ghi chép chép hay
cầm quyển sách lên đọc….Để có được những kiến thức hay, bổ ích phải có
phương pháp học khoa học, tuy nhiên phương pháp học của mỗi người mỗi
khác, tôi không bao giờ áp dụng phương pháp của HS này vào HS khác rồi ép
bản thân các em phải làm được như vậy. Hãy tìm ra phương pháp phù hợp
với mỗi HS để việc học không gây khó khăn và chán nản cho các em. Tôi đã
hướng dẫn học sinh phải kiên trì và nhẫn nại khi áp dụng các phương pháp tự
học. Hãy thay đổi phương pháp tự học nếu thấy không mang lại hiệu quả.
Dần dần HS sẽ tìm thấy hứng thú, có động lực đúng đắn và phù hợp với
mình.
b.4.2. Kỷ luật khi học
Hãy luyện cho HS tính kỷ luật khi tự học trên lớp cũng như lúc tự học ở
nhà. Khi học tôi hướng dẫn HS dành toàn bộ tâm trí, tập trung cao độ, không
xao nhãng. Dù sử dụng các phương pháp tự học hợp với bản thân mà không
kỷ luật khi học thì mọi cố gắng cũng sẽ thành công cốc mà thôi. Ngoài ra, kỷ
luật khi học cũng là cách tốt nhất để rèn luyện cho HS tính kỉ luật cho bản
thân sau này.
b.4.3. Tìm kiếm tài liệu
Khi dạy học khi thấy đa số HS đều quan tâm đến một vấn đề nào đó mà
trong tài liệu học tập không cung cấp, tôi thường hướng dẫn các em tìm kiếm
tài liệu từ sách, báo, các trang mạng, bạn bè để hiểu sâu hơn về nó. Mặc dù
các em còn rất nhỏ nên kỹ năng tìm kiếm tài liệu nhanh và chính xác rất khó,
nhưng khi rèn luyện cho các em kĩ năng này ngay từ bé dần dần kỹ năng này
của HS cũng sẽ lên thôi. Nên động viên khuyến khích mỗi khi các em phát
hiện ra một bí mật nào đó dù là nhỏ nhất.
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
14
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
Thật sự bản thân tôi cũng rất bất ngờ khi trong một giờ Tiếng Việt ở
hoạt động tập viết tên riêng Đinh Bộ Lĩnh. Kết thúc hoạt động trước đó, tôi
yêu cầu cả lớp lên thư viện hoặc lên phòng máy tìm kiếm, đọc thêm tài liệu
để tìm hiểu về nhân vật này. Tôi chỉ dừng lại ở đó, thế mà đa số HS trong lớp
rất hào hứng khi làm việc này. Sau giờ nghỉ giải lao giờ học Tiếng Việt tiếp
tục bắt đầu thì các em đã có rất nhiều thông tin: Đinh Bộ Lĩnh chính là Đinh
Tiên Hoàng; ông có công dẹp loạn 12 sứ quân; hồi nhỏ ông rất thích chơi cờ
lau;….Việc này tôi thấy không khó, chỉ khó khi các em mới bắt đầu, khi đã
quen các em sẽ dễ dàng tìm được các thông tin cần thiết để bổ sung thêm vào
kho kiến thức của mình.
b.4.4. Tự kiểm tra kiến thức
Không phải kiến thức tự học của HS lúc nào cũng được người khác
kiểm tra, vì vậy để việc học đạt hiệu quả cao, tôi đã hướng dẫn HS biết cách
tự kiểm tra kiến thức của mình bằng cách như: tự làm bài kiểm tra ngắn, liệt
kê những nội dung chính, tập vẽ bản đồ tư duy đơn giản,…Việc kiểm tra lại
kiến thức cũng là cách HS một lần nữa củng cố lại những gì đã học được,
những gì còn mơ hồ cần phải học thêm.
Khi học các bảng nhân 6, nhân 7;…Sau khi học thuộc các bảng nhân các
em sẽ yêu cầu người thân cùng chơi trò chơi kiểm tra nhanh bảng nhân bằng
cách một bên đưa ra một phép nhân bất kì trong bảng nhân và bên kia sẽ đưa
ra đáp án. Hoặc tự mình ghi lại bảng nhân ra giấy rồi đối chiếu với bảng cửu
chương; chơi trò chơi kiểm tra nhanh bảng nhân với chính mười ngón tay xinh
xắn của các em;…
b.4.5. Học cách ghi nhớ
Mỗi người sẽ có cách ghi nhớ khác nhau, có người sẽ viết lại nhiều lần
ra giấy, liệt kê những nội dung chính, có người sẽ đọc thật to, có người chỉ
đọc thầm… miễn sao có thể nhớ được kiến thức đó. Tôi đã cho HS của mình
thử tất cả những cách trên xem cách nào sẽ giúp các em ghi nhớ nhanh nhất
và hiệu quả nhất và bản thân các em sẽ tự mình được lựa chọn cách ghi nhớ
mà các em thích nhất để vận dụng khi tự học.
b.4.6. Chọn lọc thông tin, kiến thức
Mỗi ngày HS sẽ tiếp nhận rất nhiều thông tin, kiến thức khác nhau từ
thầy cô, sách vở, các loại tài liệu tham khảo… Nếu không có kỹ năng chọn
lọc thông tin, kiến thức sẽ khiến cho HS bị nhấn chìm trong một mớ bòng
bong của quá nhiều kiến thức khác nhau. Việc sử dụng tài liệu trên mạng là
con dao hai lưỡi, vì thế, tôi đã hướng dẫn HS biết cách chọn lọc những thông
tin, kiến thức quan trọng, bổ ích cần thiết, đúng với mục đích học tập của
bản thân và ghi nhớ lại chúng. Đừng cố nhớ quá nhiều thứ hỗn độn trong
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
15
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
đầu, điều đó sẽ khiến cho HS cảm thấy việc học thật sự rất đáng sợ và tồi
tệ.
b.4.7. Hiểu sâu và thường xuyên ôn lại kiến thức
Việc hiểu sâu những kiến thức sẽ giúp HS luôn nhớ và biết cách áp
dụng chúng vào từng hoàn cảnh như thế nào cho phù hợp. Ngoài ra cũng cần
hướng dẫn HS thường xuyên ôn lại những gì đã học, nếu không những gì đã
học được sẽ dần dần bị lãng quên theo thời gian.
Khi học môn toán bài nhân chia số có bốn chữ số. Thời lượng dành cho
kiến thức này là 2 tuần. Vì thế mỗi ngày tôi tìm cách gợi ý để HS tự ôn lại
phép cộng trừ bằng cách chơi trò chơi Ai nhanh hơn ? hoặc kiểm tra nhanh 5
phút, 10 phút qua bài toán giải có lời văn về phép cộng trừ với bạn cùng
nhóm.
b.5. Phối hợp cùng cha mẹ học sinh để rèn luyện cho học sinh thói
quen tự học
Thực tế cho thấy, nếu nơi nào có sự phối kết hợp chặt chẽ, thường
xuyên có hiệu quả giữa ba lực lượng giáo dục là gia đình – nhà trường – xã
hội thì hiện tượng học sinh thiếu tích cực trong học tập, việc bỏ học của học
sinh sẽ giảm đi rất nhiều. Xây dựng được mối quan hệ tốt giữa giáo viên và
học sinh, giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng xã hội thì năng lực tự học, ý
thức tự giác, tích cực tự học của học sinh sẽ được phát huy mạnh mẽ hơn.
Như ai cũng biết “Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo” còn khi đến trường “Cô
giáo như mẹ hiền” từ lời bài hát cũng đã thể hiện được sự ân cần chăm sóc
của cô và mẹ với tấm lòng bao dung vô bờ bến dành cho những đứa con thân
yêu của mình. Chúng ta cũng đã từng là học sinh và cũng đã từng coi cô giáo
như người mẹ hiền thứ hai và cho mãi đến bây giờ cũng vậy. Một điều đáng
nói hơn nữa chúng ta cũng đã và đang là những bậc làm cha, làm mẹ. Vậy khi
đặt mình vào vị trí của người phụ huynh, tôi thấy họ gánh trên vai nhiều điều
vất vả trong cuộc sống. Cơm áo gạo, tiền làm chi phối kế hoạch tương lai
cho con cái. Bản thân tôi luôn trăn trở và nghĩ họ mong muốn điều gì ở người
giáo viên ?
Chính vì thế, tôi đã quan tâm phối hợp chặt chẽ với phụ huynh qua
những cuộc họp phụ huynh hoặc trao đổi qua số điện thoại, liên lạc trực
tiếp… để cùng nhau tìm ra phương pháp hiệu quả nhất, để tuyên truyền cho
phụ huynh biết lợi ích của việc tự học ở nhà của HS, hướng HS biết tự tìm
kiếm, tích lũy những kiến thức bổ ích nhằm giúp HS có ý thức tự giác trong
học tập, biết sử dụng quỹ thời gian trống một cách bổ ích khi ở nhà, không sa
vào các tệ nạn của xã hội. Mặc khác để các em biết cách tự mình chủ động
hợp tác với người thân, các lực lượng giáo dục để làm tốt các hoạt động ứng
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
16
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
dụng tại gia đình, việc sử dụng quỹ thời gian ngoài giờ học một cách hiệu
quả. Ông bà ta từ ngàn xưa đã có câu: “Nhàn cư vi bất thiện.”
b.6. Phối hợp – Đội – Thư viện – Thiết bị
Kết hợp cùng Tổng phụ trách lên kế hoạch hoạt động trong tuần, tháng, học
kỳ qua các văn bản cụ thể. Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động của
đội…nhằm giúp học sinh hiểu rõ hơn những bài học cô đọng trên lớp mang
tính chất thực tiễn; tham gia các cuộc thi do Đội tổ chức như: thi vẽ
tranh...20/11), tổ chức nhiều sân chơi bổ ích như thi đố vui để học; Em tập
lên đỉnh Olympia; Em là bạn của thiên nhiên; Em tìm hiểu về Tiếng Việt;
...Muốn có kết quả tốt ở các sân chơi HS cũng phải tự mình tìm tòi nhiều
nguồn kiến thức khác nhau. Từ đó dần dần hình thành cho HS thói quen tự
học một cách tự nhiên, thích thú trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện.
Phối hợp cùng tổng phụ trách đội lựa chọn những học sinh ưu tú của
lớp giới thiệu để kết nạp sớm vào đội, làm động lực thúc đẩy ý thứ tự học
của các em, làm nòng cốt thúc đẩy phong trào của lớp, của nhà trường đi lên.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Để thực hiện các giải pháp, biện pháp trên có tính khả thi thì tất cả các
giải pháp, biện pháp trên phải được thực hiện thường xuyên với sự phối hợp
nhiều phương pháp, hình thức dạy học, sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực
lượng giáo dục như: lãnh đạo nhà trường, giáo viên bộ môn, giáo viên chủ
nhiệm và cha mẹ học sinh cũng như cộng đồng xã hội. Bởi để giúp học sinh
nâng cao được ý thức tự học một cách tự giác, tích cực, hứng thú bằng niềm
say mê thực sự với việc học thì không phải chỉ một mình giáo viên mà có thể
làm được.
Bồi dưỡng động cơ tự học cho học không phải chỉ thực hiện trong một
tháng, một năm .. mà phải xác định là một quá trình lâu dài. Vì tự học là một
loại hoạt động, một loại lao động đặc biệt đòi hỏi học sinh phải có hứng thú
khi thực hiện. Có hứng thú học tập, tự học sẽ giúp HS khắc phục được
những áp lực, sự mệt mỏi, đối phó trong quá trình học tập. Cũng có thể khi
mới bắt tay vào tự học, học sinh chưa có hứng thú, hoặc ít hứng thú, nhưng
chính trong quá trình tự học, với những khám phá mới, cách tiếp cận mới, HS
từ chỗ ít hứng thú đến nhiều hứng thú, từ chỗ việc học chỉ là một loại hoạt
động bình thường (là nghĩa vụ) dần dần trở thành một sự đam mê, tự giác, có
sự thôi thúc từ bên trong như một nhu cầu tự thân của học sinh vậy.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
d.1. Kết quả khảo nghiệm
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
17
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
Sau khi áp dụng đề tài nghiên cứu thu được kết quả như sau:
Năm học
Lớp,
Năng lực tự học cuả học sinh
Sĩ số
Tốt
Đạt
Cần cố gắng
Trước
Sau
Trướ
c
Sau
Trướ
c
Sau
20152016 3A 31 HS
10
21
16
7
5
03
20162017 3 A 30 HS
9
20
17
8
4
02
20172018 3 B 33 HS
11
22
16
10
6
01
d.2. Giá trị khoa học
Phần lớn các em (có cả học sinh cá biệt) có được những kĩ năng tự học,
những hiểu biết cơ bản về cuộc sống xung quanh dù là nhỏ nhất như: Vì sao
ruồi bay có tiếng mà bướm lại không ?; Vì sao trời có mưa ?; Vì sao gà đẻ
gần như mỗi ngày mà một quả trứng đều nở ra cùng lúc ?; Tại sao vào buổi
sáng khi ngủ dậy lại xuất hiện gỉ mắt ?,.....Học sinh từng bước hình thành ý
thức, năng lực tự học, có nhu cầu khám phá để phục vụ cho lợi ích của bản
thân, của gia đình, học sinh lĩnh hội được một cách đúng đắn những điều cần
biết, từng bước hình thành thái kĩ năng tự học, tự tin vào khả năng của bản
thân, có trách nhiệm với những hiểu biết của mình , mong muốn đem lại
niềm vui, hạnh phúc cho mọi người. Bên cạnh đó phát huy những tài năng, sở
trường vốn có của học sinh thông qua quá trình tự học lâu bền.
Bước đầu hình thành năng lực tự học cho học sinh. Học sinh biết cách
tự học thông qua hoạt động vui chơi và tăng cường học từ thực tế, từ thực
tiễn, tập làm các nhà khoa học nhỏ... Khuyến khích và khơi gợi học sinh tự
tìm hiểu, tự khám phá kiến thức thông qua các phương pháp dạy học tích cực
như học theo dự án, nêu vấn đề, theo tình huống... Ngoài ra, trong quá trình
dạy học không quá chú trọng vào cung cấp kiến thức, mà chú ý phát triển
năng lực cho các em, trong đó có năng lực tự học, hướng dẫn học sinh tự học.
Đặc biệt là phụ huynh, đã thay đổi quan điểm là hình thành năng lực, phẩm
chất, kĩ năng cho con em mình quan trọng hơn là "nạp" vào đầu con trẻ càng
nhiều kiến thức càng tốt.
Đổi mới phương pháp giảng dạy, không chỉ dạy kiến thức mà tập trung
dạy cách học, phương pháp học tập, phương pháp tự học. Thực hiện được
mục tiêu hạn chế tình trạng học sinh tham gia vào các trò chơi không có lợi
cho sức khỏe, tiêu tốn tiền bạc của gia đình, sa vào các tệ nạn, vi phạm nội
quy trường lớp, không biết quý trọng thời gian,…Tạo được môi trường học
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
18
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
tập gắn bó, thân thiện khi ở trường, tạo động lực cho học sinh tích cực hơn
trong học tập khi ở nhà, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà
trường.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Để bồi dưỡng và nâng cao năng lực tự học cho học sinh một cách hứng
thú trên tinh thần hoàn toàn tự nguyện khi các em còn là một học sinh tiểu
học, đòi hỏi người giáo viên phải là người có uy tín, cố gắng phấn đấu toàn
diện, có năng lực thực sự để chỉ đạo, dám nghĩ, dám đi trước, đề xuất được
các vấn đề giá trị, tập hợp được sức mạnh tổng hợp, vai trò con chim đầu đàn
là yếu tố có phần lớn lao, tạo nên sự thành công hay thất bại ở mỗi HS, mỗi
lớp học…
Có rất nhiều phương pháp giảng dạy được áp dụng trên thế giới để cùng
hướng tới một mục tiêu giáo dục. Mong muốn của cả xã hội và những người
làm công tác giảng dạy là làm thế nào để chuyển tải kiến thức một cách hiệu
quả nhất để kỹ năng học tập, khám phá của một con người được hình thành
sớm nhất, phục vụ cho tương lai một cách hữu ích nhất. Tự học giúp các em
có được những kiến thức cơ bản, nền tảng tạo nên học vấn của mình. Để
tránh việc mày mò đi lệch hướng, mất thời gian, việc tự học cần được sự
hướng dẫn của người đã biết hay người đi trước tức ở người giáo viên trực
tiếp giảng dạy trên lớp. Đây là vấn đề mang tính quyết định nhất. Người giáo
viên trên lớp phải biết gợi ý, tạo tình huống có vấn đề để HS buộc phải suy
nghĩ. Biết định hướng, khơi gợi cho học sinh hứng thú khi tự học ở nhà. Việc
này phải thực hiện thường xuyên, liên tục.
Tự học không những giúp HS không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu
quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn trang bị cho các em năng
lực, hứng thú, thói quen, có phương pháp tự học thường xuyên và suốt đời.
Qua đó giúp các em rèn luyện đức tính tự lập, ít phụ thuộc vào người khác.
Thiết nghĩ, nếu học sinh đến trường mà bản thân không xác định được
mục tiêu phấn đấu, không chủ động tiếp nhận kiến thức, thì hậu quả thật
đáng sợ, tương lai các em sẽ đi về đâu ? Bởi có đi học, có mở mang tri thức
thì dù ít hay nhiều bản thân mỗi học sinh cũng đã góp phần xây dựng xã hội
văn minh, phồn vinh với nếp sống của con người mới xã hội chủ nghĩa. Vì
thế hãy thể hiện hết khả năng, trách nhiệm của một người giáo viên , một
người thầy để việc giáo dục đạt hiệu quả cao hơn.
2. Kiến nghị
Để bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh ngày càng có hiệu quả, xin
có một số đề xuất sau:
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
19
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
Đối với nhà trường: Nhà trường thực hiện tốt công tác chỉ đạo: giáo
viên, các đoàn thể cùng tham gia công tác giáo dục trong giờ học và ngoài giờ
lên lớp một cách tích cục và hiệu quả hơn nữa. Ví dụ: Đội cố gắng tổ chức
đựoc nhiều sân chơi bổ ích, chất lượng cho học sinh.
Đối với cha mẹ học sinh: Cần quan tâm hơn nữa tới việc tự học, tự rèn
và thái độ của các em ở nhà. Ngoài ra cần phải kiểm tra sát sao việc tự học,
tự rèn ở nhà của các em và có những phản hồi tích cực với giáo viên.
Đối với chính quyền địa phương: luôn luôn tạo mọi điều kiện giúp đỡ
về vật chất cho những em học sinh nghèo và những em học sinh có hoàn cảnh
khó khăn để các em được đến trường như các bạn khác và tham gia vận động
học sinh bỏ học ra lại lớp học cùng giáo viên. Tạo thói quen học tập ở mỗi
gia đình. Đưa việc thực hiện nề nếp học tập của con em trong gia đình vào
chỉ tiêu xét gia đình văn hóa.
Đối với giáo viên bộ môn cần phối hợp với giáo viên chủ nhiệm chặt
chẽ hơn nữa trong công tác đổi mới phương pháp dạy học.
Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Trong khi trình bày sẽ không khỏi có những thiếu sót, rất mong Hội đồng xét
duyệt SKKN, các bạn đồng nghiệp góp ý chân thành để tôi có những kinh
nghiệm hoàn chỉnh hơn.
Rất mong nhận được sự góp ý quý báu của các đồng nghiệp .
Buôn Trấp, ngày 15 tháng 3 năm 2018
Người viết
Dương Thị Kim Truyền
Ý KIẾN NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
20
Dương Thị Kim Truyền
Trọng
Trường TH Lý Tự
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Điều lệ nhà trường phổ thông – Bộ giáo dục
Tâm lí học của Thạc sĩ Trần Thị Ái Liên
Một số tư liệu trong các trang web trên mạng.
Một số tình huống thực tế đã trải nghiệm.
Nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp 3 trong mô hình VNEN.
21