MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT LỚP 5
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trên khắp đất nước Việt Nam, mỗi dân tộc đều gắn liền với một bản
sắc văn hoá và chính bản sắc văn hoá này đã tạo nên một nét riêng biệt của
mỗi vùng, miền. Đắk Lắk là một tỉnh miền núi, trong đó đồng bào dân tộc Ê
Đê chiếm 30% dân số của tỉnh với nhiều nét đẹp văn hóa vẫn được bảo tồn
và phát huy như Văn hóa cồng chiêng, ngày 25 11 2005 đã được tổ chức
UNESCO công nhận “Không gian Văn hóa cồng chiêng là kiệt tác truyền
khẩu và phi vật thể của nhân loại”; Văn hóa lễ hội: Lễ cúng bến nước, lễ
cúng vào nhà mới, lễ cúng trưởng thành, lễ cúng sức khỏe, lễ cầu mưa,…
Đồng bào Êđê rất tự hào về các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
Bên cạnh những giá trị văn hóa tốt đẹp đó, ở vùng sâu, vùng xa trình độ
dân trí còn thấp, kinh tế chậm phát triển các hiện tượng mê tín dị đoan, các
tập quán hủ tục vẫn còn tồn tại như tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận
huyết. Tình trang này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn gây ra hậu quả rất
lớn đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Tảo hôn thì vợ, chồng chưa phát triển
đầy đủ về cả sinh lý và tâm lý, chưa đủ khả năng để chăm sóc con phát triển
một cách bình thường, khỏe mạnh, toàn diện, do đó những đứa con đó lớn lên
sẽ rất khó khăn về nhiều mặt như sức khỏe, học hành... Tảo hôn và hôn nhân
cận huyết thống sẽ sinh ra những đứa con kém phát triển về trí tuệ, khả năng
học tập kém, không có khả năng tiếp thu như những đứa trẻ bình thường.
Dân tộc Ê đê cũng như một số dân tộc ít người khác thường định cư ở
miền núi, chịu nhiều bất lợi về kinh tế, xã hội, tỉ lệ hộ nghèo và mù chữ cao.
Trường Tiểu học Ea Bông nằm trên địa bàn Buôn Riăng, Buôn Knul và thôn
10/3 thuộc xã Ea Bông, đây là một xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn
của huyện Krông Ana. Trong đó có hai buôn là Buôn Riăng và Buôn Knul có
dân tộc Ê đê sinh sống. Nhân dân ở đây chủ yếu là làm nông nghiệp và làm
thuê. Mức thu nhập bình quân của hộ gia đình thấp. Đời sống kinh tế người
dân không đảm bảo nên việc chăm lo học hành cho con cái gặp rất nhiều khó
khăn.
Một số đứa trẻ được sinh ra ở đây cũng có nhiều điểm đặc biệt: Cơ
thể phát triển chậm so với lứa tuổi, kéo theo tâm sinh lí của các em cũng
chậm phát triển. Các em không được nhanh nhẹn, hoạt bát về ngôn ngữ cũng
như các hoạt động. Đối tượng thứ nhất là học sinh thuộc gia đình có điều
kiện kinh tế khó khăn: Những em này hay nghỉ học để phụ giúp bố mẹ, nên
việc tiếp thu bài trên lớp bị gián đoạn. Dẫn đến các em tiếp thu bài chậm, kết
quả học tập giảm sút. Các em thấy tự ti khi đến lớp, các em không muốn học
và thường gây mất trật tự trong các giờ học. Đối tượng thứ hai là học sinh
1
thiếu sự quan tâm, giáo dục của bố mẹ. Bố hoặc mẹ mất hay bố mẹ đi làm
ăn xa, các em phải ở nhà với ông bà, không có người đôn đốc việc học hành
nên các em thiếu sự định hướng trong học tập và cuộc sống. Trong khi đó, độ
tuổi của các em đang bước vào giai đoạn đầu của tuổi dậy thì, có nhiều sự
biến đổi về tâm sinh lí. Các em cần có người bố hoặc mẹ hướng dẫn, giúp
đỡ để các em có những bước phát triển đúng đắn nhất về mặt xã hội, tinh
thần cũng như thể chất.
Vốn kĩ năng sống của các em còn rất nhiều hạn chế, các em chưa có
động lực học tập tích cực. Xuất phát từ thực tế đó, tôi luôn trăn trở làm sao
để dạy dỗ và giáo dục các em để trở thành người hữu ích cho gia đình, xã hội .
Vì vậy, đòi hỏi người giáo viên phải làm tốt công tác chủ nhiệm, xứng đáng
với hình ảnh đẹp mà xã hội cũng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói:
“Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý vì nó tạo ra
những con người sáng tạo”. Đó chính là lí do tôi chọn viết sáng kiến kinh
nghiệm: “Một số kinh nghiệm giáo dục học sinh cá biệt lớp 5.”
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của đề tài là tìm ra biện pháp, giải pháp nâng cao công tác
chủ nhiệm đối với học sinh dân tộc thiểu số cá biệt; xây dựng tốt mối quan
hệ giáo dục giữa nhà trường, giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh, các đoàn
thể, địa phương. Với mong muốn nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện cho
các em. Giáo viên tự rèn luyện tinh thần năng động, say mê, sáng tạo, cố
gắng học tập và có thể lựa chọn phương pháp chủ nhiệm lớp phù hợp nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục, tự hoàn thiện bản thân mình để theo kịp sự
tiến bộ của thời đại.
Nhiệm vụ của đề tài là đê xuât
̀ ́ một số kinh nghiệm giáo dục học sinh
lớp 5 cá biệt hổ trợ cho công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao chât l
́ ượng giáo
dục đối với hoc sinh l
̣
ớp 5 dân tộc thiểu số.
3. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp giúp nâng cao công tác chủ nhiệm trong giáo dục học
sinh cá biệt lớp 5.
4. Giới hạn của đề tài
Giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh lớp 5C, các đoàn thể trong
trường Tiểu học Ea Bông, ở địa phương.
Đề tài có thể áp dụng cho học sinh lơp 5 có học sinh cá biệt trong
trường và trên những địa bàn có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn.
2
5. Phương pháp nghiên cứu
a) Phương pháp nghiên cứu tài liệu, sản phẩm.
Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục, các công văn chỉ thị của
Bộ Giáo dục của Sở Giáo dục và của Phòng Giáo dục.
Chính sách phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số.
b) Phương pháp trải nghiệm thực tế.
Đi tìm hiểu thực tế các hoàn cảnh gia đình học sinh trên địa bàn.
Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp, lãnh đạo về các kĩ năng sư
phạm, các phương pháp giáo dục đối với học sinh lớp 5.
Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học, chủ nhiệm lớp.
c) Phương pháp điều tra, thống kê, so sánh.
d) Phương pháp quan sát hoạt động thực tiễn.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến chính
sách dân tộc. Trong Hiến pháp, cũng như các văn kiện của các kỳ Đại hội
Đảng đều khẳng định chính sách đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, trong
đó, chính sách về giáo dục và đào tạo là một chính sách quan trọng để nâng
cao dân trí và đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009), Luật Phổ cập giáo dục
tiểu học năm 1991, Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 đều
có các quy định để đảm bảo quyền được giáo dục của đồng bào các dân tộc
thiểu số. Quy định việc tạo điều kiện cho người dân tộc thiểu số được học
tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình bên cạnh việc sử dụng tiếng Việt. Tạo
điều kiện cho học sinh dân tộc thiểu số được hưởng chính sách ưu đãi.
Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số
không chỉ thể hiện qua các Nghị định, chương trình, dự án, mà còn bằng chiến
lược cơ bản lâu dài, như chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2013, nhằm tạo động lực phát triển
mạnh mẽ vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
3
Như vậy, vai trò của người giáo viên được đặt lên hàng đầu trong
chiến lược giáo dục đồng bào dân tộc thiểu số trong những năm tới. Ngoài
việc thực hiện nhiệm vụ của một giáo viên trong điều 34 theo Thông tư
41/2010/TTBGDĐT ngày 30/12/2010 về điều lệ trường Tiểu học thì giáo
viên đồng thời phải thực hiện tốt công tác chủ nhiệm theo Thông tư
28/2009/TTBGDĐT ngày 21/10/2009. Trong khi đó giáo viên còn thực hiện
tốt việc đánh giá học sính theo Thông tư 22/2016/TTBGDĐT ngày 22 tháng 9
năm 2016.
Do đó không thể phủ nhận vai trò của người giáo viên chủ nhiệm. Để
thực hiện tốt vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp, trước tiên người
giáo viên phải xác định đúng vị trí, nhiệm vụ, biết tổ chức giáo dục, phải là
người thực hiện tốt những nhiệm vụ của một thầy cô giáo, phải nắm được
đường lối quan điểm lí luận giáo dục đồng thời người giáo viên chủ nhiệm
phải tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội.
Năm học 2017 – 2018, tôi được phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp
5C với 100% học sinh dân tộc Ê đê, trong đó có một số học sinh quá tuổi hay
nghỉ học; tiếp thu bài chậm; chưa tích cực tham gia các hoạt động học tập,
giáo dục; gây mất trật tự trong các giờ học. Vấn đề đặt ra cho tôi bây giờ là
phải tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân và đưa ra những giải pháp giúp những
học sinh này có động cơ học tập, hứng thú trong các hoạt động giáo dục và
phấn đấu rèn luyện để hoàn thành nhiệm vụ của người học sinh.
2. Thực trạng
4
Mặc dù Đảng, Nhà nước đã quan tâm ban hành nhiều chính sách đối
với giáo dục, đào tạo vùng dân tộc thiểu số, tuy nhiên đến nay vẫn chưa thể
giải quyết được hết những khó khăn của địa phương. Mạng lưới trường lớp,
điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học vùng dân tộc thiểu số đã được tăng
cường đầu tư, cải thiện rất nhiều so với trước. Tuy nhiên, vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục. Đặc biệt là ở các
trường chuyên biệt vùng dân tộc thiểu số vẫn còn thiếu nhiều phòng học,
năng lực một bộ phận giáo viên còn hạn chế, đời sống còn khó khăn nên chưa
yên tâm công tác.
Đội ngũ giáo viên trong trường chưa đồng đều, kinh nghiệm trong công
tác chủ nhiệm còn lúng túng, chưa phát huy hết kĩ năng sư phạm, tổ chức
hướng dẫn các hoạt động học tập nhằm phát huy tính tích cực của các em
trong học tập chưa linh hoạt. Nên các em chưa ham thích học tập, còn ngại
đến trường. Mặc dù giáo viên các lớp trước đã dùng nhiều biện pháp để động
viên, khích lệ học sinh đi học chuyên cần; tổ chức một số hình thức dạy học
tạo hứng thú trong học tập cho các em nhưng tình trạng học sinh không thích
đi học, còn hay nghỉ học, nghịch phá trong một số tiết học vẫn tiếp tục diễn
ra. Điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giáo dục đối với các em.
Tôi được phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 5C; lớp có tổng số
học sinh là 24 em, trong đó nữ: 14 em, dân tộc: 24 em; Con hộ nghèo: 14 em;
cận nghèo: 02 em; Khuyết tật: 03 em. Một số em chưa có ý thức tự học tập,
tự rèn luyện tu dưỡng đạo đức; vốn kỹ năng sống còn hạn chế. Do thói quen
nói tiếng mẹ đẻ, thiếu vốn từ vựng tiếng Việt nên khi diễn đạt bằng lời nói,
câu văn còn chưa đúng ý, đúng câu. Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ
các em phải đi làm để phát triển kinh tế gia đình nên các em thiếu sự quan
tâm của cha mẹ trong việc giáo dục đạo đức, hành vi, lối sống. Một số học
sinh chưa theo kịp yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng; chưa có động cơ học tập
và do cha mẹ học sinh nhận thức hạn chế nên không nhắc nhở giúp đỡ các
em học tập. Bên cạnh đó một số em thường nghỉ học vào dịp mùa màng theo
cha mẹ đi nương rẫy hoặc ở nhà trông em để cha mẹ đi làm nên việc tiếp
thu bài trên lớp gặp rất nhiều khó khăn.
Từ thực tế nắm bắt được tình hình của học sinh, tôi phân loại học sinh
thành 3 nhóm: nhóm 1 là nhóm học sinh có ý thức học tập và rèn luyện tốt, gia
đình quan tâm đến việc học của các em; nhóm 2 là nhóm học sinh hay nghỉ
học, thường làm mất trật tự trong các giờ học, không có động lực học tập;
nhóm 3 là nhóm các em thiếu sự quan tâm của bố mẹ vì lí do đặc biêt. Nhóm 2
và nhóm 3 có chung đặc điểm là học lực yếu, tiếp thu bài chậm, đọc viết yếu
và không tập trung trong giờ học, các em chưa tích cực tham gia các hoạt
động học tập và rèn luyện. Đây là 2 nhóm thuộc phạm vi đề tài nghiên cứu để
5
tìm ra các giải pháp giúp đỡ các em hoàn thành nhiệm vụ học tập và có kĩ
năng sống tạo nền tảng cơ sở cho cấp học trên.
Từ tình hình trên, tôi hiểu và ý thức được nhiệm vụ của một giáo viên
chủ nhiệm lớp, phải tìm ra giải pháp tốt, phù hợp để các em ham thích đến
lớp, có động cơ học tập tốt, tích cực tham gia các hoạt động giáo dục và rèn
luyện, có vốn kĩ năng sống nhằm định hướng phát triển đúng đắn về mặt xã
hội và tinh thần.
Nguyên nhân là do trong quá trình giảng dạy và chủ nhiệm lớp, một số
giáo viên chưa quan tâm đến điều kiện gia đình của từng em và phân loại các
đối tượng học sinh trong lớp, còn lúng túng trong việc lập kế hoạch chủ
nhiệm. Thiếu mạnh dạn đổi mới phương pháp, hình thức dạy học để phát
huy tính tích cực chủ động của các em. Việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ
lên lớp như văn nghệ, hoạt động Đội không thường xuyên nên chưa phát huy
tính hiệu quả của nó trong việc nâng cao chất lượng học tập, giáo dục. Một
số học sinh chưa biết xác định động cơ học tập đúng đắn nên chưa chăm chỉ
học tập và rèn luyện. Điều kiện học tập như: dụng cụ học tập, góc học tập
ở nhà còn thiếu thốn. Một số cha mẹ chưa thực sự quan tâm đến việc học
của các em, còn khoán trắng cho nhà trường, chưa tạo điều kiện cho các em
học tập.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a) Mục tiêu của giải pháp
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đối với học sinh dân tộc thiểu số
lớp 5 cá biệt, giúp các em có động cơ học tập, có phẩm chất đạo đức tốt, có
kĩ năng sống vận dụng trong sinh hoạt hằng ngày, giúp các em trở thành con
người phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ.
b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
Bằng kinh nghiệm thực tế trong công tác chủ nhiệm lớp, bản thân tôi
đưa ra một số biện pháp như sau:
* Biện pháp 1 : Tìm hiểu thông tin về học sinh.
Việc nắm bắt thông tin về học sinh là rất cần thiết đối với giáo viên
chủ nhiệm. Đầu tiên tôi đã tìm hiểu tình hình học sinh của lớp về mọi mặt
như hoàn cảnh gia đình học sinh: tôi đã trực tiếp đến từng gia đình cha mẹ
học sinh lớp mình để biết được điều kiện sống của các em. Mục đích đi thăm
gia đình cha mẹ là qua đàm thoại với cha mẹ để biết một số thông tin về từng
học sinh (Sức khỏe, sở thích, tính cách, điều kiện học tập ở nhà,…) và để
biết được cha mẹ quan tâm đến con về việc đi học như thế nào? Và xem tư
6
tưởng của cha mẹ các em về giáo dục ra sao? Quan tâm đến việc học tập của
con cái mình như thế nào? Tôi đã tìm hiểu để biết được điều kiện sống và
những lưu ý đặc biệt về đặc điểm của học sinh cá biệt, từ có biện pháp giáo
dục hữu hiệu nhất. Quan sát xem trong nhà đã có dành riêng góc học tập cho
các em không? Nếu có thì đã làm như thế nào?
Ví dụ: Em Y Toan Adrơng, gia đình có 6 anh em, Y Toan là con thứ
nhất. Từ nhỏ em hay ốm đâu, từng bị u lành ở bộ phận sinh dục nhưng được
gia đình chạy chữa và đã khỏi hẳn. Em kế tiếp của Y Toan sinh ra bị dị tật
bẩm sinh, hay ốm đâu và chết khi mới hơn 1 tuổi. Y Toan và các em sức khỏe
không tốt nên hay nghỉ học. Gia đình em rất khó khăn, không có ruộng rẫy,
sống chủ yếu bằng việc làm thuê nhưng cũng không ổn định. Vì bố mẹ sinh
con gần nhau, em nhỏ dại nên Y Toan còn phải trông em để bố mẹ đi làm.
Em H Ninh Niê và H Bơ Hđơk đều sinh năm 2005 (quá 2 tuổi). Em H
Ninh có hoàn cảnh rất đặc biệt, gia đình có 3 anh em, mẹ mất sớm do bệnh
hiểm nghèo khi em chưa tròn 3 tháng tuổi. Bố là người dân tộc H Rê ở Phú
Yên, sau khi mẹ mất, bố trở về quê và tái hôn. Cả 3 anh em được bác ruột
nuôi dưỡng và chăm sóc. Còn hoàn cảnh em H Bơ cũng tương tự, bố em mất
sớm vì bệnh tật khi em đang học lớp 1, để lại 2 chị em; mẹ phải vất vả đi
làm thuê xa theo mùa vụ có khi đến vài tháng mới về nhà một lần. Hai chị em
phải sống với bà ngoại đã già yếu. Các em đều thiếu tình cảm của cha mẹ,
sự đôn đốc trong học tập, không được chỉ bảo về các kĩ năng sống trong khi
các em đang bước vào tuổi dậy thì, các em rất cần sự hướng dẫn và giúp đỡ.
Như vậy, việc đầu tiên là phải xây dựng một kế hoạch chủ nhiệm.
Kế hoạch này ngoài việc căn cứ vào kế hoạch của nhà trường, chuyên môn,
phải dựa vào tình hình thực tế của lớp, của cá nhân học sinh để xây dựng kế
hoạch cả năm, học kỳ, tháng, tuần. Dựa vào kế hoạch, tôi hướng dẫn học
sinh thực hiện nhiệm vụ đã đề ra. Sau mỗi đợt, tôi tổng kết lại cả quá trình
và rút ra cho mình bài học kinh nghiệm. Từ đó biết được ưu, khuyết điểm
của từng em để khắc phục và đưa ra hướng hoạt động mới. Những vấn đề
trong hướng dẫn các em hoạt động, tôi ghi vào sổ chủ nhiệm những gì mình
theo dõi được ở học sinh. Từ đó đánh giá và giáo dục các em tốt hơn.
* Biện pháp 2 : Xây dựng mối quan hệ thầy – trò.
“Xây dựng lớp học thân thiện” là tạo ra sự gần gũi giữa giáo viên với
học sinh. Vì vậy làm thế nào để mối quan hệ thầy trò được gắn bó, thân
thiện. Trước hết, tôi đã thể hiện sự thân thiện cởi mở với các em nhưng vẫn
thể hiện sự nghiêm khắc. Ngay từ đầu, tôi yêu cầu các em phải cố gắng làm
cho đúng. Nếu chưa đúng thì phải làm lại cho đúng mới thôi. Đúng là đúng từ
7
việc làm, nghiêm là nghiêm trong việc làm chứ không phải ở thái độ khắt
khe, gay gắt. Mối quan hệ cơ bản nhất của tôi và các em là quan hệ hợp tác
làm việc: giáo viên giao việc học trò làm; giáo viên hướng dẫn học trò
thực hiện. Khi các em làm bài, viết bài tôi đến gần từng em để giúp đỡ kịp
thời. Em nào làm bài chưa đúng, chưa viết được, tôi yêu cầu em đó phải làm
lại chứ không ghi lời nhận xét phê bình các em. Tôi giúp đỡ, hướng dẫn học
sinh làm lại ngay tại lớp. Nếu em nào không làm được, tôi chữa bài và yêu
cầu em chép lại. Tôi luôn nghĩ rằng đối với học sinh tiểu học việc chữa bài
đánh giá nhận xét không phải để bắt lỗi, để la mắng học sinh mà để ghi lời
nhận xét đánh giá nhằm phát hiện những chỗ chưa đúng của học sinh, giúp
các em làm lại cho đúng, cho hoàn thiện hơn. Với cách nói đúng, làm đúng
trong học tập, các em trở thành những con người trung thực, không gian dối.
Ở lớp 5, các em đã biết nhận xét, đánh giá nêu ra ý kiến riêng của
mình. Bởi vậy mỗi lời nói, cử chỉ, việc làm, hành vi của giáo viên đều tác
động đến học sinh vì đây là giai đoạn bước đầu các em phát triển tâm sinh lí
tuổi dậy thì, các em rất nhạy cảm. Khi lên lớp tôi luôn nhắc các em biết giữ
vệ sinh chung, vệ sinh cá nhân, thái độ ứng xử với mọi người,... Mỗi khi có
học sinh mắc khuyết điểm, tôi luôn tìm hiểu cặn kẽ nguyên nhân để có biện
pháp giúp đỡ các em sửa chữa chứ không nóng vội phê bình các em trước lớp
hoặc trước tập thể cha mẹ học sinh và không bao giờ có những lời nói, cử
chỉ xúc phạm các em vì ở tuổi này các em đã biết tự ái và xấu hổ.
Giờ học nào cũng vậy, tôi luôn cố tìm ra những ưu điểm nhỏ nhất để
khen ngợi động viên các em, khích lệ và biểu dương các em kịp thời. Chỉ
bằng những tràng pháo tay cũng đủ để các em vui phấn khởi chứ không nhất
thiết phải là vật chất. Ca ngợi những ưu điểm của các em nhiều hơn để các
em thấy tự tin, phấn khởi, hứng thú để lần sau các em tiếp tục phát huy.
Nhưng trong khi khen, tôi cũng không quên chỉ ra những thiếu sót để các em
khắc phục và ngày càng hoàn thiện hơn.
Ví dụ em H Ninh là học sinh khả năng ghi nhớ chậm, rụt rè, đọc yếu.
Nên trong mỗi giờ học, tôi dành thời gian gọi em phát biểu dù chỉ là một câu
trả lời nhỏ, đọc một câu văn ngắn tôi vẫn khen em đã có cố gắng, nếu em cố
gắng hơn thì em sẽ đọc bài tốt hơn. Cứ thế mỗi giờ học, mỗi buổi học mỗi
lần được khen em đều nở nụ cười phấn khởi. Từ đó em học tập tiến bộ và
mạnh dạn hẳn lên cho đến cuối học kì I em đã đọc có tiến bộ rất nhiều, khả
năng đọc bài và tính toán cũng nhanh hơn.
Đối với học sinh có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn: Tôi luôn quan
tâm gần gũi động viên để các em cố gắng học tập tốt như phát động phong
trào “Giúp bạn nghèo vượt khó”, “Lá lành đùm lá rách”, gặp riêng cha mẹ
học sinh để bàn bạc và khuyên họ khắc phục khó khăn tạo điều kiện cho con
8
em học tập. Việc làm này, tôi thực hiện thường xuyên, liên tục hàng tuần.
Sự gần gũi, thân thiện giữa cô và trò như vậy làm cho cha mẹ các em yên
tâm, sẽ có trách nhiệm động viên, nhắc nhở con em ra lớp. Với các em trong
trường hợp này thường hay thiếu dụng cụ học tập, tôi đã phát động cả lớp
mỗi ngày tiết kiệm 1000 đồng nuôi heo đất lấy tiền mua dụng cụ học tập.
Tuy những đồ dùng này giá không là bao nhưng vẫn là nguồn động viên, an
ủi cho các em đến trường.
Ví dụ em H Bơ Hđơk, khi tôi đến gia đình động viên em thì biết được
lí do em không đi học là không có quần áo, cặp và sách vở đồ dùng học tập
để đến lớp. Tôi đã khuyến khích học sinh trong lớp quyên góp mỗi bạn 1
quyển vở hay cái bút, thước kẻ. Tôi cũng để lại cho em chiếc ba lô mà tôi
yêu thích để cho em có cặp đi học. Hôm sau em đã đến lớp rất tươm tất
trong tiếng vỗ tay của cả lớp. Đối với các em đó là một sự khích lệ vô cùng
lớn để các em vững bước trên con đường học tập.
Mỗi khi trò chuyện, khi giảng bài, hay trong giờ ra chơi, tôi luôn quan
tâm và thể hiện tình cảm yêu thương của mình đối với các em. Chỉ có tấm
lòng nhân hậu, bao dung, hết lòng vì học sinh thân yêu như vậy thì chắc chắn
học sinh sẽ chăm ngoan, tích cực và ham học. Tình cảm giữa tôi và các em
ngày càng gắn bó, thân thiện hơn.
* Biện pháp 3: Xây dựng mối quan hệ bạn bè.
Đây cũng là một tiêu chí góp phần xây dựng lớp học thân thiện, học
sinh tích cực. Vì vậy ngoài việc được sự quan tâm của người thân trong gia
đình, của bà con lối xóm, khi đến trường các em cũng cần có bạn bè để chia
sẻ, giúp đỡ nhau. Thật đúng như vậy “Học thầy không tày học bạn” “ Gần
mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Ở trường, nếu các em có nhiều bạn bè thân
thiết, nhiều bạn bè tốt thì các em sẽ vui hơn, sẽ học tập ở bạn nhiều điều
tốt và sẽ mau tiến bộ. Bạn học giỏi sẽ giúp những bạn học yếu; ngược lại,
bạn học yếu cũng dễ dàng nhờ bạn giúp đỡ mình học tập mà không phải e
ngại, xấu hổ. Nhưng trong thực tế không phải trong một lớp học em nào
cũng đoàn kết giúp đỡ nhau. Có những lúc các em còn trêu trọc, cãi nhau. Tuy
chưa có chuyện gì nghiêm trọng nhưng nó vẫn ảnh hưởng xấu đến tình cảm
bạn bè và chất lượng học tập của lớp. Là một giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn
quan tâm đến vấn đề này. Xây dựng được mối quan hệ bạn bè đoàn kết, gắn
bó cho các em thì tôi sẽ xây dựng được nề nếp lớp học, tiến tới xây dựng
môi trường học tập thân thiện. Từ môi trường học tập thân thiện đó, chất
lượng học tập của lớp chắc chắn sẽ được nâng cao.
Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn
sàng giúp đỡ nhau trong học tập, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề
đòi hỏi sự đoàn kết của nhiều học sinh.
9
Ví dụ: Trong tuần đầu, tôi sắp xếp các em ngồi gần học sinh đọc bài
tốt để kèm bạn luyện đọc. Trong tuần sau, tôi sắp xếp các em ngồi gần học
sinh khác để cùng chia sẽ việc giúp đỡ bạn mình. Vì từ đầu năm tôi phát
động phong trào “ Đôi bạn cùng tiến” bằng cách phân công em học khá giúp
đỡ em học yếu để những học sinh giỏi cùng tôi giúp đỡ bạn học tập để theo
kịp chương trình.
Trong tiết học Toán, tôi chia nhóm theo dãy bàn thì tiết Tập đọc tôi
chia nhóm chẵn lẻ,... Tiết học này, các em chung nhóm với bạn này, nhưng
tiết sau các em lại chung nhóm với bạn khác. Mỗi lần chia nhóm các em lại
được giao lưu học tập với các bạn khác. Với cách làm đó tạo cho các em tính
mạnh dạn, tinh thần đoàn kết, các em sẽ phấn khởi hứng thú học tập hơn.
Với tính hiếu động, với tâm lí muốn được điểm tốt, được khen về khoe với
ông bà, cha mẹ nên mỗi lần thảo luận nhóm tôi đều đánh giá khen thưởng
bằng các hình thức khác nhau, thế là em nào cũng tích cực tham gia. Những
em khá, giỏi thì thể hiện hết khả năng của mình. Còn những em học yếu,
chưa tích cực sợ mình không được khen cũng cố gắng tham gia thảo luận dù
mình chỉ đưa ra được câu trả lời chưa đầy đủ. Cứ như vậy, dần dần việc
hợp tác của học sinh trong lớp đã được cải thiện.
Em Y Toan và Y Yoai là hai học sinh hay nghịch ngợm trong lớp, do
tiếp thu bài chậm nên học lực không theo kịp lớp. Trong một số tiết em
thường trêu chọc bạn và tự tiện đổi chỗ đổi, gây mất trật tự trong giờ học,
khi nhắc em thường tỏ thái độ lầm lì. Biết được tính cách này của em, tôi
thường gọi em làm bài tập dạng đơn giản; gọi em đọc phần bài học; cho em
phát vở cho các bạn. Từ những việc làm nhỏ đó, tôi thấy em đọc bài có tiến
bộ rõ rệt, tiếp thu bài nhanh hơn so với đầu năm. Em tự giác trong học tập
hơn, em đã cảm nhận được sự quan tâm của cô và thấy mình cũng có một vị
trí quan trọng trong lớp.
* Biện pháp 4: Tổ chức các hoạt động tập thể và các trò chơi vui tươi
lành mạnh
Như chúng ta đã biết, học sinh lớp 5 là giai đoạn đầu tuổi dậy thì, các
em gái đã biết ngại ngùng xấu hổ, đã biết phân biệt chỗ ngồi, chỗ đứng giữa
nam và nữ. Để tạo không khí sôi nổi ngoài các hoạt động học tập, tôi còn tổ
chức cho các em tham gia các giờ sinh hoạt tập thể, sinh hoạt Đội, hoạt động
ngoài giờ lên lớp, múa hát chào mừng các ngày lễ lớn. Nội dung hình thức vui
chơi được tôi soạn phù hợp với lứa tuổi gây sự hứng thú cho các em. Việc tổ
chức cho các em múa hát và tham gia các trò chơi mà tôi đưa ra đã tạo cho các
em có một sân chơi bổ ích “học mà chơi, chơi mà học”, kiến thức và kĩ năng
ở mỗi em sẽ được hình thành và rèn luyện một cách nhẹ nhàng, tự nhiên,
không gây căng thẳng, gò bó. Ngoài ra, tổ chức sinh hoạt tập thể và vui chơi
còn giúp các em phát triển và hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và
10
tài năng sáng tạo. Việc tổ chức các hoạt động tập thể tạo nên sự kết nối,
đoàn kết các em lại với nhau hơn.
Ví dụ trong tháng 12 với chủ điểm chào mừng ngày thành lập Quân
đội nhân dân Việt Nam 22 tháng 12, Liên đội tổ chức thi Hội khỏe Phù Đổng
cấp trường. Tôi triển khai kế hoạch cuộc thi trước lớp, bình chọn các em
tham gia, vì thế em nào cũng ra sức phấn đấu tập luyện. Kết quả: đạt 1 giải
nhì môn điền kinh, 1 giải nhất môn nhảy xa, 2 học sinh được tham gia giải
bóng đá thiếu nhi cấp huyện. Lúc đó, tôi thấy chất lượng học tập, rèn luyện
của các em nâng lên rõ rệt. Bằng kinh nghiệm thực tế của bản thân, ngoài
việc tổ chức cho các em tham gia sinh hoạt tập thể,..tôi còn luôn tạo không
khí sinh động, sôi nổi, hài hòa, vui tươi không căng thẳng mà tạo niềm vui,
sự phấn chấn để các em vừa học vừa chơi nhưng vẫn đảm bảo kiến thức
bài học. Trong giờ học tôi tổ chức cho các em sinh hoạt tập thể và chơi trò
chơi ở giữa các tiết học nhằm bớt sự căng thẳng mệt mỏi trong giờ học. Có
lúc, tôi lấy nội dung trong bài học làm trò chơi. Qua trò chơi, các em vừa chơi
vừa khám phá kiến thức bài học.
Ví dụ: Trong các tiết Khoa học, tôi tổ chức cho các em chơi các trò
chơi như: thực hành giữ vệ sinh cá nhân tuổi dậy thì, an toàn trên đường đi
học, phòng tránh bị xâm hại..... Tổ chức cho các em sắm vai xử lí các tình
huống tránh xa các tệ nạn, các chất cấm, gây nghiện,... Thông qua các hoạt
động này, các em có được những kĩ năng sống cần thiết trong cuộc sống.
Những trò chơi, những hoạt động có liên quan đến bài học thì tôi tổ
chức cho các em chơi trong giờ học còn những hoạt động chiếm nhiều thời
gian, cần nhiều sự chuẩn bị về công sức, tôi tổ chức cho học sinh tham gia
trong tiết hoạt động tập thể bởi mỗi tuần có 01 tiết. Trong tiết hoạt động
tập thể tôi tổ chức cho học sinh ôn luyện kiến thức bằng các trò chơi như:
Hái hoa dân chủ, Kết bạn, Đố vui để học,.. Nội dung tôi soạn thảo có liên
quan đến kiến thức bài học, gây được sự thích thú, hào hứng cho học sinh
mỗi lần tham gia. Ngoài ra ở các buổi sinh hoạt lớp cuối tuần sau khi lớp
đánh giá hoạt động và nghe tôi triển khai kế hoạch tuần tới xong thì tiếp tục
chơi trò chơi như tìm hiểu về các ngày lễ lớn, kể tên hoặc sưu tầm tranh
ảnh về những việc làm tốt... Nhờ thường xuyên tổ chức các hoạt động sinh
hoạt tập thể và các trò chơi cho cả lớp nên các em trở nên rất tự tin, rất năng
động sáng tạo.
Ví dụ: Trong hội thi Thiếu nhi vui khỏe, các em rất hào hứng khi được
tham gia, em nào cũng muốn vào đội chính trong môn thi kéo co. Hằng ngày
các em thường phân thành nhóm nhỏ để chơi như bạn gái chơi nhảy dây
hoặc chơi thẻ đá, bạn trai chơi đá cầu... Nhưng hôm nay thì khác, đội hình
của lớp là 4 nam 4 nữ, cùng dùng hết sức kéo trước sự cỗ vũ nhiệt tình của
11
các bạn còn lại. Mặc dù không có giải, nhưng các em đã hiểu được rằng:
muốn chiến thắng phải đồng sức, đồng lòng, đoàn kết giữa các thành viên và
cả đội cỗ vũ cũng phải nhiệt tình.
* Biện pháp 5: Tạo điều kiện tốt nhất để các em được hưởng đầy đủ
các chính sách ưu đãi, sự hỗ trợ của các mạnh thường quân.
Vì trong lớp có nhiều em hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, việc chọn
lựa và xem xét để các em được hưởng các phần quà, sự hỗ trợ của các nhà
hảo tâm là rất khó đối với giáo viên chủ nhiệm, được em này thì lại tội em
kia. Nên giáo viên phải nắm rõ hoàn cảnh của từng em và phân bố hợp lí
tránh việc một học sinh mà được nhận nhiều lần, không công bằng đối với
các em còn lại. Đồng thời với những em chưa được hưởng tôi cũng động
viên, phân tích cho các em hiểu mình cần phải chia sẻ cho bạn … và cũng
phân loại các em chưa được nhận quà để có kế hoạch hỗ trợ, phát quà cho
các em ở những lần tiếp theo.
Ví dụ như em H Ninh Niê, em được chính quyền xã quan tâm vì hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn đã nhận một chiếc xe đạp và vở viết. Trong đợt tặng
quà tiếp theo, tôi xét em cũng có hoàn cảnh khó khăn để chia sẽ sự giúp đỡ
cho bạn khác như em H Mơ Niê, gia đình có hai chị em, mẹ bị tâm thần
không lao động được, bố mất sớm. Cả 3 mẹ con đều được sự chăm sóc của
ông bà ngoại đã già yếu. Nhưng em H Mơ lại có thành tích học tốt, chăm
học, đi học chuyên cần, biết giúp đỡ ông bà. Món quà nhỏ nhưng đã khích lệ
được tinh thần vượt khó trong học tập cũng như trong cuộc sống của em.
Trong việc hưởng chế độ đối với học sinh dân tộc thiểu số vùng đặc
biệt khó khăn, giáo viên chủ nhiệm phải rà soát và nắm đủ số lượng hộ
nghèo; đến từng gia đình hướng dẫn cha mẹ làm các giấy tờ liên quan để con
em mình được hưởng đầy đủ chế độ theo Nghị định của Nhà nước.
c) Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp, biện pháp trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng là
cầu nối tạo nên thành công trong công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Vì nếu một lớp học có nề nếp tốt
song lớp học đó chưa thể hiện được sự thân thiện, các em chưa tích cực học
tập chưa thể hiện sự đoàn kết thì hiệu quả của công tác giáo dục chưa thành
công và ngược lại. Chính vì thế người giáo viên chủ nhiệm phải biết kết hợp
hài hòa giữa các biện pháp thì việc học tập rèn luyện cho các em từng bước
nâng lên. Đây chính là chỗ dựa vững chắc hình thành kĩ năng sống, kỹ năng
12
giao tiếp; là cơ sở để học tốt các lớp học trên. Thông qua đó các em có vốn
kiến thức để vận dụng vào cuốc sống lao động hằng ngày.
Để thực hiện tốt các giải pháp, biện pháp trên đòi hỏi giáo viên phải
chủ động, sáng tạo, lập kế hoạch phù hợp cho từng công việc, đặc biệt là
đối với học sinh cá biệt trong lớp. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học
phải đầy đủ. Giáo viên phải xây dựng kế hoạch chủ nhiệm cụ thể phù hợp
với học sinh của mình chủ nhiệm. Phải được sự quan tâm của lãnh đạo nhà
trường, sự phối hợp giữa các giáo viên dạy luân phiên, dạy bộ môn, tổng
phụ trách Đội và sự giúp đỡ của bạn bè đồng nghiệp.
d) Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu,
phạm vi và hiệu quả ứng dụng
Kết quả thu được qua khảo nghiệm: Qua quá trình vận dụng các biện
pháp nêu trên một cách linh hoạt sáng tạo cùng với sự kiên trì, chịu khó trong
công tác chủ nhiệm. Đến nay, các em đã có ý thức tự giác học tập, thích tham
gia các hoạt động tập thể, các phong trào của Đội như Hội khỏe Phù Đổng,
Ngày hội Thiếu nhi, nuôi heo đất … Các em thực hiện đầy đủ 5 nhiệm vụ
của người học sinh tương đối đạt yêu cầu; Kết quả học tập và rèn luyện có
nhiều tiến bộ; các em đều ngoan, sạch sẽ gọn gàng. Kĩ năng sống, kĩ năng
giao tiếp tốt hơn. Sau một thời gian tôi áp dụng các biện pháp giáo dục học
sinh cá biệt các em đã có kết quả như sau:
Đkết, yêu thương
Trung thực, kĩ luật
Phẩm chất
Chăm học,chăm làm
Tự học, GQVĐ
Hợp tác
Tự phục vụ, tự quản
Năng lực
Đkết, yêu thương
Trung thực, kĩ luật
Tự tin, trách nhiệm
Chăm học,chăm làm
Phẩm chất
Tự học, GQVĐ
Hợp tác
Năm học
20172018
Tự phục vụ, tự quản
Năng lực
Cuối học kì I
Tự tin, trách nhiệm
Đầu năm học
H Bơ
Hđơk
C
Đ
C
C
Đ
C
Đ
Đ
Đ
Đ
Đ
Đ
Đ
Đ
H Ninh Niê
C
C
C
C
Đ
Đ
Đ
Đ
Đ
Đ
Đ
Đ
Đ
Đ
Y Toan
C
C
C
C
C
C
C
Đ
Đ
Đ
Đ
Đ
Đ
Đ
Y Yoai
Đ
C
C
C
Đ
C
C
Đ
Đ
Đ
Đ
Đ
Đ
Đ
13
Giá trị khoa học mang lại khi thực hiện đề tài: Đề tài được áp dụng có
hiệu quả trong lớp. Chất lượng giáo dục được nâng lên rõ rệt. Phát huy được
tính năng động sáng tạo của giáo viên. Rõ ràng qua cách làm này, tôi thấy kết
quả giáo dục cả về học tập lẫn phẩm chất của học sinh ngày càng tiến bộ
rõ rệt, chất lượng dạy và học được nâng cao. Các em ngày càng chăm ngoan,
tình cảm thầy trò, bạn bè ngày càng gắn bó và thân thiện. Giúp người giáo
viên chủ nhiệm lớp có điều kiện gần gũi với học sinh, hiểu học sinh hơn để
từ đó giáo dục các em ngày càng tốt hơn. Học sinh không còn tâm lí ngại gần
gũi, ngại tiếp xúc với giáo viên chủ nhiệm lớp, tạo điều kiện để học sinh
phát huy tối đa những khả năng vốn có của mình trong học tập cũng như
trong mọi hoạt động của lớp, của trường để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo
dục.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1.
Kết luận
Vấn đề nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh;
tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến học sinh không thích đến trường, chưa tích
cực tham gia các hoạt động giáo dục, chưa tự giác học tập, kết quả học tập
chưa cao, thiếu vốn kĩ năng sống,… Từ đó tìm ra các giải pháp phù hợp để
giúp đỡ và giáo dục học sinh. Qua quá trình thực hiện các giải pháp trong
công tác chủ nhiệm và giảng dạy, học sinh đã có nhiều chuyển biến tích cực:
các em đi học chuyên cần hơn những năm học trước, đọc viết có tiến bộ rõ
rệt, thích tham gia các hoạt động giáo dục, vui chơi. Trong các tiết học các
em đã tập trung, tích cực phát biểu, lên bảng làm bài tập, các em tự tin hơn
trong học tập cũng như trong giao tiếp. Như vậy, sau một thời thực hiện
mang lại kết quả tốt, đề tài này cũng có thể áp dụng cho các lớp khác có
những đối tượng học sinh tương tự, giúp các em hòa nhập và theo kịp
chương trình học chung của cả lớp. Để đạt được đó người giáo viên phải
thực sự tâm huyết, nhiệt tình có tinh thần tự học, coi học sinh như chính con
em của mình. Biết phối hợp với cha mẹ học sinh và các đoàn thể trong và
ngoài nhà trường.
2. Kiến nghị
Muốn phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số thì cần phải thực hiện
đồng bộ các chính sách. Muốn giáo dục học sinh cá biệt phải phối kết hợp tốt
giữa lãnh đạo nhà trường, giáo viên chủ nhiệm, cha mẹ học sinh, giáo viên bộ
môn, giáo viên dạy luân phiên, Tổng phụ trách Đội, Đoàn thanh niên, địa
phương.
14
* Đối với nhà trường: cần bồi dưỡng giáo viên làm công tác chủ nhiệm
lớp và cần tăng cường các cuộc hội thảo chuyên đề về công tác chủ nhiệm
lớp. Tổ chức cho giáo viên được giao lưu học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Cần
bố trí giáo viên chủ nhiệm phù hợp với từng khối lớp. Có chế độ khen
thưởng, tôn vinh giáo viên chủ nhiệm giỏi tạo động lực cho giáo viên cống
hiến vì sự nghiệp giáo dục.
* Đối với giáo viên chủ nhiệm lớp: phải thật sự tâm huyết với nghề,
luôn hết lòng vì học sinh, có năng lực tổ chức, quản lí lớp, có kĩ năng sư
phạm vững vàng. Phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh để giáo dục học
sinh, tạo điều kiện thuận lợi và môi trường tốt nhất cho con em học tập và
rèn luyện. Giáo viên phải có kế hoạch giáo dục, kế hoạch bài giảng cụ thể,
phù hợp với thực tế học sinh của lớp. Thường xuyên trao đổi với những giáo
viên dạy luân phiên, giáo viên dạy Mĩ thu ật, Âm nhạc, ... để nắm bắt tình
hình học tập của lớp. Phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, xã
hội.
* Đối với các bậc cha mẹ học sinh: cần phải quan tâm hơn nữa đến
con em mình, đến sự nghiệp giáo dục, thật sự là tấm gương mẫu mực cho
con em mình để các em có động lực học tập tốt và phát triển toàn diện.
* Đối với Đoàn – Đội: Kết hợp cùng Nhà trường tổ chức cho các em
tham gia các phong trào sinh hoạt của Đội: Tổ chức các trò chơi Dân gian,
Đố vui để học, giới thiệu và hướng dẫn nhiều trò chơi giúp học sinh hứng
thú đến lớp, gắn kết lại các học sinh với nhau.
* Đối với chính quyền địa phương: Đoàn Thanh niên thôn buôn tạo
môi trường sinh hoạt lành mạnh tại địa phương để giáo dục các em tránh xa
các tệ nạn xã hội và những hành vi không đúng đắn. Chính quyền địa
phương phối hợp cùng Nhà trường tranh thủ, kêu gọi sự hỗ trợ của các
doanh nghiệp trên địa bàn, các mạnh thường quân, các nhà từ thiện,… để
giúp đỡ học sinh khó khăn của địa phương.
Trên đây là một số kinh giáo dục học sinh cá biệt lớp 5 mà tôi đã thực
hiện. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định nhưng tôi hy vọng với kết
quả đạt được ở trên sẽ góp phần nhỏ bé nâng dần chất lượng giáo dục của
nhà trường ngày một tốt hơn. Rất mong được sự góp ý của lãnh đạo và các
đồng nghiệp trong trường và của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm.
Xin chân thành cảm ơn./.
Ea Bông, ngày 02 tháng 04 năm 2018.
Người viết
15
H La Chi Êñuôl
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CẤP TRƯỜNG
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
Xếp loại:......................
P. CHỦ TỊCH
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN CẤP HUYỆN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
Xếp loại:...............
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
TÊN TÀI LIỆU
1
Điều lệ trường tiểu học.
2
Tâm lý học
3
4
TÁC GIẢ/NHÀ XUẤT
GHI
BẢN
CHÚ
Vụ Giáo dục Tiểu học
NXB Giáo dục Việt Nam
Phạm Minh Hạc
NXB Giáo dục
“Quản lý công tác giáo viên chủ
nhiệm ở trường tiểu học”
Nguyễn Thị Tuyết Hạnh
NXB chính trị quốc gia –
Luật Giáo dục năm 2005.
Hà Nội
17
Thông tư 22/TTBGĐĐT về
5
việc hướng dẫn đánh giá xếp, loại
học sinh bậc Tiểu học.
Vụ Giáo dục Tiểu học
NXB Giáo dục Việt Nam
Chỉ thị số 40/CTBGD ĐT của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo về phát động phong trào thi
đua và Kế hoạch số 307/KH
6
BGD&ĐT ngày 22 tháng 7 năm
2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bộ Giáo dục và Đào tạo
về kế hoạch triển khai “Xây dựng
trường học thân thiện Học sinh
tích cực” trong các trường phổ
thông giai đoạn 20082013
MỤC LỤC
TT
I
Nội dung
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1
1
Lý do chọn đề tài
1 – 2
2
Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
2
3
Đối tượng nghiên cứu
2
4
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
2
5
Phương pháp nghiên cứu
2 – 3
18
II
1
PHẦN NỘI DUNG
3
Cơ sở lý luận
3 – 4
2
Thực trạng
3
Nội dung và hình thức của giải pháp
4 – 5
5
a
Mục tiêu của giải pháp
b
Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
c
Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
d
Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn 11 – 12
đề nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
III
5
PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
5 – 11
11
12
1
Kết luận
12 – 13
2
Kiến nghị
13 – 14
16
Tài liệu tham khảo
19