SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“Một số biện pháp tham mưu xây dựng cơ sở vật chất ở trường mầm non”
Họ và tên: Trần Thị Sông Hồng HT MN Mỹ Thủy
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Bác Hồ đã từng nói: “Mẫu giáo tốt sẽ mở đầu cho một nền giáo dục tốt”.
Trong hệ thống Giáo dục quốc dân, giáo dục Mầm non là bậc học đầu tiên, là nền
tảng vững chắc nhất của cả hệ thống giáo dục nước nhà. Trường mầm non có mục
tiêu, nhiệm vụ quan trọng là chăm sóc giáo phát triển toàn diện cho trẻ về thể chất,
tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ là cơ sở hình thành nên nhân cách con người mới
XHCN Việt Nam và chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho trẻ vào Trường Tiểu học
được tốt.
Để quá trình CSGD trẻ có chất lượng và hiệu quả cao, từ lâu con người đã tìm ra
và sử dụng nhiều phương pháp khác nhau cho mục đích này và theo đó cơ sở vật chất
phục vụ cho phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ cũng ra đời và phát triển.
Ở trường tôi, trước đây trong điều kiện kinh tế tuy có sư phát triển trước so với
các xã khác trong vùng, song cũng đang còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở vật chất còn
nhiều thiếu thốn công tác chăm sóc giáo dục trẻ còn gặp nhiều hạn chế, phòng học còn
nhiều lớp học nhà cấp 4, bàn, ghế thiếu và hư hỏng nhiều phải ngồi ghế nhựa phải
xếp liền nhau trẻ mới ngồi đủ, đồ dùng đồ chơi còn thiếu nhiều và đơn giản nên chưa
huy được tính tích cực cho trẻ.
Hiện nay, sự phát triển nhanh chóng của cơ sở vật chất trang thiết bị đồ dùng, đồ
chơi ở ngành học Mầm non đã và đang đem lại tiềm năng sư phạm to lớn cho việc tổ
chức các hoạt động CSGD trẻ có hiệu quả. Vì thế, chúng ta khẳng định: “cơ sở vật
chất là một điều kiện cần thiết trong quá trình nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục
trẻ”.
1
Trong quá trình xây dựng phong trào giáo dục mầm non nói chung và sự nghiệp
GDĐT tạo nói riêng, việc tham mưu xây dựng cơ sở vật chất là trách nhiệm đầu tiên
của người cán bộ quản lý mà đặc biệt là người hiệu trưởng, muốn chất lượng dạy và
học đạt kết quả cao thì đòi hỏi phải có cơ sở vật chất đầy đủ từ phòng học, phòng
chức năng, các loại đồ dùng trang thiết bị dạy học…..vì đây chính là điều kiện cần thiết
để giúp trẻ phát triển nhanh hơn, đầy đủ hơn . Trong công tác quản lý có lẽ đề tài này
đã được nhiều nhà quản lý giáo dục nghiên cứu, Song đối với bản thân tôi, trường tôi
thì đây là một đề tài đem lại nhiều chuyển biến tốt cho nhà trường, điều kiện kinh tế
của địa phương còn gặp khó khăn, đời sống của người dân quanh năm phụ thuộc vào
nghề nông và nghề làm vườn, văn hóa xã hội phát triển khá tốt, song kinh phí để địa
phương đầu tư cho giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng trong những năm
gần đây chưa nhiều. Điều này đã có phần ảnh hưởng lớn đến chất lượng chăm sóc giáo
dục trong nhiều năm qua, Vì vậy, đối với trường tôi đây là một đề tài mới vừa có tính
thực tiễn vừa mang tính chiến lược lâu dài góp phần to lớn vào quá trình xây dựng hoàn
thiện cơ sở vật chất, nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục toàn, diện đáp ứng
nhu cầu bức thiết về giáo dục mầm non trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Phạm vi áp dụng
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp tham mưu xây dựng cơ sở vật
chất ở trường mầm non” với mục đích tăng trưởng cơ sở vật chất, phục vụ tốt nhất
cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ, phù hợp với xu thế phát triển giáo dục mầm non
hiện nay, Đề tài đã được áp dụng tại trường tôi và có tính khả thi cao. Vì thế, đề tài
này được áp dụng cho tất cả các trường mầm non ở các vùng miền tại huyện Lệ Thủy
và có thể áp dụng rộng rãi ở các trường mầm non trong toàn tỉnh Quảng bình.
2. PHẦN NỘI DUNG
. Thực trạng
Trường mầm non nơi tôi về nhận công tác là một trường thuộc vùng đồi phía trước
cách trung tâm huyện không xa lắm, trường có 09 nhóm lớp với số lượng hơn 250 cháu,
2
trường có khá đầy đủ các phòng học cho các độ tuổi, khuôn viên nhà trường cơ bản ổn
định, song điều kiện để cho trẻ vui chơi hoạt động mang tính chất phát triển toàn diện
còn qúa hạn chế diện tích chật hẹp và chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giao thông đi lại không thuận lợi.
Trước tình hình khó khăn đó, là một người quản lý tôi luôn suy nghĩ, trăn trở làm
sao để có trường lớp khang trang, cơ sở vật chất đầy đủ đáp ứng nhu cầu cấp thiết của
giáo dục trong giai đoạn mới, đặc biệt là đáp ứng nhu cầu chơi và học của trẻ em ở
vùng khó khăn. Với một chút kinh nghiệm quản lý đã đúc rút được qua một vài năm
công tác tôi đã quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp tham mưu xây dựng cơ sở
vật chất ở trường mầm non” làm đề tài nghiên cứu nhằm tìm ra các giải pháp xây
dựng cơ sở vật chất cho nhà trường theo hướng kiên cố hóa, đồng bộ hóa và chuẩn hóa
và xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia Trong quá trình nghiên cứu bản thân tôi đã gặp
những thuận lợi và khó khăn sau:
a. Thuận lợi:
Thuận lợi trước hết đó là: Xã đạt xã Nông thôn mới năm 2015, lãnh đạo địa
phương đã quan tâm, đồng tình cao về kế hoạch phát triển quy mô trường lớp giai đoạn
20162020 của nhà trường, các cấp ủy đảng, chính quyền thường xuyên chăm lo đến
giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng. Đây là động lực mạnh mẽ nhất giúp
tôi tự tin hơn trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Sự phối hợp chăt chẽ giữa các tổ chức, đoàn thể như; Hội phụ nữ, mặt trận, Hội
khuyến học xã và đặc biệt là Ban chấp hành hội phụ huynh trong công tác vận động xã
hội hóa giáo dục.
Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời của Lãnh đạo, chuyên
viên Phòng giáo GDĐT, sự quan tâm giúp đỡ của UBND huyện, UBND tỉnh.
Trường có hai khu vực có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và có diện tích khá
rộng; 4.097m2
3
Bên cạnh đó, nhà trường có đội ngũ CB, GV, NV nhiệt tình, chịu thương chịu khó,
có năng lực trong công tác, khả năng tiếp cận chương trình đổi mới nhanh.
Nhân dân và phụ huynh trong những năm gần đây đa nhân th
̃ ̣
ưc v
́ ề giáo dục mà
đặc biệt là về giáo dục mầm non có sự thay đổi lớn.
b. Khó khăn
CSVC của nhà trường còn thiếu thốn, cháu đông song đồ chơi ngoài trời ít, khuôn
viên quy hoạch chưa hoàn thiện, một số hệ thống công trình vệ sinh đã xuống cấp, đồ
dùng, trang thiết bị còn thiếu và đã hư hỏng nhiều. Trường thuộc địa bàn xã ở vùng đồi
trung du kinh tế của nhân dân chủ yếu dựa vào nghề làm vườn, làm rẫy, nhận thức của
một bộ phận người dân còn thấp nên việc huy động nguồn lực đầu tư cho giáo dục
mầm non còn gặp nhiều khó khăn
Đội ngũ giáo viên hợp đồng qua hàng năm khá nhiều nên chưa có nhiều kinh
nghiệm, nhất là trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, các hoạt động phong trào.
Để nâng cao hiệu quả trong việc xây dựng CSVC, trang thiết bị cho trường và giải
quyết những khó khăn CSVC thực tế nhà trường, xuất phát từ trách nhiệm của một
người làm công tác quản lý, với lương tâm nghề nghiệp tôi đã đi sâu nghiên cứu và tìm
ra cho trường một hướng đi mới bằng một số biện pháp cụ thể.
2.2. Một số biện pháp thực hiện:
* Biện pháp 1. Nghiên cứu các tài liệu quy định về chuẩn CSVC và trang thiết
bị ở trường mầm non.
Đây là giải pháp đầu tiên và vô cùng quan trọng đối với người quản lý. Người
quản lý phải nghiên cứu đầy đủ các loại tài liệu và nắm chắc được những yêu cầu tối
thiểu, cụ thể về các điều kiện về CSVC, trang thiết bị của Trường mầm non lúc đó
mới có căn cứ để lập kế hoạch phát triển. Để xây dựng được kế hoạch có tính khả thi
cao tôi đã tập trung nghiên cứu Điều lệ Trường Mầm non ban hành theo Quyết định
số:14/2008/QĐBGDĐT; QĐ số 36/2008/QĐBGD&ĐT ngày 16/7/2008 của Bộ
GD&ĐT Ban hành Quy chế công nhận trường Mầm non đạt chuẩn quốc gia; Thông tư
4
số 02/2010/TTBGDĐT về quy định danh mục thiết bị mầm non tối thiểu phục vụ
chương trình mầm non; Các văn bản trên quy định tiêu chuẩn cụ thể về cơ sở vật chất
cần thiết đối với trường mầm non như: diện tích phải đảm bảo yêu cầu tối thiểu
1,5m2/trẻ, phòng học 55m2/phòng, diện tích hiên chơi rộng 2m, lan can cao 0,8m… diện
tích các phòng chức năng, các phòng hiệu bộ.. đều phải đảm bảo diện tích tối thiểu phù
hợp với các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. Ngoài ra ở trường mầm non các loại đồ
dùng đồ chơi trang thiết bị cũng cần đủ về số lượng và đạt và chất lượng (theo TT02)
như: các loại đồ dùng học tập: bộ học toán, lô tô, vở các loại….; đồ chơi lắp ghép, xếp
hình, …Các trang thiết bị như: ti vi, máy tính, đầu đĩa…Các loại đồ dùng đồ chơi đó
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hoạt động của trẻ ở các độ tuổi bởi vì
thông qua các loại đồ dùng đồ chơi nhân cách trẻ hình thành và phát triển. Các tiêu chí
về cơ sở vật chất trường học được đưa vào chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới 20152020 của Chính phủ.
* Biện pháp 2. Lập kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất
Kế hoạch là khâu đầu tiên trong chu trình quản lý. Nếu không có kế hoạch sẽ
không thực hiện được chức năng quản lý. Kế hoạch chính là yếu tố then chốt trong
việc thực hiện nhiệm vụ duy trì và phát triển nhà trường. Vì vậy tôi luôn luôn coi trọng
và thực hiện nghiêm túc việc xây dựng, hoạch định kế hoạch đối với tất cả các mặt.
Đối với công tác lập kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất, đây là một trong những giải
pháp quan trọng mang tính chiến lược lâu dài xuyên suốt quá trình hoạt động của nhà
trường, xây dựng cơ sở vật chất không chỉ một năm, hai năm mà phải 10 năm, 15 năm
thậm chí 20 năm vẫn còn giá trị sử dụng. Để làm được điều này, là một người quản lý
khi xây dựng kế hoạch cần phải có cái nhìn tổng thể và tầm nhìn chiến lược, cần phải
xác định rõ mục tiêu cần đạt được là gì. Tổ chức rà soát toàn bộ CSVC, đối chiếu theo
5
cac tiêu chu
́
ẩn, xác định các hạng mục còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu để đưa vào
trong kế hoạch phát triển, Trên cơ sở căn cứ vào thực trạng hiện có, các thuận lợi cũng
như khó khăn để xây dựng kế hoạch mang tính khả thi. Như vậy, sự thành công của các
kế hoạch đề ra là hoàn toàn có cơ sở và sẽ đạt được mục tiêu.
Có nhiều loại kế hoạch cần xây dựng đó là: kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung
hạn, kế hoạch ngắn hạn. Kế hoạch dài hạn gọi là chiến lược phát triển giáo dục mầm
non từ 5 đến 10 năm và được xây dựng trên cơ sở giáo dục đào tạo của UBND huyện
20102020; Kế hoạch trung hạn có thời gian 5 năm, kế hoạch này cần phải bám sát
Nghị quyết của Đảng bộ xã theo nhiệm kỳ, kế hoạch của Phòng GDĐT đây là cơ sở
để xây dựng kế hoạch ngắn hạn (23 năm). Kế hoạch ngắn hạn thường có tính khả thi
và hiệu quả thực hiện cao hơn, tiến độ nhanh hơn, đặc biệt là những trường nằm trong
kế hoạch xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I sau 5 năm. Các kế hoạch trên
đều được bổ sung theo kế hoạch từng năm học. Một điều cần lưu ý khi xây dựng kế
hoạch là: Kế hoạch phải phù hợp với điều kiện của địa phương và đặc điểm tình hình
của nhà trường. Chính vì thế, khi xây dựng kế hoạch tôi đã bám sát các văn bản hướng
dẫn của ngành, của địa phương như: Quyết định số 7705/QĐUBND ngày 30/12/2015
của UBND huyện về phê duyệt Kế hoạch phát triển Gió dục Đào tạo giai đoạn 2016
2020; Nghị quyết đảng ủy xã khóa XII, kế hoạch thể hiện rõ mục tiêu từ tổng thể đến
chi tiết, thời gian bắt đầu thực hiện, các tổ chức tham gia thực hiện, nguồn đầu tư,
tổng kinh phí thực thiện và dự kiến móc hoàn thành. Bên cạnh đó kế hoạch cần nêu rõ
các hạng mục đầu tư mới hay tu sữa nâng cấp hoàn chỉnh, mua sắm các loại trang thiết
bị phục vụ cho công tác quản lý, hành chính, công tác dạy và học, công tác bán trú…
Không những thế, trước khi xây dựng kế hoạch cần nắm chắc số lượng trẻ hiện tại và
dự đoán số lượng trẻ sẽ huy động vào lớp trong những năm tiếp theo để có số lượng
trẻ tương ứng với số phòng học, số lớp, các loại đồ dùng, đồ chơi cần thiết như: Bàn
nghế, giá góc, sạp, chăn, chiếu và ấn định số lượng cán bộ, giáo viên, nhân viên.
6
Ví dụ: Kế hoạch trung hạn 20162020 phấn đấu xây dựng duy trì trường đạt chuẩn
quốc gia mức độ I sau 5 năm, kế hoạch này phù hợp với Nghị quyết Đảng ủy xã khóa
XII; Xây dựng duy trì trường mầm non đạt chuẩn quốc gia sau 5 năm vào năm 2017. Sau
khi hoàn thành kế hoạch trung hạn trên cơ sở kế hoạch của UBND huyện và của Phòng
GDĐT tôi bắt tay vào xây dựng kế hoạch trung hạn, lúc này trường chúng tôi vẫn đang
trong thực trạng chưa có đủ phòng hiệu bộ, quy hoạch khuôn viên chưa ổn định, có 04
lớp học chưa có nhà vệ sinh khép kính, chưa có nhà vệ sinh dành cho CB GV, NV, nhà
xe, đồ chơi ngoài trời chỉ được 12 loại không đủ để cháu vui chơi...
Những hạng mục cần thiết chúng ta nên đưa vào kế hoạch hàng năm để tranh thủ
các nguồn vốn huy động được từ công tác xã hội hóa nhà trường chủ động bàn bạc thực
hiện trước như: tu sửa, mua sắm các loại đồ dùng bổ sung… Một điều cần lưu ý khi
xây dựng kế hoạch nữa đó là: Người quản lý năng động, sáng tạo trong quản lý, điều
hành, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực nâng cao chất lượng giáo dục, uy tín thương
hiệu nhà trường sẽ được khẳng định. Phân phối nguồn lực, hay sử dụng nguồn lực
được tốt thì chất lượng sẽ tốt.
Biện pháp 3: Công tác tham mưu với các cấp lãnh đạo chính quyền địa
phương về xây dựng CSVC
Để kế hoạch xây dựng CSVC, trang thiết bị trở thành hiện thực thì công tác tham
mưu của Hiệu trưởng nó quyết định đến sự thành công hay thất bại kế hoạch đó. Vậy,
hiệu trưởng phải xác định được đối tượng mình cần tham mưu đó là Phòng GD&ĐT
Đảng ủy HĐND UBND xã. Chính vì thế, s au khi đã lập xong kế hoạch một cách tỷ
mỷ tôi chủ động tham mưu với Đảng ủy, HĐND, UBND xã và phải xác định tham mưu
vấn đề lớn không thể ngày một ngày hai là được, mà phải kiên trì, tham mưu nhiều lần
vào những thời điểm khác nhau, tham mưu kết hợp tuyên truyền. Tham mưu quy hoạch
mạng lưới trường lớp vừa mang tính tổng thể vừa mang tính chi tiết như: Điều tra, dự
đoán số lượng trẻ theo kế hoạch trung hạn từ 2016 đến năm 2020 ở các độ tuổi để dự
kiến số lớp tương ứng với số phòng học cần có; Để làm được điều này thì việc trước
7
hết cần làm tốt công tác tham mưu với các cấp lãnh đạo, các ban ngành hiểu thêm về
nhiệm vụ, chức năng của ngành học củng như yêu cầu cấp thiết của công tác chăm sóc
giáo dục trẻ trong giai đoạn hiện nay. Tham mưu đầy đủ với các ban ngành như: Đảng
ủy, Hội đồng nhân dân, UBND, UB Mặt trận và trước hết là các đồng chí lãnh đạo chủ
chốt, không chỉ tham mưu ở cấp địa phương mà còn phải tranh thủ ý kiến của lãnh đạo
Phòng GDĐT, ý kiến của UBND huyện. Chính vì thế tôi đã nhiều lần gặp gỡ, trao đổi
và làm tờ trình trình lên các cấp lãnh đạo đề đạt nguyện vọng, những khó khăn của nhà
trường và nhu cầu cần thiết của công tác chăm sóc giáo dục. Sau nhiều lần tham mưu
nhà trường đã nhận được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo; cụ thể: Năm 2014 UBND
tỉnh hỗ trợ 4,0 tỷ đồng xây dựng 4 phòng học cao tầng; Năm 2015: UBND huyện đầu tư
450.000.000đ xây dựng nhà xe và nhà vệ sinh cho CB, GV, NV, Năm 2016 UBND tỉnh
hỗ trợ 450.000.000đ triệu từ nguồn vốn dự phòng xây dãy nhà hai tầng để làm khu phát
triển thể chất, vườn cổ tích; Huy động xã hội hóa được 41. 600.000đ để đóng sạp ngủ,
mua bàn ghế cho trẻ; huyện hỗ trợ kinh phí xây dựng hệ thống khuôn viên, sân chơi ở
cụm trung tâm gần 1,2 tỷ đồng, trong đó UBND xã đối ứng gần 350.000.000đ. Bên cạnh
đó Sở GDĐT hỗ trợ đồ dùng đồ chơi ngoài trời, nhiều loại đồ dùng khác….Ngoài ra
nhà trường còn nhận được sự hỗ trợ từ các ban ngành, tổ chức như: Hội cha mẹ học
sinh, Hội phụ nữ, các doanh nghiệp….trong địa bàn.
Như vậy, qua thực tế cho thấy việc xây dựng cơ sở vật chất ở các trường học
đòi hỏi phải có nguồn kinh phí rất lớn, ngoài nguồn kinh phí mà Nhà nước cấp thì phần
lớn còn tùy thuộc vào tình hình kinh tế của từng địa phương, còn đối với nguồn đóng
góp của phụ huynh chỉ có mức, vì nhân dân đời sống sống nghèo, kinh tế phụ thuộc vào
thời tiết trên biển, dân trí thấp. Tuy nhiên, trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước
ta rất quan tâm đến ngành học mầm non, đã có nhiều chính sách ưu tiên cho bậc học
như: Đầu tư xây dựng các chương trình kiên cố, hỗ trợ nhiều loại đồ dùng đồ chơi cho
các trường như: đồ chơi ngoài trời, giá góc, đồ dùng giáo dục thể chất, các chế độ đãi
8
ngộ cho các cháu và CB, GV, NV sự quan tâm này đã góp phần to lớn đến sự nghiệp
phát triển giáo dục mầm non trong giai đoạn hiện nay.
Biện pháp 4. Công tác tuyên truyền vận động các cấp, các ban ngành, đoàn
thể, hội cha mẹ học sinh và phụ huynh thực hiện xã hội hóa giáo dục.
Như Bác Hồ đã nói: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong”
Dù ở trong thời đại nào, hoàn cảnh nào đi nữa thì chúng ta phải “Lấy dân làm
gốc”, không có việc gì khó mà dân không làm được, chỉ mỗi việc là chúng ta có biết
cách huy động sức dân hay không thôi. Đây là nguyên tắc mà từ trước đến nay Đảng và
Nhà nước ta luôn coi trọng hàng đầu trong công cuộc xây dựng đất nước. Trong sự
nghiệp giáo dục cũng thế, muốn xây dựng một nhà trường vững mạnh thì trước hết
chúng ta phải dựa vào các tầng lớp nhân dân, mà vai trò nồng cốt là Ban đại diện cha
mẹ học sinh và các bậc phụ huynh.
Đối với xã tôi, nhân dân, phụ huynh trong những năm gần đây nhận thức về công
tác giáo dục đã có sự thay đổi lớn, phụ huynh đã nắm bắt được các chế độ, chính sách
đối với giáo dục nên đã có sự quan tâm đúng mục đến con em của mình đặc biệt là ở
bậc mầm non. Đó cũng là nhờ nhà trường đã làm tốt công tác tuyên truyền vận động.
Tuyên truyền ở đây không phải sử dụng panô, áp phích treo đầy đường, hay phát
thanh rầm rộ trên thông tin đại chúng mà bằng những việc làm cụ thể thiết thực như:
Nhà trường tạo được uy tín về chất lượng chăm sóc giáo dục, chất lượng đội ngũ, tổ
chức tốt các phong trào, các hoạt động trong nhà trường có kết quả, nên mới tạo được
lòng tin với phụ huynh, với các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương.
Mặt khác tuyên truyền phải làm sao để mọi người hiểu ra rằng: “Nếu toàn xã
hội và các gia đình quan tâm với công tác XHH thì con em họ được hưởng môi trường
giáo dục tốt hơn”. Việc tuyên truyền phải là một chủ trương đúng đắn với mục đích
dành những gì đẹp nhất cho trẻ, cải thiện điều kiện học tập của trẻ, đổi mới cách dạy
9
của cô và cách học của trẻ.v.v… Trong quá trình tham mưu tạo mối quan hệ thật tốt với
lãnh đạo, các ban ngành đoàn thể trong địa phương, lắng nghe ý kiến đóng góp của mọi
lực lượng xã hội, duy trì thường xuyên liên tục, sinh động, đa dạng và có hiệu quả việc
tuyên truyền các chủ trương, nội dung XHHGD của Đảng và Nhà nước trên các phương
tiện thông tin đại chúng, thông qua các đợt sơ, tổng kết đoàn thể trong toàn xã v v…
.Đồng thời hiệu trưởng tranh thủ kêu gọi sự đóng góp của cộng đồng, phân tích cặn kẽ
các chủ trương huy động của nhà trường, nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi người
dân và cộng đồng xã hội, thể hiện trách nhiệm của xã hội đối với trong việc chăm lo
phát triển giáo dục. ví dụ: Qua từng năm học Ủy ban mặt trận xã đều có thư kêu gọi gửi
các tổ chức, các ban ngành, các bậc phụ huynh và các nhà hảo tâm trong và ngoài địa bàn
hỗ trợ tài lực, vật lực cho giáo dục của xã nhà. Mặt khác căn cứ vào các văn bản hướng
dẫn của UBND huyện và Phòng GDĐT nhà trường xây dựng kế hoạch cụ thể về tu
sữa, mua sắm CVSC, các loại đồ dùng trang thiết bị dạy và học trình và xin ý kiến
UBND sau đó chủ động phối hợp với công đoàn nhà trường, Hội cha mẹ học sinh thành
lập ban vận động về tiến hành vận động nguồn lực từ phía phụ huynh, các doanh
nghiệp, Hội phụ nữ xã, hội khuyến học và đã đạt được kết quả theo kế hoạch đề ra
như: Năm học 20152016 và 20162017: BCH Hội huy động XHH từ phụ huynh:
101..600.000đ; Hội khuyến học: 3,200.000đ, các doanh nghiệp: 20.000.000đ….Ngoài ra
nhà trường còn làm tốt công tác vận động phụ huynh mua đầy đủ các loại đồ dùng học
tập cho các cháu, vận động phụ huynh, đoàn thanh niên, Hội người cao tuổi tham gia 45
công/năm lao động giúp nhà trường làm hàng rào, san đất, làm đường đi cho trẻ, trồng
cây…
Muốn làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục trước hết phải làm tốt công tác tuyên
truyền bằng chính nội lực của mình, phải tạo uy tín với cộng đồng bằng việc nâng cao
chất lượng giáo dục, sử dụng có hiệu quả nguồn huy động, trân trọng sự đóng góp của
cộng đồng, quan tâm chăm lo đến mọi đối tượng học sinh, đồng thời phải chăm lo đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học tạo được môi trường học tập cho
10
học sinh mới được phụ huynh và cộng đồng quan tâm ủng hộ, công tác xã hội hóa giáo
dục mới có hiệu quả và duy trì được lâu dài.
Biện pháp 5. Tăng cường công tác quản lý, sử dụng, bảo quản CSVC của nhà
trường
Song song với việc xây dựng tăng trưởng cơ sở vật chất thì nhà trường cần làm
tốt công tác sử dụng và bảo quản CSVC. Đây không phải là việc làm riêng của cán bộ
quản lý mà đòi hỏi tất cả những người tham gia vào công tác giáo dục đều có trách
nhiệm bảo quản, nhưng trước hết là đội ngũ CB, GV, NV trong nhà trường là những
người đầu tiên phải làm tốt việc sử dụng và bảo quản CSVC. Bởi vì đội ngũ giáo viên,
nhân viên là người trực tiếp sử dụng. Trong quá trình sử dụng, muốn phát huy hết công
dụng, công suất, sự lâu bền của các loại đồ dùng trang thiết bị, thì nhà trường cần có cơ
chế quản lý theo phương thức tự quản; có nghĩa là: những đồ dùng, trang thiết bị máy
móc cần thiết cho người nào sử dụng thì phải có biên bản bàn giao, và người sử sụng
phải có trách nhiệm bảo quản, giữ gìn, có sự kiểm tra việc sử dụng và bảo quản
CVSC, thành lập Ban kiểm kê tài sản và tiến hành kiểm kê 2 lần/năm, thanh lý những
tài sản hư hỏng theo quy định.
Ví dụ: Tài sản nhà bếp nhà trường giao cho cô dinh dưỡng và giáo viên làm cụm
trưởng quản lý, các loại đồ dùng ở các lớp giáo cho giáo viên các lớp sử dụng và bảo
quản.
Ban kiểm kê tài sản có đầy đủ các thành phần gồm; Trưởng ban thanh tra nhân
dân, CBQL phụ trách công tác cơ sở vật chất, tổ trưởng các khu vực, kế toán và GV các
lớp. khi kiểm kê cập nhật danh mục đầy đủ và lập biên bản tại chổ, phân thành các
loại tài sản khác nhau để thuận lợi trong việc quản lý. Ở trường mầm có một khối
lượng tài sản rất lớn ngoài tài sản kiên cố hệ thống các phòng học, phòng chức
năng….bên trong còn có các loại tài sản, đồ dùng trang thiết bị như: máy vi tính, ti vi,
đầu đĩa…, các loại đồ dùng như: bàn ghế, đồ chơi, tài liệu trị giá đến hàng trăm triệu
đồng, kinh phí này không chỉ của nhà nước mà còn là của nhân dân phụ huynh đóng góp,
11
nếu chúng ta sử sụng không đúng mục đích và bảo quản không tốt không những làm
ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục mà còn làm tổn thất đến tài sản chung của nhân
dân, của Nhà nước. Chính vì thế trong quá trình sử dụng tài sản cơ sở vật chất nhà
trường cần nêu cao vai trò, trách nhiệm của mỗi cá nhân, gắn trách nhiệm cụ thể vào
tiêu chí thi đua và thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra hàng tháng, hàng kỳ, hàng năm
không bị thất thoát, hư hỏng. Đối với phòng học nhà trường chỉ đạo giáo viên các lớp
thường xuyên vệ sinh sạch sẽ, giáo dục trẻ không viết, vẽ bậy lên tường, trang trí
phòng học hợp lý, tạo sự thoáng mát sạch sẽ. Các phòng học tuy đã xây dựng 3 4 năm
song tường nhà vẫn luôn mới, vững chắc và bền đẹp.
2.3.
Kết quả đạt được
Trong ba năm tích cực tham mưu và áp dụng nhiều phương pháp như trên nhà
trường đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ trong việc xây dựng cơ sở vật chất.
Cụ thể: Năm 20142015 Xây dựng hoàn thành 4 phòng học cao tầng kinh phí 4,1 tỷ
đồng từ nguồn kinh phí của UBND tỉnh, Xã hội hóa 25.000.000 quy hoạch khuôn viên.
Năm học 20152016: Xây nhà vệ sinh và nhà xe cho giá viên với kinh phí
450.000.000đ huyện hỗ trợ; Huy động xã hội hóa 42.000.000 xây bể nước, mua sắm cac
loại đồ dùng phục vụ bán trú….
Năm học 20162017 tu sửa nâng cấp dãy nhà cấp 4, xây phòng bảo vệ, khu phát
triển thể chất, xây vườn cổ tích…. mua sắm các loại đồ dùng đồ chơi: 35 bộ bàn ghế
cho trẻ; đồ dùng học tập cho trẻ: đồ chơi ngoài trời: 2 bộ từ nguồn xã hội hóa, đồ dùng
phục vụ mở bán trú năm đầu….. với tổng kinh phí gần 1,5 tỷ đồng.
Ngoài các nguồn hỗ trợ trên qua hàng năm các bậc phụ huynh đều chung tay ủng
hộ nhiều loại đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ.
Không chỉ nhà trường thu được kết quả xây dựng từ các nguồn kinh phí mà còn có sự
đồng tình ủng hộ cao của nhân dân, phụ huynh, sự quan tâm chăm lo của lãnh đạo chính
quyền địa phương. Nhân dân, các đoàn thể đã tin tưởng vào sự phấn đấu của đội ngũ
CB, GV, NV nhà trường, các cháu được học trong ngôi trường an toàn, sạch đẹp.
12
Từ kết quả trên đã đem đến thành tích cho Đảng bộ, nhân dân và nhà trường những
danh hiệu cao quý đó là: Năm 20142015 nhà trường đạt tập thể lao động Xuất sắc,
năm 20152016 nhà trường đạt tập thể lao động Xuất sắc, năm học 20162017 đề nghị
UBND tỉnh công nhận trường đạt chuẩn quốc gia mức độ II, Những thành tích trên là
động lực mạnh mẽ thúc đẩy ý chí quyết tâm của tập thể Hội đồng sư phạm nhà trường
trong những năm học tiếp theo.
3. KẾT LUẬN
3.1 Ý nghĩa:
Cơ sở vật chất ở trường mầm non đóng vai quan trọng quyết định đến hiệu quả
chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Trong quá trình tham mưu xây dựng cơ sở vật chất ở
trường tôi, mặc dầu kết quả đạt được so với các trường bạn thì còn rất khiêm tốn, song
sự tham mưu đó đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của giáo dục xã nhà và
thành tích của ngành GDĐT Lệ Thủy nói chung và bậc học Mầm non nói riêng. Đồng
thời tạo dựng được nền tảng cơ sở vật chất vững chắc cho sự phát triển giáo dục của
xã trong tương lai.
Tóm lại: Xây dựng cơ sở vật chất ở trường mầm non có một vai trò, vị trí quan
trọng,
nó là nền tảng, là điều kiện cần thiết để nuôi dạy các cháu, là phượng tiện để giúp trẻ
phát triển một cách toàn diện về các mặt: đạo đức thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình
cảm xã hội và thẩm mỹ. Nếu như chúng ta nuôi dạy các cháu trong điều kiện CSVC
thiếu thốn, không đảm bảo an toàn thì sẽ không đem lại cho các cháu một môi trường
giáo dục toàn diện, không đáp ứng được nhu cầu vui chơi học tập của các cháu. Vì vậy,
xác định công tác tham mưu xây dựng CSVC ở trường lớp mầm non là vấn đề trọng
tâm, một nhiệm vụ hàng đầu mà người cán bộ quản lý nhà trường mà trước hết là
người hiệu trưởng phải làm tốt công tác này. Sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn
dân, nên các cấp chính quyền địa phương, ban ngành đoàn thể cùng chăm lo thì mới có
thể duy trì và phát triển được, nếu chỉ đơn thuần một ngành giáo dục thì chắc chắn sẽ
13
gặp nhiều khó khăn. Chính vì thế mà người hiệu trưởng phải làm công tác tham mưu
với lãnh đạo Đảng, chính quyền địa phương, phối hợp các ban ngành đoàn thể, các bậc
phụ huynh và với toàn dân trong địa bàn mình phụ trách, phải thực hiện tốt công tác “xã
hội hóa giáo dục” trong việc huy động nguồn lực xây dựng CSVC. Xây dựng các điều
kiện, các phương tiện để chăm sóc, nuôi dưỡng và giảng dạy các cháu đạt theo mục
tiêu yêu cầu của ngành học đề ra, đáp ứng nhu cầu đổi mới của đất nước.
Đề tài “Một số biện pháp tham mưu xây dựng cơ sở vật chất ở trường mầm
non” là đề tài mà tôi đã tập trung trí tuệ, tích cực nghiên cứu và đã được áp dụng vào
thực tế đưa lại hiệu quả cao trong quá trình thực hiện, Nội dung và các biện pháp phù
hợp với tình hình của địa phương, của nhà trường. Trong quá trình nghiên cứu với thời
gian nghiên ngắn, phạp vi áp dụng còn hẹp chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Mong
muốn được các bạn đóng góp ý kiến thêm để đề tài được áp dụng rộng rãi và có hiệu
quả hơn trong những năm tiếp theo./.
14
Ý kiến của Hội đồng khoa học Phòng GDĐT Lệ Thủy
15