Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

SKKN: Một số kinh nghiệm giáo dục học sinh cá biệt lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.36 KB, 19 trang )

MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT LỚP 5
      

I. PHẦN MỞ ĐẦU

      

1.  Lí do chọn đề tài

       Trên khắp đất nước Việt Nam, mỗi dân tộc đều gắn liền với một bản  
sắc văn hoá và chính bản sắc văn hoá này đã tạo nên một nét riêng biệt của 
mỗi vùng, miền. Đắk Lắk là một tỉnh miền núi, trong đó đồng bào dân tộc Ê 
Đê chiếm 30% dân số  của tỉnh với nhiều nét đẹp văn hóa vẫn được bảo tồn  
và phát huy như  Văn hóa cồng chiêng, ngày 25 ­ 11 ­ 2005 đã được  tổ  chức 
UNESCO công nhận   “Không gian Văn hóa cồng chiêng là kiệt tác truyền 
khẩu và phi vật thể  của nhân loại”; Văn hóa lễ  hội: Lễ  cúng bến nước, lễ 
cúng vào nhà mới, lễ  cúng trưởng thành, lễ  cúng sức khỏe, lễ  cầu mưa,…  
Đồng bào Êđê rất tự hào về các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình. 
Bên cạnh những giá trị văn hóa tốt đẹp đó, ở vùng sâu, vùng xa trình độ 
dân trí còn thấp, kinh tế  chậm phát triển các hiện tượng mê tín dị  đoan, các  
tập quán hủ  tục vẫn còn tồn tại như  tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận 
huyết. Tình trang này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn gây ra hậu quả rất 
lớn đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Tảo hôn thì vợ, chồng chưa phát triển 
đầy đủ về cả sinh lý và tâm lý, chưa đủ khả năng để chăm sóc con phát triển  
một cách bình thường, khỏe mạnh, toàn diện, do đó những đứa con đó lớn lên 
sẽ rất khó khăn về nhiều mặt như sức khỏe, học hành... Tảo hôn và hôn nhân 
cận huyết thống sẽ sinh ra những đứa con kém phát triển về trí tuệ, khả năng 
học tập kém, không có khả năng tiếp thu như những đứa trẻ bình thường.
Dân tộc Ê đê cũng như một số dân tộc ít người khác thường định cư  ở 
miền núi, chịu nhiều bất lợi về kinh tế, xã hội, tỉ lệ hộ nghèo và mù chữ cao. 
Trường Tiểu học Ea Bông nằm trên địa bàn Buôn Riăng, Buôn Knul và thôn 


10/3 thuộc xã Ea Bông, đây là một xã có điều kiện kinh tế   đặc biệt khó khăn 
của huyện Krông Ana. Trong đó có hai buôn là Buôn Riăng và Buôn Knul có 
dân tộc Ê đê sinh sống. Nhân dân  ở  đây chủ  yếu là làm nông nghiệp và làm 
thuê. Mức thu nhập bình quân của hộ  gia đình thấp. Đời sống kinh tế  người  
dân không đảm bảo nên việc chăm lo học hành cho con cái gặp rất nhiều khó  
khăn.
Một số  đứa trẻ  được sinh ra  ở  đây cũng có nhiều điểm đặc biệt: Cơ 
thể  phát triển chậm so với lứa tuổi, kéo theo tâm sinh lí của các em cũng 
chậm phát triển. Các em không được nhanh nhẹn, hoạt bát về ngôn ngữ cũng 
như  các hoạt động. Đối tượng thứ  nhất là học sinh thuộc gia đình có điều 
kiện kinh tế khó khăn: Những em này hay nghỉ  học để  phụ  giúp bố  mẹ, nên 
việc tiếp thu bài trên lớp bị gián đoạn. Dẫn đến các em tiếp thu bài chậm, kết  
quả học tập giảm sút. Các em thấy tự ti khi đến lớp, các em không muốn học  
và thường gây mất trật tự  trong các giờ  học. Đối tượng thứ  hai là học sinh 
1


thiếu sự  quan tâm, giáo dục của bố mẹ. Bố hoặc mẹ mất hay bố mẹ đi làm 
ăn xa, các em phải  ở nhà với ông bà, không có người đôn đốc việc học hành 
nên các em thiếu sự định hướng trong học tập và cuộc sống. Trong khi đó, độ 
tuổi của các em đang bước vào giai đoạn đầu của tuổi dậy thì, có nhiều sự 
biến đổi về  tâm sinh lí. Các em cần có người bố  hoặc mẹ  hướng dẫn, giúp 
đỡ  để  các em có những bước phát triển đúng đắn nhất về  mặt xã hội, tinh  
thần cũng như thể chất.
Vốn kĩ năng sống của các em còn rất nhiều hạn chế, các em chưa có  
động lực học tập tích cực. Xuất phát từ  thực tế  đó, tôi luôn trăn trở  làm sao  
để dạy dỗ và giáo dục các em để trở thành người hữu ích cho gia đình, xã hội . 
Vì vậy, đòi hỏi người giáo viên phải làm tốt công tác chủ  nhiệm, xứng đáng  
với hình  ảnh đẹp mà xã hội cũng như  Thủ  tướng Phạm Văn Đồng đã nói: 
“Nghề  dạy học là nghề  cao quý nhất trong các nghề  cao quý vì nó tạo ra  

những con người sáng tạo”.  Đó chính là lí do tôi chọn viết sáng kiến kinh 
nghiệm: “Một số kinh nghiệm giáo dục học sinh cá biệt lớp 5.”
      

2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

       Mục tiêu của đề  tài là tìm ra biện pháp, giải pháp nâng cao công tác 
chủ nhiệm đối với học sinh dân tộc thiểu số cá biệt; xây dựng tốt mối quan  
hệ giáo dục giữa nhà trường, giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh, các đoàn  
thể, địa phương. Với mong muốn nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện cho  
các em. Giáo viên tự  rèn luyện tinh thần năng động, say mê, sáng tạo, cố 
gắng học tập và có thể lựa chọn phương pháp chủ nhiệm lớp phù hợp nhằm 
nâng cao chất lượng giáo dục, tự  hoàn thiện bản thân mình để  theo kịp sự 
tiến bộ của thời đại. 
       Nhiệm vụ của đề  tài là đê xuât 
̀ ́ một số kinh nghiệm giáo dục học sinh 
lớp 5 cá biệt hổ  trợ  cho công tác chủ  nhiệm nhằm nâng cao chât l
́ ượng giáo 
dục đối với hoc sinh l
̣
ớp 5 dân tộc thiểu số.
      

3. Đối tượng nghiên cứu

       Các biện pháp giúp nâng cao công tác chủ  nhiệm trong giáo dục học 
sinh cá biệt lớp 5.
4. Giới hạn của đề tài
        Giáo viên, học sinh và cha mẹ  học sinh lớp 5C, các  đoàn thể  trong 
trường Tiểu học Ea Bông, ở địa phương.

  Đề  tài có thể  áp dụng cho học sinh lơp 5 có học sinh cá biệt trong  
trường và trên những địa bàn có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn.
2


      

5. Phương pháp nghiên cứu 

        a) Phương pháp nghiên cứu tài liệu, sản phẩm.
­ Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục, các công văn chỉ  thị của 
Bộ Giáo dục của Sở Giáo dục và của Phòng Giáo dục. 
­ Chính sách phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số.
        b) Phương pháp trải nghiệm thực tế.
        ­ Đi tìm hiểu thực tế các hoàn cảnh gia đình học sinh trên địa bàn.
­ Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp, lãnh đạo về các kĩ năng sư 
phạm, các phương pháp giáo dục đối với học sinh lớp 5.
        ­ Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học, chủ nhiệm lớp.
        c)  Phương pháp điều tra, thống kê, so sánh.
        d) Phương pháp quan sát hoạt động thực tiễn.                         
II. PHẦN NỘI DUNG
        1. Cơ sở lí luận
        Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến chính 
sách dân tộc. Trong Hiến pháp, cũng như  các văn kiện của các kỳ  Đại hội 
Đảng đều khẳng định chính sách đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, trong 
đó, chính sách về  giáo dục và đào tạo là một chính sách quan trọng để  nâng 
cao dân trí và đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số 
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi, bổ  sung 2009), Luật Phổ  cập giáo dục 
tiểu học năm 1991, Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 đều 

có các quy định để  đảm bảo quyền được giáo dục của đồng bào các dân tộc 
thiểu số. Quy định việc tạo điều kiện cho người dân tộc thiểu số được học 
tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình bên cạnh việc sử  dụng tiếng Việt. Tạo 
điều kiện cho học sinh dân tộc thiểu số được hưởng chính sách ưu đãi. 
Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số 
không chỉ thể hiện qua các Nghị định, chương trình, dự án, mà còn bằng chiến 
lược cơ bản lâu dài, như chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 đã được 
Thủ  tướng Chính phủ  phê duyệt năm 2013, nhằm tạo động lực phát triển 
mạnh mẽ vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
3


Như  vậy, vai  trò của người giáo viên  được  đặt lên hàng  đầu trong 
chiến lược giáo dục  đồng bào dân tộc thiểu số  trong những năm tới.  Ngoài 
việc thực hiện nhiệm vụ  của một giáo viên trong điều 34 theo Thông tư 
41/2010/TT­BGDĐT ngày 30/12/2010 về  điều lệ  trường Tiểu học thì giáo 
viên   đồng   thời   phải   thực   hiện   tốt   công   tác   chủ   nhiệm   theo   Thông   tư 
28/2009/TT­BGDĐT ngày 21/10/2009. Trong khi đó giáo viên còn thực hiện  
tốt việc đánh giá  học sính theo Thông tư 22/2016/TT­BGDĐT ngày 22 tháng 9  
năm 2016.
Do đó không thể phủ nhận vai trò của người giáo viên chủ  nhiệm. Để 
thực hiện tốt vai trò của người giáo viên chủ  nhiệm lớp, trước tiên người  
giáo viên phải xác định đúng vị  trí, nhiệm vụ, biết tổ  chức giáo dục, phải là  
người thực hiện tốt những nhiệm vụ của một thầy cô giáo, phải nắm được 
đường lối quan điểm lí luận giáo dục đồng thời người giáo viên chủ  nhiệm  
phải tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội. 
Năm học 2017 – 2018, tôi được phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 
5C với 100% học sinh dân tộc Ê đê, trong đó có một số học sinh quá tuổi hay  
nghỉ  học; tiếp thu bài chậm; chưa tích cực tham gia các hoạt động học tập, 
giáo dục; gây mất trật tự trong các giờ  học. Vấn đề  đặt ra cho tôi bây giờ  là 

phải tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân và đưa ra những giải pháp giúp những 
học sinh này có động cơ  học tập, hứng thú trong các hoạt động giáo dục và 
phấn đấu rèn luyện để hoàn thành nhiệm vụ của người học sinh. 
2. Thực trạng 

4


Mặc dù Đảng, Nhà nước đã quan tâm ban hành nhiều chính sách đối 
với giáo dục, đào tạo vùng dân tộc thiểu số, tuy nhiên đến nay vẫn chưa thể 
giải quyết được hết những khó khăn của địa phương. Mạng lưới trường lớp, 
điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học vùng dân tộc thiểu số đã được tăng 
cường đầu tư, cải thiện rất nhiều so với trước. Tuy nhiên, vẫn chưa đáp ứng 
được yêu cầu phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục. Đặc biệt là ở  các  
trường chuyên biệt vùng dân tộc thiểu số  vẫn còn thiếu nhiều phòng học,  
năng lực một bộ phận giáo viên còn hạn chế, đời sống còn khó khăn nên chưa  
yên tâm công tác.
Đội ngũ giáo viên trong trường chưa đồng đều, kinh nghiệm trong công 
tác chủ  nhiệm còn lúng túng, chưa phát huy hết kĩ năng sư  phạm, tổ  chức 
hướng dẫn các hoạt động học tập nhằm phát huy tính tích cực của các em 
trong học tập chưa linh hoạt. Nên các em chưa ham thích học tập, còn ngại  
đến trường. Mặc dù giáo viên các lớp trước đã dùng nhiều biện pháp để động 
viên, khích lệ học sinh đi học chuyên cần; tổ chức một số hình thức dạy học 
tạo hứng thú trong học tập cho các em nhưng tình trạng học sinh không thích 
đi học, còn hay nghỉ học, nghịch phá trong một số  tiết học vẫn tiếp tục diễn 
ra. Điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giáo dục đối với các em.
Tôi được phân công giảng dạy và chủ  nhiệm lớp 5C; lớp  có tổng số 
học sinh là 24 em, trong đó nữ: 14 em, dân tộc: 24 em; Con hộ nghèo: 14 em;  
cận nghèo: 02 em;  Khuyết tật: 03 em. Một số em chưa có ý thức tự học tập, 
tự rèn luyện tu dưỡng đạo đức; vốn kỹ năng sống còn hạn chế. Do thói quen 

nói tiếng mẹ đẻ, thiếu vốn từ vựng tiếng Việt nên khi diễn đạt bằng lời nói, 
câu văn còn chưa đúng ý, đúng câu. Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ 
các em phải đi làm để  phát triển kinh tế  gia đình nên các em thiếu sự  quan 
tâm của cha mẹ trong việc giáo dục đạo đức, hành vi, lối sống. Một số học  
sinh chưa theo kịp yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng; chưa có động cơ học tập 
và do cha mẹ  học sinh nhận thức hạn chế nên không nhắc nhở  giúp đỡ  các 
em học tập. Bên cạnh đó một số em thường nghỉ học vào dịp mùa màng theo 
cha mẹ  đi nương rẫy hoặc  ở  nhà trông em để  cha mẹ  đi làm nên việc tiếp 
thu bài trên lớp gặp rất nhiều khó khăn. 
Từ thực tế nắm bắt được tình hình của học sinh, tôi phân loại học sinh 
thành 3 nhóm: nhóm 1 là nhóm học sinh có ý thức học tập và rèn luyện tốt, gia  
đình quan tâm đến việc học của các em; nhóm 2 là nhóm học sinh hay nghỉ 
học, thường làm mất trật tự  trong các giờ  học, không có động lực học tập; 
nhóm 3 là nhóm các em thiếu sự quan tâm của bố mẹ vì lí do đặc biêt. Nhóm 2 
và nhóm 3 có chung đặc điểm là học lực yếu, tiếp thu bài chậm, đọc viết yếu  
và không tập trung trong giờ  học, các em chưa tích cực tham gia các hoạt  
động học tập và rèn luyện. Đây là 2 nhóm thuộc phạm vi đề tài nghiên cứu để 
5


tìm ra các giải pháp giúp đỡ  các em hoàn thành nhiệm vụ  học tập và có kĩ 
năng sống tạo nền tảng cơ sở cho cấp học trên.
Từ tình hình trên, tôi hiểu và ý thức được nhiệm vụ của một giáo viên 
chủ  nhiệm lớp, phải tìm ra giải pháp tốt, phù hợp để  các em ham thích đến 
lớp, có động cơ học tập tốt, tích cực tham gia các hoạt động giáo dục và rèn 
luyện, có vốn kĩ năng sống nhằm định hướng phát triển đúng đắn về mặt xã 
hội và tinh thần.
        Nguyên nhân là do trong quá trình giảng dạy và chủ nhiệm lớp, một số 
giáo viên chưa quan tâm đến điều kiện gia đình của từng em và phân loại các  
đối tượng học sinh trong lớp, còn lúng túng trong việc lập kế  hoạch chủ 

nhiệm. Thiếu mạnh dạn đổi mới phương pháp, hình thức dạy học để  phát 
huy tính tích cực chủ động của các em. Việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ 
lên lớp như văn nghệ, hoạt động Đội không thường xuyên nên chưa phát huy  
tính hiệu quả của nó trong việc nâng cao chất lượng học tập, giáo dục. Một  
số học sinh chưa biết xác định động cơ học tập đúng đắn nên chưa chăm chỉ 
học tập và rèn luyện. Điều kiện học tập như: dụng cụ học tập, góc học tập 
ở  nhà còn thiếu thốn. Một số  cha mẹ  chưa thực sự  quan tâm đến việc học  
của các em, còn khoán trắng cho nhà trường, chưa tạo điều kiện cho các em  
học tập. 
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
         a) Mục tiêu của giải pháp
         Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đối với học sinh dân tộc thiểu số 
lớp 5 cá biệt, giúp các em có động cơ học tập, có phẩm chất đạo đức tốt, có  
kĩ năng sống vận dụng trong sinh hoạt hằng ngày, giúp các em trở thành con 
người phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ. 
b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
         Bằng kinh nghiệm thực tế trong công tác chủ  nhiệm lớp, bản thân tôi 
đưa ra một số biện pháp như sau: 
        * Biện pháp 1 : Tìm hiểu thông tin về học sinh. 
Việc nắm bắt thông tin về  học sinh là rất cần thiết đối với giáo viên  
chủ  nhiệm. Đầu tiên tôi đã tìm hiểu tình hình học sinh của lớp về  mọi mặt  
như  hoàn cảnh gia đình học sinh: tôi đã trực tiếp đến từng gia đình cha mẹ 
học sinh lớp mình để biết được điều kiện sống của các em. Mục đích đi thăm 
gia đình cha mẹ là qua đàm thoại với cha mẹ để biết một số thông tin về từng 
học sinh (Sức khỏe, sở  thích, tính cách, điều kiện học tập  ở  nhà,…) và để 
biết được cha mẹ quan tâm đến con về việc đi học như  thế nào? Và xem tư 
6


tưởng của cha mẹ các em về giáo dục ra sao? Quan tâm đến việc học tập của  

con cái mình như  thế  nào? Tôi đã tìm hiểu để  biết được điều kiện sống và 
những lưu ý đặc biệt về đặc điểm của học sinh cá biệt, từ có biện pháp giáo 
dục hữu hiệu nhất. Quan sát xem trong nhà đã có dành riêng góc học tập cho 
các em không? Nếu có thì đã làm như thế nào? 
Ví dụ: Em Y Toan Adrơng, gia đình có 6 anh em, Y Toan là con thứ 
nhất. Từ nhỏ em hay ốm đâu, từng bị u lành ở bộ phận sinh dục nhưng được  
gia đình chạy chữa và đã khỏi hẳn. Em kế tiếp của Y Toan sinh ra bị dị tật  
bẩm sinh, hay ốm đâu và chết khi mới hơn 1 tuổi. Y Toan và các em sức khỏe 
không tốt nên hay nghỉ  học. Gia đình em rất khó khăn, không có ruộng rẫy, 
sống chủ yếu bằng việc làm thuê nhưng cũng không ổn định. Vì bố  mẹ  sinh  
con gần nhau, em nhỏ dại nên Y Toan còn phải trông em để bố mẹ đi làm.
Em H Ninh Niê và H Bơ Hđơk đều sinh năm 2005 (quá 2 tuổi).  Em H 
Ninh có hoàn cảnh rất đặc biệt, gia đình có 3 anh em, mẹ  mất sớm do bệnh  
hiểm nghèo khi em chưa tròn 3 tháng tuổi. Bố  là người dân tộc H Rê  ở  Phú 
Yên, sau khi mẹ  mất, bố  trở  về  quê và tái hôn. Cả  3 anh em được bác ruột  
nuôi dưỡng và chăm sóc. Còn hoàn cảnh em H Bơ cũng tương tự, bố em mất  
sớm vì bệnh tật khi em đang học lớp 1, để  lại 2 chị  em; mẹ  phải vất vả đi 
làm thuê xa theo mùa vụ có khi đến vài tháng mới về nhà một lần. Hai chị em 
phải sống với bà ngoại đã già yếu. Các em đều thiếu tình cảm của cha mẹ,  
sự  đôn đốc trong học tập, không được chỉ  bảo về  các kĩ năng sống trong khi 
các em đang bước vào tuổi dậy thì, các em rất cần sự hướng dẫn và giúp đỡ.
Như  vậy, việc đầu tiên là phải xây dựng một kế  hoạch chủ  nhiệm.  
Kế hoạch này ngoài việc căn cứ vào kế hoạch của nhà trường, chuyên môn, 
phải dựa vào tình hình thực tế của lớp, của cá nhân học sinh để xây dựng kế 
hoạch cả  năm, học kỳ, tháng, tuần. Dựa vào kế  hoạch, tôi hướng dẫn học 
sinh thực hiện nhiệm vụ đã đề ra. Sau mỗi đợt, tôi tổng kết lại cả quá trình  
và rút ra cho mình bài học kinh nghiệm. Từ  đó biết được  ưu, khuyết điểm  
của từng em để  khắc phục và đưa ra hướng hoạt động mới. Những vấn đề 
trong hướng dẫn các em hoạt động, tôi ghi vào sổ chủ nhiệm những gì mình  
theo dõi được ở học sinh. Từ đó đánh giá và giáo dục các em tốt hơn.


* Biện pháp 2 : Xây dựng mối quan hệ thầy – trò.
“Xây dựng lớp học thân thiện” là tạo ra sự gần gũi giữa giáo viên với  
học sinh. Vì vậy làm thế  nào để  mối quan hệ  thầy ­ trò được gắn bó, thân  
thiện. Trước hết, tôi đã thể hiện sự thân thiện cởi mở với các em nhưng vẫn 
thể hiện sự nghiêm khắc. Ngay từ đầu, tôi yêu cầu các em phải cố gắng làm 
cho đúng. Nếu chưa đúng thì phải làm lại cho đúng mới thôi. Đúng là đúng từ 
7


việc làm, nghiêm là nghiêm trong việc làm chứ  không phải  ở  thái độ  khắt 
khe, gay gắt. Mối quan hệ cơ bản nhất của tôi và các em là quan hệ hợp tác  
làm việc: giáo viên giao việc ­ học trò làm; giáo viên hướng dẫn ­ học trò  
thực hiện. Khi các em làm bài, viết bài tôi đến gần từng em để  giúp đỡ  kịp  
thời. Em nào làm bài chưa đúng, chưa viết được, tôi yêu cầu em đó phải làm 
lại chứ không ghi lời nhận xét phê bình các em. Tôi giúp đỡ, hướng dẫn học 
sinh làm lại ngay tại lớp. Nếu em nào không làm được, tôi chữa bài và yêu 
cầu em chép lại. Tôi luôn nghĩ rằng đối với học sinh tiểu học việc chữa bài  
đánh giá nhận xét không phải để bắt lỗi, để la mắng học sinh mà để  ghi lời  
nhận xét đánh giá nhằm phát hiện những chỗ  chưa đúng của học sinh, giúp 
các em làm lại cho đúng, cho hoàn thiện hơn. Với cách nói đúng, làm đúng 
trong học tập, các em trở thành những con người trung thực, không gian dối. 
Ở  lớp 5, các em đã biết nhận xét, đánh giá nêu ra ý kiến riêng của  
mình. Bởi vậy mỗi lời nói, cử  chỉ, việc làm, hành vi của giáo viên đều tác 
động đến học sinh vì đây là giai đoạn bước đầu các em phát triển tâm sinh lí 
tuổi dậy thì, các em rất nhạy cảm. Khi lên lớp tôi luôn nhắc các em biết giữ 
vệ sinh chung, vệ sinh cá nhân, thái độ ứng xử với mọi người,... Mỗi khi có 
học sinh mắc khuyết điểm, tôi luôn tìm hiểu cặn kẽ nguyên nhân để có biện  
pháp giúp đỡ các em sửa chữa chứ không nóng vội phê bình các em trước lớp  
hoặc trước tập thể  cha mẹ  học sinh và không bao giờ  có những lời nói, cử 

chỉ xúc phạm các em vì ở tuổi này các em đã biết tự ái và xấu hổ.
         Giờ  học nào cũng vậy, tôi luôn cố  tìm ra những ưu điểm nhỏ nhất để 
khen ngợi động viên các em, khích lệ  và biểu dương các em kịp thời. Chỉ 
bằng những tràng pháo tay cũng đủ để các em vui phấn khởi chứ không nhất  
thiết phải là vật chất. Ca ngợi những ưu điểm của các em nhiều hơn để các  
em thấy tự  tin, phấn khởi, hứng thú để  lần sau các em tiếp tục phát huy. 
Nhưng trong khi khen, tôi cũng không quên chỉ ra những thiếu sót để  các em  
khắc phục và ngày càng hoàn thiện hơn. 
         Ví dụ em H Ninh là học sinh khả năng ghi nhớ chậm, rụt rè, đọc yếu. 
Nên trong mỗi giờ học, tôi dành thời gian gọi em phát biểu dù chỉ là một câu 
trả lời nhỏ, đọc một câu văn ngắn tôi vẫn khen em đã có cố gắng, nếu em cố 
gắng hơn thì em sẽ đọc bài tốt hơn. Cứ thế mỗi giờ học, mỗi buổi học mỗi  
lần được khen em đều nở  nụ cười phấn khởi. Từ đó em học tập tiến bộ  và 
mạnh dạn hẳn lên cho đến cuối học kì I em đã đọc có tiến bộ rất nhiều, khả 
năng đọc bài và tính toán cũng nhanh hơn. 
        Đối với học sinh có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn: Tôi luôn quan 
tâm gần gũi động viên để các em cố  gắng học tập tốt như phát động phong 
trào “Giúp bạn nghèo vượt khó”, “Lá lành đùm lá rách”, gặp riêng cha mẹ 
học sinh để bàn bạc và khuyên họ khắc phục khó khăn tạo điều kiện cho con  
8


em học tập. Việc làm này, tôi thực hiện thường xuyên,  liên tục hàng tuần. 
Sự  gần gũi, thân thiện giữa cô và trò như  vậy làm cho cha mẹ  các em yên 
tâm, sẽ có trách nhiệm động viên, nhắc nhở con em ra lớp. Với các em trong 
trường hợp này thường hay thiếu dụng cụ  học tập, tôi đã phát động cả  lớp 
mỗi ngày tiết kiệm 1000 đồng nuôi heo đất lấy tiền mua dụng cụ  học tập.  
Tuy những đồ  dùng này giá không là bao nhưng vẫn là nguồn động viên, an 
ủi cho các em đến trường.     
Ví dụ em H Bơ Hđơk, khi tôi đến gia đình động viên em thì biết được 

lí do em không đi học là không có quần áo, cặp và sách vở ­ đồ dùng học tập  
để  đến lớp. Tôi đã khuyến khích học sinh trong lớp quyên góp mỗi bạn 1 
quyển vở  hay cái bút, thước kẻ. Tôi cũng để  lại cho em chiếc ba lô mà tôi  
yêu thích để  cho em có cặp đi học. Hôm sau em đã đến lớp rất tươm tất 
trong tiếng vỗ tay của cả lớp. Đối với các em đó là một sự khích lệ vô cùng 
lớn để các em vững bước trên con đường học tập.
        Mỗi khi trò chuyện, khi giảng bài, hay trong giờ ra chơi, tôi luôn quan  
tâm và thể  hiện tình cảm yêu thương của mình đối với các em. Chỉ  có tấm 
lòng nhân hậu, bao dung, hết lòng vì học sinh thân yêu như vậy thì chắc chắn  
học sinh sẽ  chăm ngoan, tích cực và ham học. Tình cảm giữa tôi và các em  
ngày càng gắn bó, thân thiện hơn. 
         * Biện pháp 3: Xây dựng mối quan hệ bạn bè.
         Đây cũng là một tiêu chí góp phần xây dựng lớp học thân thiện, học  
sinh tích cực. Vì vậy ngoài việc được sự  quan tâm của người thân trong gia  
đình, của bà con lối xóm, khi đến trường các em cũng cần có bạn bè để chia  
sẻ, giúp đỡ  nhau. Thật đúng như  vậy “Học thầy không tày học bạn” “ Gần  
mực thì đen, gần đèn thì sáng”.  Ở  trường, nếu các em có nhiều bạn bè thân  
thiết, nhiều bạn bè tốt thì các em sẽ  vui hơn, sẽ  học tập  ở  bạn nhiều điều 
tốt và sẽ mau tiến bộ. Bạn học giỏi sẽ giúp những bạn học yếu; ngược lại,  
bạn học yếu cũng dễ dàng nhờ  bạn giúp đỡ  mình học tập mà không phải e 
ngại, xấu hổ. Nhưng trong thực tế  không phải trong một lớp học em nào 
cũng đoàn kết giúp đỡ nhau. Có những lúc các em còn trêu trọc, cãi nhau. Tuy 
chưa có chuyện gì nghiêm trọng nhưng nó vẫn ảnh hưởng xấu đến tình cảm 
bạn bè và chất lượng học tập của lớp. Là một giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn 
quan tâm đến vấn đề này. Xây dựng được mối quan hệ bạn bè đoàn kết, gắn 
bó cho các em thì tôi sẽ  xây dựng được nề  nếp lớp học, tiến tới xây dựng 
môi trường học tập thân thiện. Từ  môi trường học tập thân thiện đó, chất  
lượng học tập của lớp chắc chắn sẽ được nâng cao. 
        Để  xây dựng mối quan hệ  bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn  
sàng giúp đỡ  nhau trong học tập, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề 

đòi hỏi sự đoàn kết của nhiều học sinh. 
9


       Ví dụ: Trong tuần đầu, tôi sắp xếp các em ngồi gần học sinh đọc bài  
tốt để kèm bạn luyện đọc. Trong tuần sau, tôi sắp xếp các em ngồi gần học  
sinh   khác để  cùng chia sẽ  việc giúp đỡ  bạn mình. Vì từ  đầu năm tôi phát  
động phong trào “ Đôi bạn cùng tiến” bằng cách phân công em học khá giúp 
đỡ em học yếu để những học sinh giỏi cùng tôi giúp đỡ bạn học tập để theo 
kịp chương trình. 
           Trong tiết học Toán, tôi chia nhóm theo dãy bàn thì tiết Tập đọc tôi 
chia nhóm chẵn lẻ,... Tiết học này, các em chung nhóm với bạn này, nhưng  
tiết sau các em lại chung nhóm với bạn khác. Mỗi lần chia nhóm các em lại 
được giao lưu học tập với các bạn khác. Với cách làm đó tạo cho các em tính 
mạnh dạn, tinh thần đoàn kết, các em sẽ  phấn khởi hứng thú học tập hơn. 
Với tính hiếu động, với tâm lí muốn được điểm tốt, được khen về  khoe với 
ông bà, cha mẹ  nên mỗi lần thảo luận nhóm tôi đều đánh giá khen thưởng  
bằng các hình thức khác nhau, thế  là em nào cũng tích cực tham gia. Những 
em khá, giỏi thì thể  hiện hết khả  năng của mình. Còn những em học yếu, 
chưa tích cực sợ mình không được khen cũng cố gắng tham gia thảo luận dù  
mình chỉ  đưa ra được câu trả  lời chưa đầy đủ. Cứ  như  vậy, dần dần việc  
hợp tác của học sinh trong lớp đã được cải thiện. 
Em Y Toan và Y Yoai là hai học sinh hay nghịch ngợm trong lớp, do 
tiếp thu bài chậm nên học lực không theo kịp lớp. Trong một số  tiết em  
thường trêu chọc bạn và tự  tiện đổi chỗ  đổi, gây mất trật tự  trong giờ  học, 
khi nhắc em thường tỏ  thái độ  lầm lì. Biết được tính cách này của em, tôi 
thường gọi em làm bài tập dạng đơn giản; gọi em đọc phần bài học; cho em 
phát vở cho các bạn. Từ những việc làm nhỏ đó, tôi thấy em đọc bài có tiến  
bộ  rõ rệt, tiếp thu bài nhanh hơn so với đầu năm. Em tự  giác trong học tập 
hơn, em đã cảm nhận được sự quan tâm của cô và thấy mình cũng có một vị 

trí quan trọng trong lớp. 
* Biện pháp 4: Tổ chức các hoạt động tập thể và các trò chơi vui tươi  
lành mạnh
         Như chúng ta đã biết, học sinh lớp 5 là giai đoạn đầu tuổi dậy thì, các 
em gái đã biết ngại ngùng xấu hổ, đã biết phân biệt chỗ ngồi, chỗ đứng giữa 
nam và nữ. Để tạo không khí sôi nổi ngoài các hoạt động học tập, tôi còn tổ 
chức cho các em tham gia các giờ sinh hoạt tập thể, sinh hoạt Đội, hoạt động 
ngoài giờ lên lớp, múa hát chào mừng các ngày lễ lớn. Nội dung hình thức vui 
chơi được tôi soạn phù hợp với lứa tuổi gây sự hứng thú cho các em. Việc tổ 
chức cho các em múa hát và tham gia các trò chơi mà tôi đưa ra đã tạo cho các  
em có một sân chơi bổ ích “học mà chơi, chơi mà học”, kiến thức và kĩ năng 
ở  mỗi em sẽ  được hình thành và rèn luyện một cách nhẹ  nhàng, tự  nhiên,  
không gây căng thẳng, gò bó. Ngoài ra, tổ chức sinh hoạt tập thể và vui chơi  
còn giúp các em phát triển và hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và  
10


tài năng sáng tạo. Việc tổ  chức các hoạt động tập thể  tạo nên sự  kết nối, 
đoàn kết các em lại với nhau hơn. 
         Ví dụ  trong tháng 12 với chủ  điểm chào mừng ngày thành lập Quân  
đội nhân dân Việt Nam 22 tháng 12, Liên đội tổ chức thi Hội khỏe Phù Đổng 
cấp trường. Tôi triển khai kế  hoạch cuộc thi trước lớp, bình chọn các em  
tham gia, vì thế em nào cũng ra sức phấn đấu tập luyện. Kết quả: đạt 1 giải 
nhì môn điền kinh, 1 giải nhất môn nhảy xa, 2 học sinh được tham gia giải 
bóng đá thiếu nhi cấp huyện. Lúc đó, tôi thấy chất lượng học tập, rèn luyện  
của các em nâng lên rõ rệt. Bằng kinh nghiệm thực tế  của bản thân, ngoài 
việc tổ  chức cho các em tham gia sinh hoạt tập thể,..tôi còn luôn tạo không 
khí sinh động, sôi nổi, hài hòa, vui tươi không căng thẳng mà tạo niềm vui,  
sự  phấn chấn để  các em vừa học vừa chơi nhưng vẫn đảm bảo kiến thức 
bài học. Trong giờ học tôi tổ  chức cho các em sinh hoạt tập thể và chơi trò  

chơi ở giữa các tiết học nhằm bớt sự căng thẳng mệt mỏi trong giờ học. Có 
lúc, tôi lấy nội dung trong bài học làm trò chơi. Qua trò chơi, các em vừa chơi  
vừa khám phá kiến thức bài học.
        Ví dụ: Trong các tiết Khoa học, tôi tổ  chức cho các em chơi các trò 
chơi như: thực hành giữ  vệ  sinh cá nhân tuổi dậy thì, an toàn trên đường đi 
học, phòng tránh bị  xâm hại..... Tổ  chức cho các em sắm vai xử  lí các tình 
huống tránh xa các tệ  nạn, các chất cấm, gây nghiện,... Thông qua các hoạt 
động này, các em có được những kĩ năng sống cần thiết trong cuộc sống.
Những trò chơi, những hoạt động có liên quan đến bài học thì tôi tổ 
chức cho các em chơi trong giờ  học còn những hoạt động chiếm nhiều thời 
gian, cần nhiều sự  chuẩn bị về công sức, tôi tổ  chức cho học sinh tham gia 
trong tiết hoạt động tập thể  bởi mỗi tuần có 01 tiết. Trong tiết hoạt động  
tập thể  tôi tổ  chức cho học sinh ôn luyện kiến thức bằng các trò chơi như: 
Hái hoa dân chủ, Kết bạn, Đố  vui để  học,.. Nội dung tôi soạn thảo có liên 
quan đến kiến thức bài học, gây được sự  thích thú, hào hứng cho học sinh 
mỗi lần tham gia.  Ngoài ra  ở  các buổi sinh hoạt lớp cuối tuần sau khi lớp  
đánh giá hoạt động và nghe tôi triển khai kế hoạch tuần tới xong thì tiếp tục 
chơi trò chơi như  tìm hiểu về  các ngày lễ  lớn, kể  tên hoặc sưu tầm tranh  
ảnh về những việc làm tốt... Nhờ thường xuyên tổ chức các hoạt động sinh 
hoạt tập thể và các trò chơi cho cả lớp nên các em trở nên rất tự tin, rất năng  
động sáng tạo. 
Ví dụ: Trong hội thi Thiếu nhi vui khỏe, các em rất hào hứng khi được  
tham gia, em nào cũng muốn vào đội chính trong môn thi kéo co. Hằng ngày 
các em thường phân thành nhóm nhỏ  để  chơi như  bạn gái chơi nhảy dây 
hoặc chơi thẻ  đá, bạn trai chơi đá cầu... Nhưng hôm nay thì khác, đội hình  
của lớp là  4 nam 4 nữ, cùng dùng hết sức kéo trước sự cỗ vũ nhiệt tình của 
11


các bạn còn lại. Mặc dù không có giải, nhưng các em đã hiểu được rằng:  

muốn chiến thắng phải đồng sức, đồng lòng, đoàn kết giữa các thành viên và 
cả đội cỗ vũ cũng phải nhiệt tình.
        

         * Biện pháp 5:  Tạo điều kiện tốt nhất để các em được hưởng đầy đủ  
các chính sách ưu đãi, sự hỗ trợ của các mạnh thường quân. 
Vì trong lớp có nhiều em hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, việc chọn 
lựa và xem xét để  các em được hưởng các phần quà, sự  hỗ  trợ  của các nhà  
hảo tâm là rất khó đối với giáo viên chủ  nhiệm, được em này thì lại tội em  
kia. Nên giáo viên phải nắm rõ hoàn cảnh của từng em và phân bố  hợp lí 
tránh việc một học sinh mà được nhận nhiều lần, không công bằng đối với 
các em còn lại. Đồng thời với những em chưa được hưởng tôi cũng động 
viên, phân tích cho các em hiểu mình cần phải chia sẻ  cho bạn … và cũng 
phân loại các em chưa được nhận quà để  có kế  hoạch hỗ  trợ, phát quà cho  
các em ở những lần tiếp theo.
Ví dụ như  em H Ninh Niê, em được chính quyền xã quan tâm vì hoàn  
cảnh đặc biệt khó khăn đã nhận một chiếc xe đạp và vở viết. Trong đợt tặng  
quà tiếp theo, tôi xét em cũng có hoàn cảnh khó khăn để  chia sẽ  sự  giúp đỡ 
cho bạn khác như  em H Mơ  Niê, gia đình có hai chị  em, mẹ  bị  tâm thần 
không lao động được, bố mất sớm. Cả 3 mẹ con đều được sự  chăm sóc của 
ông bà ngoại đã già yếu. Nhưng em H Mơ  lại có thành tích học tốt, chăm 
học, đi học chuyên cần, biết giúp đỡ ông bà. Món quà nhỏ nhưng đã khích lệ 
được tinh thần vượt khó trong học tập cũng như trong cuộc sống của em.
Trong việc hưởng chế độ  đối với học sinh dân tộc thiểu số  vùng đặc 
biệt khó khăn, giáo viên chủ  nhiệm phải rà soát và nắm đủ  số  lượng hộ 
nghèo; đến từng gia đình hướng dẫn cha mẹ làm các giấy tờ liên quan để con 
em mình được hưởng đầy đủ chế độ theo Nghị định của Nhà nước. 
      

c) Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp


        Các giải pháp, biện pháp trên có quan hệ  chặt chẽ  với nhau, chúng là 
cầu nối tạo nên thành công trong công tác chủ  nhiệm nhằm nâng cao chất  
lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Vì nếu một lớp học có nề  nếp tốt  
song lớp học đó chưa thể hiện được sự thân thiện, các em chưa tích cực học 
tập chưa thể hiện sự đoàn kết thì hiệu quả của công tác giáo dục chưa thành 
công và ngược lại. Chính vì thế người giáo viên chủ nhiệm phải biết kết hợp  
hài hòa giữa các biện pháp thì việc học tập rèn luyện cho các em từng bước 
nâng lên. Đây chính là chỗ  dựa vững chắc hình thành kĩ năng sống, kỹ  năng 
12


giao tiếp; là cơ  sở  để  học tốt các lớp học trên. Thông qua đó các em có vốn 
kiến thức để vận dụng vào cuốc sống lao động hằng ngày. 
Để  thực hiện tốt các giải pháp, biện pháp trên đòi hỏi giáo viên phải  
chủ  động, sáng tạo, lập kế  hoạch phù hợp cho từng công việc, đặc biệt là 
đối với học sinh cá biệt trong lớp. Cơ  sở  vật chất, trang thiết bị  dạy học  
phải đầy đủ. Giáo viên phải xây dựng kế hoạch chủ nhiệm cụ thể phù hợp 
với học sinh của mình chủ nhiệm. Phải được sự quan tâm của lãnh đạo nhà  
trường, sự  phối hợp giữa các giáo viên dạy luân phiên, dạy bộ  môn, tổng 
phụ trách Đội và sự giúp đỡ của bạn bè đồng nghiệp.
        d)  Kết  quả  khảo nghiệm, giá trị  khoa học  của vấn  đề  nghiên cứu,  
phạm vi và hiệu quả ứng dụng
        Kết quả thu được qua khảo nghiệm: Qua quá trình vận dụng các biện 
pháp nêu trên một cách linh hoạt sáng tạo cùng với sự kiên trì, chịu khó trong 
công tác chủ nhiệm. Đến nay, các em đã có ý thức tự giác học tập, thích tham  
gia các hoạt động tập thể, các phong trào của Đội như  Hội khỏe Phù Đổng, 
Ngày hội Thiếu nhi, nuôi heo đất … Các em thực hiện đầy đủ  5 nhiệm vụ 
của người học sinh tương đối đạt yêu cầu; Kết quả học tập và rèn luyện có 
nhiều tiến bộ; các em đều ngoan, sạch sẽ  gọn gàng.  Kĩ năng sống, kĩ năng 

giao tiếp tốt hơn. Sau  một thời gian tôi áp dụng các biện pháp giáo dục học 
sinh cá biệt các em đã có kết quả như sau:

Đkết, yêu thương

Trung thực, kĩ luật

Phẩm chất
Chăm học,chăm làm

Tự học, GQVĐ

Hợp tác

Tự phục vụ, tự quản

Năng lực
Đkết, yêu thương

Trung thực, kĩ luật

Tự tin, trách nhiệm

Chăm học,chăm làm

Phẩm chất
Tự học, GQVĐ

Hợp tác


Năm học
2017­2018

Tự phục vụ, tự quản

Năng lực

Cuối học kì I

Tự tin, trách nhiệm

Đầu năm học 

H Bơ 
Hđơk

C

Đ

C

C

Đ

C

Đ


Đ

Đ

Đ

Đ

Đ

Đ

Đ

H Ninh Niê

C

C

C

C

Đ

Đ

Đ


Đ

Đ

Đ

Đ

Đ

Đ

Đ

Y Toan 

C

C

C

C

C

C

C


Đ

Đ

Đ

Đ

Đ

Đ

Đ

Y  Yoai

Đ

C

C

C

Đ

C

C


Đ

Đ

Đ

Đ

Đ

Đ

Đ

13


Giá trị khoa học mang lại khi thực hiện đề tài: Đề tài được áp dụng có 
hiệu quả trong lớp. Chất lượng giáo dục được nâng lên rõ rệt. Phát huy được 
tính năng động sáng tạo của giáo viên. Rõ ràng qua cách làm này, tôi thấy kết 
quả  giáo dục cả về học tập lẫn phẩm chất của học sinh ngày càng tiến bộ 
rõ rệt, chất lượng dạy và học được nâng cao. Các em ngày càng chăm ngoan,  
tình cảm thầy ­ trò, bạn bè ngày càng gắn bó và thân thiện. Giúp người giáo 
viên chủ nhiệm lớp có điều kiện gần gũi với học sinh, hiểu học sinh hơn để 
từ đó giáo dục các em ngày càng tốt hơn. Học sinh không còn tâm lí ngại gần 
gũi, ngại tiếp xúc với giáo viên chủ  nhiệm lớp, tạo điều kiện để  học sinh  
phát huy tối đa những khả  năng vốn có của mình trong học tập cũng như 
trong mọi hoạt động của lớp, của trường để  thực hiện tốt nhiệm vụ  giáo  
dục.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

1.

Kết luận 

Vấn đề nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh; 
tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến học sinh không thích đến trường, chưa tích 
cực tham gia các hoạt động giáo dục, chưa tự giác học tập, kết quả học tập  
chưa cao, thiếu vốn kĩ năng sống,… Từ  đó tìm ra các giải pháp phù hợp để 
giúp đỡ  và giáo dục học sinh. Qua quá trình thực hiện các giải pháp trong 
công tác chủ nhiệm và giảng dạy, học sinh đã có nhiều chuyển biến tích cực: 
các em đi học chuyên cần hơn những năm học trước, đọc viết có tiến bộ  rõ  
rệt, thích tham gia các hoạt động giáo dục, vui chơi. Trong các tiết học các 
em đã tập trung, tích cực phát biểu, lên bảng làm bài tập, các em tự  tin hơn  
trong học tập cũng như  trong giao tiếp. Như  vậy, sau một thời thực hiện  
mang lại kết quả  tốt, đề  tài này cũng có thể  áp dụng cho các lớp khác có  
những  đối  tượng  học sinh  tương tự,    giúp các  em  hòa nhập  và theo  kịp 
chương trình học chung của cả  lớp. Để  đạt được đó người giáo viên phải 
thực sự tâm huyết, nhiệt tình có tinh thần tự học, coi học sinh như chính con  
em của mình. Biết phối hợp với cha mẹ  học sinh và các đoàn thể  trong và  
ngoài nhà trường.
          2. Kiến nghị

Muốn phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số thì cần phải thực hiện  
đồng bộ các chính sách. Muốn giáo dục học sinh cá biệt phải phối kết hợp tốt 
giữa lãnh đạo nhà trường, giáo viên chủ nhiệm, cha mẹ học sinh, giáo viên bộ 
môn, giáo viên dạy luân phiên, Tổng phụ  trách  Đội,  Đoàn thanh niên,  địa 
phương.
 

14



* Đối với nhà trường: cần bồi dưỡng giáo viên làm công tác chủ nhiệm 
lớp và cần tăng cường các cuộc hội thảo chuyên đề  về  công tác chủ  nhiệm  
lớp. Tổ chức cho giáo viên được giao lưu học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Cần  
bố   trí   giáo   viên   chủ   nhiệm   phù   hợp   với   từng   khối   lớp.   Có   chế   độ   khen 
thưởng, tôn vinh giáo viên chủ  nhiệm giỏi tạo động lực cho giáo viên cống 
hiến vì sự nghiệp giáo dục.
   * Đối với giáo viên chủ  nhiệm lớp: phải thật sự tâm huyết với nghề, 
luôn hết lòng vì học sinh, có năng lực tổ  chức, quản lí lớp, có kĩ năng sư 
phạm vững vàng. Phối hợp chặt chẽ  với cha mẹ học sinh để  giáo dục học 
sinh, tạo điều kiện thuận lợi và môi trường tốt nhất cho con em học tập và 
rèn luyện. Giáo viên phải có kế hoạch giáo dục, kế hoạch bài giảng cụ thể,  
phù hợp với thực tế học sinh của lớp.  Thường xuyên trao đổi với những giáo 
viên dạy luân phiên, giáo viên dạy Mĩ thu  ật, Âm nhạc, ... để  nắm bắt tình 
hình học tập của lớp. Phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, xã  
hội.
   * Đối với các bậc cha mẹ  học sinh: cần phải quan tâm hơn nữa đến  
con em mình, đến sự  nghiệp giáo dục, thật sự  là tấm gương mẫu mực cho  
con em mình để các em có động lực học tập tốt và phát triển toàn diện.
* Đối với Đoàn – Đội: Kết hợp cùng Nhà trường tổ  chức cho các em 
tham gia các phong trào sinh hoạt của Đội: Tổ  chức các trò chơi Dân gian, 
Đố  vui để  học, giới thiệu và hướng dẫn nhiều trò chơi giúp học sinh hứng  
thú đến lớp, gắn kết lại các học sinh với nhau.
* Đối với chính quyền địa phương: Đoàn Thanh niên thôn buôn tạo 
môi trường sinh hoạt lành mạnh tại địa phương để giáo dục các em tránh xa  
các   tệ   nạn   xã   hội   và   những   hành   vi   không   đúng   đắn.   Chính   quyền   địa 
phương phối hợp cùng Nhà trường tranh thủ, kêu gọi sự  hỗ  trợ  của các  
doanh nghiệp trên địa bàn, các mạnh thường quân, các nhà từ  thiện,… để 
giúp đỡ học sinh khó khăn của địa phương.

       Trên đây là một số kinh giáo dục học sinh cá biệt lớp 5 mà tôi đã thực 
hiện. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định nhưng tôi hy vọng với kết 
quả đạt được ở trên sẽ  góp phần nhỏ  bé nâng dần chất lượng giáo dục của 
nhà trường ngày một tốt hơn. Rất mong được sự  góp ý của lãnh đạo và các 
đồng nghiệp trong trường và của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm. 
      Xin chân thành cảm ơn./.
                                                          Ea Bông, ngày 02 tháng 04 năm 2018.
                                                                     Người viết
15


                                                                            H La Chi Êñuôl
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CẤP TRƯỜNG
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
Xếp loại:......................
P. CHỦ TỊCH

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN CẤP HUYỆN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
Xếp loại:...............
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT

TÊN TÀI LIỆU

1

Điều lệ trường tiểu học.

2

Tâm lý học 

3
4

TÁC GIẢ/NHÀ XUẤT 

GHI 

BẢN

CHÚ

Vụ Giáo dục Tiểu học
NXB Giáo dục Việt Nam
Phạm Minh Hạc

NXB Giáo dục

­ “Quản lý công tác giáo viên chủ 
nhiệm ở trường tiểu học” 

Nguyễn Thị Tuyết Hạnh
NXB chính trị quốc gia – 

  Luật Giáo dục năm 2005.

Hà Nội
17

 
 
 
 


    Thông   tư   22/TT­BGĐ­ĐT   về 
5

việc hướng dẫn đánh giá xếp, loại 
học sinh bậc Tiểu học.

Vụ Giáo dục Tiểu học
NXB Giáo dục Việt Nam

 


­   Chỉ   thị   số   40/CT­BGD   ĐT   của 
Bộ   trưởng   Bộ   Giáo   dục   và   Đào 
tạo   về   phát   động   phong   trào   thi 
đua     và   Kế   hoạch   số   307/KH­
6

BGD&ĐT   ngày   22   tháng   7   năm 
2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo 

Bộ Giáo dục và Đào tạo

 

về kế hoạch triển khai “Xây dựng 
trường học thân thiện ­ Học sinh 
tích   cực”   trong   các   trường   phổ 
thông giai đoạn 2008­2013

MỤC LỤC
TT
 I

Nội dung

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU

1


1

Lý do chọn đề tài

1 – 2

2

Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

2

3

Đối tượng nghiên cứu

2

4

Giới hạn phạm vi nghiên cứu

2

5

Phương pháp nghiên cứu

2 – 3 


18


 II
1

PHẦN NỘI DUNG

3

Cơ sở lý luận

3 – 4 

2

Thực trạng

3

Nội dung và hình thức của giải pháp

4 – 5
5

a

Mục tiêu của giải pháp

b


Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp

c

Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp

d

Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn  11 – 12
đề nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu

III

5

PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

5 – 11
11

12

1

Kết luận

12 – 13

2


Kiến nghị

13 – 14 
16

Tài liệu tham khảo

19



×