Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: Dạy học sinh lớp Một viết đúng chính tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.27 KB, 16 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI MỞ ĐẦU:

Một trong những vấn đề  khó đặt ra cho người giáo viên dạy môn 
Tiếng Việt trong nhà trường phổ  thông (Đặc biệt là cấp Tiểu học) là làm 
thế nào để học sinh viết đúng chính tả.
Như chúng ta đã biết “Cấp Tiểu học là nền, lớp Một là móng”.  Bậc 
Tiểu học là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục. Vì vậy muốn có “nền 
móng” tốt người giáo viên phải là người thợ  đầu tiên để  góp phần quan 
trọng xây dựng nên nền móng đó. Đối với học sinh cấp Tiểu học nói chung  
và lớp Một nói riêng, dạy cho các em nắm chắc được những kiến thức sơ 
đẳng từ  buổi ban đầu thì các em mới có vốn để  tiếp thu những kiến thức  
mới của các lớp trên tốt hơn. Ông cha ta đã có câu “Nét chữ  ­ nết người”,  
không phải tự nhiên mà ông cha ta đã đúc kết ra câu nói ấy, mà cũng không  
tự  nhiên con người ta viết đẹp là do có “hoa tay”. Nếu cái nết của con  
người “phần nhiều do giáo dục mà nên” thì nét chữ cũng phải do rèn luyện 
mới có. Các em phải được rèn luyện ngay từ những nét chữ  đơn giản đầu 
tiên. Đó là từ  khi các em bắt đầu tập cầm bút viết những nét chữ  cơ  bản 
trên trang vở đầu tiên của đời học sinh các em.
Không riêng gì đối với những người giáo viên chúng ta mà với ai  
cũng vậy, thật là buồn trước một bài viết mắc quá nhiều lỗi chính tả, trình  
bày cẩu thả, luộm thuộm. Thật là đau lòng khi học sinh chúng ta ­ những  
chủ  nhân tương lai của đất nước lại viết “Tổ  quốc” thành ra “Tổ  cuốc”!  
Ngược lại, được nhìn một bài viết sạch đẹp, đúng chính tả, ít ra cũng gây 
cho chúng ta những hứng thú ban đầu để có tâm lý thoải mái đi sâu vào tìm  
hiểu nội dung bên trong. Hơn nữa, một bài viết đúng chính tả còn thể hiện  
được sự trong sáng của Tiếng Việt và còn cao hơn đó là thể  hiện trình độ 
văn hóa về mặt ngôn ngữ của người viết. Chính vì thế, trong quá trình dạy 
học, giáo viên phải là người chịu trách nhiệm rèn cho học sinh từng nét chữ 
1



từ  buổi ban đầu, để  rồi khi lớn lên, khi bước vào đời các em sẽ  có được 
những nét chữ đẹp và viết đúng chính tả. Mặc dù ở thời đại ngày nay thông 
tin   ngày   càng   được   phát   triển   hiện   đại   hơn   như:   Vi   tính,   Phô   tô,   Fax,  
chát .... Nhưng nét chữ  viết đúng, viết đẹp không thể  thiếu mà nó là một  
trong những hành trang cùng các em bước vào đời.
Vì vậy, rèn luyện để  học sinh có kỹ  năng viết đúng, viết đẹp ngày 
càng được chú trọng bằng những cuộc thi viết chữ đẹp các cấp. Viết đúng  
chính tả, viết đẹp, tốc độ  viết ngày càng nhanh theo đúng quy định của 
chương trình  ở  từng lớp là trách nhiệm và nhiệm vụ  của mỗi người giáo 
viên chúng ta. Luyện chữ viết đẹp, viết đúng chính tả  cho học sinh là góp 
phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo 
đức tốt như tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật và khiếu thẩm mỹ. Đúng như 
cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói:
“ Chữ  viết cũng là một sự  biểu hiện của nết người. Dạy cho học  
sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em  
tính cẩn thận, tính kỷ  luật, lòng tự  trọng đối với mình cũng như  đối với  
thầy và bạn đọc bài vở của mình ...”.
Trong những năm gần đây nhiều trường đã chú trọng đến phong trào  
“Vở sạch chữ đẹp”. Vì vậy chữ viết của học sinh đã đạt kết quả tốt. Tuy  
nhiên cũng còn những giáo viên chưa chú trọng, chưa có phương pháp và 
thiếu tính kiên trì trong việc luyện viết cho học sinh. 
Đối với trường tôi ­  một trường luôn luôn dẫn đầu về kết quả trong 
các cuộc thi viết chữ  đẹp các cấp thì các lớp do tôi chủ  nhiệm trong các 
năm qua đều có thành tích xuất sắc, nhiều em đạt giải cao  ở  các cuộc thi  
cấp thị, cấp tỉnh. Bản thân tôi cũng đã đạt được giải nhất trong cuộc thi  
“Viết chữ đẹp” cấp tỉnh năm học 2002 ­ 2003. 

2



Vì vậy tôi đưa ra đây một số  kinh nghiệm  “Dạy học sinh lớp Một  
viết đúng chính tả” mà bản thân đã tích lũy được trong những năm dạy lớp 
Một để bạn đọc cùng tham khảo.
II.  THỰC   TRẠNG CỦA  VIỆC   DẠY   CHO HỌC  SINH  LỚP  MỘT  VI ẾT  
ĐÚNG CHÍNH TẢ.

1. Thực trạng:
1.1. Thực trạng chung của trường.
a. Thuận lợi: 
Thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, nhìn chung giáo  
viên đã vận dụng khá thành thạo phương án đổi mới dạy học môn Tiếng 
Việt nói chung và phân môn chính tả nói riêng. Từ các yêu cầu kỹ năng cần 
đạt được trong một tiết chính tả: Tập chép (nhìn bảng hoặc sách chép lại 
bài), hoặc nghe ­ viết (Giáo viên đọc học sinh nghe để  viết lại bài), giáo 
viên đã đảm bảo được quy trình dạy cho học sinh viết chính tả. Ngoài ra 
,giáo viên đã có ý thức rèn luyện cho học sinh viết đúng chính tả  từ  lớp 
một, vì vậy học sinh viết chính tả đúng và đẹp.
b. Khó khăn: 
­ Trong chương trình hiện hành, một tuần chỉ  có hai tiết chính tả  và 
sang mãi tuần 23  ở  học kỳ  2 mới bắt đầu viết chính tả. Hình thức viết  
chính tả tập chép là chủ  yếu, chỉ có ba bài bắt đầu học sinh tập nghe đọc 
để viết.
Luật chính tả đưa vào trong chương trình lớp một không được lồng  
ghép vào các tiết học âm và từ đầu chương trình mà sang mãi tuần 25 trở đi 
mới có luật chính tả.
Vì vậy học sinh viết chính tả còn hay bị mắc lỗi.
1.2. Thực trạng của lớp: 
a. Thuận lợi: 


3


Năm học 2010 – 2011, tôi được phân công dạy Tiếng Việt và chủ 
nhiệm lớp 1A, sĩ số  35 học sinh, nhìn chung các em đã qua lớp mẫu giáo 
nên đều mạnh dạn, tự tin, nhanh nhẹn, linh hoạt và nắm bắt kiến thức rất 
nhanh. Đa số học sinh đọc tốt nên giúp các em viết chính tả dễ dàng hơn. 
b. Khó khăn: 
­ Trong lớp có  nhiều học sinh sức khỏe yếu, hay phải nghỉ  học,  
khiến việc tiếp thu kiến thức của các em khó khăn và việc dạy của giáo  
viên vất vả hơn (như em Hưng, Huyền Trang, Mai Tùng, Dũng, Hiển....) 
­ Các em trong lớp nhiều em nói theo bố mẹ, vì vậy lỗi đọc sai dẫn 
đến viết chính tả  sai theo tiếng địa phương còn nhiều (Như  em Chiến,  
Công Minh, Tống Minh...) 
2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng.
­ Đối với những lớp mà giáo viên thực hiện đổi mới phương pháp 
dạy học, chú trọng đến việc rèn kỹ năng viết đúng chính tả, kiên trì sửa lỗi 
cho học sinh thì hiệu quả  học sinh viết đúng chính tả  đạt cao. Ngược lại, 
những lớp mà giáo viên không kiên trì rèn luyện cho các em thì các em viết 
chính tả còn hay bị mắc lỗi chính tả.
Từ thực trạng tôi đã nêu trên, để giúp cho học sinh viết đúng chính tả 
hơn, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm  “Dạy học sinh lớp 1 viết  
đúng chính tả”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Các giải pháp thực hiện.
Muốn dạy cho học sinh viết đúng chính tả, tôi đưa ra các giải pháp  
thực hiện như sau:
       1. Tổng hợp các quy tắc chính tả (luật chính tả) được đưa vào lớp một.
       2. Phân loại các chính tả thường gặp ở học sinh lớp một.
       3.Các biện pháp tiến hành trong quá trình dạy học sinh viết đúng chính 

tả .
4


       4. Rèn kỹ năng viết đẹp cho học sinh.
       5. Luyện viết khi học các môn khác.
II. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN.

1. Tổng hợp các quy tắc chính tả  (luật chính tả) được đưa vào lớp  
một.
Cũng như  chữ  viết, trong hoạt động học tập của trẻ  nhu cầu viết 
đúng chính tả xuất hiện thật tự nhiên khi các em bắt đầu viết chữ. Các luật 
chính tả được đưa vào lớp một dần dần theo nguyên tắc : Chỗ nào có nhu 
cầu về luật chính tả  thì ở  đó luật chính tả  được đưa ra giải quyết, chẳng  
hạn :
Học đến e (và sau đó ê, i) các em không thể viết ce (cờ ­ e ­ ke).
Do đó chữ k (ca)  xuất hiện như là một luật chính tả để ghi âm “ca” 
khi đứng trước e (ê, i) nhằm giúp các em viết đúng chính tả:
Ke (đọc ca ­ e ­ ke)
Khi đọc đến các vần có âm đệm u thì luật ghi chữ  q (cu), qu (quờ)  
trước các vần cũng xuất hiện:
qua (quờ ­ a ­ qua)...
quan (quờ ­ oan ­ quan)...
Cũng như vậy, chữ gh, ngh xuất hiện để ghi âm gờ, âm ngờ khi đứng 
trước e, ê, i.
ghe                nghe
ghê                nghê
ghi                 nghi
­ Khi các em viết đến câu thì xuất hiện luật viết hoa chữ cái đầu câu. 
Khi viết đến tên riêng thì nảy sinh quy tắc viết hoa tên riêng, kể  cả  tên 

riêng Việt Nam và tên riêng nước ngoài như: Lê Lợi, Ma ­ ri Quy ­ ri ...
­ Thêm vào đó là luật chính tả viết âm y (y dài): Tiếng chỉ có một âm 
i thì có tiếng viết bằng âm i ngắn (ì ra, chú ỉ...) có tiếng viết bằng y dài (y 
5


tá, ý nghĩ ...). Rồi tiếng có âm đầu và âm i thì một số  có thể  viết y dài, có  
thể  viết i ngắn (kỹ  sư  ­ kĩ sư;  tỷ  mỉ  ­ tỉ  mỉ...). Nhưng hiện nay quy định 
chung viết là i ngắn.  
2. Phân loại các lỗi chính tả thường gặp ở học sinh lớp 1.
Qua theo dõi các em trong thời gian vừa qua, tôi nhận thấy và phân 
loại các lỗi của học sinh lớp 1 do tôi phụ trách như sau:
(1). Lỗi do phát âm sai.
(2). Lỗi do nói tiếng địa phương.
(3). Lỗi do không nắm được quy tắc chính tả. 
3. Các biện pháp tiến hành trong quá trình dạy học sinh viết đúng 
chính tả. 
Để luyện cho học sinh viết đúng chính tả thì  bản thân GV phải đóng  
vai trò quyết định. Bởi vậy đối với GV cần làm các việc như sau :
3.1. Đồ dùng học tập của học sinh :
Giáo viên quy định cho các em đồ dùng học tập phải đầy đủ và đúng 
theo quy định, gồm : 
­ Vở: Ngoài hai vở  tập viết của Nhà xuất bản giáo dục, cần mua 
thêm cho các em hai vở ô ly: Một vở để luyện viết và một vở để viết chính 
tả:
­ Bút: Hai tháng đầu các em viết bút chì. Sang tháng thứ  ba các em 
chuyển sang viết bút mực. Tuyệt đối không cho các em viết bút bi.
­ Bảng, phấn: Bảng phải có ô kẻ  rõ ràng, sơn đen và không được  
trơn. Phấn viết dùng loại phấn míc để có độ mềm vừa phải, giúp học sinh  
dễ viết, nét chữ mềm mại, rõ ràng.

3.2. Rèn nề nếp tác phong cho học sinh khi viết:
Rèn tư thế ngồi viết đúng cho học sinh  ở các tiết tập viết, chính tả,  
giáo viên luôn chú ý nhắc nhở  uốn nắn cho các em ngồi viết đúng tư  thế. 
Khi ngồi viết các em phải ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực vào 
6


cạnh bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách vở  25 ­ 30cm. Cánh tay trái đặt trên 
mặt bàn bên trái vở, bàn tay phải cầm bút. Với cách để  tay như  vậy, khi 
viết bàn tay và cánh tay phải có thể dịch chuyển thuận lợi từ trái sang phải 
dễ  dàng. Quyển vở  được để  hơi chếch về  phía tay trái, khi viết không xê 
dịch người, hai chân để thẳng, vuông góc. Tôi hướng dẫn tỷ mỉ cho các em  
cách cầm bút để  viết (GV vừa làm mẫu, vừa hướng dẫn): Cầm bút vừa  
chặt để không tuột bút; không co thắt cơ tay. Điều khiển bút viết bằng ba 
ngón tay (ngón trỏ, ngón cái, ngón giữa) của bàn tay phải. Đầu ngón tay trỏ 
đặt ở phía trên, đầu ngón tay cái giữ bên trái, phía bên phải của đầu bút tựa  
vào cạnh đốt đầu của ngón tay giữa. Ba điểm tựa này giữ bút và điều khiển  
ngòi bút dịch chuyển linh hoạt. Khi viết, ngòi bút phái úp xuống, không  
quay nghiêng ngòi bút để tránh ngòi bút cạo giấy.
Cùng với sự  hướng dẫn  ở các tiết viết, trong suốt quá trình học, tôi 
luôn luôn quan sát và nhắc nhở các em. 
3.3. Rèn luyện kỹ năng nghe và năng lực phân tích ngữ âm cho học sinh  
trong khi viết chính tả. 
Sang tuần 23  mới có tiết chính tả nhưng không phải chờ đến lúc đó  
mà từ tiết học đầu tiên, bài đầu tiên tôi đã cung cấp cho các em những kiến 
thức về  chính tả, chẳng hạn khi tôi dạy các bài 3, 4, 5 về  các dấu thanh, 
nắm được lỗi của các em (do tiếng địa phương) mà lẫn lộn giữa thanh  ~ và 
thanh ' tôi chú ý luyện cho các em phát âm thật chính xác các tiếng có các  
thanh này và lưu ý các em cách ghi dấu thanh. Phân biệt rõ cách ghi thanh 
ngã (dấu  ) và thanh (sắc ') đưa ra mẫu câu đúng ­ sai để học sinh tự nhận 

xét và phân biệt.
Ví dụ: Tiếng “bẽ” có thanh gì? (thanh ngã)
 Tiếng “bé” có thanh gì? (thanh sắc)
Cho học sinh phát âm hai tiếng, nếu em nào sai tôi sửa ngay, cho các 
em phát âm thật chuẩn. Sau đó tôi lại chỉ  vào dấu   và hỏi “Đây là thanh 
/

7


gì” (học sinh:Thanh ngã)   chỉ  vào dấu  

và hỏi “Đây là thanh gì” (học 

sinh:Thanh sắc). Từ  đó liên hệ  đến cách nói  ở  nhà các em để  các em sửa  
chữa và cho các em sửa cho nhau. Khi đến phần viết dấu thanh tôi hướng 
dẫn thật tỉ mỉ, chính xác cho học sinh làm theo: 
­ Thanh ngã ghi bằng dấu   là một nét vặn nằm ngang đặt lên tiếng: 
/


­ Thanh sắc ghi bằng dấu /

: là một nét xiên phải đặt lên tiếng

 


Luyện cho học sinh viết trên bảng con và hướng dẫn cho các em về 
nhà viết thật nhiều lần. Qua đó giúp các em ghi nhớ cách viết, dẫn đến viết 

đúng chính tả   ở  phần chữ  viết. Rồi trong suốt quá trình học, tôi luôn cho  
các em luyện phát âm nhiều các tiếng có thanh trên: Ví dụ là ­ lá, ngã ­ ngá, 
tả ­ tá, kỹ ­ ký ... sau đó tôi giảng nghĩa của các tiếng đó cho học sinh hiểu  
rằng mỗi thanh có mỗi ý nghĩa khác hẳn nhau. Vì vậy nếu các em viết sai  
dấu thanh thì nghĩa của tiếng đó sẽ bị sai hoàn toàn.
Như là ­ nghĩa là nước lã. Còn lá nghĩa là lá cây.
Hay ngã nghĩa là bị ngã. Còn ngá lại là tiếng không có nghĩa.
* Kết quả: Sau nhiều lần giảng giải như vậy, học sinh lớp tôi không 
những phân biệt các dấu thanh rất tốt mà còn hiểu được cần sử  dụng các 
dấu thanh khi nào thì đúng với nghĩa của nó.
Tiếp đến dạng bài thứ hai và dạng bài thứ ba là học âm, vần mới và  
ôn tập âm, vần. Đây là bài có nhiều yêu cầu giành cho chính tả. Ở đây các 
em sẽ biết dùng ký hiệu (chữ) để ghi âm, tức là biết viết chính tả (thao tác  
ký mã) và nắm được các quy tắc chính tả  phổ  biến (như  phần trên tôi đã 
trình bày) cho nên từ  tiết dấu cho đến tất cả  các tiết sau Cô phải rèn cho  
các em kỹ năng nghe và năng lực phân tích ngữ âm. Bởi muốn viết đúng thì  
phải nghe chính xác. Đó là điều cơ  bản nhất trong khi viết. Nhiệm vụ các 
em được giao trong một tiết chính tả là: 
8


­ Thầy đọc chính tả   chỉ  đọc có một lần. học sinh nghe rõ cả  tiếng,  
học sinh nghe nhắc lại lời thầy đọc.
­ Phân tích tiếng đó (trong đầu).
 ­ Nhớ và tìm chữ ghi lại lần lượt từ phần đầu tới phần vần.
­ Hết bài thầy đọc học sinh nhắc lại và tự  chữa lỗi của mình. Làm 
như vậy giúp các em phải chú ý trật tự, tập trung nghe giảng. 
Để  hỗ  trợ  cho kỹ  năng phân tích, sau khi học sinh học âm, học vần 
mới  ở  các tiết học vần, bao giờ  tôi cũng cho học sinh tự  tìm những tiếng, 
từ  mới có âm, vần để  cài bảng cài. Mới đầu, học sinh còn lúng túng tìm  

được rất ít tiếng,  từ có nghĩa, nhưng tiết nào cũng được luyện và được cô 
hướng dẫn, dần dần các em tìm được rất nhiều tiếng, từ   mới rất hay và  
đúng.
3.4. Sửa lỗi cho học sinh: 
a. Sửa lỗi do phát âm sai (do nói ngọng).
Ở  lớp có 3 HS: Chiến, Tống Minh, An phát âm không chính xác do  
các em nói ngọng nên bị  đọc sai dẫn đến viết chính tả  sai. Nhất là những 
tiếng có vần “anh” thì phát âm thành “ăn” nên cũng viết là “ăn”; tiếng có 
vần “inh” thì phát âm và viết thành “ân”... Muốn sửa được lỗi này là rất 
khó và đòi đòi hỏi giáo viên phải rất kiên trì và tỉ  mỉ. Trước hết thầy phải  
phát âm mẫu thật chuẩn cho học sinh nghe, sau đó cho những em phát âm 
hay sai phát âm lại nhiều lần. Sau khi học sinh phát âm chuẩn thì thầy đọc  
cho học sinh viết bài. Việc sửa lỗi này phải thường xuyên và kiên trì trong 
mọi tiết học.  Không những sửa  ở  lớp, tôi còn nhờ  phụ  huynh của ba em  
kèm cặp thêm ở nhà. 
Cho đến nay ba em đã tiến bộ rất nhiều, viết chính tả đã ít mắc phải  
sai lỗi. 
b. Sửa lỗi do tiếng địa phương: 
Với thực tế  tiếng Thanh Hóa nói chung và thị  xã Bỉm Sơn nói riêng 
thì phát âm thường mắc lỗi về lẫn lộn âm đầu x ­ s; d ­ r; ch ­ tr rất nhiều, 
9


mà như  vậy thì các em sẽ  viết sai chính tả. Hỗu hết các em trong lớp 
(30/35) phát âm đều lẫn lộn như vậy, dẫn đến khi viết những tiếng có âm 
đầu như trên là các em lúng túng.
Khi viết bài chính tả  các em thường hỏi: “ Thưa cô “sờ  nặng” hay  
“sờ  nhẹ   ạ”? Thưa cô “ch nặng” phải không  ạ? ....”đây cũng chính là cái 
dạy sai của bố mẹ và các người lớn khác đã dạy các em như vậy để “giúp”  
các em phân biệt khi viết bài. Nào ngờ chính cái giúp đó đã làm cho các em  

sai  kiến thức, để  dẫn đến khi đọc phát âm sai và viết sai. Giáo viên phải  
cho các em hiểu: ch,  x, d, khi phát âm lưỡi thẳng, hơi bật ra ngoài. Còn trờ,  
sờ, rờ khi phát âm đầu lưỡi cong lên. Tôi lấy một số cặp từ ngữ ví dụ, sau 
đó tôi giảng nghĩa của các từ  đó cho học sinh hiểu rằng, nếu các em viết  
sai các phụ âm đầu thì nghĩa của các từ đó bị sai hoàn toàn. 
Nhờ kiên trì và kịp thời sửa lỗi cho các em, đến nay các em học sinh 
lớp tôi đã phân biệt được các phụ âm: ch ­ tr, x ­ s; d ­ r rất tốt.
c. Sửa lỗi do không nắm được luật chính tả.
* Sửa lỗi ghi âm gh, ngh, k trước  e, ê, i.
Với dạng lỗi này tôi   kết hợp với những kinh nghiệm và vốn của 
mình đã có từ những năm dạy chương trình CNGD về các luật chính tả để 
đưa vào dạy cho học sinh trong những bài có luật chính tả.
­ Như dạy bài âm k sẽ xuất hiện luật chính tả  khi đứng trước e, ê, i 
thì phải viết bằng chữ ca (k) chứ không được viết là chữ cờ (c).
­ Dạy đến bài âm g sẽ xuất hiện luật chính tả: Khi đứng trước e, ê, i 
thì phải viết bằng  chữ  gờ  kép (gh) chứ không viết là gờ đơn( g).
Số  học sinh  viết   đúng là các em  đã thuộc và nhớ  ngay luật này. 
Nhưng vẫn còn nhiều em nhớ  nhưng lại quên ngay. Nên khi viết bài giáo  
viên phải chú ý hơn đến những em còn hay sai bằng cách giáo viên khi đọc 
bài đến những  tiếng có luật chính tả  phải dừng lại để  nhắc nhở  cho học 
sinh bằng những câu hỏi giúp học sinh nhớ luật chính tả. 
10


Ví dụ:  “Khi đi với những âm nào thì viết bằng chữ k?....” 
* Sửa lỗi ghi âm d, gi.
Khác với luật chính tả e, ê, i được quy định rõ ràng thì luật chính tả 
ghi âm d, gi lại rất chung chung và rất khó phân biệt.
Với những lỗi này giáo viên cũng chỉ  có thể  sửa cho học sinh theo 
từng tiếng mà học sinh vướng phải.

Ví dụ: dì (em mẹ) ­ gì (để hỏi”; da (da dẻ) ­ gia ( gia đình).
Ngoài ra tôi còn tranh thủ   ở  những tiết tiếng Việt tự  chọn ra thêm 
một số dạng bài tâp cho học sinh làm thêm.
* Sửa lỗi ghi âm qu.
Đây cũng là một luật chính tả khó mà học sinh rất hay viết sai. Giáo  
viên giúp học sinh nhớ được q bao giờ cũng đi liền với u vì khi âm đệm o đi  
với q thì viết chuyển thành u.
* Sửa lỗi ghi âm i , y:
 Với luật chính tả  này học sinh viết cũng hay mắc phải. Tôi lại cung cấp  
cho học sinh một quy tắc chính tả:
­ Đối với tiếng chỉ có một âm i thì có tiếng viết bằng i (ì ra, chú ỉ....) 
Có tiếng viết bằng y dài (y tá, ý nghĩ ...) 
­ Tiếng có âm đầu và âm i ngắn thì một số có thể viết là y dài, có thể 
viết i ngắn (như  kỹ  sư  ­ kĩ sư, tỉ  mỉ  ­ tỷ  mỷ..., nhưng hiện nay quy đinh  
chung là viết bằng i ngắn (kĩ sư, tỉ  mỉ ...).
Học sang kiểu vần có âm đệm, âm đôi thì có luật: 
­ Nếu không có âm đầu thì viết là yê (yến, yên) 
­ Nếu có âm đầu thì viết là iê (liên, kết...) 
­ Nếu đứng sau âm đệm thì phải viết là y dài (huyền, tuyết, khuya). 
Ở luật này các em hay viết sai y dài thành i ngắn. Với lỗi này tôi sửa 
cho các em bằng cách viết lại các lỗi sai của học sinh thường mắc lên 
bảng, cho các em phân tích để tự sửa lỗi. 
11


d. Sửa lỗi viết chữ hoa chưa đúng quy định.
Ở  chương trình hiện  hành chưa  yêu  cầu học sinh  phải  viết hoa.  
Nhưng với lực học đều và khá như  học sinh lớp tôi, chỉ  hết nửa học kỳ 
một tôi đã bắt đầu dạy cho các em viết chưa hoa và tôi cũng cung cấp luôn 
cho học sinh luật viết hoa. Tôi xây dựng cho các em thói quen “cứ  nghe cô 

đọc chữ nào đầu câu thì các em phải viết hoa chữ cái đầu” ví dụ: Câu “A!  
Mẹ đã về” tôi hỏi các em chữ đầu câu là chữ  nào? (học sinh: Chữ A) vậy  
thì chữ  nào phải viết hoa (HS: chữ A) tôi hỏi ngược lại luôn vì sao? (HS:  
Vì nó là chữ đầu câu). Cứ như vậy tôi hình thành cho các em được quy tắc 
viết hoa chữ  đầu câu. Và các em đã nhớ  và viết đúng. Chỉ  có viết hoa tên  
riêng của người và địa danh thì các em lúc đầu còn lúng túng cứ phải hỏi cô  
giáo. Nhưng với những câu hỏi gợi ý dần dần, tôi đã giúp các em phân tích  
được đâu là tên riêng của người, tên riêng của địa danh để các em viết hoa 
đúng.
Như vậy, muốn để các em có kỹ  năng viết đúng chính tả, tôi đã cho 
các em luyện với nhiều hình thức nghe và phân tích, xác định đúng để chọn 
chữ viết đúng.
4. Rèn kỹ năng viết đẹp cho học sinh:
Một bài chính tả  không những yêu cầu viết đúng mà còn phải viết 
đẹp. Để giúp các em viết đẹp, ngoài đã hướng dẫn các em ở những tiết tập  
viết, tôi phải hướng dẫn học sinh viết chữ đúng cỡ, đúng kiểu, liền nét, có 
khoảng cách hợp lý, các nét chữ viết liền mạch để khỏi nhấc bút, chữ viết 
phải thẳng hàng, đều chữ. Chữ  viết thẳng ngay ngắn. Chữ cô viết mẫu  ở 
những bài tập chép trên bảng phải đẹp, rõ ràng, không tô đi mạc lại hay xóa 
đi xóa lại nhiều lần, như vậy học sinh sẽ bắt chước ngay. 
5. Luyện viết khi học các môn khác.
Kỹ năng viết chữ được hình thành, rèn luyện trước tiên trong giờ tập 
viết và chính tả song cũng được củng cố và hoàn thiện trong nhiều giờ học  
12


của các bộ  môn khác,  ở  nhiều lúc, nhiều nơi. Vì vậy giáo viên cũng tận 
dụng việc viết các bài học, bài làm để học sinh luyện viết đúng.
* Tóm lại: Muốn dạy cho học sinh lớp Một viết đúng chính tả, tôi đã 
thực hiện các biện pháp trên một cách chặt chẽ, song song và thống nhất, 

không bỏ  rơi hay coi nhẹ  một biện pháp nào cả. Mỗi biện pháp có đặc 
trưng riêng của nó, nhưng nó có quan hệ mật thiết với nhau trong suốt quá  
trình dạy chính tả cho học sinh. Cái này làm nền tảng cho cái kia phát triển.  
Đọc tốt, nắm được hết luật chính tả  thì viết mới đúng. Đó là những điều  
mà người giáo viên chúng ta phải luôn luôn hiểu và thực hiện nghiêm túc.
C. KẾT LUẬN.
1. Kết quả nghên cứu: 
Qua quá trình dạy cho học sinh viết đúng chính tả, lớp tôid dã thu  
được kết quả trong năm học 2010 ­ 2011 như sau: 
* Về phong trào vở sạch chữ đẹp:
Định kỳ

Xếp loại A
Số 
%
lượng

Đầu kỳ I
Giữa  kỳ I
Học kỳ I
Giữa kỳ II

16
25
28
30

45,7
71,4
80,0

85,7

Xếp loại B
Số 
%
lượng

19
10
7
5

54,3
28,6
20,0
14,3

Xếp loại C
Số 
%
lượng

0
0
0
0

0
0
0

0

* Về thi viết chữ đẹp:
­ Tuyến trường: 30/44 em của khối đạt giải.
­ Tuyến thị: 5/7em của khối Một dự thi tuyến thị đều đạt giải nhất  
với số điểm cao. 
Hiện nay lớp tôi còn 5 em viết chữ  loại B, đôi khi còn viết sai lỗi  
chính tả, tôi sẽ  cố gắng sát sao, uốn nắn cho các em từ  nay đến cuối năm 
để đưa chất lượng chữ viết loại A lên cao hơn.
13


2. Bài học kinh nghiệm: 
Qua việc dạy Tiếng Việt lớp Một nói chung và phân môn chính tả 
nói riêng, tôi rút ra bài học kinh nghiệm là:
­ Giáo viên phải thật sự là “Người mẹ hiền”  thứ hai của các em. Cô 
luôn gần gũi sát sao, quan tâm nhiệt tình với các em để biết được năng lực 
viết của từng em để  kịp thời uốn nắn   và sửa chữa. Thầy luôn là “Tấm  
gương  sáng   cho  học  sinh  noi  theo”.  Thầy  phải  có  tính  kiên   trì,  thường 
xuyên và liên tục.
­ Thầy phải làm việc chính xác, khoa học, được thể  hiện  ở  giọng 
đọc, giọng nói đúng tiếng phổ thông và ở chữ mẫu trên bảng lớp phải viết  
đúng mẫu, đẹp. Giáo viên phải luôn quan tâm rèn luyện cho học sinh từ 
những nề nếp thói quen viết chữ (cầm bút, đặt vở, ngồi viết ...) đến các kỹ 
thuật viết chữ sao cho đúng quy định và trình bày sạch đẹp. Tích cực tham 
gia phong trào thi đua về “Vở sạch ­ chữ đẹp” nhằm nâng cao chất lượng 
viết chữ cho các em.
­ Kịp thời sửa lỗi cho các em không những ở giờ chính tả mà ở tất cả 
các bộ  môn học khác. Giáo viên luôn động viên khuyến khích các em kịp 
thời, tránh chê bai, dè bỉu các em.

­ Chữ viết giáo viên phải đẹp, chuẩn, đúng mẫu.
­ Giáo viên thường xuyên chấm bài, sửa lỗi cẩn thận, rõ ràng, chính  
xác cho từng em. Tuyệt đối không được gạch xóa bài của học sinh mà phải  
sửa từng lỗi cho học sinh, sau đó cho học sinh sửa lỗi sai viết lại đúng  
xuống phía dưới bài. Khi cho điểm giáo viên phải cho đúng mức với giá trị 
bài viết của các em đạt được.
­ Liên hệ với phụ huynh thường xuyên bằng các bài kiểm tra của học 
sinh, bằng sổ  liên lạc, bằng kết quả  xếp loại vở  sạch ­ chữ   đẹp hàng 
tháng, hoặc trực tiếp gặp gỡ phụ huynh.

14


­ Những học sinh có khả năng viết chữ đẹp sẽ được coi như học sinh 
có “năng khiếu”  viết chữ, giáo viên cần quan tâm bồi dưỡng thêm để  sau 
này có thể  phát huy, hưởng  ứng cuộc thi “Viết chữ đẹp” các cấp, để  học 
sinh tự khẳng định khả năng của mình.
­ Yếu tố  về cơ  sở  vật chất có vị  trí quan trọng  ảnh hưởng đến quá 
trình luyện chữ  viết của các em, vì vậy cần phải đảm bảo các điều kiện  
tốt như: ánh sáng phòng học đầy đủ, bảng lớp, bàn ghế học sinh phải đúng  
quy định. Bảng con, phấn, vở viết, bút phải thuận tiện cho học sinh khi sử 
dụng.
  Trên đây là một số  kinh nghiệm nhỏ  tôi đưa ra chắc là còn nhiều  
hạn chế, nhưng đó cũng là những kinh nghiệm được rút ra qua quá trình 
thực tế dạy cho học sinh lớp  Một viết đúng chính tả  ở lớp Một trong năm  
học 2010 ­ 2011 do tôi phụ trách.
Vậy kính mong các bạn đồng nghiệp giúp đỡ  để  tôi đạt kết quả  tốt  
hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
                                            Trường Tiểu học Đông Sơn

                                               Ngày 06 tháng 4 năm 2011

                                                             Mai Thị Phương

15


  

16



×