1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
LƯƠNG QUANG ANH
NGHIÊN CỨU BÀO CHẾ VÀ ĐÁNH GIÁ
SINH KHẢ DỤNG VIÊN NANG CHỨA PELLET
LANSOPRAZOL BAO TAN Ở RUỘT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ DƯỢC HỌC
2
HÀ NỘI 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
LƯƠNG QUANG ANH
NGHIÊN CỨU BÀO CHẾ VÀ ĐÁNH GIÁ
SINH KHẢ DỤNG VIÊN NANG CHỨA PELLET
LANSOPRAZOL BAO TAN Ở RUỘT
Chuyên ngành : Công nghệ Dược phẩm và Bào chế thuốc
Mã số : 9720202
LUẬN ÁN TIẾN SĨ DƯỢC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chiến
2. PGS.TS. Nguyễn Đăng Hòa
3
HÀ NỘI 2019
ĐẶT VẤN ĐỀ
Loét dạ dày tá tràng là một bệnh lý phổ biến trên thế giới và Việt
Nam với tỷ lệ bệnh nhân mắc tương đối cao (từ 5 10 % dân số). Theo
những thống kê gần đây, khoảng 5,6 % dân số miền Bắc Việt Nam có triệu
chứng của bệnh. Bệnh thường gặp ở tuổi thanh niên và trung niên [1]. Các
nguyên nhân chính gây bệnh là yếu tố tâm lý, rối loạn vận động cơ quan
tiêu hoá, sử dụng một số thuốc cũng như thuốc lá, rượu bia và vi khuẩn
Helicobacter pylori.
Nhóm thuốc ức chế bơm proton được sử dụng phổ biến để điều trị
loét dạ dày tá tràng, trong đó lansoprazol thường được kết hợp với các
thuốc khác trong phác đồ điều trị loét dạ dày tá tràng mang lại hiệu quả
cao. Thuộc nhóm II trong hệ thống phân loại sinh dược học, lansoprazol là
dược chất ít tan nên khi dùng theo đường uống thì sinh khả dụng bị ảnh
hưởng bởi tốc độ và độ hoà tan dược chất từ dạng thuốc. Hơn nữa,
lansoprazol rất nhạy cảm với nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, dễ bị phân hủy
trong môi trường acid dịch vị và kém bền nhất trong nhóm thuốc ức chế
bơm proton nên gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình bào chế cũng như
đảm bảo độ ổn định của chế phẩm [2]. Các nghiên cứu trên thế giới vẫn
đang được tiến hành để tiếp tục nâng cao độ ổn định, độ hòa tan của
lansoprazol trong các dạng bào chế bằng nhiều phương pháp khác nhau,
đồng thời ứng dụng đa dạng các loại tá dược nhằm tối ưu mục tiêu trên.
Để nâng cao sinh khả dụng của thuốc thì các biệt dược lansoprazol
chủ yếu được bào chế dưới dạng nang cứng chứa pellet bao tan ở ruột với
4
nhiều ưu điểm. Sau khi uống, nang cứng sẽ hoà tan vỏ và giải phóng ra các
pellet ở dạ dày. Pellet là những hạt nhỏ hình cầu nên chúng dễ dàng đi qua
môn vị để xuống ruột non khá đều đặn, tại đó pellet bao tan ở ruột giải
phóng dược chất để phát huy tác dụng điều trị. Do pellet có diện tích tiếp
xúc với bề mặt hấp thu lớn nên đảm bảo cho thuốc có sinh khả dụng cao
và ổn định. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước vẫn chưa sản xuất
được và phải nhập khẩu pellet lansoprazol đã bao tan ở ruột để đóng nang
cứng. Điều này cho thấy việc sản xuất chế phẩm này phụ thuộc hoàn toàn
vào nhà sản xuất pellet lansoprazol ở nước ngoài. Ở Việt Nam, cho đến
nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về bào chế và đánh
giá sinh khả dụng của viên nang chứa pellet lansoprazol bao tan ở ruột được
công bố.
Hiện nay, Dược điển Mỹ đã có chuyên luận về viên nang chứa pellet
lansoprazol 30 mg bao tan ở ruột. Trong khi đó, yêu cầu chủ động về công
nghệ bào chế và sản xuất được chế phẩm này ở nước ta là cần thiết để
góp phần phát triển nền công nghiệp dược trong nước. Vì vậy đề tài:
“Nghiên cứu bào chế và đánh giá sinh khả dụng viên nang chứa pellet
lansoprazol bao tan ở ruột” được tiến hành với các mục tiêu như sau:
1. Bào chế được viên nang chứa pellet lansoprazol 30 mg bao tan ở
ruột đáp ứng tiêu chuẩn của Dược điển Mỹ về độ hòa tan ở quy mô phòng
thí nghiệm.
2. Đề xuất được tiêu chuẩn cơ sở và đánh giá độ ổn định viên nang
chứa pellet lansoprazol 30 mg bao tan ở ruột.
3. Đánh giá được sinh khả dụng của viên nang chứa pellet
lansoprazol 30 mg bao tan ở ruột so với viên đối chiếu trên động vật thực
nghiệm.
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. VÀI NÉT VỀ LANSOPRAZOL
1.1.1. Công thức và tính chất
Lansoprazol (LPZ) là một thuốc điều trị loét dạ dày tá tràng thuộc
nhóm ức chế bơm proton, về bản chất là dẫn xuất benzimidazol có tên
khoa học: 2[[[3methyl4(2,2,2trifluoroethoxy)2pyridyl]methyl]sulfinyl]
1Hbenzimidazol. Công thức phân tử là C16H14F3N3O2S, khối lượng 369,36
[3].
Hình 1.1. Công thức cấu tạo của LPZ
* Nguồn: theo Jain K.S. (2007) [4]
LPZ ở dạng bột kết tinh trắng đến trắng hơi nâu, không mùi. Thực
tế không tan trong nước, khó tan trong nhexan, ether, ethyl acetat,
6
acetonitril, dicloromethan, dễ tan trong dimethylformamid, tan trong
methanol, hơi tan trong ethanol. Độ tan của LPZ trong một số dung môi hữu
cơ như aceton, isopropyl alcol, npropanol, isobutyl acetat, nbutanol tăng lên
khi nhiệt độ tăng [5]. Nhiệt độ nóng chảy từ 178 182ºC [6]. LPZ là một
chất lưỡng tính với pKa= 4,15 (do nguyên tố N của nhân pyridin), 8,84 và
1,33 (do nhóm NH của nhân benzimidazol) [7].
Bảng 1.1. Độ tan của LPZ trong nước và trong đệm phosphat pH 6,8 (n=3)
Môi trường
Nước (250C )
Độ tan (μg/ml) (%) ± SD
34,478 ± 0,413 (18 giờ)
33,571 ± 5,46 (24 giờ)
pH 6,8 (370C)
44,162 ± 8,259 (24 giờ)
43,892 ± 1,46 (32 giờ)
* Nguồn: theo Pasic M. (2008) [8]
Theo Kristi A. và Vrecer F. thì độ tan của LPZ tăng khi pH môi
trường tăng. LPZ bị phân ly ở pH 9,0 và không bị phân ly ở các pH trung
tính dưới 9,0 [9]. Thử nghiệm của Wu C. và cộng sự cũng cho kết luận
tương tự về độ tan của LPZ liên quan đến pH môi trường, độ tan của LPZ
cao nhất ở pH 9,0 là 1291,5 µg/ml, thấp nhất ở pH 3,0 và tăng dần khi thử ở
pH 5,0; 7,0; 9,0. Tuy nhiên, ở pH 11,0 thì độ tan LPZ lại giảm đi chỉ còn
33,5 µg/ml [10].
1.1.2. Độ ổn định của lansoprazol
Các thuốc ức chế bơm proton (bao gồm cả LPZ) có cấu trúc
benzimidazol vừa có tính acid (do hiệu ứng của nhóm sulfonyl), vừa có tính
base (do nitơ trong nhân pyridin). Cấu trúc phân tử có chứa nhân pyridin và
nhóm sulfoxyd làm cho các thuốc trong nhóm dễ bị oxy hóa, đặc biệt khi ở
pH thấp như môi trường acid dạ dày và cũng chịu ảnh hưởng dưới tác
động của ánh sáng, nhiệt độ và độ ẩm cao.
7
LPZ rất không bền dưới tác động của độ ẩm, nhiệt độ và ánh sáng.
Vì vậy Dược điển My 35 quy đ
̃
ịnh bảo quản LPZ trong bao bì kín, tránh
ánh sáng và nhiệt độ cao. Đồng thời cho phép hàm ẩm đối với nguyên liệu
rất thấp, dưới 0,1 % và quy định tổng tỷ lệ các tạp chất so với dược chất
không quá 0,6 % [11]. Do đặc tính không ổn định với nhiệt và ẩm đây là
hai yếu tố thường xuyên tác động trong quá trình bào chế các dạng thuốc
rắn nên việc bào chế pellet LPZ rất khó đảm bảo độ ổn định của dược
chất ngay trong quá trình bào chế.
Trong nhóm thuốc ức chế bơm proton, LPZ là chất có tính ổn định
rất thấp [2]. Dạng hỗn dịch ở 220C, OPZ ổn định trong 14 ngày trong khi
LPZ chỉ ổn định được 8 giờ. Ở nhiệt độ 40C thì LPZ cũng ổn định được
trong 14 ngày trong khi của OPZ là 45 ngày [12].
Trong môi trường nước ở 370C thì OPZ mặc dù có thời gian bán hủy
ở pH dưới 4,0 rất thấp (10 phút) nhưng ở pH 6,0 8,0 thì thời gian bán hủy
tăng lên là 18 giờ, ở pH 11,0 thời gian bán hủy lên tới 300 ngày [13]. Thời
gian bán hủy của PPZ là 2,8 giờ ở pH 5,0 và 220 giờ ở pH 7,8. Khảo sát độ
ổn định của OPZ, LPZ, PPZ trong các dung dịch muối ở pH 4,0, 5,0 và 6,0
nhận thấy độ ổn định của các chất này được xếp theo thứ tự: đệm
phosphat < trinatri citrat ≤ đệm citrat ≤ đệm acetat < acid citric ≤ calci
carbonat < natri bicarbonat < natri clorid < nước, trong đó PPZ có độ ổn định
cao hơn OPZ và LPZ [14].
Thời gian phân hủy của các thuốc ức chế bơm proton trong môi
trường nước ở 370C cho thấy LPZ là chất có thời gian phân hủy ngắn nhất,
sau đó là OPZ, còn PPZ có thời gian phân hủy dài nhất ở pH 2,0 và 7,0 [15].
Bảng 1.2. Thời gian phân hủy của các thuốc ức chế bơm proton
trong môi trường nước ở 370C
8
Môi trường
Lansoprazol
Omeprazol
Pantoprazol
nước
pH 2,0
pH 7,0
85 giây
13 giờ
105 giây
23 giờ
195 giây
39 giờ
* Nguồn: theo Pilbrant Å. (1993) [15]
Trong dung dịch methanol đệm phosphat (5:95) pH 3,0 thì thời gian
phân hủy của LPZ là 4 phút. Ở nhiệt độ 250C thì thời gian phân hủy của
LPZ ở pH 5,0 là 30 phút, tăng lên là 18 giờ ở pH 7,0. Trong môi trường
nước thì trên 80 % LPZ bị phân hủy sau 72 giờ nếu có ánh sáng nhưng nếu
để trong bóng tối thì lượng LPZ bị phân hủy giảm xuống còn 40 %, nếu ở
môi trường kiềm pH 7,0 và 9,0 trong bóng tối thì LPZ ổn định sau 72 giờ
[8]. Ở điều kiện pH 4,0 trong bóng tối thì LPZ bị phân huỷ tới 50 % [16].
Radi A. sử dụng phương pháp điện phân để đánh giá độ ổn định của
LPZ trong môi trường có pH thay đổi từ 2,0 đến 8,0. Kết quả nghiên cứu
nhận thấy ở pH 2,0 thì LPZ phân hủy chỉ sau 15 phút. Thời gian này tăng
lên là 24 phút ở pH 3,0; 86 phút ở pH 4,0; 18 giờ ở pH 6,0 và 34 giờ ở pH
8,0 [17].
Theo Tabata T. và cộng sự, LPZ không ổn định ở nhiệt độ và độ ẩm
cao khi ở trạng thái rắn. Sự biến đổi được mô tả như sau: Ở thời điểm ban
đầu thì LPZ có màu trắng hơi vàng với hàm lượng là 100 %, sau 4 phút ở
nhiệt độ 400C ở điều kiện độ ẩm thông thường và độ ẩm 75 % thì LPZ
chuyển màu nâu vàng nhạt tới nâu nhạt với hàm lượng chỉ còn lần lượt là
99,1 % và 94,7 %, sau 3 phút ở 300C thì hàm lượng chỉ còn 95,2 % (LPZ
chuyển màu nâu vàng), thử nghiệm tiếp tục ở nhiệt độ 600C sau 3 phút thì
dược chất ngả màu nâu đen sẫm với hàm lượng sụt giảm rất mạnh (chỉ
còn 65,5 %) [18].
9
Các phản ứng phân hủy dược chất (như LPZ) thường được xúc tác
bởi ánh sáng. Khi tiếp xúc với bức xạ điện từ, dược chất sẽ hấp thụ bước
sóng đặc trưng và làm cho tốc độ phân hủy tăng lên. Sự phân hủy bởi ánh
sáng phụ thuộc vào độ dài và cường độ của sóng ánh sáng cùng với phản
ứng oxy hóa khử làm biến đổi màu sắc của dược chất (là biểu hiện rõ rệt
của sự phân hủy).
Để tăng độ ổn định của LPZ, bảo vệ dược chất tránh bị phân hủy
bởi các tác nhân (ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, acid dịch vị) và đảm bảo hiệu
quả điều trị, các chế phẩm của LPZ thường được bào chế dưới dạng hạt
hoặc pellet được bao kháng dịch vị rồi tiến hành đóng nang cứng hoặc dập
viên. Trong công thức bào chế nên sử dụng dược chất có độ tinh khiết cao,
các tá dược tương hợp với dược chất trong đó đáng chú ý là vai trò của tá
dược kiềm giúp LPZ ổn định hơn khi tiếp xúc với môi trường acid, dung
môi bào chế cũng cần tương hợp với dược chất nếu được sử dụng theo
từng phương pháp bào chế cụ thể (ví dụ: Phương pháp bồi dần, phương
pháp phun sấy...). Phương pháp và quy trình bào chế hạt hoặc pellet LPZ
cần hạn chế sự tiếp xúc giữa dược chất với nhiệt độ, độ ẩm cao và môi
trường acid. Bên cạnh đó, cần phải sử dụng các màng bao bảo vệ cũng như
màng bao tan ở ruột để hạn chế sự tiếp xúc của LPZ với các tác nhân gây
mất ổn định. Việc đóng nang hay sử dụng những vật liệu bao gói phù hợp
(như nang cứng ép vỉ nhôm nhôm) cũng cần thiết để tăng độ ổn định của
dạng bào chế chứa LPZ.
1.1.3. Dược động học
LPZ hấp thu nhanh, nồng độ tối đa trung bình đạt được trong khoảng
1,2 2,1 giờ sau khi uống, sinh khả dụng tuyệt đối trên 80 % [19], [20]. Cả
nồng độ thuốc tối đa và diện tích dưới đường cong (AUC) đều giảm
10
khoảng 50 % nếu dùng thuốc sau khi ăn 30 phút nhưng không bị ảnh hưởng
nếu dùng thuốc trước khi ăn [3], [21].
Bảng 1.3. Dược động học của các thuốc trong nhóm ức chế bơm proton
dùng theo đường uống
Thông số
Esome
Lanso
Ome
Panto
Rabe
prazol
prazol
prazol
prazol
prazol
Sinh khả dụng
50 80
80 90
25 40
77
52
tuyệt đối (%)
Thời gian đạt Cmax (giờ)
T1/2 (giờ)
Liên kết protein (%)
Chuyển hóa qua gan
Thải trừ qua nước tiểu
1 3,5
0,8 1,3
95
Có
Không
1,2 2,1
0,9 2,1
97
Có
Không
1 6
0,5 1,2
95
Có
Không
2 4
0,8 2
98
Có
Không
3 5
0,6 1,4
96
Có
Không
đáng kể
đáng kể
đáng kể
đáng kể
đáng kể
* Nguồn: theo Shi S. (2008) [20]
LPZ liên kết với protein huyết tương khoảng 97 %. LPZ được
chuyển hóa nhiều ở gan nhờ hệ enzym CYP (CYP3A4 và CYP2C19) để
thành 2 chất chuyển hóa chính là sulfon LPZ và hydroxy LPZ [3], [22]. Các
chất chuyển hóa không có hoặc có rất ít tác dụng chống tiết acid. Khoảng
20 % thuốc được bài tiết qua mật và nước tiểu.
Thời gian bán thải của thuốc là 1,5 (± 1,0) giờ. Thải trừ LPZ bị kéo
dài ở người suy gan nặng nhưng không thay đổi ở người bị suy thận nặng.
Do đó phải giảm liều đối với người bị bệnh gan nặng [3].
1.1.4. Tác dụng dược lý và một số dạng bào chế
1.1.4.1. Tác dụng dược lý
Cơ chế tác dụng: LPZ liên kết không thuận nghịch với H+/K+
ATPase trên bề mặt tế bào thành dạ dày, do đó ức chế sự vận chuyển cuối
11
cùng các ion hydrogen vào trong dạ dày. LPZ ức chế bài tiết acid dạ dày do
bất kì nguyên nhân nào [3].
Liều lượng và chỉ định:
+ Điều trị cấp viêm thực quản có trợt loét ở người bị trào ngược dạ
dày thực quản: người lớn dùng 30 mg/lần/ngày trong 4 8 tuần, có thể
thêm 8 tuần nữa nếu chưa khỏi. Điều trị duy trì để giảm tái phát: người lớn
15 mg/ngày.
+ Điều trị loét dạ dày tá tràng cấp: 15 30 mg/lần/ngày trong 4 8
tuần hoặc đến khi khỏi. Dùng phối hợp với amoxicilin và clarithromycin
trong điều trị nhiễm Helicobater pylori ở người loét dạ dày tá tràng thể
hoạt động [3], [23]. Có thể sử dụng LPZ để dự phòng loét dạ dày tá tràng
do các thuốc chống viêm không steroid gây ra [24], [25]. Theo Liu M.K. và
cộng sự, tác dụng diệt trừ Helicobacter pylori của LPZ tương đương với
RPZ trên bệnh nhân loét dạ dày tá tràng có nhiễm vi khuẩn này [26].
+ Điều trị các chứng tăng tiết acid bệnh lý như hội chứng Zollinger
Ellison, u đa tuyến nội tiết, tăng dưỡng bào hệ thống: người lớn bắt đầu từ
60 mg/lần/ngày, uống vào buổi sáng trước ăn, sau điều chỉnh liều cho phù
hợp mức độ hấp thu và cần thiết để đạt hiệu quả lâm sàng. Các lần sau
cần khoảng 30 180 mg hàng ngày, liều trên 120 mg thì nên chia làm 2 lần.
Cần giảm liều cho bệnh nhân mắc bệnh gan nặng, thường không quá 30
mg/ngày [3].
Alarcon T. và cộng sự so sánh tác dụng kháng Helicobacter pylori
được phân lập từ các mẫu sinh thiết lâm sàng của một số thuốc điều trị
loét dạ dày tá tràng nhận thấy LPZ là chất có tác dụng mạnh nhất trong
nhóm nghiên cứu bao gồm OPZ, ranitidin, ebrotidin và bismuth citrat [27].
12
Florent Ch. đánh giá tác dụng điều trị trên lâm sàng của LPZ so với
một số thuốc điều trị loét dạ dày tá tràng khác nhận thấy hiệu quả liền vết
loét của LPZ 30 mg nhanh và hiệu quả hơn OPZ 20 mg. Chỉ với liều 15 mg
thì LPZ có tác dụng giảm tiết acid dịch vị cũng mạnh so với OPZ 20 mg. So
sánh chỉ số pH dạ dày sau điều trị cho thấy tác dụng làm tăng pH dạ dày
của LPZ 30 mg cao hơn so với OPZ 30 mg và PPZ 40 mg. Thử nghiệm liều
cao LPZ để điều trị hội chứng Zollinger Ellison cho kết quả tốt [28].
Theo Houcke Ph. và cộng sự sử dụng LPZ với liều 15 mg và 30 mg
để phòng ngừa sự tái phát bệnh trào ngược dạ dày thực quản cho kết quả
điều trị tương đương [29].
LPZ có mặt trong hai trên sáu phác đồ điều trị nhiễm Helicobacter
pylori được FDA chấp thuận [30]. LPZ khi dùng đường uống dạng viên
nang có thể nâng giá trị pH trên 4,0 trong vòng 130 phút [31]. LPZ không
bền trong môi trường acid vì vậy nên uống trước khi ăn và không cắn vỡ
hoặc nhai viên [3]. Agnihotri N. và cộng sự cũng nhận thấy LPZ còn có tác
dụng bảo vệ gan và chống stress oxy hóa do làm giảm nồng độ MDA, làm
tăng hoạt độ SOD, catalase, GSH, GST và glutathion reductase ở niêm mạc
dạ dày và gan của chuột cống trắng [32]. Một nghiên cứu mới của Azzarito
T. và cộng sự đã chứng minh LPZ làm tăng tác dụng của paclitaxel trên tế
bào ung thư có khả năng di căn [33].
Tác dụng không mong muốn (ADR): Thường gặp nhất là ở đường
tiêu hóa như ỉa chảy, đau bụng, ngoài ra còn có thể gặp đau đầu, chóng
mặt, phát ban (ADR > 1/100). Các triệu chứng ít gặp như mệt mỏi, tăng
mức gastrin huyết thanh, enzym gan, hematocrit, hemoglobin, acid uric và
protein niệu (1/1000 < ADR < 1/100) [3].
13
Chống chỉ định: Quá mẫn cảm với LPZ hoặc các thành phần khác
của thuốc, phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu. Thận trọng đối với phụ nữ
mang thai và cho con bú. Tuy nhiên, theo thông báo lâm sàng của Mayer A.
và cộng sự thì LPZ được sử dụng để điều trị hội chứng Zollinger Ellison
trong quá trình mang thai có thể cho hiệu quả tốt và an toàn [34].
Tương tác thuốc: Do ức chế enzym CYP nên LPZ làm giảm tác
dụng của ketoconazol, itraconazol và các thuốc khác hấp thu cần môi
trường acid. Sucralfat làm chậm và làm giảm hấp thu LPZ khoảng 30 % [3].
Không có tương tác dược động học giữa LPZ với phenytoin (kích thích
enzym CYP3A4) và ciprofloxacin (ức chế enzym CYP3A4) [35]. LPZ hầu
như không ảnh hưởng đến AUC của một số thuốc như diazepam,
prednison…[36]. 1.1.4.2. Một số dạng bào chế trên thị trường
LPZ có ở nhiều dạng bào chế được sử dụng trên thị trường như viên
nang, viên nén, túi hỗn dịch, dung dịch tiêm truyền tĩnh mạch [37], [38],
[39], [40]. Trong đó, phổ biến nhất vẫn là dạng viên nang hoặc viên nén
bao tan ở ruột.
Dạng viên nang 30 mg chứa pellet bao tan ở ruột có các dạng biệt
dược như Prevacid, Gastevin, Mylan, Lenzotic, IntasLan…
Dạng viên nén 30 mg bao tan ở ruột có các biệt dược như
Daewoong Lanfra, Lanvido...
Một số dạng bào chế khác như viên rã nhanh [41], [42], [43], viên
tác dụng kéo dài [44], [45], [46], viên nén rắn lỏng [47], vi cầu [48], [49],
[50], niosome [51], tiểu phân nano [52], viên giải phóng theo nhịp [53],
[54] ... đang được nghiên cứu và phát triển. Gần đây trên thế giới có chế
phẩm viên nang chứa dexlansoprazol 30 mg và 60 mg dạng hạt bao tan ở
14
ruột, dexlansoprazol là đồng phân R của LPZ có tác dụng tốt trong điều trị
trào ngược dạ dày thực quản [55], [56], [57].
1.1.5. Các phương pháp định lượng lansoprazol
1.1.5.1. Định lượng lansoprazol trong các dạng bào chế
Để định lượng LPZ trong nguyên liệu cũng như trong các dạng bào
chế thì Dược điển Mỹ quy định sử dụng phương pháp sắc kí lỏng hiệu
năng cao (HPLC) [11]. Phương pháp HPLC là phương pháp phổ biến được
sử dụng để định lượng LPZ trong các dạng bào chế [58], [59], [60], [61],
[62].
Một số tác giả cũng sử dụng phương pháp HPLC để định lượng LPZ
và các chất phân hủy của LPZ. Luo Y. và cộng sự sử dụng cột Diamonsil
C18 (250 mm x 4,6 mm; 5 µm), pha động là hỗn hợp dung dịch đệm :
acetonitril (65:35). Dung dịch đệm có chứa nước và triethylamin với tỷ lệ
60:1, điều chỉnh pH 6,2 bằng acid phosphoric. Kết quả cho thấy ở nồng độ
định lượng lansoprazol là 1 mg/ml thì giới hạn phát hiện của các chất phân
hủy khi sử dụng các test lão hóa từ 0,005 đến 0,009 µg/ml. Giới hạn định
lượng của các chất phân hủy từ 0,015 đến 0,03 µg/ml [63].
Zeinab A.E.S. và cộng sự nghiên cứu định lượng LPZ ở điều kiện có
chất phân huỷ trong môi trường acid của LPZ. Các tác giả sử dụng cột
Nova Pak C18 60A (150 mm x 3,9 mm, 4 µm), pha động là hỗn hợp kali
dihydrophosphat 0,05 M : methanol : acetonitril (5:3:2), điều chỉnh pH 7,0
bằng dung dịch kali hydroxyd. Giới hạn định lượng của phương pháp là
0,55 µg/ml. Phương pháp này có thể áp dụng được cho cả OPZ và PPZ [64].
Người ta còn định lượng LPZ bằng phương pháp quang phổ UV
VIS [65], [66], [67], sắc kí lớp mỏng hiệu năng cao (HPTLC) [68], [69], có
tác giả còn sử dụng phương pháp điện di mao quản (CE) [70], [71]. Trong
15
đó, phương pháp quang phổ UV VIS là phương pháp đơn giản nhưng có
độ chính xác tương đôi cao nên có th
́
ể sử dụng phương pháp này để định
lượng LPZ.
1.1.5.2. Định lượng lansoprazol trong dịch sinh học
Phương pháp HPLC là phương pháp định lượng LPZ trong dịch sinh
học được áp dụng trong nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới cho kết
quả có độ chính xác cao.
Bảng 1.4. Một số nghiên cứu về định lượng LPZ trong dịch sinh học
STT
1
2
3
Tác giả
Điều kiện sắc kí
Cột: RP TSK gel ODS 120T (250 mm x 4,6 mm, 5
µm).
Detector: UV ở 285 nm.
Tốc độ dòng: 1 ml/phút.
Aoki I.
Thể tích tiêm: 100 µl.
[72]
Pha động: Acetonitril:noctylamin (620:380:1), điều
chỉnh pH 7,0 bằng acid phosphoric 85 %. Chuẩn nội là
isobutyl phydroxybenzoat/dicloromethan 25 µg/ml.
Chiết lỏnglỏng bằng diethyl ether:dicloromethan (7:3).
Giới hạn định lượng dưới trong huyết tương: 5 ng/ml.
Cột: C18 Spherisorb (250 mm x 4,5 mm, 5 µm).
Detector: 230 nm.
Tốc độ dòng: 1,5 ml/phút.
Avgerinos A. Thể tích tiêm: 100 µl.
[73]
Pha động: Acetonitril:muối acetat 0,1 M (40:60) được
điều chỉnh pH 3,3 bằng acid acetic băng. Chuẩn nội là
dung dịch acid niflumic/methanol (400 ng/ml).
Giới hạn định lượng dưới trong huyết tương: 20 ng/ml.
Borner K.
Cột: Nucleosil 100 5C18 (250 mm x 4 mm, 5 µm).
[74]
Detector: UV ở 283 nm.
Tốc độ dòng: 0,9 ml/phút.
Thể tích tiêm: 40 µl.
Pha động: Acetonitril:nước:noctylamin (400:600:1),
16
4
điều chỉnh pha động tới pH 7,0 bằng acid phosphoric.
Chuẩn nội là dung dịch phydroxy benzoic acid n
butylester.
Chiết lỏnglỏng bằng tertbutylmethylether.
Giới hạn định lượng dưới trong huyết tương: 0,042
mg/l.
Cột: Dupont SBCN.
Detector: Mảng diod ở 285 nm.
Tốc độ dòng: 1,5 ml/phút.
Thể tích tiêm: 10 µl.
Pha động: Acetonitril:đệm kali dihydrophosphat pH 4,5
Dugger H.A.
(46:54), Chuẩn nội là megesterol acetat.
[75]
Chiết lỏnglỏng bằng tertbutylmethylether.
Giới hạn định lượng dưới trong huyết tương: 20 ng/ml.
STT
Tác giả
5
Karol M.D.
[76]
6
Masa K.
[77]
Điều kiện sắc kí
Cột: C18, 150 hoặc 250 mm x 4,6 mm, 5 µm.
Detector: UV ở 285 nm.
Tốc độ dòng: 1,0 ml/phút trong 15 phút đầu và 2,5
ml/phút trong thời gian còn lại.
Thể tích tiêm: 100 µl.
Pha động: Acetonitril:nước (35:65) có 1 ml/l của n
octylamin và Nacetohydroxamic acid, điều chỉnh pH về
7,0 bằng acid phosphoric 85 %. Chuẩn nội là OPZ.
Chiết lỏnglỏng bằng diethyl ethermethylen clorid
(7:3, tt/tt).
Giới hạn định lượng dưới trong huyết tương: 10 ng/ml.
Cột: Lichrospher 100 RP18 (250 mm x 4mm, 5 µm).
Detector: UV ở 285 nm.
Tốc độ dòng: 1 ml/phút.
Thể tích tiêm: 80 µl.
Pha động: Acetonitril:nước (34:66) được điều chỉnh về
pH 7,0 bằng acid phosphoric, sau đó thêm vào 0,1 % n
octylamin. Chuẩn nội là isobutyl phydroxybenzoat.
Chiết lỏnglỏng bằng hỗn hợp diethyl ether :
dicloromethal (7:3, tt/tt).
Giới hạn định lượng dưới trong huyết tương: <0,1
17
7
8
µg/ml.
Cột: Chiral CDPh (100 mm x 4 mm, 5 µm).
Detector: UV ở 285 nm.
Tốc độ dòng: 0,5 ml/phút.
Miura M.
Thể tích tiêm: 50 µl.
[78]
Pha động: NaClO4 0,5 M:acetonitril:methanol (6:3:1).
Chuẩn nội là (S)OPZ.
Chiết pha rắn.
Giới hạn định lượng dưới trong huyết tương: 10 ng/ml.
Cột: C18, 250 mm x 4,6 mm; 5 µm.
Detector: UV ở 285 nm.
Tốc độ dòng: 1 ml/phút.
Thể tích tiêm: 50 µl.
Pha động: đệm kali dihydrophosphat 10 mM:acetonitril
Noubarani M.
(53:47) điều chỉnh pH đến 7,3 bằng triethylamin. Chuẩn
[79]
nội là PPZ.
Chiết lỏnglỏng bằng tertbutyl methyl ether.
Giới hạn định lượng dưới trong huyết tương: 20 ng/ml.
STT
Tác giả
9
Qiao H.L.
[80]
10
Uno T.
[81]
Điều kiện sắc kí
Cột: Zorbax SBC18 (200 mm x 4,6 mm, 5µm).
Detector: Mảng diod ở 285nm.
Tốc độ dòng: 1,0 ml/phút trong 15 phút đầu và 2,5
ml/phút trong thời gian còn lại.
Thể tích tiêm: 40 µl.
Pha động acetonitril:nước (32:68) được điều chỉnh pH
7,5 bằng acid phosphoric. Chuẩn nội là ethyl p
hydroxybenzoat.
Chiết lỏng lỏng bằng diethyl ether:methylen clorid
(6:4).
Giới hạn định lượng dưới trong huyết tương: 25 µg/l.
Cột: C18 STR ODSII (150 mm x 4,6 mm, 5 µm).
Detector: UV ở 285 nm.
Tốc độ dòng: 1,2 ml/phút.
Thể tích tiêm: 80 µl.
Pha động: Dung dịch đệm phosphat (0,02 M, pH
4,6):acetonitril:methanol (55:40:5, tt/tt). Chuẩn nội là
OPZ.
18
Chiết lỏnglỏng bằng diethyl etherdicloromethan
(70:30, tt/tt).
Giới hạn định lượng dưới trong huyết tương: 3 ng/ml.
Ở trong nước, tác giả Vũ Ngọc Thắng và Nguyễn Ngọc Chiến đã
xây dựng phương pháp định lượng LPZ trong huyết tương chó bằng chiết
lỏng lỏng bằng tert butyl methyl ether, sử dụng chuẩn nội là PPZ với các
điều kiện sau: Cột sắc ký RP18 150 mm x 4,6 mm, 5 µm; pha động là hỗn
hợp dung dịch kali dihydrophosphat 0,01 M (điều chỉnh pH đến 8,0 bằng
triethylamin) ACN (65:35, tt/tt); tốc độ dòng 1 ml/phút; thể tích tiêm 50 µl;
detector UV ở bước sóng 285 nm. Phương pháp này dễ thực hiện, đảm bảo
hiệu suất chiết cao, cần dùng ít dung môi hữu cơ để chiết và cần một
lượng huyết tương nhỏ nên tiết kiệm được chi phí tiến hành và ít gây hại
với môi trường. Phương pháp đã được thẩm định, đáp ứng được yêu cầu
của phương pháp phân tích thuốc trong dịch sinh học theo hướng dẫn của
FDA và DĐVN IV. Đây là một trong những phương pháp đáng tin cậy để
định lượng LPZ trong nghiên cứu sinh khả dụng của thuốc trên động vật
thực nghiệm [82].
Trong các nghiên cứu trên, cột sắc ký HPLC pha đảo thường được sử
dụng để tách LPZ trong dịch sinh học. Pha động khá đa dạng với các tỷ lệ
phối hợp khác nhau, đáng chú ý là pH pha động hầu hết được các tác giả
đưa về giá trị trung tính hoặc kiềm. Về phương pháp chiết LPZ trong dịch
sinh học, đa số các tác giả đều sử dụng phương pháp chiết lỏng lỏng là
phương pháp dễ thực hiện và có chi phí thấp.
Bên cạnh phương pháp HPLC, phương pháp sắc kí lỏng khối phổ
(LCMS) [83], [84], [85], [86] và HPTLC [87] cũng được sử dụng để định
lượng LPZ trong dịch sinh học.
1.2. PELLET VÀ PELLET BAO TAN Ở RUỘT
19
1.2.1. Pellet và các thành phần của pellet
Pellet la nh
̀ ưng “hat thuôc nho” co dang hinh câu hoăc gân nh
̃
̣
́
̉
́ ̣
̀
̀
̣
̀
ư hình
câu, th
̀
ương co đ
̀
́ ường kinh t
́ ừ 0,25 đên 1,5 mm, đ
́
ược hinh thanh do qua
̀
̀
́
trinh liên kêt cua cac tiêu phân d
̀
́ ̉
́ ̉
ược chât v
́ ới cac ta d
́ ́ ược khac nhau [
́
88],
[89], [90], [91]. Bên cạnh đó, micropellet còn để chỉ những hạt nhỏ có
đường kính chỉ từ 500 đến 700 µm [92]. Pellet la nh
̀ ững chế phẩm trung
gian được đóng vào nang cứng hoặc dập thành viên nén, trong đó đáng chú
ý là dạng thuốc chứa đa đơn vị liều là dạng bào chế hiện đại nhằm kiểm
soát giải phóng dược chất hoặc dùng để che vị [93].
Pellet có nhiều ưu điểm để ứng dụng đưa vào sản xuất các dạng bào
chế hiện đại vì pellet dê dang đi qua môn vi xuông ruôt non, có b
̃ ̀
̣
́
̣
ề mặt tiếp
xúc lớn và dễ phân bố đồng đều trong đường tiêu hoá nên lam tăng sinh
̀
khả dụng cua thuôc
̉
́ . Việc bao mang cho pellet thuân l
̀
̣ ợi hơn so vơi viên nen
́
́
hay hat, dê dang thu đ
̣
̃ ̀
ược chế phẩm có độ đồng đều về khối lượng và hàm
lượng dược chất, thuận lợi cho việc tao ra cac chê phâm thuôc
̣
́
́ ̉
́ kiểm soát
giải phóng từ pellet [88]. Tuy nhiên việc bào chế pellet cũng có một số hạn
chế vì quá trình bào chế thường kéo dài và chi phí cao, đòi hỏi trang thiết bị
chuyên dụng hiện đại [94].
Pellet có thành phần cơ bản tương tự như viên nén về dược chất và
các loại tá dược. Cac loai ta d
́
̣ ́ ược thương đ
̀
ược dung trong bao chê pellet
̀
̀
́
bao gôm:
̀ Tá dược độn, tá dược dính, tá dược trơn, tá dược chống dính, tá
dược rã, tá dược điều hoà sự chảy. Bên cạnh đó, thành phần của pellet có
thể có thêm một số nhóm tá dược khác như: Tá dược tạo cầu, tá dược điều
chỉnh pH, các chất diện hoạt, tá dược điều khiển giải phóng dược chất ...
[88].
1.2.2. Các phương pháp bào chế pellet
20
Co nhiêu ph
́
̀
ương phap đ
́ ể bào chế pellet, sử dụng thiêt bi chuyên
́ ̣
dung riêng va co hiêu suât khac nhau. Ph
̣
̀ ́ ̣
́
́
ương phap bao chê khac nhau cho
́ ̀
́ ́
pellet co đăc tinh khac nhau
́ ̣ ́
́
về đô đông đêu vê kich th
̣ ̀
̀ ̀ ́
ươc, tinh chât bê măt,
́ ́
́ ̀ ̣
đô xôp, ty trong, đô c
̣ ́ ̉ ̣
̣ ứng. Các phương pháp bào chế pellet gồm có:
1.2.2.1. Phương pháp đùn tạo cầu
Là phương pháp được áp dụng rộng rãi nhất do ưu thế về năng suất
và chất lượng pellet thu được, có thể đưa vào dạng bào chế những dược
chất có hàm lượng cao [95]. Phương pháp này gồm các bước như sau: Tạo
hỗn hợp bột kép đồng nhất giữa dược chất và tá dược, tạo khối bột ẩm,
đun khôi bôt qua sang, căt đoan
̀
́ ̣
̀
́
̣ , chuyển các đoạn sợi đùn hình trụ thành các
pellet bằng máy tạo cầu. Làm khô pellet bằng phương pháp thích hợp và
lựa chọn pellet có kích thước xác định.
1.2.2.2. Phương pháp bồi dần
Là phương pháp được thực hiện bằng sự bồi, bám dần của nhiều
lớp dược chất và tá dược liên tiếp lên bề mặt của các nhân có sẵn cho tới
khi thu được pellet có kích thước mong muốn. Có 2 phương pháp bồi dần
sau:
Bồi dần từ dung dịch hoặc hỗn dịch: Dược chất và tá dược được
hoà tan hoặc phân tán trong dung môi thích hợp có sẵn tá dược dính đã hoà
tan. Sau đó phun dịch bồi này lên bề mặt các nhân có sẵn. Khi dung môi bay
hơi thì các chất tan sẽ kết tinh lại và bám dính trên bề mặt của nhân. Quá
trình này lặp lại nhiều lần cho đến khi thu được pellet có kích thước mong
muốn.
21
Hình 1.2. Cơ chế hình thành pellet bồi dần từ dung dịch hoặc hỗn dịch
* Nguồn: theo Kandukuri J.M. (2009) [96]
Bồi dần từ bột mịn: Phun tá dược dính đều khắp lên bề mặt các
nhân, sau đó thêm bột mịn dược chất và tá dược hoặc bột mịn dược chất
vào khối nhân đã được thấm ẩm. Quá trình này lặp lại nhiều lần cho đến
khi thu được pellet có kích thước mong muốn [88], [97].
Hình 1.3. Cơ chế hình thành pellet bồi dần từ bột mịn
* Nguồn: theo Kandukuri J.M. (2009) [96]
1.2.2.3. Các phương pháp khác
Phương pháp đùn nóng chảy: Trong phương pháp đùn tạo cầu, cần
sử dụng chất lỏng để tạo hạt và phải sấy khô, tốn nhiều thời gian. Vì vậy,
phương pháp đùn nóng chảy được phát triển để có thể tạo ra những pellet
hình cầu mà không cần nước hoặc bất kì dung môi nào trong quá trình sản
xuất, giảm bớt sự ảnh hưởng của ẩm tới độ ổn định của dược chất [ 98].
Hơn nữa, pellet được tạo từ phương pháp này không cần lớp bao phim bên
ngoài do sự giải phóng dược chất được kiểm soát bởi quá trình khuếch tán
bên trong pellet dạng cốt.
22
Phương pháp phun sấy: Là phương pháp chuyển trực tiếp các dung
dịch hoặc hỗn dịch dược chất với tá dược vào luồng không khí nóng để tạo
thành các pellet nhờ thiết bị sấy phun. Dung dịch hoặc hỗn dịch dược chất
và tá dược được bơm và phun liên tục qua vòi phun có đường kính thích
hợp, biến dịch lỏng thành các giọt nhỏ. Các giọt nhỏ này bay hơi rất nhanh
dung môi và để lại các pellet khô ở bộ phận chứa của thiết bị.
Phương pháp phun đông tụ: Là phương pháp tương tự như phương
pháp phun sấy nhưng sử dụng luồng không khí lạnh. Trong quá trình phun
đông tụ, các giọt lỏng chứa dược chất nóng chảy, phân tán hoặc hòa tan
trong tá dược được làm lạnh xuống dưới điểm chảy của chất mang và tạo
thành pellet đông tụ hình cầu [88], [97].
Phương pháp kết tụ tạo cầu: Là một quá trình tạo pellet từ bột
dược chất và tá dược với một lượng chất lỏng thích hợp, hỗn hợp được
chuyển đổi thành các hạt hình cầu bởi quá trình cuộn hoặc nhào liên tục,
sử dụng chất lỏng hoặc chất gây tan chảy để bào chế pellet [97].
Phương pháp đông lạnh: Đây là một kĩ thuật mới và đơn giản, được
sử dụng để sản xuất pellet hình cầu dạng cốt có chứa hoạt chất. Trong kĩ
thuật này, chất mang rắn lỏng cùng với hoạt chất đã được phân tán dưới
dạng các giọt nhỏ được đưa vào trong cột chất lỏng trơ [99]. Những giọt
nhỏ có thể di chuyển theo chiều lên hoặc xuống phụ thuộc vào tỷ trọng
của chúng đối với chất lỏng trong cột, đông đặc lại thành các pellet hình
cầu. Các pellet được sản xuất bằng phương pháp này có phân bố kích
thước đồng đều và làm khô ở nhiệt độ phòng mà không cần phải trải qua
giai đoạn sấy [89], [96].
Phương pháp tạo pellet dưới nhiệt độ thấp: Là một quá trình mà
những giọt chất lỏng được chuyển thành các hạt hình cầu đặc hoặc pellet
23
bằng cách sử dụng nitơ lỏng ở nhiệt độ âm 160°C, làm đông lạnh ngay lập
tức và đồng nhất các nguyên liệu dựa vào sự chuyển đổi nhiệt nhanh chóng
xảy ra giữa các giọt chất lỏng và nitơ lỏng [96], [97].
1.2.3. Pellet bao tan ở ruột
Bao tan ở ruột cho pellet nhằm các mục đích bảo vệ dược chất tránh
bị phân huỷ trong môi trường acid dạ dày, tranh kich
́
́ ưng da day,
́
̣ ̀ giải phóng
dược chất tại vị trí nhất định trong ruột [100]. Polyme dùng để bao tan ở
ruột phải đáp ứng được các yêu cầu như: kháng dịch vị, dễ thấm dịch ruột,
bền vững, không độc hại… Đê co đ
̉ ́ ược một mang bao đap
̀
́ ứng đây đu cac
̀ ̉ ́
yêu câu trên co thê phôi h
̀
́ ̉
́ ợp hai hoăc nhiêu lo
̣
̀ ại polyme trong cung m
̀
ột
mang bao. V
̀
ỏ bao phải có khả năng kháng dịch vị trong khoảng thời gian
nhất định và rã, hòa tan một cách chắc chắn trong dịch ruột để giải phóng
dược chất [88].
Các dạng bào chế sử dụng các polyme bao tan ở ruột co đô tan phu
́ ̣
̣
thuôc vao pH đê bao mang bao tan
̣
̀
̉
̀
ở ruôt [
̣ 101], [102], [103] như cellulose
acetat phthalat (CAP), cellulose acetat trimellitat (CAT), polyvinyl acetat
phtalat (PVAP), Shellac, hydroxypropyl methylcellulose phtalat (HPMCP),
hydroxypropyl methylcellulose acetat succinat (HPMCAS), carboxymethyl
ethyl cellulose (CMEC), polyme acrylic là các sản phẩm trùng hiệp của acid
methacrylic như Eudragit L100, Eudragit S100, Eudragit L10055, Eudragit
L30D55… Hơn nữa, poly(styrencomaleicanhydrid)ethanol là một tá
dược bao tan ở ruột mới đang bước đầu được ứng dụng trong bào chế
dược phẩm [104]. Gần đây, một số tác giả đã nghiên cứu ra các polyme
mới có khả năng rã tại các vùng pH đặc trưng theo từng đoạn của ruột non.
Huang Y. và cộng sự đã nghiên cứu chế tạo một copolyme là
hydroxypropyl methylcellulose acetat maleat (HPMCAM) bằng phương
24
pháp hoá học. Màng bao sử dụng copolyme này chỉ rã trong khoảng pH từ
3 3,7, do đó có thể sử dụng để bao đối với các dạng bào chế yêu cầu
dược chất hấp thu tại tá tràng. Kết quả nghiên cứu in vitro cho thấy co
polyme có khả năng kháng môi trường acid dịch vị (pH 1,2) trong 2 giờ và
giải phóng dược chất rất nhanh trong môi trường dịch tá tràng (pH 3,4). Từ
đó, các tác giả đề nghị sử dụng HPMCAM làm polyme cho màng bao đối
với các thuốc hấp thu tại tá tràng [105].
Carelli V. và cộng sự đã nghiên cứu chế tạo một hỗn hợp hai polyme
là polyoxyethylen khối lượng phân tử cao và polyme acrylic như Eudragit
L100 hoặc Eudragit S100 bằng các phương pháp bay hơi hoặc tạo hỗn hợp
vật lý. Hỗn hợp polyme tạo thành có khả năng kháng acid dịch vị tốt hơn so
với các Eudragit ion hoá, đồng thời ở môi trường pH dịch ruột thì hỗn hợp
này rã theo cơ chế ăn mòn để kiểm soát giải phóng dược chất. Vì vậy, hỗn
hợp polyme có thể sử dụng cho các thuốc hấp thu tại ruột non, chủ yếu là
ở vị trí hỗng tràng và hồi tràng [106].
Schellekens R.C. và cộng sự nghiên cứu màng bao bao gồm polyme
có độ tan phụ thuộc pH (Eudragit S) với các tá dược siêu rã khác nhau. Kết
quả nghiên cứu cho thấy Ac di sol (natri croscarmellose) là tá dược thích
hợp nhất để thiết kế màng bao phối hợp. Nghiên cứu sinh khả dụng trên
người tình nguyện đã nhận thấy màng bao này có khả năng kháng môi
trường dịch vị và tá tràng, đồng thời giải phóng chậm ở những vùng xa hơn
trong đường tiêu hóa gợi ý cho việc sử dụng màng bao đối với các thuốc
giải phóng theo nhịp [107].
Fedorak R.N. và cộng sự đưa ra 2 viên nang chứa budesonid với
polyme bao tan ở ruột với chế phẩm tên thương mại là Entocort EC và
Budenofalk. Các chế phẩm này sử dụng polyme acid methacrylic để bao tan
25
ở ruột. Kết quả thử nghiệm cho thấy các chế phẩm này có khả năng giải
phóng budesonid tại vùng hỗng tràng và gần đại tràng, rất có hiệu quả
trong điều trị bệnh Crohn [108].
Bảng 1.5. Một số polyme có độ tan phụ thuộc vào pH
Polyme
Eudragit L100
Eudragit S100
Eudragit L10055
Polyvinyl acetat phtalat
Hydroxypropyl methylcellulose phtalat
Hydroxypropyl methylcellulose acetat succinat
Carboxymethyl ethylcellulose
Cellulose acetat trimelliat
Cellulose acetat phtalat
Shellac
pH
6,0
7,0
5,5
4,5 5,0
5,5
5,5
5,0 6,0
4,75
5,5 6,0
7,2
* Nguồn: theo Liu J. (2001) [103]
Do các polyme dùng để bao tan ở ruột thường có tính acid do chứa
nhóm carboxyl tự do trong công thức, có thể ảnh hưởng đến độ ổn định
của dược chất kém bền trong môi trường acid nên trong trường hợp này thì
trước khi bao tan ở ruột người ta thường bao một lớp bao bảo vệ để ngăn
dược chất thấm ra ngoài, tránh tiếp xúc dược chất với lớp bao tan ở ruột và
môi trường.
Polyme dùng để bao bảo vệ là các dẫn xuất của cellulose, polyme
acrylic và PVA. Các dẫn xuất của cellulose thường dùng là methyl cellulose
(MC), HPMC, hydroxylpropyl cellulose (HPC), hydroxylethyl cellulose