Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.52 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ QUANG NINH

ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ QUANG NINH

ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN VĂN ĐỘ

Hà Nội - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả đề cập trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn
rõ ràng và chính xác.
Tác giả luận văn

Lê Quang Ninh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1:

1

LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

8

1.1. Khái niệm, ý nghĩa của định tội danh

8

1.2. Lý luận về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

10

1.3. Cơ sở pháp lý của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 20

Chương 2:

THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC VÀ NHỮNG
HẠN CHẾ

32

2.1. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
tỉnh Bình Phước

32

2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn định tội danh tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước
Chương 3:

40

YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN

53

3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng định tội danh tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản

53


3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh Tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản

56

KẾT LUẬN

68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

ĐTD:

Định tội danh


LĐCĐTS: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
PLHS:

Pháp luật hình sự

TAND:

Tòa án nhân dân

TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1 Cơ cấu của tình hình Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản so với tình
hình các loại tội phạm chung trên địa bàn khu vực miền Đông

Nam Bộ
Bảng 2.2

Cơ cấu của tình hình Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được tính
toán trên cơ sở diện tích của các tỉnh, thành khu vực miền Đông
Nam Bộ

Bảng 2.3

Thống kê số vụ án và số bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố và xét xử
về Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước
giai đoạn 2014 – 2018

Bảng 2.4

Tình hình Tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh
Bình Phước giai đoạn 2014 – 2018


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về ĐTD luôn là một những nhiệm vụ
quan trọng của khoa học luật hình sự Việt Nam vì: Quá trình giải quyết vụ án
một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật vấn đề trách nhiệm hình sự
của người phạm tội phụ thuộc rất nhiều vào việc cơ quan tư pháp hình sự có
thẩm quyền xác định tội danh đã được thực hiện trong thực tế khách quan có
chính xác hay không? Thực tiễn áp dụng PLHS cho thấy rằng nếu như trong
tất cả các VAHS khi tội phạm được xác định chính xác không những sẽ góp
phần làm cho hình phạt được quyết định đối với người phạm tội phù hợp với
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà người đó đã

thực hiện và đảm bảo sức được thuyết phục mà còn làm cho hiệu quả của
pháp luật và pháp chế XHCN cũng như uy tín của Tòa án và các cơ quan bảo
vệ pháp luật được nâng rõ rệt lên trước nhân dân và dư luận xã hội. Ngoài ra,
quá trình điều tra, truy tố và xét xử cho thấy, trong một số trường hợp các cơ
quan tư pháp hình sự cũng có thể ĐTD không được chính xác vì các quy
phạm PLHS được ghi nhận trong luật thực định thường là các quy phạm dưới
dạng trừu tượng nhưng các tình huống diễn ra trong thực tế khách quan của
đời sống xã hội thì lại rất phong phú và đa dạng nên không phải lúc nào các
nhà làm luật cũng có thể lường trước được tất cả mọi tình huống có thể xảy
ra. Chính vì vậy, những vấn đề lý luận về ĐTD và thực tiễn áp dụng các quy
phạm PLHS có liên quan đến việc ĐTD luôn được các nhà khoa học, các cán
bộ nghiên cứu và cán bộ thực tiễn của các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và
Tòa án… coi là những vấn đề đa dạng và phức tạp, đang được tranh luận với
nhiều quan điểm, ý kiến rất khác nhau.

1


Theo tinh thần của Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị: Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì việc ĐTD đúng là
yêu cầu cần thiết phục vụ hiệu quả cho tiến trình cải cách tư pháp và đảm bảo
quyền con người trong TTHS. Thực tiễn giải quyết VAHS những năm qua cho
thấy, các vụ việc oan, sai chủ yếu bắt nguồn từ việc ĐTD sai, đánh giá chứng
cứ phiến diện, chủ quan. Do vậy, ĐTD vẫn được xem là một trong những
khâu khó trong chuỗi các hoạt động tố tụng hình sự, đặc biệt là với những tội
phạm mà dấu hiệu cấu thành tội phạm còn dễ gây nhầm lẫn với các tội phạm
khác hoặc gặp nhiều khó khăn trong việc xác định có hay không hành vi
phạm tội xảy ra hay chỉ đơn thuần là vi phạm dân sự, kinh tế như Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015. Để ĐTD đối với
tội phạm này chính xác là vấn đề không đơn giản bởi dễ nhầm lẫn với các tội

phạm khác nhất là ở những địa phương đang trên đà phát triển về kinh tế như
Bình Phước.
Trong thời gian từ 2014 đến 2018, tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu
nói chung và tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình
Phước nói riêng có những diễn biến vô cùng phức tạp về tính chất nghiêm trọng
của hành vi phạm tội với 193 vụ/238 bị cáo trên tổng số 5315 vụ/10593 bị cáo
chiếm 3,6% số vụ và 2,2 % số bị cáo nhưng mức độ hậu quả của hành vi thì
không hề nhỏ, gây ra sự phẫn nộ và bất bình trong quần chúng nhân dân. Thực
tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên
địa bàn tỉnh Bình Phước những năm vừa qua cho thấy về cơ bản việc ĐTD
được thực hiện tương đối đúng pháp luật. Tuy nhiên, vẫn có một số trường
hợp giữa CQĐT, VKSND, TAND trong quá trình giải quyết vụ án có nhiều
quan điểm khác nhau về vấn đề ĐTD dẫn đến có nhiều vụ án phải trả hồ sơ
nhiều lần, kéo dài thời gian giải quyết và ảnh hưởng đến nhiều đối tượng khác
nhau. Có trường hợp Tòa án quyết định tội danh đối với bị cáo khác với tội

2


danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, cá biệt còn có trường hợp Tòa án tuyên bị
cáo không phạm tội. Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau nhưng trước hết và quan trọng nhất là một số trường hợp áp dụng không
đúng, chưa xác định đầy đủ, khách quan hành vi phạm tội, nhận thức quy định
của BLHS chưa đầy đủ nên dẫn đến việc ĐTD còn chưa chính xác, việc hủy
án, sửa án vẫn còn tồn tại ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc còn có sự
nhầm lẫn giữa tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung, uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng. Chính vì vậy, tác
giả chọn đề tài “Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tỉnh Bình Phước” làm đề tài

nghiên cứu của mình góp phần làm rõ những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
cho quá trình các cơ quan tiến hành tố tụng định tội danh đối với tội phạm này
trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Một số công trình nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo liên quan
đến đề tài nghiên cứu của tác giả đã được đề cập và công bố như:
Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm - quyển 1 của
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017, Nxb Hồng Đức,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Tập 2 của Trường Đại học Luật Hà
Nội năm 2007, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự - Tập 2 của tác giả Đinh Văn Quế
năm 2003, Nxb Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bình luận khoa học BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) Phần các tội phạm của tác giả Nguyễn Đức Mai năm 2013, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.

3


Lí luận chung về định tội danh của tác giả Võ Khánh Vinh năm 2013,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam của
tác giả Lê Văn Đệ năm 2004, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Định tội danh (Lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập) của tác giả Lê
Cảm – Trịnh Quốc Toản năm 2015, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Phương pháp định tội danh với 538 tội danh trong Bộ luật hình sự sửa
đổi năm 2017 của tác giả Đoàn Tấn Minh – Nguyễn Ngọc Điệp năm 2018,
Nxb Lao động, Hà Nội.
Định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Hoàng Thị Kim Chi

năm 2017, Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở
thực tế số liệu từ địa bàn thành phố Đà Nẵng của tác giả Ngô Văn Định năm
2015, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam (trên cơ sở thực tế số liệu từ địa bàn tỉnh Đăk Lăk) của tác giả Trương Thị
Đông năm 2015, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên đều là những công trình có
giá trị về mặt lý luận khoa học và thực tiễn nhất định. Tuy nhiên, nội dung các
công trình trên mới chỉ hướng đến việc phân tích, nghiên cứu những vấn đề lý
luận chung về tội phạm nói chung, về vấn đề định tội danh nói riêng. Vấn đề
ĐTD tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa được nghiên cứu chuyên sâu và riêng
lẻ, đặc biệt là nghiên cứu về vấn đề ĐTD tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản gắn với
thực tiễn một địa bàn nhất định. Vì vậy, theo đánh giá của tác giả, mặc dù có rất
nhiều công trình nghiên cứu, nhiều đề tài khác nhau đề cập đến vấn đề về xác
định tội phạm nói chung, việc ĐTD nói riêng. Mặt khác, chưa có công trình, đề

4


tài nghiên cứu nào xem xét vấn đề định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
ở góc độ hoàn chỉnh, toàn diện gắn với địa bàn cụ thể như tỉnh Bình Phước. Mặc
dù vậy, kết quả của những công trình nghiên cứu nêu trên là một trong những
nguồn tài liệu cơ sở lý luận quan trọng mà tác giả có thể vận dụng, kế thừa và bổ
sung để hoàn thiện cho đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản cũng như nghiên cứu vấn đề lý luận về định tội danh cũng
như phân tích thực tiễn định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông

qua các số liệu thống kê cụ thể, thông qua các vụ án thực tiễn xảy ra trên địa
bàn tỉnh Bình Phước trong giai đoạn 2014 - 2018 để đưa ra một số kiến nghị
nhất định nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
xử lý tội phạm này trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu đã được xác định như trên, để thực hiện đề tài
cần thiết phải thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về định tội danh nói chung
và định tội danh tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Phân tích cơ sở pháp lý (quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017) về Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản để làm rõ các dấu hiệu
pháp lý đặc trưng của tội phạm này và so sánh với một số tội phạm khác có
tính chất tương đồng được quy định trong Bộ luật hình sự.
- Khảo sát thực tiễn, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và phân tích
nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động định tội danh Tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2014 - 2018.

5


- Đưa ra yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động định tội
danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về định tội danh, quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và
thực tiễn định tội danh trong các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên
địa bàn tỉnh Bình Phước.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp số liệu tình hình giải quyết

các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên địa bàn tỉnh Bình Phước
trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến 2018. Đây là nguồn tư liệu quan
trọng giúp cho việc phân tích, đánh giá thực tiễn hoạt động định tội danh Tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị phù hợp.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận đó là phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng
chống các loại tội phạm, về chính sách hình sự đối với tội phạm nói chung và
đối với Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Đồng thời, trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài, tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp khác nhau như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê nhằm làm rõ nội
dung vấn đề cần trình bày cũng như tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng
hoạt động ĐTD đối với tội phạm này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp tiếng nói khoa học vào hệ thống
lý luận về ĐTD Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài.

6


6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Bên cạnh những giá trị về mặt lý luận, trên thực tiễn kết quả nghiên cứu
của đề tài còn có thể được vận dụng như một tài liệu tham khảo trong quá
trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở giáo dục trên cả nước.
Thêm vào đó, đối với các cán bộ công tác thực tiễn, đặc biệt là cán bộ công
tác trong lĩnh vực hình sự, luận văn sẽ giúp ích một phần để cho việc vận
dụng trong quá trình giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan tới việc ĐTD
Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thực tế.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu như sau:
Chương 1. Lý luận về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
Chương 2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên
địa bàn tỉnh Bình Phước
Chương 3. Yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh
tội

lừa

đảo

chiếm

7

đoạt

tài

sản


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của định tội danh
1.1.1. Khái niệm định tội danh

Định tội danh là một vấn đề không phải là mới nhưng đối với những
người làm công tác điều tra, truy tố, xét xử trong hoạt động tố tụng hình sự thì
đây lại là vấn đề thời sự, có ý nghĩa vô cùng quan trọng được quan tâm hàng
đầu. Bởi vì có xác định tội danh đúng mới áp dụng pháp luật hình sự đúng, ra
bản án mới đúng pháp luật, người phạm tội mới cúi đầu nhận tội và mới đạt
được yêu cầu của việc xét xử là xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Quá trình áp dụng các quy phạm PLHS trên thực tế diễn ra phức tạp và
đa dạng, được thể hiện ở 3 giai đoạn như sau: Định tội danh, định khung hình
phạt, và quyết định hình phạt. Trong đó, định tội danh là một giai đoạn quan
trọng nhất trong ba giai đoạn trên bởi vì định tội danh được tiến hành và thực
hiện ở tất cả các giai đoạn của cả quá trình TTHS từ giai đoạn khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử đến giai đoạn thi hành án.
ĐTD là một trong những biện pháp đưa nội dung của Bộ luật hình sự
vào đời sống xã hội, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm, qua đó góp phần thực hiện đường lối chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước ta. ĐTD là sự xác nhận về mặt pháp lý sự phù
hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện trong thực tế khách quan
với các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm tương ứng được quy định trong Bộ
luật hình sự. Hay nói cách khác, ĐTD là việc xác định một hành vi cụ thể đã

8


thực hiện thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của tội nào
trong số các tội phạm đã được quy định trong BLHS.
Do đó có thể đưa ra khái niệm ĐTD như sau: Định tội danh là việc xác
định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của
hành vi phạm tội cụ thể đã thực hiện với dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã
được quy định trong BLHS />1.1.2. Ý nghĩa của hoạt động định tội danh
a. Đối với hoạt động định tội danh đúng

ĐTD đúng là tiền đề cho việc phân hoá TNHS và cá thể hoá hình phạt
một cách công minh, có căn cứ pháp luật.
ĐTD đúng sẽ đảm bảo cho việc thực hiện các nguyên tắc tiến bộ được
thừa nhận trong hệ thống pháp luật nói chung của Nhà nước pháp quyền như:
nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi cá nhân, bình đẳng trước pháp luật
hình sự, nguyên tắc công bằng, nguyên tắc nhân đạo.
ĐTD đúng thể hiện hoạt động có hiệu quả ý thức tuân thủ pháp luật
triệt để cũng như ý thức trách nhiệm trong hoạt động của các cơ quan có thẩm
quyền, từ đó góp phần hiệu quả vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm từ đó nâng cao uy tín, chất lượng hoạt động của các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng cũng như hỗ trợ cho việc củng cố và tăng cường pháp
chế XHCN [9, tr 21].
ĐTD đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các quy
phạm pháp luật TTHS Việt Nam về tạm giam, về thẩm quyền điều tra, xét
xử cũng như một số hoạt động tố tụng khác qua đó góp phần hữu hiệu cho
việc đảm bảo, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân trong lĩnh vực tư
pháp hình sự.
ĐTD đúng sẽ dẫn đến việc quyết định hình phạt đúng, là tiền đề cho
việc ban hành một bản án đúng, chính xác, phù hợp với mức độ nguy hiểm

9


cho xã hội của hành vi phạm tội, khiến bị cáo cũng như những người tham dự
phiên tòa nói riêng, xã hội và công luận nói chung nhận thức đầy đủ về tính
nghiêm minh, công bằng, khách quan của pháp luật từ đó nâng cao hiệu quả
tuân thủ, chấp hành pháp luật góp phần tăng cường hiệu quả công tác tuyên
truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân.
ĐTD đúng sẽ đảm bảo hiệu quả hoạt động trấn áp tội phạm trên thực tế.
b. Đối với hoạt động ĐTD sai

ĐTD sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực như: không đảm bảo
được tính công minh có căn cứ của pháp luật, truy cứu TNHS người vô tội, bỏ
lọt người phạm tội, xâm phạm thô bạo danh dự nhân phẩm cũng như
các quyền tự do dân chủ của công dân - là giá trị xã hội cao quý nhất được
thừa nhận trong Nhà nước.
ĐTD sai làm giảm uy tín của cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế
XHCN, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước,
với pháp luật XHCN từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả của công cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm.
Những vụ án oan sai xảy ra trên thực tế phần lớn là do ĐTD chưa chính
xác mà nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ việc đánh giá chứng cứ phiến diện,
thiếu thận trọng, nôn nóng khởi tố, bắt tạm giam hoặc do suy diễn chủ quan
của những người tiến hành tố tụng [8, tr 11 – 12].
1.2. Lý luận về định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc định tội danh Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản
1.2.1.1. Khái niệm định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
ĐTD là một quá trình tư duy logic, là việc các chủ thể có thẩm quyền
xem xét, đánh giá sự phù hợp giữa hành vi phạm tội xảy ra trên thực tế với
các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS nhằm quyết định

10


hình phạt tương xứng với mức độ của hành vi phạm tội. Do đó, ĐTD Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản là quá trình các chủ thể có thẩm quyền xem xét, đánh
giá và sử dụng các quy định của PLHS và PLTTHS xác định hành vi của
người phạm tội có thỏa mãn các yếu tố cấu thành của Tội LĐCĐTS được quy
định tại Điều 174 BLHS hay không, từ đó quyết định mức hình phạt tương
ứng phù hợp với mức độ, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội.
Như vậy, dựa trên cơ sở quy định tại Điều 8 BLHS, Điều 174 BLHS và
các quy định của BLTTHS có thể hiểu định tội danh Tội LĐCĐTS như sau:
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự theo trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng hình sự
quy định của các chủ thể có thẩm quyền được tiến hành trên cơ sở thu thập
các tài liệu, chứng cứ để xác định hành vi chiếm đoạt tài sản, có hay không
có sự phù hợp giữa hành vi đã xảy ra với các dấu hiệu cấu thành tội phạm
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự để
phán quyết làm tiền đề cho việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hình phạt
và các biện pháp cưỡng chế hình sự khác.
1.2.1.2. Đặc điểm của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Từ định nghĩa trên có thể rút ra các đặc điểm của định tội danh Tội
LĐCĐTS như sau:
Thứ nhất, ĐTD tội LĐCĐTS là hoạt động có tính logic nhằm xác định
có hay không sự tương đồng giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực
hiện và các dấu hiệu của Tội LĐCĐTS được quy định tại Điều 174 BLHS.
Tính logic của quá trình định tội danh Tội LĐCĐTS được thể hiện ở quá trình
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động cần thiết trước khi đưa ra
kết luận về tội danh của người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
đó là quá trình so sánh, đối chiếu sự phù hợp giữa hành vi với các yếu tố cấu

11


thành tội phạm của Điều 174 BLHS để tìm ra điểm tương đồng. Từ đó kết
luận hành vi đó có phải tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không?
Thứ hai, quá trình hoạt động định tội danh Tội LĐCĐTS phải tuân thủ
nghiêm chỉnh các quy phạm pháp luật của BLHS cũng như các quy phạm
pháp luật của BLTTHS mà cụ thể là các cơ quan tiến hành tố tụng cụ thể hoá

các QPPLHS vào đời sống thực tế. Trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các
chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết của hành vi phạm tội đã
thực hiện để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm
cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng
quy định tại Điều 174 BLHS. Có thể nói đây là quá trình rất phức tạp và dễ
nhầm lẫn. Chính vì vậy, để thực hiện được quá trình này có hiệu quả các cơ
quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ những quy định của BLHS và BLTTHS,
bên cạnh đó các cơ quan này cũng có thể sử dụng các biện pháp nghiệp vụ mà
pháp luật cho phép để xác định chính xác hành vi phạm tội LĐCĐTS. Đó là
cơ sở để đưa ra mức hình phạt hợp lý nhất đối với người phạm tội.
Thứ ba, với tư cách là một dạng của hoạt động áp dụng pháp luật hình
sự định tội danh Tội LĐCĐTS phải đảm bảo tính chính xác, khách quan tuyệt
đối. Mọi hành vi ĐTD sai sót dù là nhỏ nhất cũng có thể dẫn tới hậu quả lớn
cho cá nhân, gia đình và xã hội, do đó hoạt động này cần được tiến hành tuần
tự qua các bước là: Xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra trên thực
tế. Tiếp theo là lựa chọn đúng điều khoản tương ứng trong Phần các tội phạm
của BLHS quy định trách nhiệm đối với tội phạm LĐCĐTS để so sánh, đối
chiếu và kiểm tra các dấu hiệu của cấu thành tội phạm này với các tình tiết cụ
thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện. Cuối cùng là ra văn
bản áp dụng pháp luật, trong đó đưa ra kết luận có căn cứ và đảm bảo sức
thuyết phục về sự phù hợp của hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt đã

12


được thực hiện trong thực tế khách quan với cấu thành tội phạm cụ thể tại
Điều 174 BLHS.
Thứ tư, ĐTD đối với Tội LĐCĐTS là hoạt động của các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền mang tính áp đặt một chiều đối với đối tượng bị áp dụng. Hoạt
động định tội danh chỉ có thể được tiến hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng là

cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án mà không thể được tiến hành bởi bất kỳ
chủ thể nào khác. Đối tượng bị áp dụng cũng không thể lựa chọn tội danh cho
mình mà chỉ có thể chấp nhận tội danh mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp đặt
trên cơ sở và theo quy định của pháp luật [8, tr 14 – 15].
1.2.1.3. Ý nghĩa của hoạt động định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản
Hoạt động ĐTD Tội LĐCĐTS được thực hiện trên thực tế một cách chính
xác sẽ mang lại nhiều ý nghĩa trên nhiều phương diện khác nhau, cụ thể:
- Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội: Định tội danh đối với tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hoạt động mang tính chính trị - xã hội sâu
sắc, thể hiện như sau:
Một là, việc quy định Tội LĐCĐTS trong BLHS có mục đích bảo vệ
quyền lợi về mặt kinh tế mà cụ thể là quyền sở hữu tài sản của công dân – đây
là quyền con người được pháp luật quốc gia và quốc tế ghi nhận. Định tội
danh đúng đối với tội LĐCĐTS góp phần vào việc cụ thể hóa các cam kết
quốc tế của nhà nước Việt Nam là thành viên, nhất là các cam kết liên quan
đến quyền con người mà Việt Nam đã tham gia ký kết.
Hai là, định tội danh đối với Tội LĐCĐTS góp phần thể chế hóa đường
lối lãnh đạo của Đảng, các quy định của Hiến pháp, các quy định của pháp
luật, nhất là quy định của BLHS, BLTTHS góp phần củng cố lòng tin của
người dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, vào công lý, sự chí công, vô
tư của các cơ quan bảo vệ pháp luật; củng cố lòng tin của các nước trên thế

13


giới, của các nhà đầu tư nước ngoài về tính minh bạch và đúng đắn của hệ
thống pháp luật Việt Nam góp phần nâng cao vị trí vai trò của Việt Nam trên
trường quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài.
- Ý nghĩa về phương diện pháp lý: Bên cạnh ý nghĩa chính trị - xã hội

thì hoạt động định tội danh Tội LĐCĐTS còn có ý nghĩa pháp lý to lớn, thể
hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất, việc xác định đúng hành vi của một người có phải là hành vi
lừa đảo nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản hay không? Có thỏa mãn các dấu
hiệu quy định tại Điều 174 BLHS hay không? Chính là cơ sở và là tiền đề để
áp dụng một loạt các quy định của PLHS và PLTTHS vào thực tiễn cuộc
sống, thể hiện sự đánh giá khách quan, công bằng của pháp luật đối với hành
vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra trong thực tế.
Thứ hai, định tội danh nói chung là định tội danh đối với tội LĐCĐTS
nói riêng một cách chính xác là cơ sở để áp dụng đúng các thủ tục tố tụng như
thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử; áp dụng biện pháp tạm giam; thực hiện
đúng các loại thời hạn tố tụng; ra các quyết định tố tụng đúng, không bắt oan,
bắt sai người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh tình trạng
tội phạm bỏ trốn hay tẩu tán tang vật… Định tội danh sai làm giảm hiệu quả
của công tác đấu tranh với loại tội phạm này, làm nảy sinh những quan
niệm không đúng về thực trạng và các biện pháp đấu tranh với tội phạm,
làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp.
Thứ ba, định tội danh đúng với Tội LĐCĐTS là tiền đề cho việc quyết
định hình phạt đúng, là tiền đề cho việc ban hành một bản án đúng, chính xác,
phù hợp với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khiến bị cáo
cũng như những người tham dự phiên tòa và dư luận xã hội nhận thức đầy đủ
tính nghiêm minh, công bằng, khách quan của pháp luật. Từ đó nâng cao hiệu
quả tuân thủ, chấp hành pháp luật góp phần tăng cường hiệu quả tuyên truyền

14


giáo dục về Tội LĐCĐTS cho nhân dân. Trong chương các tội xâm phạm sở
hữu thì Tội LĐCĐTS rất dễ bị nhầm lẫn, tức là dễ bị định tội danh sai so với
các loại tội phạm khác. Do đó, định tội danh đúng với tội phạm này là cơ sở

để Tòa án căn cứ vào các yếu tố khác nhau để quyết định hình phạt một cách
nghiêm minh và phù hợp [12, tr. 11- 12].
1.2.2. Nội dung của định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội LĐCĐTS trên thực tế xảy ra ở tất cả các lĩnh vực với thủ đoạn vô
cùng đa dạng và tinh vi xảo quyệt. Do đó các cơ quan tiến hành tố tụng chứng
minh có hay không Tội LĐCĐTS xảy ra là không hề đơn giản. Hoạt động
định tội danh đối với Tội LĐCĐTS phải được tiến hành chính xác từng bước,
thận trọng, khách quan, khoa học với những nội dung cụ thể sau:
Bước thứ nhất là: Thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diện chứng cứ
chứng minh sự thật của vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản đúng quy định của
pháp luật tố tụng hình sự. Trong thực tế, nhiệm vụ này chỉ đặt ra đối với hoạt
động định tội danh của các chủ thể có thẩm quyền như Điều tra viên trực tiếp
thụ lý điều tra vụ án, Kiểm sát viên được phân công giám sát vụ án và Thẩm
phán xét xử vụ án. Tiếp theo là trên cơ sở các tình tiết vụ án đã được làm rõ,
các chủ thể có thẩm quyền phải phân tích một cách khách quan, toàn diện,
đầy đủ các tình tiết đó để xác định những tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải
quyết vụ án cũng như đối với định tội danh Tội LĐCĐTS.
Bước thứ hai là: Nghiên cứu, nhận thức đúng đắn các quy định của
pháp luật hình sự nói chung như hiệu lực áp dụng, cơ sở trách nhiệm hình sự,
các khái niệm về lỗi, các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự; quy định về
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 BLHS nói riêng; phân
biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh
tế với các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt khác gần giống với
tội LĐCĐTS…

15


Bước thứ ba là: So sánh, đối chiếu các tình tiết của vụ án đã được làm
rõ với quy định của Điều 174 BLHS để xác định sự tương đồng. Các cơ quan

tiến hành tố tụng phải đối chiếu từng tình tiết của vụ án đã xảy ra với các dấu
hiệu cấu thành tội phạm tương ứng của Tội LĐCĐTS được quy định tại Điều
174 BLHS. Sau đó, phải so sánh, đối chiếu tổng thể tất cả các tình tiết của vụ
án với tổng thể các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội phạm LĐCĐTS. Tiếp
theo phải phát hiện, tìm ra sự đồng nhất giữa các tình tiết điển hình của vụ án
với các dấu hiệu pháp lý được mô tả trong Điều 174 BLHS. Trường hợp có
căn cứ khẳng định hành vi khách quan của vụ án xảy ra phù hợp với những
quy định tại Điều 174 BLHS là người phạm tội có hành vi lừa dối nhằm mục
đích chiếm đoạt tài sản của người khác… thì kết luận hành vi đó phạm tội
LĐCĐTS. Trường hợp không có sự đồng nhất thì phải kiểm tra, đối chiếu lại.
Sau khi xác định chắc chắn không có sự đồng nhất với cấu thành tội phạm Tội
LĐCĐTS thì có thể chuyển sang kiểm tra các quy phạm PLHS khác để kết
luận có hay không có tội phạm xảy ra, nếu có tội phạm xảy ra không thuộc
trường hợp Tội LĐCĐTS thì cấu thành tội phạm nào khác.
Bước thứ tư là: Đưa ra kết luận về tội danh và ra quyết định áp dụng
pháp luật đối với người đã thực hiện hành vi quy định tại Điều 174 Bộ luật
hình sự. Lúc này việc so sánh hành vi phạm tội với quy định tại Điều 174 tiếp
tục được thực hiện để xác định cấu thành tội phạm là cơ bản hay cấu thành tội
phạm tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tóm lại, có thể nói rằng, việc phân chia các giai đoạn định tội danh nêu
trên chỉ mang tính chất tương đối. Các bước của quá trình định tội danh nhiều
khi cũng không rõ ràng mà có tính chất đan xen. Trong nhiều trường hợp các
chủ thể định tội danh có sự lồng ghép giai đoạn này vào giai đoạn khác. Cũng
có những trường hợp cá biệt như việc ĐTD đã được thực hiện xong nhưng lại
phải quay lại quy trình bắt đầu từ đầu để kiểm tra lại tính đúng đắn của kết
quả ĐTD hoặc để ĐTD được đúng đắn, phù hợp với sự thật khách quan và

16



quy định của pháp luật nếu như chủ thể định tội danh có những sai lầm nào đó
trong quá trình ĐTD.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động định tội
danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Để hoạt động định tội danh đối với các loại tội phạm nói chung và định
tội danh đối với Tội LĐCĐTS nói riêng đảm bảo được tính chính xác, có căn
cứ, hợp pháp đòi hỏi quy trình tiến hành tố tụng phải được các chủ thể tiến
hành tố tụng thực hiện nghiêm túc, chính xác việc đánh giá phải khách quan,
toàn diện với sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan,
cụ thể:
1.2.3.1. Các yếu tố khách quan
Yếu tố khách quan là những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến chất
lượng của hoạt động định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sự hoàn
thiện của PLHS và pháp luật TTHS là cơ sở, là nền tảng pháp lý quan trọng
để chủ thể có thẩm quyền quyết định việc định tội danh đối với Tội LĐCĐTS
được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh trường hợp oan sai, sót lọt
do việc áp dụng pháp luật không chính xác.
Trước hết hoạt động định tội danh đối với Tội LĐCĐTS phải căn cứ
vào những quy định của PLHS bởi vì tội phạm chỉ được quy định trong
BLHS mà định tội danh đối với Tội LĐCĐTS là quá trình xác định hành vi
phạm tội của một người có thỏa mãn các dấu hiệu quy định tại Điều 174
BLHS hay không? Thuộc khoản nào? Điểm nào của điều luật. Ngoài ra, khi
tiến hành định tội danh đối với Tội LĐCĐTS cũng phải căn cứ vào những quy
định trong phần chung của BLHS như: những quy định về năng lực trách
nhiệm hình sự, các quy định về lỗi, về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay
các giai đoạn thực hiện tội phạm… Đây là những quy định chung do đó các
chủ thể tiến hành hoạt động định tội danh phải tuân thủ và áp dụng để đảm

17



bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa với hoạt động này và cũng là cơ sở
để quyết định hình phạt một cách chính xác.
Thực tiễn đấu tranh phòng chống Tội LĐCĐTS cho thấy có trường hợp
hành vi lừa đảo kết thúc ở giai đoạn tội phạm chưa đạt, không phải tội phạm
hoàn thành. Do đó, khi tiến hành định tội danh đối với Tội LĐCĐTS ở giai
đoạn tội phạm chưa đạt cần nắm chắc chắn kiến thức lý luận về trường hợp
phạm tội chưa đạt quy định tại Điều 15 BLHS để áp dụng PLHS một cách
chính xác. Hay trường hợp vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra có nhiều
đối tượng tham gia tức là vụ án lừa đảo có đồng phạm thì các chủ thể có thẩm
quyền phải xem xét vai trò của từng đối tượng khác nhau trên cơ sở quy định
tại Điều 16 BLHS để xác định trách nhiệm của mỗi người từ đó đưa ra mức
hình phạt tương ứng với mức độ thực hiện hành vi phạm tội.
Bên cạnh các quy định của PLHS thì các quy định của pháp luật TTHS
cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thu thập, đánh giá, bảo quản chứng cứ
trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các cơ quan tiến hành tố tụng
trong các giai đoạn của quá trình tố tụng cũng ảnh hưởng đến chất lượng của
hoạt động định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ngoài ra hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS mà cụ thể là
những nội dung liên quan đến việc áp dụng PLHS đối với Tội LĐCĐTS cũng
ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản.
1.2.3.2. Các yếu tố chủ quan
Yếu tố chủ quan là những nhân tố bên trong nhưng lại là nhân tố vô cùng
quan trọng quyết định việc định tội danh đúng hay sai. Yếu tố chủ quan quan
trọng nhất đó chính là năng lực của chủ thể có thẩm quyền trong việc định tội
danh. Hoạt động định tội danh đối với Tội LĐCĐTS chỉ có thể được tiến hành
bởi các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Mà những người tiến hành tố

18



tụng bao gồm Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và hội thẩm đó là
những người có trình độ, có kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ phát hiện và xử lý tội
phạm nên năng lực của bản thân họ là vấn đề quan trọng nhất quyết định tính
chính xác của hoạt động định tội danh. Định tội danh Tội LĐCĐTS là hoạt
động tố tụng hình sự được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền khác nhau
nên mỗi chủ thể phải có nền tảng kiến thức pháp luật hình sự, tố tụng hình sự
cũng như các quy định khác của pháp luật nhất định, có đạo đức, có tinh thần
trách nhiệm, am hiểu và vận dụng tốt các quy định đó vào trong các vụ án thực
tế cụ thể mới đảm bảo cho việc định tội danh Tội LĐCĐTS được chính xác.
Ngoài ra, Tội LĐCĐTS là loại tội phạm có nhiều điểm tương đồng với pháp
luật dân sự và bản thân tội phạm này cũng bắt nguồn từ các giao dịch dân sự
nên để tránh việc hình sự hóa các quan hệ dân sự hay dân sự hóa các quan hệ
hình sự thì các chủ thể có thẩm quyền cần phải có vốn kiến thức hiểu biết nhất
định về pháp luật dân sự, về các giao dịch dân sự. Từ đó mới có thể kết luận đó
là Tội LĐCĐTS hay là vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế, hành chính để có thể
đưa ra kết luận chính xác về tội danh của người phạm tội.
Bên cạnh đó hoạt động áp dụng pháp luật của các chủ thể tiến hành tố
tụng trong việc định tội danh đối với Tội LĐCĐTS cũng có thể bị tác động, bị
ảnh hưởng bởi các lợi ích khác nhau. Mỗi chủ thể có thẩm quyền cần có sự
kiên định, bản lĩnh vững vàng để vượt qua những cám dỗ về lợi ích vật chất,
lợi ích tinh thần cũng như những ảnh hưởng từ các chủ thể khác từ đó có sự
chắc chắn trong việc nhận định hành vi của người phạm Tội LĐCĐTS mới có
thể đưa ra quyết định đúng đắn. Chính vì vậy, chủ thể tiến hành tố tụng khi
ĐTD ngoài việc cần mạnh dạn đưa ra những quan điểm mang chính kiến cá
nhân và tìm cách để bảo vệ quan điểm đó thì còn cần có bản lĩnh chính trị
vững vàng, hiểu biết về các quan điểm, đường lối, chính sách pháp luật của
Đảng, của Nhà nước, chủ động vận dụng sáng tạo, linh hoạt các quy định của


19


×