Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Nâng cao hiệu quả công tác tham gia xóa đói, giảm nghèo góp phần bảo đảm an ninh phi truyền thống tại bộ chỉ huy quân sự tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.56 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH
*** *** ***

PHẠM TUẤN DŨNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THAM GIA
XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO GÓP PHẦN BẢO ĐẢM
AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG
TẠI BỘ CHỈ HUY QUÂN SỰ TỈNH LÀO CAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN TRỊ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG (MNS)

Hà Nội - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH
*** *** ***

PHẠM TUẤN DŨNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THAM GIA
XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO GÓP PHẦN BẢO ĐẢM
AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG
TẠI BỘ CHỈ HUY QUÂN SỰ TỈNH LÀO CAI
Chuyên ngành: Quản trị An ninh phi truyền thống
Mã số: 8900201.05QTD

LUẬN VĂN THẠC SĨ


QUẢN TRỊ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG (MNS)

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HỮU PHÚC

Hà Nội - 2019


CAM KẾT

Tác giả cam kết rằng kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết quả lao động
của chính tác giả thu được chủ yếu trong thời gian học và nghiên cứu và chưa được
công bố trong bất cứ một chương trình nghiên cứu nào của người khác.
Những kết quả nghiên cứu và tài liệu của người khác (trích dẫn, bảng, biểu,
công thức, đồ thị cùng những tài liệu khác) được sử dụng trong luận văn này đã
được các tác giả đồng ý và trích dẫn cụ thể.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng bảo vệ luận văn, Khoa Quản
trị và Kinh doanh và pháp luật về những cam kết nói trên.
Hà Nội, ngày …. tháng ….. năm 2019
Tác giả luận văn

Phạm Tuấn Dũng

i


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến tập thể các giảng viên, cán bộ Khoa
Quản trị và Kinh doanh, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi được học
tập, nghiên cứu và rèn luyện tại Đại học Quốc gia Hà Nội trong thời gian qua.
Bản thân tôi là một quân nhân, một sỹ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam,

ngoài những vấn đề an ninh truyền thống được nghiên cứu, học tập trong ghế nhà
trường của quân đội, được tiếp cận và nghiên cứu chương trình Thạc sỹ Quản trị An
ninh Phi truyền thống đối với tôi là một may mắn. Chương trình giúp tôi có thể
hoạch định những chiến lược quản trị một cách bài bản, khoa học, giúp tôi có thể
nắm bắt được lượng kiến thức rộng rãi, mang tính bao hàm, tổng quát và có cái nhìn
đa chiều về các khía cạnh trong đảm bảo An ninh, phát triển bền vững; tạo điều kiện
giúp bản thân có thể đóng góp những ý tưởng xây dựng kế hoạch quản trị cho cơ
quan, cho quân đội, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Một lần nữa, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến các Thầy, Cô giáo đã
nghiên cứu, xây dựng chương trình Quản trị An ninh Phi truyền thống; các cán bộ,
nhân viên Khoa Quản trị và Kinh doanh đã tạo điều kiện giúp đỡ học tập trong thời
gian qua.
Xin trân thành cảm ơn!

ii


MỤC LỤC

CAM KẾT...................................................................................I
LỜI CẢM ƠN.............................................................................II
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.........................................................V
MỞ ĐẦU...................................................................................1
CHƯƠNG 1...............................................................................9
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÓI, NGHÈO VÀ THAM GIA XÓA ĐÓI,
GIẢM NGHÈO TRONG BẢO ĐẢM AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG.....9
1.1. Khái niệm về đói, nghèo, xóa đói, giảm nghèo....................................................................................9
1.2. Công tác tham gia xóa đói, giảm nghèo của bộ đội địa phương tỉnh Lào Cai......................................18

CHƯƠNG 2.............................................................................24

THỰC TRẠNG BỘ CHỈ HUY QUÂN SỰ TỈNH LÀO CAI THAM GIA XÓA
ĐÓI, GIẢM NGHÈO TRONG BẢO ĐẢM AN NINH PHI TRUYỀN
THỐNG...................................................................................24
2.2. Thực tiễn tham gia xóa đói, giảm nghèo của bộ đội địa phương tỉnh Lào Cai trong giai đoạn 2010 –
2018....................................................................................................................................................... 33
2.2.1. Những ưu điểm của bộ đội địa phương tỉnh Lào Cai trong tham gia xóa đói, giảm nghèo hiện nay và
nguyên nhân của những ưu điểm đó....................................................................................................... 36
2.2.2. Những hạn chế của bộ đội địa phương tỉnh Lào Cai trong tham gia xóa đói, giảm nghèo hiện nay và
nguyên nhân............................................................................................................................................ 49

CHƯƠNG 3.............................................................................56
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
THAM GIA XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO CỦA BỘ CHỈ HUY QUÂN SỰ
TỈNH LÀO CAI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY..............................56
3.1. Yêu cầu tham gia xóa đói, giảm nghèo của bộ đội địa phương tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay. 56
3.1.1. Quán triệt sâu sắc các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng, Nhà nước ta về xóa đói, giảm nghèo.............................................................................................. 56

iii


3.1.2. Tham gia xóa đói, giảm nghèo phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp uỷ, chính quyền
địa phương; sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu 2....................................................58
3.1.3. Bám sát chức năng, nhiệm vụ, phát huy vai trò của các cơ quan thuộc Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Lào
Cai........................................................................................................................................................... 59
3.1.4. Mọi hoạt động của bộ đội địa phương tỉnh Lào Cai tham gia xóa đói, giảm nghèo phải bảo đảm
thiết thực, hiệu quả................................................................................................................................. 60
3.2 Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tham gia xóa đói, giảm nghèo của bộ đội địa phương
tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay...................................................................................................... 61
3.2.1. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, năng lực, trách nhiệm cho mọi cán bộ,

chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân tham gia xóa đói, giảm nghèo trong giai đoạn hiện nay.......................61
3.2.2. Cùng với cấp ủy, chính quyền trên địa bàn, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng tham gia
xóa đói, giảm nghèo................................................................................................................................. 67
3.2.3. Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả các hình thức trong tham gia phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội gắn với xóa đói, giảm nghèo của bộ đội địa phương tỉnh Lào Cai.......................................................69
3.2.4. Đổi mới công tác tham mưu, phối hợp giữa bộ đội địa phương Tỉnh với cấp uỷ đảng, chính quyền,
đoàn thể xã hội, các lực lượng vũ trang khác trên địa bàn thực hiện tốt nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo. .75

KẾT LUẬN...............................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................81
PHỤ LỤC..................................................................................1

iv


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

BĐĐP

Bộ đội địa phương

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

CNXH


Chủ nghĩa xã hội

LLVT

Lực lượng vũ trang

QĐND

Quân đội nhân dân

XĐ, GN

Xóa đói, giảm nghèo

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngay từ năm 1994 Liên Hiệp Quốc đã xác định một trong nội dung đe dọa
an ninh phi truyền thống là an ninh lương thực. Để phát triển kinh tế trong từng địa
phương, hay rộng hơn trong một vùng, miền đều đòi hỏi phải giải bài toán về giải
quyết đói, nghèo; không thể nói kinh tế phát triển khi tình trạng đói, nghèo đang bao
quanh cuộc sống của bộ phận dân cư – đây là một dạng đe dọa, ảnh hưởng trực tiếp
đến an ninh chinh trị xã hội, trật tự an toàn xã hội, nhất là ở vùng biên giới.
Hiện nay Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, vì vậy vấn đề giải quyết an ninh lương thực, an ninh con người luôn nhận
được sự quan tâm của các ngành, các cấp, các lực lượng. Cả trên góc độ vi mô, vĩ mô,
Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để xóa đói, giảm nghèo, nhất là

vùng kinh tế khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, trở thành
quốc gia đi đầu thực hiện thành công mục tiêu thiên nhiên kỷ, đã bảo đảm an ninh
lương thực, được tổ chức Lương thực thế giới (FAO) đánh giá cao, coi đây là hình mẫu
về an ninh lương thực, trong đó có vấn đề về xóa đói, giảm nghèo.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân cả về chủ quan và khách quan, có thể liệt
kê các nguyên nhân như năng lực quản lý nhà nước của một số địa phương về xóa
đói, giảm nghèo còn yếu kém; đội ngũ cán bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo
chưa có năng lực triển khai các chủ trương của Đảng, Nhà nước đến với người dân;
tập quán canh tác, nuôi trồng, sinh hoạt của một số địa phương còn lạc hậu...vì vậy
tỷ lệ đói, nghèo ở Việt Nam hiện nay vẫn ở mức cao, nhất là ở vùng sâu, vùng xa,
biên giới. Vì lẽ đó, công tác xóa đói, giảm nghèo là một trong những chương trình
mục tiêu quốc gia quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong
giai đoạn hiện nay.
Lào Cai là tỉnh miền núi, biên giới, còn gặp nhiều khó khăn trong việc phát
triển kinh tế – xã hội, diện tích đất canh tác có xu hướng giảm, chủ yếu là đồi núi, tỷ
lệ hộ nghèo vẫn ở mức cao so với cả nước. Trong thời gian qua, Tỉnh ủy, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cả hệ thống chính trị đã ban hành nhiều chính
sách, quyết định, quan tâm nhiều về xóa đói, giảm nghèo và bước đầu đã đem lại

1


những kết quả khả quan, đáng khích lệ; có nhiều phương pháp mới, cách làm hay về
xóa đói, giảm nghèo được Trung ương đánh giá cao.
Tuy nhiên, so với mục tiêu, yêu cầu mới về phát riển kinh tế xã hội, nhất là
xóa đói, giảm nghèo bền vững, bảo đảm an ninh lương thực; giảm tỷ lệ hộ nghèo
dưới ngưỡng an toàn đang là thách thức, nhiệm vụ lớn đặt ra cho Đảng bộ, chính
quyền, trong đó có LLVT tỉnh Lào Cai.
BĐĐP tỉnh Lào Cai là bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, cán bộ,
chiến sỹ của BĐĐP tỉnh Lào Cai cơ bản là người địa phương, sinh ra và lớn lên ở

Lào Cai nên hiểu biết nhiều về đời sống, thói quen, tập tục, canh tác của bà con dân
tộc. Với nhiệm vụ là đội quân chiến đấu, lao động sản xuất và là đội quân công tác,
trong những năm qua BĐĐP tỉnh Lào Cai đã quán triệt và thực hiện tốt các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Quân đội, Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh và Hội
đồng nhân dân các cấp, của Đảng bộ Quân khu 2; đã trực tiếp tham mưu cho cấp ủy
đảng, chính quyền địa phương về công tác xóa đói, giảm nghèo bền vững cũng như
trực tiếp tham gia thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu xóa đói, giảm
nghèo, giúp ổn định đời sống của đồng bào, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn, góp phần xây dựng địa phương nơi đóng quân vững mạnh
cả về kinh tế, chính trị, quốc phòng an ninh.
Tuy nhiên, đứng trước mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo bền
vững của Đảng và Nhà nước cũng như Nghị quyết của Đảng bộ chính quyền tỉnh
Lào Cai đề ra, công tác xóa đói, giảm nghèo của BĐĐP tỉnh Lào Cai còn bộc lộ
những khiếm khuyết nhất định như nội dung xóa đói, giảm nghèo chưa đi vào thực
chất, còn mang nặng tính hình thức, làm theo phong trào; chưa bám sát vào thực tế,
chưa hiểu rõ thói quen canh tác, trồng trọt của đồng bào dân tộc thiểu số; sự phối
hợp với các ngành, cáp cấp trong tỉnh chưa cao; nội dung, biện pháp tổ chức thực
hiện còn lúng túng; thực hiện tham gia chưa rõ ràng… Vì vậy, việc nghiên cứu toàn
diện cả lý luận và thực tiễn về tham gia XĐ, GN của BĐĐP tỉnh Lào Cai, trên cơ sở
đó đề xuất giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt hơn tham gia XĐ, GN của BĐĐP
tỉnh Lào Cai hiện nay là vấn đề mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Nhiệm vụ xây dựng và phát triển tỉnh Lào Cai theo Nghị quyết của Đại hội

2


Đảng bộ tỉnh Lào Cai trong những năm tới đã và đang đặt ra cho cả hệ thống chính
trị nói chung, BĐĐP tỉnh Lào Cai nói riêng những yêu cầu mới sát thực hơn, hiệu
quả cao hơn trong nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo. Đây cũng là một trong ba nhiệm
vụ chính trị thuộc chức năng công tác của quân đội. Từ những lý do trên, tác giả lựa

chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả công tác tham gia xóa đói, giảm nghèo góp phần
bảo đảm an ninh phi truyền thống tại Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lào Cai ” làm
luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đều hướng tới mục tiêu
đảm bảo cho đất nước được phát triển bền vững về mọi mặt.
XĐ, GN là nhiệm vụ quan trọng, thuộc hàng quốc sách, luôn nhận được sự
quan tâm của Đảng, nhà nước, các cấp, các ngành, các lực lượng, nhà quản lý, nhà
khoa học. Hiện nay, đã có nhiều công trình khoa học về xóa đói, giảm nghèo của
nhiều tác giả, nhiều tổ chức được bàn luận, lý giải dưới các góc độ khác nhau.
* Nghiên cứu về đói nghèo và xóa đói, giảm nghèo: Từ sau năm 1986 đến
nay đã có nhiều công trình khoa học, đề tài nghiên cứu, bài viết liên quan đến vấn
đề XĐ, GN được công bố. Các công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề đói nghèo
và XĐ, GN ở nhiều khía cạch khác nhau, cụ thể gồm một số công trình như:
PGS.TSKH Lê Du Phong, PTS. Hoàng Văn Hoa (đồng chủ biên), Kinh tế thị
trường và sự phân hóa giàu - nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Các tác giả đã đánh giá những
thành công về phát triển kinh tế qua hơn 10 năm đổi mới và những tiềm năng, thế
mạnh ở vùng núi phía Bắc nước ta.
Năm 2007, Trung tâm thông tin tư liệu và dự báo quốc gia - Bộ Kế hoạch và
Đầu tư đã xuất bản cuốn sách “Tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam Thành tựu, thách thức và giải pháp”, cuốn sách đã phân tích sự tăng trưởng kinh tế
ấn tượng của Việt Nam, thành tựu nổi bật trong công cuộc XĐ, GN từ đó đưa ra
những giải pháp cụ thể để đẩy nhanh, đẩy mạnh công cuộc XĐ, GN ở nước ta.
Viện Khoa học xã hội Việt Nam: Giảm nghèo ở Việt Nam thành tựu và thách
thức, NXB Thế giới, H.2011. Các tác giả đã làm rõ về tổng quan tình hình đói,

3


nghèo ở Việt Nam hiện nay; đưa ra các dự báo, phương pháp đánh giá về nghèo đói

hiện nay; qua đó đề xuất một số giải pháp có tính định hướng chung về XĐ, GN ở
nước ta.
Vũ Minh Cường (2003), “Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm xóa
đói, giảm nghèo ở tỉnh Hà Giang”, Luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Trần Đình Đàn (2002), “Những giải pháp kinh tếxã hội chủ yếu nhằm xóa đói giảm nghèo ở Hà Tĩnh”, Luận án tiến sỹ Kinh doanh
và quản lý, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Hoàng Thị Hiền (2005),
“Xóa đói, giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc ít người tỉnh Hòa Bình - thực trạng
và giải pháp”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viên Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;
Thái Văn Hoạt (2007), “Giải pháp xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Kinh doanh và quản lý, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Về cơ bản các công trình luận văn, luân án trên đã
phân tích tương đối rõ nhưng nội hàm cơ bản về đói nghèo và công tác XĐ, GN ở
nước ta cũng như ở một số vùng có tỷ lệ đói nghèo còn cao, đánh giá đúng thực tế
vấn đề, từ đó đưa ra các dự báo, phương hướng, nhóm giải pháp để nâng cao chất
lượng XĐ, GN ở các địa phương trong thời gian tới.
Các báo cáo có liên quan đến vấn đề nghèo đói và XĐ, GN như: Báo cáo
nghiên cứu chính sách của Ngân hàng thế giới, (2004), “Chính sách đất đai cho
tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo”, Nxb. Văn hóa - Thông tin; Báo cáo phát triển
Việt Nam năm 2004 với chủ đề “Nghèo” đã nêu bật được những thành công của
Việt Nam trong lĩnh vực XĐ, GN sau năm 1986 ; chỉ ra một số khuyết điểm và hạn
chế yếu kém trong cách xách định chuẩn nghèo, tỷ lệ hộ nghèo, các tiêu chí sử
dụng để xác định mức nghèo... Báo cáo phát triển Việt Nam hàng năm đều có nhận
xét tương đối khách quan, chính xác, trung thực về hoạt động xóa đói giảm nghèo ở
Việt Nam và đưa ra dự báo các thách thức tiềm năng.
Ngoài ra còn nhiều bài báo, tạp chí viết về vấn đề XĐ, GN như: TS.Tạ Thị
Lệ Yên, "Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội với mục
tiêu xóa đói, giảm nghèo", tạp chí Ngân hàng số 11/2005; Trịnh Quang Chinh, "Một
số kinh nghiệm từ chương trình xóa đói, giảm nghèo ở Lạng Sơn", tạp chí Lao Động

4



và Xã hội số 272 tháng 10/2005; TS. Đàm Hữu Đắc, "Cuộc chiến chống đói nghèo
ở Việt Nam thực trạng và giải pháp", tạp chí Lao động và Xã hội số 272 tháng
10/2005; TS.Nguyễn Hải Hữu, “Hướng tới giảm nghèo toàn diện, bền vững, công
bằng và hội nhập”, Tạp chí Cộng sản, số 9, tháng 5/2006. Đồng thời, còn có nhiều
công trình khoa học khác nghiên cứu vấn đề XĐ, GN ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu về nghèo đói và XĐ, GN ở nước ta có số
lượng lớn, phong phú, đa dạng. Kết quả của cácg công trình khoa học trên đã cung
cấp những luận cứ khoa học, thực tế cho việc xây dựng, triển khai công tác XĐ, GN
trên phạm vi cả nước và từng vùng, miền khác nhau.
* Một số công trình khoa học bàn về vai trò của Quân đội nói chung, bộ đội
địa phương nói riêng về Quân đội tham gia xóa đói, giảm nghèo như:
Đề tài, “Xây dựng cơ sở chính trị ở các khu kinh tế - quốc phòng thuộc địa
bàn Quân khu 2 hiện nay”, Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự. 2010. Đề tài
đã đi sâu, phân tích tình hình đặc điểm kinh tế - quốc phòng nói chung và khu vực
kinh tế - quốc phòng ở Quân khu 2 nói riêng. Phân tích làm rõ cơ sở chính trị, cấu
trúc của cơ sở chính trị, đặc điểm cơ sở chính trị ở khu kinh tế - quốc phòng trên địa
bàn Quân khu 2. Trên cơ sở phân tích, làm rõ thực trạng, nguyên nhân của thực
trạng, chỉ ra những bài học kinh nghiệm trong thực tiễn và đề xuất giải pháp để
nâng cao chất lượng xây dựng cơ sở chính trị ở khu kinh tế - quốc phòng ở Quân
khu 2 hiện nay.
* Ở Lào Cai có các công trình nghiên cứu, các tư liệu, bài viết như:
Giảng Thị Dung (2014), "Phát triển Khu kinh tế cửa khẩu với xoá đói, giảm
nghèo ở tỉnh Lào Cai", Luận án Tiến sỹ Kinh tế phát triển, Viện nghiên cứu quản lý
kinh tế trung ương. Luận án triển khai dưới góc độ những vấn đề cơ bản của XĐ,
GN, vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước (thông qua các cơ quan) trong thực hiện
các mục tiêu chương trình về XĐ, GN ở địa bàn tỉnh Lào Cai gắn với hoạt động
phát triển Kinh tế cửa khẩu.
Phạm Ngọc Thắng (2010): “Phát triển du lịch gắn với xóa đói giảm nghèo ở

Lào Cai”, Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế, trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Luận
án đã đề cập những vấn đề cơ bản của XĐ, GN gắn với hoạt động phát triển du lịch

5


ở Lào Cái, làm rõ được một số nguyên nhân chính gây đói nghèo cho đồng bào
vùng cao, chỉ ra được tiềm năng du lịch và lợi ích của phát triển du lịch giúp thúc
đẩy kinh tế, giảm nghèo bền vững.
Ngoài ra còn có các báo cáo của Ban chỉ đạo XĐ, GN về tổng kết 10 năm
thực hiện công tác XĐ, GN 2001-2011 và mục tiêu XĐ, GN giai đoạn 2011 – 2015;
Đề án số 09 – ĐA/TU về “Giảm nghèo bền vững tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2016 –
2020”, được Tỉnh Ủy Lào Cai thông qua ngày 27/11/2015.
Như vậy, hiện nay đã có nhiều bài báo, công trình luận văn, luận án đi sâu
nghiên cứu, phân tích về XĐ, GN ở các góc độ, lát cắt khác nhau; các điều kiện tác
động đến công tác XĐ, GN; về vị trí, vai trò của lực lượng vũ trang trong tham gia
XĐ, GN. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập một cách có hệ thống cơ sở lý
luận, thực tiễn cũng như đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
tham gia XĐ, GN của bộ đội địa phương tỉnh Lào Cai dưới góc độ an ninh phi
truyền thống trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, đề tài: “Nâng cao hiệu quả công tác
tham gia xóa đói, giảm nghèo góp phần bảo đảm an ninh phi truyền thống tại Bộ
Chỉ huy quân sự tỉnh Lào Cai ” mà tác giả chọn làm luận văn tốt nghiệp là công
trình độc lập, không trùng lặp với các công trình khoa học và các luận văn, luận án
đã công bố.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
* Mục tiêu chung
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn BĐĐP tỉnh Lào Cai tham gia XĐ, GN hiện
nay, xác định yêu cầu và đề xuất một số giải pháp chủ yếu thực hiện có chất lượng,
hiệu quả việc tham gia XĐ, GN của BĐĐP tỉnh Lào Cai trong thời gian tới.
* Mục tiêu cụ thể

- Tổng hợp một số cơ sở lý luận cơ bản XĐ, GN và vai trò của XĐ, GN đối
với việc đảm bảo an ninh con người và an ninh phi truyền thống.
- Đánh giá thực trạng công tác tham gia XĐ, GN của BĐĐP tỉnh Lào Cai.
- Đề xuất một số giải pháp thực hiện tốt hơn tham gia XĐ, GN của BĐĐP
tỉnh Lào Cai trong thời gian tới.

6


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng
Bộ đội địa phương tỉnh Lào Cai tham gia XĐ, GN trong giai đoạn hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động tham gia XĐ, GN của các đơn vị thuộc Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh
Lào Cai trên địa bàn tỉnh (gồm: Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh, các cơ quan quân sự
huyện, thành phố, Trường quân sự tỉnh và các tiểu đoàn, đại đội trực thuộc Bộ chỉ
huy Quân sự tỉnh Lào Cai) số liệu điều tra khảo sát từ năm 2010 - 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, về bản chất, vai trò, chức năng của Quân đội nhân dân Việt
Nam, về XĐ, GN; các chỉ thị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng,
Đảng bộ Quân khu 2, Đảng bộ tỉnh Lào Cai về các vấn đề liên quan đến đề tài.
Thực tiễn tham gia XĐ, GN của BĐĐP tỉnh Lào Cai (từ năm 2010 đến nay). Các
báo cáo tổng kết và các số liệu điều tra khảo sát về công tác XĐ, GN của các cơ
quan Đảng, chính quyền, tổ chức chính trị xã hội và kết quả điều tra, khảo sát thực
tế của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng tổng hợp các phương pháp: phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử; phương pháp trừu tượng hoá khoa học; phân tích tổng hợp, thống

kê so sánh, lôgíc, lịch sử, điều tra xã hội học; tổng kết thực tiễn và phương pháp
chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần khẳng định vai trò quan trọng của BĐĐP tỉnh Lào Cai tham
gia XĐ, GN trong thời gian qua cũng như hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận
văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học về tham gia XĐ, GN của BĐĐP tỉnh Lào
Cai; giúp cho lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị tham khảo, nghiên cứu, vận dụng trong
quá trình tiến hành tham gia XĐ, GN, góp phần xây dựng địa phương vững mạnh
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng.

7


Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy các
vấn đề liên quan ở các học viện, nhà trường trong Quân đội, làm tài liệu tham khảo
cho đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm: Phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục :
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đói, nghèo và tham gia xóa đói, giảm
nghèo trong bảo đảm an ninh phi truyền thống.
Chương 2 : Thực trạng bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lào Cai tham gia xóa đói,
giảm nghèo trong bảo đảm an ninh phi truyền thống.
Chương 3 : Yêu cầu và một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả công tác
tham gia xóa đói, giảm nghèo của bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lào Cai trong giai đoạn
hiện nay

8



CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÓI, NGHÈO VÀ THAM GIA XÓA ĐÓI,
GIẢM NGHÈO TRONG BẢO ĐẢM AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG
1.1. Khái niệm về đói, nghèo, xóa đói, giảm nghèo
* Khái niệm về đói, nghèo và xóa đói, giảm nghèo:
Khái niệm về đói, nghèo
Đói, nghèo được Liên hợp quốc xác định từ năm 1994, là một hiện tượng tồn
tại phổ biến ở nhiều quốc gia, có nội hàm rộng, luôn thay đổi theo tiêu chí chung
của mỗi nhà nước. Hiện nay, nhiều nhà khoa học và quản lý đã đưa ra nhiều khái
niệm khác nhau. Căn cứ vào tình hình chung kinh tế - xã hội ở Việt Nam, trong
chiến lược toàn diện về tăng trưởng và XĐ, GN đến năm 2020, Việt Nam thừa nhận
định nghĩa chung về đói nghèo do Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu Á - Thái
Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9/1993 các quốc gia
trong khu vực đã thống nhất cho rằng: "Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư
không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã
hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của
từng địa phương" [39, tr. 9]. Khái niệm trên có nội hàm tương đối đầy đủ, được
nhiều tổ chức quốc tế sử dụng, trong đó có Việt Nam. Để đánh giá đúng mức độ
nghèo, người ta chia nghèo thành hai loại: Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống (nhu cầu về ăn, mặc,
nhà ở, chăm sóc y tế, giáo dục...).
Chuẩn nghèo tuyệt đối của thế giới do WB xác định là 1 USD và 2 USD
mỗi ngày mỗi người tính theo ngang giá sức mua (PPP) năm 1993 được dùng
cho các nền kinh tế có mức thu nhập trung bình như Đông Á và Mỹ Latinh.
Ngưỡng 1 USD/ngày/người, thường được sử dụng cho các nước kém phát triển,
chủ yếu là châu Phi.

9



Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức
trung bình của cộng đồng tại địa phương, ở một thời kỳ nhất định. Chuẩn nghèo
tương đối dựa vào nhiều số liệu thống kê khác nhau cho một xã hội.
Trên cơ sở những khái niệm chung của quốc tế đưa ra và xuất phát từ thực
tiễn về cách tiệp cận đói, nghèo ở nước ta, khái niệm nghèo đói, ở Việt Nam còn có
một số khái niệm như: Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống
dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì
cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng,
thường vay mượn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cộng đồng; Hộ đói là hộ
cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được học hành đẩy đủ, ốm đau
không có tiền chữa bệnh, nhà ở tạm bợ, rách nát...; Hộ nghèo là hộ đói ăn không đứt
bữa, mặc không đủ lành, không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất... Xã
nghèo là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những cơ sở hạ tầng thiết
yếu như điện, đường, trường, trạm, nước sạch... trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ
cao; Vùng nghèo: Là địa bàn tương đối rộng nằm ở những khu vực khó khăn hiểm
trở, giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao.
Đói, nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội, do lịch sử để lại, đồng thời là
vấn đề chung của mỗi quốc giai. Do vậy, để giải quyết XĐ, GN chúng ta cần phải
xác định đúng những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới đói nghèo. Có thể khái quát
những nguyên nhân chính gây ra nghèo đói ở nước ta trong thời gian qua như:
Nguyên nhân do nguồn lực hạn chế; nguyên nhân do khí hậu khắc nghiệt,
thiên tai, bão lũ, hạn hán, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp và hậu quả của chiến
tranh; nguyên nhân chủ quan thuộc về người nghèo như mặt bằng dân trí thấp,
không được tiếp cận về giáo dục, thiếu kiến thức sản xuất, không có việc làm, đông
con, thiếu lao động, mắc tệ nạn xã hội, lười lao động, tập quán lạc hậu, tâm lý trông
chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước...; nguyên nhân thuộc về cơ chế, chính sách như
chủ trương, chính sách còn thiếu, không đồng bộ, nhất quán; quản trị các nguồn lực
yếu kém hoặc việc thực hiện các chủ trương chính sách còn yếu kém, dàn trải...
Đây là nguyên nhân có ảnh hưởng khá mạnh mẽ đến tình trạng nghèo của cả nước

nói chung, của các địa phương nói riêng. Như vậy, đói nghèo có nguồn gốc căn

10


nguyên cơ bản từ kinh tế; nhưng với tư cách là hiện tượng tồn tại phổ biến ở các
quốc gia trong tiến trình phát triển, đói nghèo thực chất là hiện tượng kinh tế - xã
hội phức tạp. Từ sự phân tích trên, khi nghiên cứu những tác động ảnh hưởng đến
thực trạng, xu hướng, cách thức giải quyết vấn đề đói nghèo cần phải đánh giá tổng
hợp những tác động của các nhân tố chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Từ đó mới đề ra được các giải pháp có tính chất đồng bộ cho công tác XĐ, GN ở
nước ta, nhất là ở vùng đặc biệt khó khăn, miền núi, biên giới, vùng đồng bào dân
tộc ít người.
Khái niệm về xóa đói, giảm nghèo:
Với lập luận đã được phân tích, do có nhiều cách tiếp cận khác nhau về
nguồn gốc dẫn đến đói, nghèo nên trong khoa học và thực tiễn cũng xuất hiện nhiều
khái niệm khác nhau.
XĐ, GN là nhiệm vụ của mọi nhà nước, quốc gia, kể cả ở các nước tư bản
phát triển. Và đói, nghèo có quan hệ mật thiết với nhau, do đó XĐ, GN cũng có
quan hệ với nhau, nói đến giảm nghèo đã bao hàm xoá đói. Từ cách tiếp cận như
trên thì: xóa đói, giảm nghèo là quá trình trước mắt, lâu dài, kiên trì của Nhà nước,
cộng đồng xã hội hỗ trợ, tạo điều kiện thuận tiện cho các đối tượng đói, nghèo
vươn lên trong sản xuất, cuộc sống từ đó mà thoát khỏi đói, nghèo. Nói một cách
khác, XĐ, GN chính là quá trình chuyển một bộ phận dân cư đói, nghèo lên một
mức sống cao hơn.
Xoá đói và giảm nghèo có nội hàm không giống nhau. Xoá đói, là làm cho
bộ phận dân cư đói nâng cao thu nhập, nâng cao mức sống từ đó mà vượt qua tiêu
chí đói. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người đói giảm xuống bằng không
(xóa sạch) trong một khoảng thời gian xác định. Còn giảm nghèo, là làm cho bộ
phận dân cư nghèo nâng cao thu nhập, nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi

tình trạng nghèo. Nó được biểu hiện số lượng người nghèo giảm xuống theo thời
gian. Đối với nghèo, trong điều kiện hiện nay chúng ta không thể xoá hết được mà
chỉ có thể từng bước giảm nghèo do khái niệm nghèo gồm cả nghèo tương đối và
nghèo tuyệt đối; đối tượng giảm nghèo không chỉ là cá nhân, hộ mà còn bao gồm cả
địa phương nghèo, vùng nghèo, xã nghèo.

11


Mục đích của xóa đói, giảm nghèo:
Mục đích của XĐ, GN là hướng tới các đối tượng, hộ thuộc diện nghèo đói ở
nước ta vươn lên thoát nghèo, từng bước bảo đảm tiến tới nâng cao cuộc sống; là
thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội, nhằm mục tiêu chung xây dựng
cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đất nước phồn vinh.
Trên tinh thần như vậy, công tác XĐ, GN phải được quán triệt và thực hiện
trên cơ sở kế hoạch hoá bằng các chương trình dự án cụ thể của các lực lượng trong
toàn xã hội. Trên bình diện tổng thể XĐ, GN có những mục đích chính bao gồm:
Tái tạo tiềm năng nhân lực là đối tượng thuộc chính XĐ, GN; đồng đều phát triển
tất cả các nguồn lực; góp phần vào sự nghiệp xây dựng vững chắc xã hội không còn
đói nghèo, nhất là ở các vùng có khó khăn, những vùng sâu, vùng xa và những cá
nhân gặp điều kiện đặc biệt khó khăn; xây dựng môi trường thuận lợi cho một bộ
phận dân cư có nhiều điều kiện hoà nhập với xã hội, có khả năng tiêu thụ những sản
phẩm vật chất và tinh thần một cách đúng đắn, tiết kiệm; xây dựng được một mô
hình theo lối sống xã hội chủ nghĩa với những đặc điểm chủ yếu là sự phát triển
toàn diện của mỗi cá nhân với sự phát triển của cộng đồng trên cơ sở kế thừa giá trị
truyền thống, bền vững.
Do mặt bằng chung của nền kinh tế, ở một số vùng, nhất là khu vực miền
núi, khu vực giáp biên, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngoài
gặp những khó khăn về đời sống vật chất, tinh thần thiếu thốn còn gặp phải các tệ
nạn phức tạp của xã hội như ma túy, cờ bạc, mua bán người cũng như sự tuyên

truyền lôi kéo của các thế lực thù địch... Những tệ nạn này đi với đói nghèo thường
xuyên sẽ dẫn đến sự mất ổn định chính trị xã hội. Tuy thời gian qua Nhà nước cùng
địa phương đã xây dựng một số chương trình, dự án được triển khai ở các khu vực
này, nhưng về cơ bản chưa đáp ứng được thực tiễn đặt ra. Do đó cần tiếp tục có
những chính sách mới, có tính bước ngoặt về chương trình phát triển kinh tế và XĐ,
GN cho đồng bào, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, ổn định tình hình
an ninh chính trị xã hội, trật tự an toàn xã hội, gây niềm tin của đồng bào với chế
độ, với Đảng, với Nhà nước.

12


Thời gian qua, các cấp, các ngành, chính quyền địa phương, các lực lượng đã
thực hiện nhiều chương trình, dự án nhằm giúp đỡ các xã đặc biệt khó khăn về kinh
tế. Điều đó không chỉ có ý nghĩa về kinh tế, mà còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc,
rộng lớn trên tất cả các mặt.
* Quan điểm của học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đói,
nghèo và xóa đói, giảm nghèo.
Đói, nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội nhận được nhiều bàn luận của
các nhà quản lý, khoa học trên phạm vi toàn cầu cả về quá khứ, hiện tại và tương lai
quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ khác nhau người ta
đưa ra lý giải không giống nhau về hiện tượng, nguyên nhân và cách tiếp cận giải
quyết đói, nghèo. Điều đó phụ thuộc vào sự nhìn nhận, đánh giá dưới lăng kính
khác nhau của của mỗi người, mỗi trường phái.
Nguyên nhân dẫn đến nguồn gốc trực tiếp đến tình trạng nghèo đói, phân tích
xã hội tư bản C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập trong nhiều tác phẩm, học thuyết của
mình khá đầy đủ và sâu sắc tình cảnh nghèo đói và bị bóc lột đến cùng cực của
những người vô sản và những người làm thuê trong chủ nghĩa tư bản. Trong các tác
phẩm kinh điển về giai cấp công nhân, về bóc lột giá trị thặng dư, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã mô tả cặn kẽ, xác thực tình cảnh nghèo đói của những người công

nhân phải bán sức lao động cho chủ tư bản để kiếm sống. Phụ nữ và trẻ em, người
già phải làm việc đến kiệt sức trong các nhà máy; nông dân bị cướp đoạt ruộng đất,
không có tư liệu sản xuất... và trở thành nạn nhân bị bóc lột đến cùng cực giá trị
thặng dư tương đối và giá trị thặng dư tuyệt đối của các chủ tư bản trong các thời kỳ
tích lũy nguyên thủy và cạnh tranh tự do của CNTB. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen,
bản chất nguồn gốc dẫn đến tình trạng bóc lột và hậu quả nghèo đói là phương thức
phân phối giá trị thặng dư trong xã hội một cách bất công giữa nhà tư bản và người
lao động. Tiếp tục những nghiên cứu về giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng
dư tuyệt đối của các chủ tư bản của C.Mác và Ph.Ăngghen, VI.Lênin đã chỉ ra
những mâu thuẫn kinh tế xã hội gay gắt không thể tránh khỏi trong thời kỳ CNTB
độc quyền, lũng đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Từ đó, V.I. Lênin rút ra kết

13


luận nghèo khổ không chỉ xuất hiện trong lòng các nước tư bản mà còn ở trong các
nước thuộc địa, phụ thuộc, các dân tộc bị áp bức.
Để mang lại cơm ăn áo ấm cho người nghèo, theo C.Mác và Ph.Ăngghen,
chỉ có thể là xóa bỏ chế độ tư hữu, bóc lột mới có thể giải phóng con người – những
người vô sản và những người lao động khỏi cảnh nghèo đói lầm than, đưa họ trở
thành người lao động tự do và làm chủ, tiến tới một xã hội công bằng, văn minh.
VI.Lênin cho rằng, không có con đường nào khác muốn giải phóng toàn bộ giai cấp
vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới khỏi ách áp bức thống trị của
CNTB phải tiến hành cách mạng vô sản do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tinh hoa của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận
dụng sáng tạo vào hoàn cảnh ở nước ta. Người chủ trương: làm cách mạng để giành
độc lập tự do cho tổ quốc; để "đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành" [20, tr. 161]. Ngày 3/9/1945 ngay sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập
khai sinh Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm đặc biệt đến nạn đói

năm Ất Dậu, từ đó thực hiện nhiệm vụ chống đói nghèo. Theo Hồ Chí Minh, đói và
dốt cũng là giặc, thứ giặc này nguy hiểm không kém giặc ngoại xâm, giành được
độc lập rồi mà nhân dân vẫn sống trong cảnh nghèo nàn, lạc hậu thì độc lập cũng có
nghĩa lý gì. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Người đã nêu 6
nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ, trong đó việc cấp bách hàng đầu là phải cứu dân
khỏi chết đói. Người kêu gọi toàn dân ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm,
quyên góp gạo để cứu đói, và Người gương mẫu thực hiện. Người nói: " Tôi xin đề
nghị đồng bào cả nước và tôi xin thực hiện trước. Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi
tháng nhịn ăn 3 bữa, đem gạo đó để cứu dân nghèo" [20, tr. 89].
Trong công cuộc xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh quan niệm rằng CNXH là
mang lại cơm no áo ấm, không có nghèo đói, bần cùng và lạc hậu. Theo Hồ Chí
Minh, tính chất ư việt hơn hẳn của CNXH là đem lại ngày càng nhiều vật chất, ngày
càng tốt hơn những lợi ích thiết thân hàng ngày cho nhân dân như ăn no, mặc ấm,
có nhà ở, được học hành... Hồ Chí Minh nói: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là
phải hết sức chăm nom đến đời sống nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có

14


lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi" và "dân đủ ăn đủ mặc thì chính sách
của Đảng và Chính phủ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách
của ta dù có hay mấy thì cũng không thực hiện được” [22, tr. 572]. Đồng thời,
Người còn chủ trương "Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu,
người khá giàu thì giàu thêm" [21, tr. 65]. Theo Hồ Chí Minh, việc xóa đói phải tiến
tới giảm nghèo và tăng giàu, đói nghèo là một cửa ải cần vượt qua, phải tiến tới giàu
có, vì "Dân có giàu thì nước mới mạnh". Những tư tưởng này của Hồ Chí Minh đã
được Đảng ta vận dụng, thực hiện trong suốt thời gian qua, nhất là từ Đại hội VI
thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.
* Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xóa đói, giảm
nghèo

Kể từ khi giành được độc lập năm 1945, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm
đến công tác XĐ, GN, coi đây là một trong những nhiệm vụ chính của Chính phủ.
Từ khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc(1954) và đất nước hoàn toàn thống nhất
(1975), Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, Chính phủ đã có nhiều quyết sách để
xóa dần nghèo đói như: Cải cách ruộng đất; xây dựng các công trình thủy lợi; miễn
giảm thuế... Làm cho dân bớt nghèo, vươn lên giàu không phải là chính sách mỵ
dân, nhất thời, mà là chủ trương lớn có tính chiến lược, là mục tiêu xuyên suốt của
Đảng và Nhà nước ta. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, đất nước ta
bước vào công cuộc đổi mới toàn diện, nhất là đổi mới vê kinh tế làm cho đời sống
của đại đa số nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nhưng do cơ sở hạ tầng còn yếu kém
cộng với điểm xuất phát của nền kinh tế còn nhỏ yếu, lại chịu hậu quả to lớn của
thiên tai và hậu quả của các cuộc chiến tranh (1975, 1978, 1979), kèm theo tác động
mạnh mẽ của cơ chế kinh tế thị trường, nên sự phân hóa thu nhập, đời sống giữa
các vùng miền ngày càng tăng nhanh, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế đặc
biệt khó khăn. Trong quá trình chuyển đổi cơ chế, một bộ phận người dân kể cả
những gia đình có công với cách mạng, chịu nhiều thua thiệt. Vì vậy, việc thu hẹp
khoảng cách chênh lệch giàu, nghèo và trợ giúp người nghèo thoát nghèo đã nhận
được sự quan tâm của toàn xã hội – đây cũng là những biểu hiện thể hiện bản chất
tốt đẹp của chế độ.

15


Từ thực tiễn phong trào XĐ, GN, Nghị quyết TW5 khóa VII đã xác định một
nhiệm vụ có ý nghĩa kinh tế - chính trị, xã hội to lớn: "Tăng thêm diện giàu và đủ
ăn, XĐ, GN, nhất là ở vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng
trước đây là căn cứ cách mạng" [13, tr. 103]. Thực hiện chủ trương của Đảng và
Chính phủ, phong trào XĐ, GN trong cả nước đã trở thành cuộc vận động lớn mang
ý nghĩa xã hội sâu sắc, có tác dụng thiết thực đáng kể làm giảm đáng kể số hộ đói
nghèo, giúp cho các hộ còn nghèo, đói giảm bớt nhiều khó khăn. Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đề ra mục tiêu "Giảm tỷ lệ hộ nghèo đói trong tổng
số hộ của cả nước từ 20-25% hiện nay xuống còn khoảng 10% vào năm 2000, bình
quân giảm 300 nghìn hộ/năm. Trong 2 đến 3 năm đầu của kế hoạch 5 năm tập trung
xóa cơ bản nạn đói kinh niên" [14, tr. 120].
Văn kiện lần thứ IX Đảng ta xác định "Khuyến khích làm giàu hợp pháp,
đồng thời ra sức xóa đói, giảm nghèo" [15, tr. 163]. Mục tiêu chiến lược XĐ, GN
thời kỳ 2001-2010 do Đại Hội IX đề ra là "Nhà nước tạo môi trường thuận lợi,
khuyến khích mọi người dân vươn lên làm giàu chính đáng và giúp đỡ người
nghèo... phấn đấu đến năm 2010, về cơ bản không còn hộ nghèo, thường xuyên
củng cố thành quả xóa đói, giảm nghèo" [15, tr. 211]. Tới Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Khuyến khích mọi người làm giàu theo
pháp luật, thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói, giảm nghèo, tạo điều kiện
và cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội
cơ bản, vươn lên thoát nghèo vững chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cư
nghèo. Khắc phục tư tưởng bao cấp, ỷ lại”[16, tr. 101]. Tới kỳ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI, Đảng ta quyết tâm khẳng định: “Nâng cao thu nhập và chất lượng
cuộc sống của nhân dân... Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù
hợp với từng thời kỳ; đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để bảo đảm giảm
nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn.
Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá
trở lên. Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hoá giàu
nghèo…” [ 17, tr.124-125]. Qua các văn kiện đại hội trên, dễ nhận thấy chủ trương
về XĐ, GN của Đảng, Nhà nước ta ngày càng thể hiện rõ quan điểm XĐ, GN gắn

16


với phát triển bền vững, gắn với phương châm tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển, góp phần thực hiện mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh" [17, tr. 153].
Thể chế hóa quan điểm của Đảng, Chính phủ xác định mục tiêu cần đạt được
trong giảm nghèo từ 2011 đến 2020 đó là: Giảm nghèo bền vững được xác định là
một trong những trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011
– 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo,
trước hết ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành
thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư. Cụ thể cần đạt
được: Thu nhập của hộ nghèo tăng lên 3,5 lần; tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm
2%/năm, riêng các huyện nghèo, xã nghèo giảm 4%/năm theo chuẩn nghèo từng
giai đoạn [26, tr. 18]; Điều kiện sống của người nghèo được cải thiện rõ rệt, trước
hết là vấn đề y tế, giáo dục, văn hóa, nước sinh hoạt, nhà ở; người nghèo tiếp cận
ngày càng thuận lợi hơn các dịch vụ xã hội cơ bản; Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở
các huyện nghèo; xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn được tập trung đầu tư đồng
bộ theo tiêu chí nông thôn mới, trước hết là hạ tầng thiết yếu như: giao thông, điện,
nước sinh hoạt.
Để hiện thực hóa các mục tiêu đã xác định, đòi hỏi sẽ tiếp tục thực hiện
những chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo đã và đang thực hiện như:
Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, thực hiện Chương trình 135 giai
đoạn 3, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ và các chương trình phát
triển kinh tế xã hội khác. Chính phủ xác định các nguồn lực để xóa đói, giảm nghèo
sẽ được huy động các nguồn lực tối đa, không chỉ bằng ngân sách Nhà nước mà còn
huy động được sự tham gia của các tập đoàn kinh tế, các Tổng Công ty nhà nước,
Ngân hàng thương mại… và đặc biệt là từ chính bản thân người nghèo. Xây dựng
nhiều phương thức hỗ trợ người nghèo như hỗ trợ trong vay vốn tín dụng ưu đãi, hỗ
trợ về nhà ở, hỗ trợ về cung cấp và tạo điều kiện duy trì với các loại dịch vụ, hỗ trợ
giao đất, giao rừng; về đào tạo nguồn nhân lực… Đồng thời khắc phục những hạn

17



chế như: Các chương trình giảm nghèo triển khai chưa toàn diện, nhiều chính sách,
chương trình giảm nghèo được ban hành nhưng còn mang tình ngắn hạn, chồng
chéo, nguồn lực cho giảm nghèo chưa đáp ứng yêu cầu, lại bị phân tán, dàn trải,
thiếu giải pháp cụ thể gắn kết việc thực hiện chính sách giảm nghèo với chính sách
an sinh xã hội, việc phối hợp chỉ đạo thực hiện giữa các bộ, ngành, địa phương chưa
chặt chẽ, hiệu quả…[8, tr. 29].
Đánh giá về quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về XĐ, GN có thể thấy: XĐ, GN vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là
nhiệm vụ trọng tâm trước mắt của các cấp, ban ngành; tăng trưởng kinh tế là điều
kiện giúp cho việc XĐ, GN, nhưng đây là hai nhiệm vụ có tính độc lập tương đối và
không phải là một. Bên cạnh đó, XĐ, GN và thực hiện công bằng xã hội không có
nghĩa là kìm hãm sự phát triển kinh tế, không có nghĩa là cào bằng, và XĐ, GN
được xác định là trách nhiệm chung. Từ cách tiếp cận như trên, có thể rút ra một số
quan niệm về đói nghèo và XĐ, GN như sau:
1.2. Công tác tham gia xóa đói, giảm nghèo của bộ đội địa phương tỉnh Lào Cai
* BĐĐP tỉnh Lào Cai tham gia xóa đói, giảm nghèo
Công tác xóa đói, giảm nghèo
Từ chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, từ đặc điểm tình hình địa bàn và đặc
điểm hoạt động của BĐĐP tỉnh Lào Cai có thể quan niệm: Bộ đội địa phương tỉnh
Lào Cai tham gia xóa đói, giảm nghèo là hoạt động có tổ chức, theo chức năng
nhiệm vụ, dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương mà trực tiếp là Đảng uỷ, Ban
chỉ huy quân sự các cấp, bao gồm tổng thể các chủ trương, biện pháp, cách thức để
tác động lên các chủ thể kinh tế xã hội nhằm góp phần giải quyết vấn đề nghèo đói,
thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, từ đó hướng đến xây dựng tỉnh Lào Cai
giàu đẹp, vững mạnh, dân chủ, văn minh.
Quan niệm trên phản ánh bản chất, chức năng, nhiệm vụ của chủ thể tiến
hành tham gia XĐ, GN với những nội dung, biện pháp, hình thức cụ thể được thể
hiện trên một số vấn đề sau:
Bộ đội địa phương tỉnh Lào Cai tham gia xóa đói, giảm nghèo là hoạt động

tham gia có tổ chức góp phần xóa đói, giảm nghèo cho nhân dân trên địa bàn Tỉnh.

18


×