PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO ĐỨC HÒA
TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN THỊ HẠNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIAO TIẾP TIẾNG ANH
CHO HỌC SINH CẤP TIỂU HỌC
Người thực hiện: HUỲNH THỊ THU TRANG
Đơn vị: Trường Tiểu Học NGUYỄN THỊ HẠNH
NAÊM HOÏC :2015 -2016
0 - 2011
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIAO TIẾP TIẾNG ANH
CHO HỌC SINH CẤP TIỂU HỌC
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý Do Chọn Đề Tài:
1.Đặt vấn đề:
Cơ sở lí luận :
Theo đà phát triển không ngừng của việc giao lưu Quốc tế, phổ cập Tiếng
Anh đã trở thành một việc không thể thiếu. Không chỉ người lớn mong muốn có
thể nói chuyện lưu loát với người nước ngoài mà ngay cả các em nhỏ cũng
muốn giao tiếp được bằng Tiếng Anh với bạn bè Quốc tế. Vì thế ngành Giáo
Dục Đào Tạo đã tiến hành đổi mới một cách toàn diện về chương trình, phương
pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Trước đây Việt
Nam chưa hoà nhập với các nước trên thế giới thì việc đầu tư cho học sinh trau
dồi môn ngoại ngữ còn nhiều hạn chế. Nhưng ngày nay với đà phát triển chung
của nhân loại thì việc học ngoại ngữ là điều cần thiết. Thấy rõ được tầm quan
trọng này, ngành Giáo Dục Đào Tạo đã đưa việc học ngoại ngữ ngay ở cấp tiểu
học. Hiện nay trên toàn quốc đã có nhiều trường tiểu học thí điểm dạy chương
trình Tiếng Anh mới bắt đầu từ lớp 3 và 70% số này đạt mức độ một theo chuẩn
năng lực ngoại ngữ Quốc Tế vào năm 2020.
Cơ sở thực tiễn :
Qua nhiều năm giảng dạy Tiếng Anh ở bậc tiểu học tôi nhận thấy kỹ năng
giao tiếp Tiếng Anh của học sinh còn nhiều hạn chế. Để khắc phục tình trạng
trên tôi đã tìm tòi nghiên cứu một số biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng nói cho
học sinh tiểu học. Năm học 2013-2014 tôi bắt đầu áp dụng nhưng kết quả đạt
được chưa cao. Đến năm học 2014-2015tôi bắt đầu sửa đổi và bổ sung một số
biện pháp khác và thấy rằng kết quả được nâng lên. Qua nhiều lần chỉnh sửa đến
năm học 2015-2016 những phương pháp trên có thể xem là hoàn chỉnh và đạt
được hiệu quả như mong muốn . Đây là lý do tôi chọn đề tài sáng kiến kinh
nghiệm: “ Phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh cấp tiểu học”
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
2
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
2. Mục đích đề tài :
Để góp phần phát triển kĩ năng giao tiếp môn Tiếng Anh tiểu học theo
phương hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, tăng
cường hoạt động cá thể phối hợp với học tập giao lưu . Hình thành và rèn luyện
kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực hiện quá trình giao tiếp .
Tạo hứng thú học tập môn Tiếng Anh cho học sinh, một môn học được coi
là mới mẻ và khó khăn thì việc đưa ra phương pháp để phát triển kỹ năng giao
tiếp cho các em, giúp các em vận dụng các từ Tiếng Anh đã học ở mỗi tiết học,
nhằm mục đích để các em không chán nản môn học quá mới mẻ, có cảm giác
học mà chơi, chơi mà học. Phương pháp này trong giờ học không những chỉ
giúp các em lĩnh hội được kiến thức, từ ngữ mà còn giúp các em củng cố và
khắc sâu kiến thức hơn nữa .
3. Lịch sử đề tài :
Trong xu thế hội nhập của nước ta và chương trình giáo dục tiểu học hiện
nay, môn Tiếng Anh cùng với các môn học khác trong trường tiểu học có những
vai trò góp phần quan trọng đào tạo nên những con người phát triển toàn diện,
đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ mới .
Muốn học sinh tiểu học học tốt môn Tiếng Anh thì mỗi người giáo viên
dạy môn Tiếng Anh không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu sẵn có
trong sách giáo khoa, trong sách hướng dẫn và sách thiết kế bài giảng một cách
rập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động . Nếu chỉ dạy
học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết
quả học tập sẽ không có hiệu quả . Nó là một trong những nguyên nhân gây ra
cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo
sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày .
Trong những năm gần đây, yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi
mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học và các cấp học, nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học . Chính vì vậy, môn Tiếng Anh nói chung và mônTiếng
Anh ở bậc tiểu học nói riêng cũng cần phải có những đổi mới mạnh mẽ hơn nữa,
phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, lấy học sinh làm trung
tâm . Vì vậy, người giáo viên phải gây hứng thú học tập cho các em bằng cách
lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Phương pháp dạy có nội
dung phong phú, sử dụng ngôn ngữ thật lý thú và bổ ích phù hợp với nhận thức
của các em . Thông qua các hoạt độngnày các em sẽ lĩnh hội những kiến thức và
khả năng vận dụng ngôn ngữ trong giao tiếp một cách dễ dàng, củng cố, khắc
sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú trong
học tập, trong việc làm . Khi chúng ta đưa ra được các hoạt động khác nhau
trong giờ học Tiếng Anh một cách thường xuyên, khoa học thì chắc chắn chất
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
3
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
lượng dạy học môn Tiếng Anh sẽ ngày càng nâng cao . Chính vì những lý do
trên mà tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm “ Phát triển kỹ năng giao tiếp
Tiếng Anh cho học sinh cấp tiểu học” Đây là đề tài rất mới .
4. Phạm vi đề tài :
Có thể áp dụng cho việc giảng dạy Tiếng Anh từ cấp tiểu học trở lên và
cho trẻ em nói chung vì hiện nay việc tiếp cận ngoại ngữ càng sớm càng tốt là
xu hướng chung của toàn thế giới.Sáng kiến này xuất phát từ việc học sinh chưa
say mê, hứng thú trong giờ học tiếng Anh. Bởi do Tiếng Anh là một ngôn ngữ
nước ngoài, không phải tiếng mẹ đẻ. Hơn thế, qua kinh nghiệm giảng dạy nhiều
năm cho thấy học sinh thường không thể giao tiếp tốt bằng những kiến thức đã
học, và chán học Tiếng Anh .
Với đề tài này tôi nghiên cứu và áp dụng năm học 2015-2016. Đối tượng
nghiên cứu : Học sinh khối 3,4,5 của trường tiểu học Nguyễn Thị Hạnh .
PHẦN NỘI DUNG
II. Nội dung công việc
1 .Thực trạng đề tài:
a/ Thuận lợi:
Trường tiểu học Nguyễn Thị Hạnh nơi tôi đang công tác phòng học thoáng
mát đảm bảo diện tích hoạt động học tập cho học sinh. Có sân chơi rộng rãi, mát
mẽ,đảm bảo an toàn rất thuận lợi cho việc học tập ngoài trời.
Bản thân tôi được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và được tham gia tập
huấn bồi dưỡng đổi mới phương pháp dạy học Tiếng anh tiểu học do Sở giáo
dục tổ chức.Được học hỏi qua thăm lớp dự giờ của đồng nghiệp trường mình
và trường bạn qua việc dự giờ cụm chuyên môn.
Nhà trường rất quan tâm và tạo điều kiện cho việc dạy và học môn Tiếng
Anh.
Trong các chương trình tiểu học hiện nay, bộ sách Tiếng Anh 3, Tiếng
Anh 4, Tiếng Anh 5 của Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam là một chương trình
thích hợp cho trẻ đã và đang được các trường tiểu học phổ biến rộng rãi. Nó là
một giáo trình sách giáo khoa có nội dung kiến thức phù hợp với thực tế cuộc
sống học sinh và có nhiều tranh ảnh đẹp, dễ bắt mắt, tạo niềm hứng thú cho
học sinh.gồm các từ vựng, mẫu câu và các hình ảnh thân thuộc, gần gũi với cuộc
sống hằng ngày của các em. Bộ sách chú trọng 4 kỹ năng : nghe, nói, đọc và viết
Sự phát triển của công nghệ thông tin giúp giáo viên có được nhiều
nguồn tư liệu, hình ảnh qua mạng Internet.
Giáo viên nhiệt tình, có trách nhiệm trong công tác giảng dạy môn Tiếng
Anh.
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
4
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
b/Khó khăn:
Qua thực tế giảng dạy môn Tiếng Anh ở bậc tiểu học trong những năm qua,
tôi nhận thấy chất lượng môn học này vẫn còn thấp. Qua thăm dò điều tra, tôi
nhận thấy một số nguyên nhân của việc học còn hạn chế như sau:
Trang thiết bị dạy học còn nhiều hạn chế:
Với bản chất tò mò, ham học hỏi, cùng với khả năng cảm nhận thế giới từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, tất cả học sinh cùng chung một ý
kiến rằng các em rất thích giáo viên sử dụng giáo cụ trực quan trong các giờ
dạy Tiếng Anh. Nhưng trong thực tế giảng dạy, một số tiết học cần đến vật thật
hoặc tranh ảnh minh họa cho các em vẫn còn nhiều hạn chế. Vì đây là lứa tuổi
rất năng động, các em rất thích khám phá đồ vật bằng mắt thấy, tai nghe nên đồ
dùng trực quan ảnh hưởng rất lớn đến việc học Tiếng Anh. Bên cạnh đó trường
tôi vẫn chưa có phòng Lab, phòng nghe-nhìn dành riêng cho bộ môn Tiếng
Anh. Việc mua sắm trang thiết bị gia đình phục vụ công việc tự học Tiếng Anh
tại gia đình của các em không phải ai cũng có được.
Cơ hội thực hành Tiếng Anh ít:
Học sinh chưa được ứng dụng thực tế những gì mình học trong giao tiếp hằng
ngày. Các em không có cơ hội tiếp xúc với người nước ngoài để có thể chào
hỏi xã giao vài câu Tiếng Anh. Phạm vi học và thực hành Tiếng Anh chỉ có
được trong lớp học. Chính vì thế mà học sinh cảm thấy học như bị bắt buộc,
học để lấy điểm cao là chủ yếu, các em chưa ý thức được học Tiếng Anh để có
thể sử dụng làm phương tiện giao tiếp sau này.
Hạn chế về thời gian và các hình thức trò chơi:
Học sinh ở bậc tiểu học còn nhỏ nên tốc độ viết của các em còn chậm. Đây
là một lí do chủ yếu dẫn đến việc hạn chế thời gian tổ chức các trò chơi. Bên
cạnh đó các hình thức trò chơi vẫn chưa được tổ chức phong phú. Đặc biệt là
học sinh tiểu học rất thích học Tiếng Anh có lồng ghép vào các trò chơi. Điều
này là rất tốt vì phần nào giáo viên đã làm được việc: Học mà chơi, chơi mà
học.
Động cơ và ý thức học tập chưa cao:
Môn Tiếng Anh ở bậc tiểu học vẫn là môn học tự chọn nên một số phụ
huynh và học sinh chưa ý thức được tầm quan trọng của môn học này. Một số
học sinh lên lớp là vì bắt buộc phải lên chứ các em không có một động cơ học
tập nào. Đối tượng học sinh nói không to, các em này rất ngại thực hành giao
tiếp. Vì khả năng tiếp thu chậm, sợ thực hành sai, sợ những nhận xét không
tốt của giáo viên. Một số ít khác là đối tượng nói đúng, nói nhỏ, lí nhí, các
em ngại giao tiếp không phải vì khả năng tiếp thu chậm mà các em bị hạn chế
về mặt tâm lí, ngại thực hành trước đám đông. Ở lứa tuổi này các em rất ham
chơi nên ý thức học tập chưa cao. Thêm vào đó các em rất ít chú trọng vào
việc học và rất lười học bài nhất là từ vựng Tiếng Anh.
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
5
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
KHỐI
3
4
5
TỔNG SỐ
HS
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HỌC SINH HOÀN THÀNH
PHẦN KỸ NĂNG GIAO TIẾP
MÔN TIẾNG ANH
(Đầu năm học 2015-2016)
HOÀN THÀNH
CHƯA HOÀN THÀNH
SL
%
SL
%
77
70
90,9
7
9,0
82
86
76
80
92,6
93
6
6
7,3
6,9
2. Nội dung và biện pháp giải quyết:
Trường Tiểu học “Nguyễn Thị Hạnh” thuộc xã Mỹ Hạnh Nam tôi đang
dạy hiện nay chương trình Tiếng Anh đã được giảng dạy nhiều năm. Bản thân
tôi được dạy đều các khối 3, 4, 5, vì vậy tôi thấy rõ những ưu điểm và hạn chế
của học sinh mình. Đối với học sinh lớp 3 và 4 các em rất tự tin và tích cực phát
biểu trong giờ học. Nhưng học sinh khối 5 thì ngược lại, các em ít tham gia xây
dựng bài mặc dù câu hỏi giáo viên đưa ra các em hiểu và trả lời đúng. Qua đây
chúng ta thấy rằng vẫn còn một bộ phận học sinh thiếu tự tin và rụt rè trong giao
tiếp. Mặt khác tôi cũng tự hỏi hay là cách sử dụng phương pháp dạy của mình
gây nhàm chán cho học sinh không còn thu hút các em như lớp 3, và lớp 4 .
Học ngoại ngữ muốn giỏi bản thân người học phải mạnh dạn sử dụng ngôn
ngữ mình học để rèn luyện, nếu có nói sai khi được sửa chúng ta sẽ nhớ lâu hơn
và lần sau nếu gặp lại câu nói đó sẽ không sai nữa. Trong nhiều năm giảng dạy tôi
thấy mặt hạn chế của học sinh trong hoạt động nói là tính thụ động chỉ bám theo
những gì giáo viên hướng dẫn, gợi ý để thực hiện học sinh không mở rộng hay
thắc mắc yêu cầu giải đáp. Có thể nói kỹ năng nói của các em còn chưa tốt.
Về phần mình tôi cần thay đổi cách tổ chức lớp học, cách sử dụng thủ
thuật trong bài dạy để gây sự tập trung và hứng thú cho học sinh khi học giờ
Tiếng Anh, để phát triển kỹ năng nói cho học sinh. Vào năm học 2015- 2016
tôi bắt đầu áp dụng một số biện pháp sau:
2.1 Về giáo viên:
a/Thường xuyên sử dụng Tiếng Anh trong tiết dạy:
Đối với đối tượng học sinh cấp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông
việc sử dụng Tiếng Anh trong giờ ngoại ngữ là điều hiển nhiên, vì khi đó vốn từ
các em khá đủ để hiểu những điều giáo viên truyền đạt. Nhưng đối với học sinh
tiểu học vốn từ các em chưa nhiều để hiểu tốt yêu cầu của giáo viên chính điều
này làm cho đa phần giáo viên dạy Tiếng Anh ở bậc tiểu học “lười” nói Tiếng
Anh trong giờ dạy. Tôi nghĩ đây là một trong số lý do làm cho học sinh chưa tự
tin đàm thoại bằng Tiếng Anh. Chúng ta là đầu tàu gương mẫu lứa tuổi thiếu nhi
còn ngây thơ và dễ bắt chước, thầy cô là tấm gương để học sinh noi theo, nếu
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
6
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
giáo viên thường xuyên nói Tiếng Anh thì những câu nói đó dần dần thấm sâu
khi cần nói tự nhiên các em sẽ phát ra được.
* Thực hiện:
Vào đầu mỗi tiết dạy tôi thường đối thoại với học sinh bằng những câu
Tiếng Anh đơn giản để làm “nóng” không khí lớp học, tạo sự hưng phấn trong
học tập, ứng xử nhanh nhẹn trong giao tiếp.
Ví dụ :
T : Good morning, everybody !
How are you today ?
Ss : Good morning, Mss. Trang !
We’re fine, thank you.
How are you ?
T : I’m fine. Thanks.
Theo cách dạy truyền thống vào đầu tiết dạy giáo viên thường gọi học
sinh kiểm tra bài cũ, nhưng đối với tôi thì không làm như thế. Trước khi là giáo
viên tôi cũng là một học sinh như các bạn nhỏ bây giờ nên tôi hiểu rõ tâm trạng
các em lúc này. Đối với tôi, tôi sử dụng phương pháp chơi trước khi học để
không khí lớp học không nặng nề mà ngược lại là sự thoải mái và sinh động.
Khi đưa ra yêu cầu trò chơi giáo viên nên nói bằng Tiếng Anh, không cần câu
nói dài chỉ sử dụng một số cụm từ, câu đơn giản nhưng thường xuyên lặp đi lặp
lại, như thế học sinh sẽ hiểu.
Ví dụ:
T : Would you like to play game ?
Ss : Yes.
T : Play game “ Slap the board” – Ok !
Ss : Ok!
T : Four boys and four girls, please !
Now, any volunteers ? Raise your hand !
………………
Sau khi chọn được hai đội tôi sử dụng một số câu ra lệnh đơn giản khác.
Ví dụ:
T : Are you ready ?
Ss : Yes .
T : Now, let’s begin “ one, two,three”
………………
Giáo viên phải tự rèn luyện, học hỏi trao dồi phương pháp dạy với các bạn
đồng nghiệp, trên internet, báo đài, phải tự tin và thường xuyên nói Tiếng Anh
trong lớp để học sinh noi theo. Qua thời gian thăm lớp một số giáo viên trong
huyện tôi thấy đa số Thầy, Cô còn nói Tiếng Việt nhiều trong giờ học Anh Văn.
Chính điều này góp phần làm hạn chế khả năng sử dụng Tiếng Anh của học
sinh. Tôi nghĩ giáo viên nên là người đầu tiên phải khắc phục mặt hạn chế trên
rồi mới đến học sinh.
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
7
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
b/Thái độ giáo viên khi đứng lớp:
Phần lớn giáo viên khi đứng lớp thường có thái độ nghiêm khắc trong
giảng dạy để học sinh tập trung hơn nhưng theo tôi không nên tạo căng thẳng
trong giờ học ngoại ngữ. Bởi vì, những tiết học Toán, Tiếng Việt, … học sinh đã
tập trung nhiều cho nên đến tiết Anh Văn giáo viên cần tạo không khí lớp học
sinh động và vui vẻ. Đây là cách cuốn hút học sinh vào tiết dạy của mình để các
em thấy rằng Tiếng Anh không khó học và khô khan như mình nghĩ.
* Thực hiện:
Giáo viên cần vui vẻ hoà nhập vào thế giới trẻ thơ của học sinh, chính thái
độ của người hướng dẫn sẽ giúp các em tự tin và mạnh dạn tập nói Tiếng Anh
trong lớp học mà không sợ thầy cô trách phạt hay bạn bè chế giễu khi bị sai.
Khi bước vào lớp điều đầu tiên giáo viên nên làm là mỉm cười với cả lớp
tạo sự gần gũi, thân thiện với học trò của mình để bắt đầu một tiết học mới.
Giáo viên cần rèn luyện cho mình có tính “khôi hài” và sử dụng nó trong
tiết dạy để cuốn hút học sinh. Người thầy được ví như một nghệ sĩ nếu diễn tốt
sẽ được khán giả mến mộ và đón nhận một cách nồng nhiệt. Làm được điều này
bước đầu chúng ta đã thành công. Sau đây là một ví dụ minh hoạ.
Ví dụ:
Tôi cho học sinh chơi trò “Bean bag circle” và sử dụng mẫu câu “This is
a ( an ) + màu sắc + tên vật” để áp dụng vào trò chơi. Học sinh nghe nhạc và
chuyền bóng, khi tiếng nhạc ngưng quả bóng trong tay ai người đó tự đặt một
câu theo mẫu đưa ra. Nếu một học sinh yếu nhận được quả bóng có thể sẽ
không nói được hoặc “ấm a ấm úng”. Lúc này tôi động viên các em “Chúc
mừng em, em có cố gắng nhưng chưa thành công” hay là “Chúc em may
mắn lần sau”.
Một số bộ phận giáo viên chuyển từ trung học cơ sở xuống dạy tiểu học
do chưa hiểu rõ tâm sinh lý lứa tuổi này đôi khi trong tiết dạy còn nghiêm khắc
và “lớn tiếng”, khi các em phát biểu sai. Theo tôi việc này không nên vì sẽ làm
cho học sinh rụt rè, lúng túng khi phát biểu. Từ đó làm hạn chế tính “phản xạ”
trong giao tiếp khi học ngoại ngữ.
2.2 Về học sinh:
a/ Rèn luyện cho học sinh phát âm chuẩn từ vựng và ngữ điệu câu:
Hiện nay, có quan điểm cho rằng học sinh tiểu học còn nhỏ không cần
phát âm chuẩn như người bản xứ nhưng đối với tôi thì ngược lại. Phải tập các
em nói đúng và chuẩn ngay từ khi mới học ngoại ngữ. Bởi vì người xưa thường
nói “Tre non dễ uốn” và một phần do kinh nghiệm bản thân từ nhiều năm nay
dạy học sinh tiểu học nên tôi thấy rõ mặt hạn chế của học trò. Nếu giáo viên lơ
là trong việc sửa lỗi phát âm, không hướng dẫn chú ý trọng âm từ, ngữ điệu
trong câu thì khi nghe người khác phát âm đúng các em không nhận ra và hiểu
được người đối diện nói gì. Mặc khác các em sẽ lúng túng không biết thầy mình
dạy đúng hay người này đúng làm cho học sinh e dè, không tự tin trong giao
tiếp.
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
8
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
* Thực hiện:
Chúng ta phải cho học sinh nghe băng thường xuyên với giọng đọc chuẩn
của người bản xứ và cho lặp lại nhiều lần, chú ý ngữ điệu cuối câu và nhất là
phần kết thúc của từ. Hướng dẫn học sinh tập trung trong khi nghe và khuyến
khích các em bắt chước giọng đọc trong băng càng giống càng tốt.
Sau bước nghe và lặp lại giáo viên yêu cầu học sinh tự đọc đồng thanh,
theo cặp rồi cá nhân. Tuyên dương những học sinh đọc tốt và chỉnh sửa ngay
nếu học sinh đọc sai và không chuẩn.
Khuyến khích mỗi học sinh có một cuộn băng nghe để tự rèn luyện ở nhà.
Nhằm giúp các em nhập tâm và nói tốt một cách tự nhiên.
b/ Hướng dẫn học sinh sử dụng cử chỉ, điệu bộ khi đối thoại bằng Tiếng
Anh:
Các bạn thấy đó người nước ngoài khi nói chuyện với chúng ta thường sử
dụng nét mặt, cử chỉ, điệu bộ diễn đạt điều muốn nói để người đối diện dễ hiểu
và có cảm giác gần gũi hơn trong giao tiếp. Tại sao chúng ta học ngôn ngữ của
họ mà không học cách thể hiện như thế để hoàn thiện hơn trong giao tiếp. Đây
là lý do tôi chọn biện pháp này để góp phần tạo sự tự tin khi đàm thoại Tiếng
Anh.
* Thực hiện:
Tôi yêu cầu học sinh trong khi đối thoại thì nói và diễn phải kết hợp với
nhau. Nếu hỏi về tên, sức khoẻ, tuổi,… của người mình muốn hỏi thì chìa tay
về người đối diện và tự chỉ vào mình khi nói câu trả lời. Khi hỏi và miêu tả về
đồ vật thì đến chọn hay chạm tay vào đồ vật đó. Chính việc làm này góp phần
phát triển tốt kỹ năng giao tiếp, giúp học sinh thuộc từ và mẫu câu nhanh hơn.
Ví dụ:
Giáo viên yêu cầu học sinh xây dựng một đoạn hội thoại và trình bày lại.
Hoa : Hello, Lan. How are you today ?
(Hoa đưa tay vẫy và chìa tay về phía Lan)
Lan : Hi, Hoa . I’m fine, thank you.
(Lan vẫy tay và chỉ vào mình trả lời )
Hoa : How’s the weather ?
(Chỉ tay lên trời)
Lan : It’s sunny .
(Đưa tay lên trời)
Hoa : Let’s play.
Lan : Ok !
(Cả hai cùng nắm tay và chạy)
c/ Khuyến khích học sinh tự làm từ điển cá nhân:
Muốn nói tốt Tiếng Anh phải thuộc nhiều từ, đối với học sinh tiểu học
việc tìm tòi, tham khảo sách báo, trên internet, ti vi còn hạn chế. Vì vậy tôi yêu
cầu học sinh làm quyển từ điển theo hướng dẫn của tôi để học sinh củng cố và
nhớ lâu hơn những từ được học hay sưu tầm.
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
9
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
*Thực hiện:
Vào tuần thứ hai của đầu năm học, tôi yêu cầu mỗi học sinh chuẩn bị một
quyển sổ tay bỏ túi để viết lại tất cả các từ đã học. Yêu cầu học sinh sắp xếp và
viết theo chủ đề (chủ đề về đồ vật, con vật, màu sắc, thời tiết,….)
Tôi hướng dẫn học sinh thực hiện như sau: chia quyển sổ tay thành nhiều
chủ đề để các em thuận tiện hơn khi sử dụng. Tiếp theo chia trang vở làm hai
phần một bên viết từ Tiếng Anh bên kia viết nghĩa Tiếng Việt.
Ví dụ:
Chủ đề về đồ vật
English
Vietnamese
ruler
** aa ruler
1 cây thước
pen
** aa pen
1 cây bút mực
* *a adesk
desk
1 cái bàn học
* an
eraser
* an
eraser
1 cục tẩy
…………………….
Để quyển từ điển thêm phong phú tôi hướng dẫn học sinh tự vẽ hoặc sưu
tầm hình ảnh để minh hoạ nghĩa Tiếng Việt.
Ví dụ:
Chủ đề về tự nhiên
English
* a tree
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
Vietnamese
10
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
* trees
* a cloud
* clouds
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
11
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
* a flower
* flowers
Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm tôi thấy tỉ lệ học sinh mạnh dạn,
tự tin trong giao tiếp có tăng, số lượng học sinh nói nhỏ, lí nhí, rụt rè trong giao
tiếp có giảm. Tuy nhiên ,tôi vẫn chưa hài lòng vì tỉ lệ học sinh nói chưa lưu loát,
chưa chú ý nhiều về ngữ điệu còn quá cao. Từ đây tôi tiếp tục nghiên cứu và tìm
tòi thêm một số biện pháp khác nhằm cải thiện tỉ lệ học sinh yếu xuống thấp
nhất. Tôi đã bổ sung thêm một số biện pháp khác, các bước tiến hành như sau:
2.3 Một số biện pháp khác:
a/ Phân hoá đối tượng học sinh và chia nhóm rèn luyện kỹ năng giao
tiếp:
Một điều thiếu sót khi tôi áp dụng những biện pháp trên là chưa phân hoá
đối tượng học sinh, đây là một điều cần thiết. Khi phân định rõ đối tượng thì giáo
viên sẽ bao quát lớp tốt hơn, nắm rõ số lượng học sinh nói chưa lưu loát nhiều hay
ít của từng lớp. Từ đó sử dụng phương pháp dạy phù hợp để đạt hiệu quả cao.
* Thực hiện:
Bắt đầu vào năm học 2015-2016 sau ba tuần học tôi có thể phân loại
nhóm học sinh nói lưu loát, chưa lưu loát và nhóm nói không to, phát âm sai.
Tôi chia lớp thành nhiều nhóm (mỗi nhóm từ bốn đến năm học sinh) để cùng
nhau học tập. Trong nhóm có từ hai đến ba học sinh thuộc dạng nói to rõ,chú ý
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
12
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
cách phát âm, những em này được phân công làm nhóm trưởng và nhóm phó để
điều hành nhóm hoạt động và có nhiệm vụ giúp đỡ những bạn nói chưa lưu loát,
phát âm sai từ.
Mỗi nhóm được đặt cho một cái tên như : “ Blue sky”, “Lion”, “Green
grass”, “ Tiger”,….để tạo sự mới lạ, hấp dẫn cho học sinh.
Nhóm hoạt động vào đầu mỗi buổi học có tiết Anh Văn. Chỉ hoạt động từ
5 phút đến 10 phút để cùng nhau học Tiếng Anh. Lúc đầu các em chỉ có thể nói
một vài câu đơn giản như “Hello. What’s your name? How are you? I’m fine,
thank you….”
Qua những bài học tiếp theo số lượng từ vựng và mẫu câu tăng dần từ đó
học sinh nói được nhiều và nội dung phong phú hơn.
Ví dụ:
Vy : Hello, Nam.
Nam : Hi, Vy . What’s the matter ?
Vy : I’m tired.
Nam : Do you want milk ?
Vy : Yes, I do.
Nam : Here you are !
Vy : Thank you.
Nam : You’re welcome.
…………….
Vào cuối mỗi tiết học tôi dành từ ba đến năm phút ở phần mở rộng bài
học để kiểm tra từ 1 đến 2 nhóm. Các nhóm sẽ trình bày lại những gì đã thực
hành ở đầu giờ học. Nhóm nào thực hành tốt sẽ được thưởng, phần thưởng là
những viên kẹo hay vài chiếc bánh để khích lệ tinh thần các em. Đối với học
sinh yếu có tiến bộ tôi thưởng cho các em đồ dùng học tập như: viết, thước, vở,
…còn các nhóm trưởng và nhóm phó của nhóm có bạn yếu tiến bộ cũng được
nhận phần quà.
Hoạt động nhóm mục đích giúp cho những học sinh yếu khắc phục tính
rụt rè, sợ sệt và mặc cảm khi không nói được Tiếng Anh như các bạn. Thầy cô
không có nhiều thời gian để gần gũi và giúp đỡ các em, thông qua hoạt động
nhóm bạn sẽ là người hỗ trợ có hiệu quả nhất “Học thầy không tày học bạn”.
b/ Khuyến khích học sinh tập hát nhiều bài hát Tiếng Anh:
Muốn học giỏi Tiếng Anh điều đầu tiên ta phải làm thế nào cho trẻ em
yêu thích nó. Âm nhạc chính là cầu nối sẽ giúp các em đến gần môn học này
hơn để thấy rằng Tiếng Anh thật thú vị và bổ ích.
* Thực hiện:
Ngoài những bài hát trong chương trình học tôi còn sưu tầm trên internet,
băng, đĩa một số bài phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi để dạy các em. Lứa tuổi học
sinh tiểu học rất năng động và thích hát, những bài có tiết tấu vui nhộn càng làm
các em thích thú. Thông qua đây học sinh sẽ chăm học Tiếng Anh hơn.
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
13
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
Giáo viên cần giải thích ý nghĩa, nội dung bài hát để học sinh hiểu, cảm
thụ bài hát. Từ đó các em có hứng thú và hát hay hơn.
Học sinh hát tập thể, nhóm và có thể cho các em tự chọn bạn hát chung
với mình.
Khi dạy bài hát mới tôi lồng ghép vào tiết làm bài tập tại lớp vừa giảm bớt
căng thẳng vừa cung cấp thêm nhiều bài hát cho học sinh.
3. Kết quả:
Sau khi tôi áp dụng những biện pháp trên vào năm học 2015- 2016 cho
khối lớp 3-4-5 . Qua thống kê và so sánh kết quả học tập của học sinh nhận
thấy chất lượng được nâng cao so với năm học trước. Hơn nữa học sinh cũng
biết sử dụng một số câu Tiếng Anh thông thường để ứng dụng vào các bài đàm
thoại và tự tin hơn khi phát biểu trước lớp.
Hơn nữa, tôi thấy tiết dạy của mình không còn nhàm chán mỗi khi lên
lớp. Không khí lớp học sinh động hơn, học sinh hưng phấn và thích nói Tiếng
Anh nhiều hơn và thường yêu cầu tôi mở rộng thêm một số câu Tiếng Anh sử
dụng trong giao tiếp. Đây là một bước phát triển tốt .
Học sinh không còn lo sợ đến giờ học Tiếng Anh như trước thay vào đó là
tâm trạng trông chờ đến tiết học.
Sau đây là kết quả theo từng năm học của khối 3,4 và khối 5 tôi phụ
trách:
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HỌC SINH HOÀN THÀNH
PHẦN KỸ NĂNG GIAO TIẾP
KHỐI
TỔNG SỐ
HS
MÔN TIẾNG ANH
(Cuối học kì I năm học 2015-2016)
HOÀN THÀNH
CHƯA HOÀN THÀNH
SL
%
SL
%
3
4
5
77
75
97,4
2
2,6
82
81
98,7
1
1,2
86
85
98,8
1
1,1
So sánh kết quả năm học chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm và những
năm học có áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Từ kết quả trên cho chúng ta thấy rõ nếu giáo viên có đầu tư tốt vào
giảng dạy, biết áp dụng mọi phương pháp phù hợp với năng lực của từng học
sinh, phù hợp với tình hình chung của mỗi khối lớp thì chúng ta sẽ gặt hái được
chất lượng và hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó tạo được tình cảm tốt “giữa thầy
và trò”, “giữa trò và trò”, học sinh cảm thấy yêu thích môn học mà mình phụ
trách. Để từ đó các em học tốt hơn, giao tiếp Tiếng Anh tốt hơn và tạo nền tảng
cho sự phát triển sau này.
PHẦN KẾT LUẬN
III. KẾT LUẬN
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
14
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
1. Tóm lược giải pháp:
Để kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh của học sinh tiểu học đạt hiệu quả cao
giáo viên cần thường xuyên thay đổi hình thức tổ chức lớp học phong phú đa
dạng, sử dụng phương pháp dạy phù hợp với từng khối, lớp, đối tượng học sinh.
Nhiệm vụ truyền đạt kiến thức không ngoài khả năng của một giáo viên
nào cả. Nếu giáo viên có lòng quyết tâm, yêu nghề, mến trẻ, kiên trì, nhẫn nại,
uốn nắn các em ở mọi lúc mọi nơi nhất là đối với học sinh yếu kỹ năng giao tiếp
Tiếng Anh. Bản thân luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, có làm tốt
nhiệm vụ này là chúng ta đã góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong nhà
trường.
Bản thân tôi nhận ra rằng giữa thầy và trò không nên có khoảng cách mà
chúng ta phải tạo cho các em cảm giác gần gũi để xem người thầy của mình
cũng là một người bạn. Từ đó học sinh sẽ tự nhiên để tự tin phát triển tốt khả
năng giao tiếp không chỉ đối với môn Tiếng Anh mà cả về phong cách bản thân.
2. Phạm vi áp dụng:
Có thể áp dụng cho việc giảng dạy Tiếng Anh từ cấp tiểu học trở lên và
cho trẻ em nói chung vì hiện nay việc tiếp cận ngoại ngữ càng sớm càng tốt là
xu hướng chung của toàn thế giới.
a.Nguyên nhân thành công:
Để đạt được những thành quả trên. Bản thân người giáo viên luôn nhận
thức được trách nhiệm của mình. Tìm mọi biện pháp để rèn luyện từng đối
tượng học sinh, kích thích các em có hứng thú trong việc học ngoại ngữ ngay từ
đầu. Làm được việc này chúng ta đã rèn luyện cho các em có thói quen tốt học
ngoại ngữ.
Trong bất cứ nghề nghiệp hay công việc gì cũng đòi hỏi người làm phải
có cái tâm và niềm đam mê. Có được điều này chắc chắn chúng ta sẽ thành
công.
Bên cạnh được tham gia những lần tập huấn phương pháp dạy do Sở
Giáo Dục và Đào Tạo tổ chức, được sự hướng dẫn trực tiếp của một số giáo
viên nước ngoài tôi học hỏi được rất nhiều ở họ từ phong thái đứng lớp, đến
cách sử dụng một số phương pháp giảng dạy một cách tự nhiên, nhẹ nhàng
nhưng đạt hiệu quả cao.
Được sự hỗ trợ tích cực từ Ban giám hiệu và giáo viên chủ nhiệm luôn
đôn đốc khích lệ tinh thần của học sinh.
Bên cạnh đó, cũng còn có phụ huynh học sinh có quan tâm đến việc học
của con em mình, vì vậy luôn tạo điều kiện tốt cho các em trong học tập.
b. Tồn tại:
Học sinh:
Còn một số bộ phận học sinh thiếu tự tin khi nói Tiếng Anh trước lớp.
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
15
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
Mỗi tuần chỉ được học bốn tiết không đủ thời gian để học sinh phát triển
tốt kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh.
Vì là môn học tự chọn nên một số học sinh chưa chú trọng nhiều đến môn
Anh Văn.
Giáo viên:
Hiện nay một số bộ sách biên soạn cho học sinh cấp tiểu học nội dung khá
dài giáo viên truyền tải kiến thức trong một tiết chỉ 40 phút không đủ. Do đó
thời gian phát triển kỹ năng nói cho học sinh chưa nhiều.
Một số giáo viên dạy ngoại ngữ chưa thực sự sử dụng Tiếng Anh trong
lớp học, bản thân chưa nói được lưu loát Tiếng Anh. Vẫn còn giáo viên phát âm
từ, và ngữ điệu câu sai.
Phần lớn giáo viên dạy Tiếng Anh tiểu học không biết hát nên khi hướng
dẫn gặp phải khó khăn và hát chưa đúng giai điệu, tiết tấu nhạc.
Giáo viên phải tự lo kinh phí làm đồ dùng dạy học .
Về phía nhà trường và phụ huynh học sinh:
Môn Anh Văn là môn học tự chọn chưa đưa vào môn học chính cấp tiểu
học nên Ban giám hiệu một số trường còn thiếu sự quan tâm, giúp đỡ cho giáo
viên bộ môn
Phụ huynh học sinh một số em chưa có nhận thức tốt môn học này do
quan niệm “Tiếng Việt nói chưa xong mà học Tiếng Anh”. Vì vậy thiếu sự quan
tâm sâu sắc đến con em trong việc học ngoại ngữ.
c. Những bài học kinh nghiệm:
Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh biết cách nói lưu loát, chú ý nhiều
về ngữ điệu khi nói .
Phải đầu tư cho bài dạy của mình trước khi lên lớp.
Phải có lòng yêu trẻ và nhiệt tình học hỏi trau dồi kinh nghiệm với các
bạn đồng nghiệp và qua sách báo.
Trong giờ học tại lớp giáo viên truyền đạt kiến thức cho học sinh một
cách tự nhiên và sinh động. Bằng cách sử dụng lời nói, cử chỉ kết hợp với đồ
dùng dạy học mới lạ,… để thu hút sự tập trung của các em. Chính điều này giúp
cho học sinh tiếp thu bài nhanh và nhớ lâu.
Giáo viên khuyến khích học sinh mạnh dạn phát biểu trong giờ học. Khi
học sinh phát âm sai giáo viên nhẹ nhàng sửa lỗi, không cáu gắt, khó chịu,
không dồn ép kiến thức khi các em căng thẳng.
Giới thiệu, tuyên dương, khen thưởng những học sinh có tiến bộ trong học
tập cũng như biết giúp đỡ bạn cùng tiến.
Sửa chữa kịp thời những sai sót của học sinh, động viên giúp đỡ những
em nói chưa tốt.
Bản thân giáo viên phải tự rèn luyện nâng cao tay nghề để truyền đạt kiến
thức cho các em ngày càng phong phú hơn.
3. Kiến nghị:
Đây là một vài ý kiến nhỏ của tôi về việc phát triển kỹ năng giao tiếp
Tiếng Anh ở ở khối lớp 3-4-5 trường Tiểu Nguyễn Thị Hạnh năm học 2015GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
16
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
2016 và đạt kết quả chuyển biến rõ rệt . Đó cũng là ý kiến chủ quan của cá nhân
tôi nên không tránh khỏi những hạn chế . Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến,
trao đổi từ đồng chí, đồng nghiệp và các chuyên viên viên để bản thân tôi ngày
một tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn và đề tài đạt hiệu quả cao nhất góp phần vào
công cuộc giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, để tiếng Nước Ngoài đến gần với các
em, thâm nhập vào cuộc sống và trở thành công cụ giao tiếp hữu hiệu và đắc lực
. Qua đó, tích lũy được thêm nhiều kinh nghiệm giảng dạy và nghệ thuật dạy
học đạt kết quả cao nhất đáp ứng được yêu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện
nay . Đó phải chăng là chúng ta đã thực hiện được cái gọi là “ Giáo dục kỹ thuật
tổng hợp, đào tạo nhưng con người toàn diện, có ích cho xã hội”.
Xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học và tất
cả quý thầy cô. Chúc sức khoẻ và thành công !
NGƯỜI VIẾT
Huỳnh Thị Thu Trang
TÀI LIỆU THAM KHẢO
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
17
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
1. The Grammar in use.
2. Teaching Grammar and Vocabulary.
3. Teaching English.
4. Let’s Learn English Book 1
5 Method of Teaching English Grammar
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
18
Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016
Trường TH Nguyễn Thị Hạnh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọ đề tài.......................................................
1
1. Đặt vấn đề .............................................................
1
2. Mục đích đề tài.........................................................
2
3. Lịch sử đề tài ............................................................
2
4. Phạm vi đề tài. ........................................................
3
PHẦN NỘI DUNG
II. Nội dung
3
1 . Thực trạng đề tài ...................................................
3-4
2. Nội dung và biện pháp giải quyết ..........................
5-13
3. Kết quả......................................................................
13
PHẦN KẾT LUẬN
III. Kết Luận
14
1. Tóm lược giải pháp ..................................................
14
2. Phạm vi và đối tượng áp dụng ..............................
14-15
3. Kiến nghị, đề xuất ....................................................
16
GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang
19