CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHAT TRIÊN KY NĂNG
́
̉
̃
GIAO TIÊP TIÊNG ANH CHO HOC SINH TIÊU HOC”
́
́
̣
̉
̣
Lệ Thủy, tháng 02 năm 2019
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHAT TRIÊN KY NĂNG
́
̉
̃
GIAO TIÊP TIÊNG ANH CHO HOC SINH TIÊU HOC”
́
́
̣
̉
̣
Họ và tên: Đoàn Thị Tuyết
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Phú Thủy
Lệ Thủy, tháng 02 năm 2019
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn sáng kiến
Tiếng Anh là một ngôn ngữ Quốc tế có tính thông dụng và là một công
cụ giao tiếp thiết yếu trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội. Thời đại toàn
cầu hoá, nhu cầu giao tiếp giữa mọi người thuộc mọi quốc gia là bắt buộc. Do
vậy, việc học tiếng Anh đang trở thành một nhu cầu cần thiết và cấp bách giúp
chúng ta tiếp cận, mở rộng hiểu biết với nguồn tri thức tiên tiến trên thế giới ở
nhiều lĩnh vực khác nhau: Khoa học – kĩ thuật, kinh tế – xã hội, y học… Tiếng
Anh mặc nhiên trở thành Universal Language.
Trên cơ sở đó, trong linh v
̃ ực giáo dục, Bộ Giaó duc va
̣
̀Đao tao
̀ ̣ đã có định
hướng chiến lược cho việc tổ chức dạy học môn Tiếng Anh trong trường tiểu
học nhằm tạo điều kiện, môi trường cho học sinh được tiếp xúc với môn học
này, tạo tiền đề cho việc học lên các cấp học trên được vững chắc. Vì vậy,
hiện nay hầu hết trẻ em trên cả nước từ thành thị đến nông thôn, phần lớn đều
được làm quen với bộ môn tiếng Anh từ rất sớm thông qua việc giảng dạy
trong nhà trường phổ thông.
Trong xu thế hội nhập của nước ta và chương trình giáo dục tiểu học
hiện nay, môn Tiếng Anh cùng với các môn học khác trong trường tiểu học có
những vai trò góp phần quan trọng đào tạo nên những con người phát triển toàn
diện, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ mới. Trước đây Việt Nam
chưa hoà nhập với các nước trên thế giới thì việc đầu tư cho học sinh trau dồi
môn Tiếng Anh còn nhiều hạn chế. Nhưng ngày nay với đà phát triển chung
của nhân loại thì việc học ngoại ngữ là điều cần thiết. Vì thế ngành Giáo dục
và Đào tạo đã tiến hành đổi mới một cách toàn diện về chương trình, phương
pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Hiện nay tất
cả các trường Tiểu học trong huyện đã dạy chương trình Tiếng Anh bắt đầu từ
lớp 1. Trong đó tất cả các trường đã dạy theo chương trình 4 tiết/tuần đôi v
́ ơí
khôi 3, 4, 5 va 2 tiêt/tuân đôi v
́
̀
́ ̀
́ ới khôi 1, 2. Yêu c
́
ầu đầu ra phải đạt mức độ
một theo chuẩn năng lực ngoại ngữ Quốc Tế.
Trong những năm gần đây, yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải
đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học và các cấp học, nhằm nâng
cao chất lượng dạy và học. Chính vì vậy, môn Tiếng Anh nói chung và môn
Tiếng Anh ở bậc tiểu học nói riêng cũng cần phải có những đổi mới mạnh mẽ
hơn nữa, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, lấy học sinh
làm trung tâm. Do đó, người giáo viên phải gây hứng thú học tập cho các em
bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập nhằm phát triển
kĩ năng nghe nói Tiếng Anh, để học sinh có thể giao tiếp Tiếng Anh một cách
tự nhiên và lưu loát. Qua các năm giảng dạy Tiếng Anh ở bậc tiểu học tôi nhận
thấy kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh của học sinh còn nhiều hạn chế. Để khắc
phục tình trạng trên tôi đã tìm tòi nghiên cứu một số biện pháp nhằm nâng cao
kỹ năng nói cho học sinh Tiểu học. Đây là lý do tôi chọn đề tài sáng kiến kinh
nghiệm: “Một số biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học
sinh tiểu học”
1.2. Điểm mới của sáng kiến
Quan điểm cơ bản nhất về phương pháp mới là làm sao phát huy được
tính tích cực, chủ động của học sinh, tạo điều kiện tối ưu cho học sinh rèn
luyện, phát triển và nâng cao kỹ năng sử dụng ngôn ngữ vào mục đích giao tiếp
chứ không phải việc cung cấp kiến thức ngôn ngữ thuần tuý. Để phát triển kỹ
năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh tiểu học đòi hỏi giáo viên cần sáng tạo,
phải luôn tao tình hu
̣
ống có vấn đề, tạo không khí vui vẻ ngay từ đầu tiết học.
Mạnh dạn thay đổi hình thức tổ chức lớp học phong phú, đa dạng, sử dụng
phương pháp dạy học phù hợp với từng khối, lớp, đối tượng học sinh. Thường
xuyên sử dụng trò chơi để tạo hứng thú học tập cho học sinh. Sử dụng ngôn
ngữ chủ yếu bằng Tiếng Anh trong lớp học để học sinh giao tiếp một cách tự
nhiên như ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Đó là điểm mới của sáng kiến này.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng.
Trong quá trình giảng dạy, thông qua khảo sát, tôi thấy đa phần học sinh
chưa có hứng thú học môn tiếng Anh. Vì đặc thù của môn học ngoài việc học ở
trường ra về nhà các em phải tự học mà không có sự giúp đỡ của bố mẹ. Nhiều
em không quan tâm đến việc học tiếng Anh, kết quả học tập chưa cao. Vả lại,
đây là môn học khó, các em chưa thật sự say mê. Các em cảm thấy rất nhàm
chán khi học môn này.
Trước khi đưa các giai phap
̉
́ vào chương trình dạy thực nghiệm tôi tiến
hành khảo sát chất lượng ban đầu vê ki năng noi c
̀ ̃
́ ủa học sinh làm căn cứ đối
chứng.
Kết quả khảo sát đầu năm học 20182019 của khối 5 tôi giảng dạy:
Ki năng Noi (25 điêm )
̃
́
̉
Khôí
5
Tổng
số học
sinh
SL
%
103
17
16.5
Điểm
2025
Điểm
17.5 < 20
SL
%
Điểm
12.5 < 17.5
SL
%
SL
%
22
24
40
38.8
21.4
23.3
Điểm
< 12.5
Qua khảo sát tôi thấy rằng học sinh đat điêm 12.5 25 chi
̣
̉
ếm tỷ lệ chưa
cao. Nguyên nhân cản trở khả năng giao tiếp tiếng Anh của cac em chính là s
́
ự
thiêu t
́ ự tin. Do khả năng phát âm chưa chuẩn xác va môt sô em năm kiên th
̀ ̣ ́
́
́ ức
con m
̀ ơ hô, tâm lý khi nói ti
̀
ếng Anh thường e ngại và sợ mắc lỗi, khả năng
phản xạ với tiếng Anh còn thấp dẫn đến cac em th
́
ường rơi vào trạng thái
thiếu tự tin và ngập ngừng khi phải nói tiếng Anh. Dần dần theo thời gian, việc
thiếu tự tin và tính chủ động trong giao tiếp sẽ trở thành thói quen xấu của cać
em và khiến cac em có m
́
ột niềm tin tiêu cực rằng mình không thể nào giao tiếp
tốt bằng tiếng Anh.
2.1.1. Thuận lợi.
a. Về phía giáo viên.
Giáo viên Tiếng Anh còn rất trẻ, có điều kiện thuận lợi để dạy học.
Giáo viên đã nhận thức đúng đắn và tích cực trong việc đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
Ban giám hiệu nhà trường rất quan tâm đến việc trang bị cơ sở vật chất
và thiết bị dạy học, thường xuyên tổ chức tập huấn về đổi mới trong dạy học
môn Tiếng Anh.
b. Về phía học sinh.
Nhiều em năng động, mạnh dạn muốn được học hỏi, được mở rộng, đào
sâu kiến thức trong bài học.
Hứng thú và tích cực khi tham gia các bai hoc. Các em s
̀ ̣
ẵn sàng bộc lộ
bản năng tự nhiên, tinh thần hăng hái của mình trong quá trình học tập.
2.1.2. Khó khăn
a. Học sinh:
Trường Tiểu học mà tôi đang công tác hiện nay, chương trình Tiếng Anh
đã được giảng dạy từ nhiều năm. Bản thân tôi đều được dạy các khối 1,2, 3, 4,
5, vì vậy tôi thấy rõ những ưu điểm và hạn chế của học sinh mình. Đối với học
sinh lớp 4 và 5 các em rất tự tin và tích cực phát biểu trong giờ học. Nhưng học
sinh khối 1,2,3 thì ngược lại, các em ít tham gia xây dựng bài mặc dù câu hỏi
giáo viên đưa ra cũng dễ hiểu. Vẫn còn một bộ phận học sinh thiếu tự tin và
rụt rè trong giao tiếp. Mặt khác do các em mới bắt đầu được học Tiếng Anh
nên còn nhiều bỡ ngỡ, dù rằng các em cũng rất thích học.
Học ngoại ngữ muốn giỏi bản thân người học phải mạnh dạn sử dụng
ngôn ngữ mình học để rèn luyện, nếu có nói sai khi được sửa chúng ta sẽ nhớ lâu
hơn và lần sau nếu gặp lại câu nói đó sẽ không sai nữa. Trong các năm giảng
dạy tôi thấy mặt hạn chế của học sinh trong hoạt động nói là tính thụ động chỉ
bám theo những gì giáo viên hướng dẫn, gợi ý để thực hiện học sinh không mở
rộng hay thắc mắc yêu cầu giải đáp. Có thể nói kỹ năng nói của các em còn
yếu.
Mỗi tuần chỉ được học bốn tiết không đủ thời gian để học sinh phát triển
tốt kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh.
Vì là môn học tự chọn nên một số học sinh chưa chú trọng nhiều đến
môn Tiếng Anh. Vốn từ vựng của các em không có nhiều do các em không
thuộc từ vựng hoặc các em không chịu học vì cứ nghĩ đây là môn phụ nên các
em chưa dành thời gian cho việc tự học môn này.
Hơn nữa đối với học sinh nông thôn mọi điều kiện tiếp xúc và gần gũi
thực tế xung quanh còn hạn chế. Ở lứa tuổi này, còn một số học sinh phát âm
Tiếng Việt chưa được chuẩn. Phần lớn các em học sinh chưa chú tâm và đầu tư
cho môn ngoại ngữ, chuẩn bị bài một cách sơ sài. Trong các giờ học, đa số các
em thường thụ động, thiếu sự linh hoạt, ngại việc đọc nói tiếng anh và ít tham
gia phát biểu để tìm hiểu bài học.
b. Giáo viên:
Bản thân tôi và nhiều đồng nghiệp dạy Tiếng Anh không có năng khiếu
âm nhạc nên vẫn có những bài hát không biết hát nên khi hướng dẫn những bài
hát Tiếng Anh gặp phải khó khăn và hát chưa đúng giai điệu, tiết tấu nhạc dẫn
đến chưa tạo được hứng thú cho học sinh khi dạy các bài hát Tiếng Anh trong
chương trình.
c. Về phía phụ huynh học sinh:
Phụ huynh học sinh một số em chưa có nhận thức tốt môn học này do
quan niệm “Tiếng Việt nói chưa xong mà học Tiếng Anh”. Vì vậy thiếu sự
quan tâm sâu sát đến con em trong việc học môn Tiếng Anh.
d. Về trangthiết bị dạy học:
Hiện nay một số bộ sách biên soạn cho học sinh cấp Tiểu học nội dung
khá dài giáo viên hướng dẫn học sinh nắm bắt kiến thức trong một ti ết ch ỉ 35
40 phút không đủ. Do đó thời gian phát triển kỹ năng nói cho học sinh chưa
nhiều.
Học sinh rất hứng thú khi được học bài giảng điện tử nhưng sô l
́ ượng
phong hoc nhiêu nên nhà tr
̀
̣
̀
ường chưa có đủ điều kiện để bố trí cho bộ môn
Tiếng anh môi phong môt TV Smart, nên ti
̃
̀
̣
ết dạy bằng giáo án điện tử chưa
được tận dụng triệt để.
Một số học sinh do hoàn cảnh khó khăn, các em phải dành thời gian ở nhà
để phụ giúp gia đình, và các em cũng chưa được trang bị đầy đủ sách giáo khoa
và dụng cụ học tập vì thế các em không có điều kiện để tự học ở nhà.
2.2. Một số biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho
học sinh tiểu học
Trong những năm qua, bước đầu chúng ta đã áp dụng việc đổi mới
phương pháp giảng dạy Tiếng Anh nhằm giúp học sinh nắm được cách học
một cách chủ động, tích cực và đáp ứng được yêu cầu là học sinh phải sử dụng
được ngữ liệu đã học vào các hoạt động giao tiếp một cách có hiệu quả hơn.
Do vậy, trong chương trình giảng dạy tiếng Anh ở trường Tiểu học hiện
nay, cùng với giáo trình “ Tiếng Anh 1, 2, 3,4,5” đã nhấn mạnh vào khả năng
giao tiếp theo một hệ thống ngữ pháp có kiểm soát cẩn thận. Học sinh được
lấy làm trung tâm và luôn được khích lệ giao tiếp với nhau.
Qua nhiều năm dạy tiếng Anh cùng với sự trải nghiệm bản thân tôi đã
vận dụng một số phương pháp trong việc rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học
sinh nhằm tạo cho các em hứng thú và tự tin trong giao tiếp. Tăng cường thời
lượng thực hành như: nói, hoạt động giao tiếp của học sinh trong giờ học là
điều cần thiết. Do đó tôi đưa ra một số giải pháp sau:
2.2.1. Về giáo viên:
a. Thường xuyên sử dụng Tiếng Anh trong tiết dạy:
Đối với đối tượng học sinh cấp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông
việc sử dụng Tiếng Anh trong giờ ngoại ngữ là điều hiển nhiên, vì khi đó vốn
từ các em khá đủ để hiểu những điều giáo viên truyền đạt. Nhưng đối với học
sinh Tiểu học vốn từ các em chưa nhiều để hiểu tốt yêu cầu của giáo viên,
chính điều này làm cho đa phần giáo viên dạy Tiếng Anh ở bậc tiểu học “lười”
nói Tiếng Anh trong giờ dạy. Tôi nghĩ đây là một trong số lý do làm cho học
sinh chưa tự tin khi đàm thoại bằng Tiếng Anh. Chúng ta là đầu tàu gương
mẫu, lứa tuổi thiếu nhi còn ngây thơ và dễ bắt chước, thầy cô phải là tấm
gương để học sinh noi theo, nếu giáo viên thường xuyên nói Tiếng Anh thì
những câu nói đó dần dần thấm sâu vào tâm trí các em, khi cần nói tự nhiên các
em sẽ phát ra được.
Vào đầu mỗi tiết dạy, tôi thường đối thoại với học sinh bằng những câu
Tiếng Anh đơn giản để làm “nóng” không khí lớp học, tạo sự hưng phấn trong
học tập, ứng xử nhanh nhẹn trong giao tiếp.
Ví dụ:
Ss: Good morning, teacher !
T: Good morning, class !
How are you today ?
Ss: I’m fine, thank you.
How are you ?
T : I’m fine. Thanks.
Theo cách dạy truyền thống vào đầu tiết dạy giáo viên thường gọi học
sinh kiểm tra bài cũ, nhưng đối với tôi thì không làm như thế. Trước khi trở
thành giáo viên tôi cũng là một học sinh như các bạn nhỏ bây giờ nên tôi hiểu rõ
tâm trạng các em lúc này. Đối với tôi, việc sử dụng các hoạt động trò chơi
trước khi bắt đầu tiết học không những giúp không khí lớp học không nặng nề
mà còn làm cho tiết học trở nên sinh động, tạo cho học sinh tâm lý thoải mái.
Khi đưa ra yêu cầu trò chơi giáo viên nên nói bằng Tiếng Anh, không cần câu
nói dài chỉ sử dụng một số cụm từ, câu đơn giản nhưng thường xuyên lặp đi
lặp lại, như thế học sinh sẽ hiểu.
Ví dụ:
T: Would you like to play game ?
Ss: Yes.
T: Play game “ Guessing game” – Ok !
Ss: Ok!
T: Four boys and four girls, please !
Now, any volunteers ? Raise your hand !
………………
Sau khi chọn được hai đội tôi sử dụng một số câu ra lệnh đơn giản
khác.
Ví dụ: T: Are you ready ?
Ss: Yes .
T: Now, let’s begin “ one, two, three”,...
Để học sinh dễ ghi nhớ các chữ cái trong bảng chữ cái Tiếng Anh và các
từ vựng, tôi sử dụng những câu đố, trò chơi trí tuệ nhằm kích thích các em tư
duy, suy nghĩ, khi tìm được đáp án các em sẽ ghi nhớ sâu hơn. Sau khi học sinh
đưa ra đáp án, tôi sẽ cho các em biết đáp án và giải thích thêm để các em hiểu rõ
hơn. Những câu đố vui tiếng anh mang lại nhiều phút giây thư giãn thoải mái
cho các em học sinh, đồng thời giúp bé phát triển khả năng ngôn ngữ một cách
hiệu quả nhất. Đa số những câu đố này thuộc thể loại đố mẹo và chơi chữ nên
các em cần suy nghĩ theo hướng sáng tạo một chút là có thể nhanh chóng tìm ra
đáp án.
Ví dụ:
Tôi đưa ra những câu đố vui hỏi về đông vât. Nh
̣
̣
ững câu đố vui về động
vật bằng tiếng Anh vừa giúp cac em h
́
ọc tiếng Anh, vừa giúp cac em hi
́
ểu biết
hơn về thế giới động vật xung quanh mình và cac em có đ
́
ược những giây phút
vui vẻ bên nhau, trau dồi từ vựng tiếng Anh về loài động vật cũng như tư duy
nhanh nhạy hơn. Hơn nữa, với câu đố này, cac em s
́
ẽ thích thú hơn với việc
học.
1. I've four legs. I live in Africa. I'm big and gray. I live in the river.
=> Đáp án câu đố vui: I'm A Hippo
2. I hiss. I can be poisonous. I'm long. I've a forked tongue.
=> Đáp án câu đố vui: I'm A Snake
3. I can swim and dive. I've two legs. I've wings. I quack.
=> Đáp án câu đố vui:I'm A Duck
4.If I sit down I'm high; if I stand up I'm low.
=> Đáp án câu đố vui:I'm A Dog
5. I eat insects. I live in the pond. I can hop. I'm green.
=> Đáp án câu đố vui: I'm A Frog
6. I eat vegetables. I can run fast. I can be a pet. I've long ears.
=> Đáp án câu đố vui: I'm A Rabbit
7. I've four legs. You can ride me. I've tusks. I've a long nose.
=> Đáp án câu đố vui: I'm An Elephant
8.I eat other animals. I've a big mouth. I'm green. I live in the water.
=> Đáp án câu đố vui: I'm A Crocodile
9.I'm small. I can be scary. I've eight legs. I spin the web.
=> Đáp án câu đố vui: I'm A Spider
10. I've four legs. I'm a pet. I hate cats. I bark.
=> Đáp án câu đố vui: I'm A Dog
...
Tôi soạn các câu đố dựa theo trò chơi “đuổi hình bắt chữ” nhằm giúp các
em ghi nhớ từ vựng. Trò chơi như sau: Let’s play English Word Pursuit game.
* Đáp án
Giáo viên phải tự rèn luyện, học hỏi trao dồi phương pháp dạy với các
bạn đồng nghiệp, trên internet, báo đài, phải tự tin và thường xuyên nói Tiếng
Anh trong lớp để học sinh noi theo. Qua thời gian thăm lớp một số giáo viên
trong huyện tôi thấy đa số thầy, cô còn nói Tiếng Việt nhiều trong giờ học
Tiếng Anh. Chính điều này góp phần làm hạn chế khả năng sử dụng Tiếng
Anh của học sinh. Tôi nghĩ giáo viên nên là người đầu tiên phải khắc phục mặt
hạn chế trên rồi mới đến học sinh.
b. Thái độ của giáo viên khi đứng lớp:
Phần lớn giáo viên khi đứng lớp thường có thái độ nghiêm khắc trong
giảng dạy để học sinh tập trung hơn nhưng theo tôi không nên tạo căng thẳng
trong giờ học Tiếng Anh. Bởi vì, những tiết học Toán, Tiếng Việt, … học sinh
đã tập trung nhiều cho nên đến tiết Tiếng Anh giáo viên cần tạo không khí lớp
học sinh động và vui vẻ. Đây là cách cuốn hút học sinh vào tiết dạy của mình để
các em thấy rằng Tiếng Anh không khó học và khô khan như mình nghĩ.
Giáo viên cần vui vẻ hoà nhập vào thế giới trẻ thơ của học sinh, chính
thái độ của người hướng dẫn sẽ giúp các em tự tin và mạnh dạn tập nói Tiếng
Anh trong lớp học mà không sợ thầy cô trách phạt hay bạn bè chế giễu khi bị
sai.
Khi bước vào lớp điều đầu tiên giáo viên nên làm là mỉm cười với cả lớp
tạo sự gần gũi, thân thiện với học trò của mình để bắt đầu một tiết học mới.
Giáo viên cần rèn luyện cho mình có tính “khôi hài” và sử dụng nó trong
tiết dạy để cuốn hút học sinh. Người thầy được ví như một nghệ sĩ nếu diễn
tốt sẽ được khán giả mến mộ và đón nhận một cách nồng nhiệt. Làm được
điều này bước đầu chúng ta đã thành công.
Sau đây là một ví dụ minh hoạ.
Tôi cho học sinh chơi trò “Bean bag circle” và sử dụng mẫu câu “This is
a ( an ) + màu sắc + tên vật” để áp dụng vào trò chơi. Học sinh nghe nhạc và
chuyền bóng, khi tiếng nhạc ngưng quả bóng trong tay ai người đó tự đặt một
câu theo mẫu đưa ra. Nếu một học sinh yếu nhận được quả bóng có thể sẽ
không nói được hoặc “ấp a ấp úng”. Lúc này tôi động viên các em “Chúc mừng
em, em có cố gắng nhưng chưa thành công” hay là “Chúc em may mắn lần
sau”.
Một số bộ phận giáo viên chuyển từ trung học cơ sở xuống dạy tiểu học
do chưa hiểu rõ tâm sinh lý lứa tuổi này đôi khi trong tiết dạy còn nghiêm khắc
và “lớn tiếng” khi các em phát biểu sai. Theo tôi việc này là không nên vì sẽ làm
cho học sinh rụt rè, lúng túng khi phát biểu. Từ đó làm hạn chế tính “phản xạ”
trong giao tiếp của học sinh khi học ngoại ngữ.
2.2.2. Về học sinh:
a. Tập cho học sinh phản xạ nhanh bằng tiếng Anh:
Thay thế từ không biết bằng một cụm từ khác đã biết, không sợ mắc cỡ
khi nói sai. Nói thoải mái không sợ mắc lỗi ngữ pháp hay phát âm.
Phương pháp tổ chức rèn luyện kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học
sinh Trong quá trình hướng dẫn học sinh học, giáo viên quan sát chú ý xem các
em nói như thế nào, cái gì được và cái gì chưa được để tìm ra biện pháp và
phương pháp giảng dạy thích hợp cho từng bài học. Tập cho học sinh cách
phản xạ nhanh bằng Tiếng Anh Đầu năm học, đối với học sinh lớp 3 ở vùng
nông thôn như chúng ta các em chưa có vốn từ vựng nếu có thì rất hạn chế dù
vậy nhưng giáo viên vẫn tăng cường nói Tiếng Anh trên lớp, thường thường là
các câu mệnh lệnh đơn giản, áp dụng các câu mệnh lệnh như: “come here”; “go
back”; “Let’s play”; “Let’s learn”.... hoặc những câu hỏi theo bài học kết hợp
với động tác, điệu bộ. Nhìn chung, lúc đầu học sinh còn ngơ ngác nhưng dần
dần qua các tiết các em cũng đều hiểu và làm theo đúng mệnh lệnh của giáo
viên. Sau khi các em đã học được mẫu câu mới thì chúng ta nên sử dụng thường
xuyên trương lớp học để các em có điều kiện phản xạ tốt như những câu hỏi
về bản thân: What’s your name ? , How are you ? ; những câu hỏi về đồ vật, sử
dụng các đồ vật thật có trong lớp học (bàn, ghế, thước, vở... ) như các mẫu
câu : What’s this ? , What are these ? ... Tập cho h ọc sinh không nên hiểu ngầm
Tiếng Việt rồi mới dịch sang Tiếng Anh.
b. Rèn luyện cho học sinh phát âm chuẩn:
Hiện nay, có quan điểm cho rằng học sinh tiểu học còn nhỏ không cần
phát âm chuẩn như người bản xứ nhưng đối với tôi thì ngược lại. Bởi vì người
xưa thường nói “Tre non dễ uốn” và một phần do kinh nghiệm bản thân từ
nhiều năm nay dạy học sinh tiểu học nên tôi thấy rõ mặt hạn chế của học trò.
Nếu giáo viên lơ là trong việc sửa lỗi phát âm, không hướng dẫn chú ý trọng âm
từ, ngữ điệu trong câu thì khi nghe người khác phát âm đúng các em không nhận
ra và hiểu được người đối diện nói gì. Mặc khác các em sẽ lúng túng không
biết thầy mình dạy đúng hay người này đúng làm cho học sinh e dè, không tự tin
trong giao tiếp.
Chúng ta phải cho học sinh nghe băng thường xuyên với giọng đọc chuẩn
của người bản xứ và cho lặp lại nhiều lần, chú ý ngữ điệu cuối câu và nhất là
phần kết thúc của từ. Hướng dẫn học sinh tập trung trong khi nghe và khuyến
khích các em bắt chước giọng đọc trong băng càng giống càng tốt.
Sau bước nghe và lặp lại giáo viên yêu cầu học sinh tự đọc đồng thanh,
theo cặp rồi cá nhân. Tuyên dương những học sinh đọc tốt và chỉnh sửa ngay
nếu học sinh đọc sai và không chuẩn.
Khuyến khích mỗi học sinh có một cuộn băng nghe, đĩa VCD, thẻ nhớ
hoặc usb chứa file nghe (có thể sử dụng cho đầu VCD, DVD hoặc máy vi tính
hay laptop) để tự rèn luyện ở nhà nhằm giúp các em nhập tâm và nói tốt một
cách tự nhiên.
Cần chú ý luyện tập cho hs phát âm có các âm cuối như : bag /bæg/,
book /buk/ ....
Tập cho học sinh có thói quen đọc nối.
Ví dụ : standup /’stænd^p/ , lookat /lukæt/
It’s a pencil. /itsəpensl/
It is a desk. /itizədesk/
Đối với hình thức số nhiều cần luyện tập cho học sinh cách phát âm
trong việc nhấn mạnh đuôi số nhiều :
Phát âm /s/ đứng sau phụ âm vô thanh /t/, /p/, /k/, /s/, /f/, /θ/
Ví dụ : cassettes, books, ....
Phát âm là /z/ khi đứng sau nguyên âm hoặc phụ âm hữu thanh /b/, /d/,
/g/, /v/, /ð/, /m/, /n/, /Ŋ/, /l/, /r/.
Ví dụ : crayons, tables, markers ...
Phát âm là /iz/ khi đứng sau những phụ âm rít cụ thể các phụ âm như : /z/,
/s/, /ʤ/, / tʃ /, / ʃ /, /ʓ/
Ví dụ : pencil cases, oranges, nurses...
c. Rèn luyện cho học sinh sử dụng ngữ điệu câu:
Ngữ điệu (Intonation) được hiểu đơn giản là sự lên và xuống của giọng
nói. Người nghe có thể hiểu nhầm hoặc hiểu sai hoàn toàn ý của người nói nếu
như người nói sử dụng sai ngữ điệu, bởi ngữ điệu được so sánh như là hồn của
câu.
* Ngữ điệu xuống được thể hiện bằng cách hạ âm điệu giọng nói xuống
thấp ở trong các trường hợp sau:
Dùng trong câu chào hỏi: Good morning! ↓
Dùng trong câu đề nghị: Come here! ↓
Dùng trong câu hỏi bắt đầu bằng từ để hỏi (who, whose, whom, which,
what, when, where, why, và how) What are these? ↓
Dùng trong yêu cầu hoặc mệnh lệnh: Open your book ↓
*Ngữ điệu lên được thể hiện bằng cách tăng âm điệu giọng nói lên cao ở
trong các trường hợp sau:
Dùng trong các câu hỏi nghi vấn “có…không” Is this a book ?↑
Dùng trong câu xác định nhưng hàm ý câu hỏi: You are Mai? ↑
d. Hướng dẫn học sinh sử dụng cử chỉ, điệu bộ khi đối thoại bằng
Tiếng Anh:
Các bạn thấy đó người nước ngoài khi nói chuyện với chúng ta thường
sử dụng nét mặt, cử chỉ, điệu bộ diễn đạt điều muốn nói để người đối diện dễ
hiểu và có cảm giác gần gũi hơn trong giao tiếp. Tại sao chúng ta học ngôn ngữ
của họ mà không học cách thể hiện như thế để hoàn thiện hơn trong giao tiếp.
Đây là lý do tôi chọn biện pháp này để góp phần tạo sự tự tin khi đàm thoại
Tiếng Anh.
Tôi yêu cầu học sinh trong khi đối thoại thì nói và diễn phải kết hợp với
nhau. Nếu hỏi về tên, sức khoẻ, tuổi, … của người mình muốn hỏi thì chìa tay
về người đối diện và tự chỉ vào mình khi nói câu trả lời. Khi hỏi và miêu tả về
đồ vật thì đến chọn hay chạm tay vào đồ vật đó. Chính việc làm này góp phần
phát triển tốt kỹ năng giao tiếp, giúp học sinh thuộc từ và mẫu câu nhanh hơn.
Ví dụ:
Giáo viên yêu cầu học sinh xây dựng một đoạn hội thoại và trình bày
lại.
Linda : Hello, Quan. How are you today ?
(Linda đưa tay vẫy và chìa tay về phía Quan)
Quan : Hi, Linda . I’m fine, thank you.
(Quan vẫy tay và chỉ vào mình trả lời )
Linda : How’s the weather ?
(Chỉ tay lên trời)
Quan : It’s sunny .
(Đưa tay lên trời)
Linda : Let’s play.
Quan : Ok !
(Cả hai cùng nắm tay và chạy)
e. Khuyến khích học sinh tự làm từ điển cá nhân:
Muốn nói tốt Tiếng Anh phải thuộc nhiều từ, đối với học sinh tiểu học
việc tìm tòi, tham khảo sách báo, trên internet, ti vi còn hạn chế. Vì vậy, tôi yêu
cầu học sinh làm quyển từ điển theo hướng dẫn của tôi để học sinh củng cố và
nhớ lâu hơn những từ được học hay sưu tầm.
Vào tuần thứ hai của đầu năm học, tôi yêu cầu mỗi học sinh chuẩn bị một
quyển sổ tay bỏ túi để viết lại tất cả các từ đã học. Yêu cầu học sinh sắp xếp
và viết theo chủ đề (chủ đề về đồ vật, con vật, màu sắc, thời tiết,….)
Tôi hướng dẫn học sinh thực hiện như sau: chia quyển sổ tay thành
nhiều chủ đề để các em thuận tiện hơn khi sử dụng. Tiếp theo chia trang vở
làm hai phần một bên viết từ Tiếng Anh bên kia viết nghĩa Tiếng Việt.
Ví dụ:
Chủ đề về đồ vật
English Vietnamese
* a ruler
1 cai th
́ ươc
́
* an eraser
1 cục tẩy
* a bag
1 cai căp
́ ̣
1 quyên sach
̉
́
* a book
…………………….
Để quyển từ điển thêm phong phú tôi hướng dẫn học sinh tự vẽ hoặc
sưu tầm hình ảnh để minh hoạ nghĩa Tiếng Việt.
Ví dụ:
Chủ đề về con vâṭ
English
Vietnamese
butterfly
tortoise
cat
dog
frog
cow
2.2.3. Một số biện pháp khác:
a. Phân hoá đối tượ ng học sinh và chia nhóm rèn luyện kỹ năng
giao tiếp:
Phân định rõ đối tượng nhằm giúp giáo viên bao quát lớp tốt hơn, nắm rõ
số lượng học sinh yếu nhiều hay ít của từng lớp. Từ đó giáo viên lựa chọn, sử
dụng phương pháp dạy phù hợp để đạt hiệu quả cao.
Bắt đầu vào năm học mới sau ba tuần học tôi có thể phân loại nhóm học
sinh giỏi, khá và nhóm trung bình, yếu. Tôi chia lớp thành nhiều nhóm (mỗi
nhóm từ bốn đến năm học sinh) để cùng nhau học tập. Trong nhóm có từ hai
đến ba học sinh thuộc dạng khá giỏi, những em này được phân công làm nhóm
trưởng và nhóm phó để điều hành nhóm hoạt động và có nhiệm vụ giúp đỡ
những bạn yếu.
Mỗi nhóm được đặt cho một cái tên như: “banana”, “grape”, “apple”,
“bear”, …. để tạo sự mới lạ, hấp dẫn cho học sinh.
Nhóm hoạt động vào đầu mỗi buổi học có tiết Tiếng Anh. Chỉ hoạt động
từ 5 phút đến 7 phút để cùng nhau học Tiếng Anh. Lúc đầu các em chỉ có thể
nói một vài câu đơn giản như “Hello. What’s your name? How are you? I’m
fine, thank you ….”
Qua những bài học tiếp theo số lượng từ vựng và mẫu câu tăng dần từ đó
học sinh nói được nhiều và nội dung phong phú hơn.
Ví dụ:
Vy : Hello, Nam.
Nam : Hi, Vy . What’s the matter?
Vy : I’m thirsty.
Nam : Do you want milk ?
Vy : Yes, I do.
Nam : Here you are !
Vy : Thank you.
Nam : You’re welcome.
…………….
Vào cuối mỗi tiết học tôi dành từ ba đến năm phút ở phần mở rộng bài
học để kiểm tra từ 1 đến 2 nhóm. Các nhóm sẽ trình bày lại những gì đã thực
hành ở đầu giờ học. Nhóm nào thực hành tốt sẽ được thưởng, phần thưởng là
những tràng pháo tay của tập thể, những bông hoa, viên kẹo hay vài chiếc bánh
để khích lệ tinh thần các em. Đối với học sinh yếu có tiến bộ tôi thưởng cho
các em đồ dùng học tập như: viết, thước, vở, … còn các nhóm trưởng và nhóm
phó của nhóm có bạn yếu tiến bộ cũng được nhận phần quà.
Hoạt động nhóm mục đích giúp cho những học sinh yếu khắc phục tính
rụt rè, sợ sệt và mặc cảm khi không nói được Tiếng Anh như các bạn. Thầy cô
không có nhiều thời gian để gần gũi và giúp đỡ các em, thông qua hoạt động
nhóm bạn sẽ là người hỗ trợ có hiệu quả nhất “Học thầy không tày học bạn”.
b. Khuyến khích học sinh tập hát nhiều bài hát Tiếng Anh:
Muốn học giỏi Tiếng Anh điều đầu tiên ta phải làm thế nào cho trẻ em
yêu thích nó. Âm nhạc chính là cầu nối sẽ giúp các em đến gần môn học này
hơn để thấy rằng Tiếng Anh thật thú vị và bổ ích.
Ngoài những bài hát trong chương trình học tôi còn sưu tầm trên internet,
băng, đĩa một số bài phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi để dạy các em. Lứa tuổi
học sinh tiểu học rất năng động và thích hát, những bài có tiết tấu vui nhộn
càng làm các em thích thú như: “ head, shoulders, knees and toes”; “fingers
family”; “hokey. Pokey”.... Thông qua đây học sinh sẽ chăm học Tiếng Anh hơn.
Giáo viên cần giải thích ý nghĩa, nội dung bài hát để học sinh hiểu, cảm
thụ bài hát. Từ đó các em có hứng thú và hát hay hơn.
Học sinh hát tập thể, nhóm và có thể cho các em tự chọn bạn hát chung
với mình. Khi dạy bài hát mới tôi lồng ghép vào tiết làm bài tập tại lớp vừa
giảm bớt căng thẳng vừa cung cấp thêm nhiều bài hát cho học sinh.
Ngoài ra để giúp học sinh nhanh thuộc cấu trúc câu, tôi thường chế lại
các cấu trúc theo lời các bài hát mà các em đã thuộc như: “kìa con bướm vàng”
c. Tận dụng tối đa trang thiết bị có sẵn
Muốn học tốt các em phải được trang bị đầy đủ dụng cụ học tập cũng
như tập sách. Còn giáo viên muốn tiết dạy sinh động cũng cần có các thiết bị
kèm theo. Do đó cần khai thác triệt để những thiết bị sẵn có.
Vào cuối năm học tôi kêu gọi các em tặng sách cũ cho nhà trường, nhà
trường dùng sách đó để tặng cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
Huy động nguồn tài trợ từ các mạnh thường quân nhằm giúp các em khó
khăn trang bị đầy đủ dụng cụ học tâp. Giáo viên tận dụng những trang thiết bị
sẵn có và có thể làm ra những đồ dùng dạy học phù hợp với các bài học và bảo
quản chúng thật tốt để có thể tái sử dụng nhiều lần.
d. Rèn luyện tín hiệu phi ngôn ngữ khi giao tiếp
Kiểm soát tầm nhìn (nhìn xa, gần, nhìn vào người đang đối thoại, cần thể
hiện ánh mắt linh hoạt, tập trung…) tránh kiểu nhìn lơ đểnh, mông lung khi
đang nói.
Chú trọng đến yếu tố cử chỉ điệu bộ (khuôn mặt, ánh mắt, nụ cười, body
language, gật đầu, lắc đầu…)
Giữ tác phong lịch sự khi giao tiếp (tóc, quần áo…).
Giáo viên cần phải nhắc nhở học sinh rèn luyện các yêu cầu trên mỗi
ngày. Cần chú ý rằng cung cấp cho HS ngữ liệu không khó bằng việc
sử dụng ngữ liệu đó vào giao tiếp. Vì vậy giáo viên cần tạo điều kiện cho HS
có thời gian thực hành nói thường xuyên giúp các em tự tin, mạnh dạn đưa ra ý
kiến của mình và cũng giúp HS phát hiện những hạn chế và tự sửa sai.
2.3 Kết quả:
Qua việc áp dụng những biện pháp trên vào giảng dạy và tôi nhận thấy
chất lượng được nâng cao so với những năm học trước. Hơn nữa học sinh đã
biết sử dụng các câu Tiếng Anh thông thường để ứng dụng vào các bài đàm
thoại và tự tin hơn khi phát biểu trước lớp.
Khi áp dụng những biện pháp trên tôi thấy tiết dạy của mình không còn
nhàm chán mỗi khi lên lớp. Không khí lớp học sinh động hơn, học sinh hưng
phấn và thích nói Tiếng Anh nhiều hơn và thườ ng yêu cầu tôi mở rộng thêm
một số câu Tiếng Anh sử dụng trong giao ti ếp.
Học sinh không còn lo sợ đến giờ học Tiếng Anh như trước thay vào đó
là tâm trạng trông chờ đến tiết học.
Kết quả kiểm tra cuối ki I, năm h
̀
ọc 20182019 của khối 5 như sau:
Khôí
5
Ki năng Noi (25 điêm )
̃
́
̉
Tổng
số
học
sinh
SL
103
32
Điểm
2025
Điểm
17.5 < 20
Điểm
12.5 < 17.5
Điểm
< 12.5
%
SL
%
SL
%
SL
%
31,1
38
36,9
27
26,2
6
5,8
Từ kết quả trên cho chúng ta thấy rõ nếu giáo viên có đầu tư tốt vào
giảng dạy, biết áp dụng mọi phương pháp phù hợp với năng lực của từng học
sinh, phù hợp với tình hình chung của mỗi khối lớp thì chúng ta sẽ gặt hái được
chất lượng và hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó tạo được tình cảm tốt giữa
“thầy và trò”, giữa “trò và trò”, học sinh cảm thấy yêu thích môn học mà mình
phụ trách. Để từ đó các em học tốt hơn và tạo nền tảng cho sự phát triển sau
này.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến
Để đạt được những thành quả trên, bản thân tôi luôn nhận thức được
trách nhiệm của mình. Tìm mọi biện pháp để rèn luyện từng đối tượng học
sinh, kích thích các em có hứng thú trong việc học ngoại ngữ ngay từ đầu. Làm
được việc này chúng ta đã rèn luyện cho các em có thói quen học Tiếng Anh tốt.
Để kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh của học sinh tiểu học đạt hiệu quả cao, giáo
viên cần thường xuyên thay đổi hình thức tổ chức lớp học phong phú đa dạng,
sử dụng phương pháp dạy phù hợp với từng khối, lớp, đối tượng học sinh.
Trong bất cứ nghề nghiệp hay công việc gì cũng đòi hỏi người làm phải
có cái tâm và niềm đam mê. Có được điều này chắc chắn chúng ta sẽ thành
công. Nhiệm vụ truyền đạt kiến thức không ngoài khả năng của một giáo viên
nào cả. Nếu giáo viên có lòng quyết tâm, yêu nghề, mến trẻ, kiên trì, nhẫn nại,
uốn nắn các em ở mọi lúc mọi nơi nhất là đối với học sinh yếu kỹ năng giao tiếp
Tiếng Anh. Bản thân luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, có làm tốt
nhiệm vụ này là chúng ta đã góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong nhà
trường.
Bản thân tôi nhận ra rằng giữa thầy và trò không nên có khoảng cách mà
chúng ta phải tạo cho các em cảm giác gần gũi để xem người thầy của mình
cũng là một người bạn. Từ đó học sinh sẽ tự nhiên để tự tin phát triển tốt khả
năng giao tiếp không chỉ đối với môn Tiếng Anh mà cả về phong cách bản thân.
3.2. Kiến nghị đề xuất
Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh biết cách học đúng.
Phải đầu tư cho bài dạy của mình trước khi lên lớp.
Phải có lòng yêu trẻ và nhiệt tình học hỏi trau dồi kinh nghiệm với các
bạn đồng nghiệp và qua sách báo.
Trong giờ học tại lớp giáo viên truyền đạt kiến thức cho học sinh một
cách tự nhiên và sinh động. Bằng cách sử dụng lời nói, cử chỉ kết hợp với đồ
dùng dạy học mới lạ,… để thu hút sự tập trung của các em. Chính điều này
giúp cho học sinh tiếp thu bài nhanh và nhớ lâu.
Giáo viên khuyến khích học sinh mạnh dạn phát biểu trong giờ học. Khi
học sinh phát âm sai giáo viên nhẹ nhàng sửa lỗi, không cáu gắt, khó chịu, không
dồn ép kiến thức khi các em căng thẳng.
Luôn nhắc nhở, kiểm tra học sinh học bài ở trường cũng như ở nhà.
Giới thiệu, tuyên dương, khen thưởng những học sinh có tiến bộ trong
học tập cũng như biết giúp đỡ bạn cùng tiến.
Sửa chữa kịp thời những sai sót của học sinh, động viên, giúp đỡ những
em yếu kém.
Bản thân giáo viên phải tự rèn luyện nâng cao tay nghề để truyền đạt
kiến thức cho các em ngày càng phong phú hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi, rất mong nhận được sự góp
ý của đồng nghiệp và cấp trên để đề tài của tôi càng phong phú và thiết thực
hơn.
Xin chân thành cảm ơn!