Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Xây dựng chiến lược phát triển bền vững cho công ty TNHH sản xuất và thương mại nhựa hải long giai đoạn 2020 2025

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.21 KB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH
*** *** ***

ĐỖ KIM THÚY

XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
CHO CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI
NHỰA HẢI LONG GIAI ĐOẠN 2020 - 2025

LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN TRỊ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG (MNS)

Hà Nội - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH
*** *** ***

ĐỖ KIM THÚY

XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
CHO CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI
NHỰA HẢI LONG GIAI ĐOẠN 2020 - 2025
Chuyên ngành: Quản trị An ninh phi truyền thống
Mã số: 8900201.05QTD

LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN TRỊ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG (MNS)


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG ĐÌNH PHI

Hà Nội - 2019


CAM KẾT
Tác giả cam kết rằng kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết quả lao động
của chính tác giả thu được chủ yếu trong thời gian học và nghiên cứu, và chưa được
công bố trong bất cứ một chương trình nghiên cứu nào của người khác.
Những kết quản nghiên cứu và tài liệu của người khác (trích dẫn, bảng, biểu,
công thức, đồ thị cùng những tài liệu khác) được sử dụng trong luận văn này đã
được các tác giả đồng ý hoặc có trích dẫn cụ thể.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng bảo vệ luận văn Chương trình
thạc sĩ Quản trị an ninh phi truyền thống (MNS), Khoa Quản trị và Kinh doanh, Đại
học Quốc gia Hà Nội và pháp luật về những cam kết nói trên.
Hà Nội, ngày

tháng 9 năm 2019

Tác giả luận văn

Đỗ Kim Thúy

i


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình làm luận văn với những kiến thức được học, tham khảo tài liệu và
tình hình thực tế, cùng với sự giúp đỡ của các thầy Thượng tướng, TS. Nguyễn Văn
Hưởng, PGS.TS. Hoàng Đình Phi và sự giúp đỡ, chỉ bảo của các thầy giáo, cô giáo

giảng dạy trong Chương trình Thạc sĩ Quản trị an ninh phi truyền thống (MNS) tại Khoa
Quản trị và Kinh doanh, Đại học Quốc Gia Hà Nội và các bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã
hoàn thành luận văn của mình.
Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc tới thầy PGS.TS.
Hoàng Đình Phi là giảng viên trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn khoa học đã tận tình
hướng dẫn cho tôi cả về chuyên môn và phương pháp nghiên cứu và chỉ bảo cho tôi
nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Quản trị và Kinh
doanh, bạn bè, đồng nghiệp luôn giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như trong
quá trình hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cám ơn các anh, chị trong Công ty TNHH Sản xuất và
Thương mại Nhựa Hải Long đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập dữ liệu và cung
cấp thông tin của luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình luôn tạo điều kiện tốt
nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập cũng như quá trình thực hiện luận văn.
Mặc dù bản thân luôn nỗ lực cố gắng để hoàn thành luận văn, tuy nhiên luận
văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành
của các thầy cô và các nhà khoa học để tiếp tục hoàn thiện năng lực nghiên cứu
trong thực tiễn công tác.

ii


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT..…………………………………………………….v
DANH MỤC HÌNH VẼ....……………………………………………………..….vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU.………..………………………………………….…..vi
CAM KẾT.................................................................................................................i
3.1. Định hướng phát triển của Công ty..........................................................................................56
..........................................................................................................................................................56

3.1.1. Mục tiêu phát triển................................................................................................................56
..........................................................................................................................................................57
3.1.2. Định hướng phát triển lâu dài...............................................................................................57

iii


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Nhựa Hải Long là công ty nghiên
cứu chuyển giao công nghệ và sản xuất được thành lập từ năm 2009, trải qua
nhiều năm phấn đấu và trưởng thành từ một cơ sở sản xuất nhỏ phát triển thành
công ty có vốn điều lệ 10.000.000.000 đồng (Mười tỷ đồng chẵn), diện tích mặt
bằng rộng 6.000m2, cơ sở vật chất hiện đại, sản phẩm của Công ty đạt được
chứng nhận là hàng hóa phù hợp với tiêu chuẩn Việt Nam. Công ty sản xuất,
kinh doanh phục vụ cho mục đích nâng cao đời sống người dân, mang lại những
sản phẩm tiện lợi và thiết yếu nhất đối với người tiêu dùng; những sản phẩm của
Công ty được tiêu thụ rộng rãi trên khắp thị trường Việt Nam và quốc tế. Công ty
giành được nhiều hợp đồng và dự án lớn trong và ngoài nước... Năm 2012, Công
ty được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Đơn vị xuất sắc đi đầu về lĩnh vực
ngành nhựa” và nhiều huân chương khác.
Với vai trò là công ty chuyên hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất và kinh
doanh ngành nhựa, bao bì, chai Pet, bao xi măng, than mực; hoạt động sản xuất
chính của Công ty là sản xuất vỏ chai nhựa dùng trong đời sống dân dụng như: vỏ
chai nước ngọt, nước lọc, bia rượu, nước giải khát… Thị trường kinh doanh chính là
địa bàn các tỉnh phía Bắc như: Thành phố Hà Nội, Lạng Sơn, Sơn La, Bắc Giang,
Quảng Ninh, Hải Phòng… Danh mục khách hàng chủ yếu là: Công ty Cổ phần
nước tinh khiết Hà Nội, Công ty An Sơn, Công ty Bia Việt Đức, Công ty nước
khoáng và Thương mại dịch vụ Quảng Ninh, Công ty Bia Việt Hà...
Sau khi thành lập, Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Nhựa Hải Long

đi vào ổn định tổ chức và hoạt động hiệu quả. Sự trưởng thành của Công ty
không chỉ thể hiện ở cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, mà còn thể hiện ở trình độ
quản lý kinh tế đã và đang từng bước được hoàn thiện và nâng cao. Trong nền
kinh tế thị trường đầy cạnh tranh và thử thách, các doanh nghiệp luôn phải tìm
cách đi lên bằng chính nội lực của mình, tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm
về mọi mặt. Công ty dần nhận ra những mặt yếu kém không phù hợp với cơ chế
mới nên đã có nhiều biện pháp kinh tế hiệu quả, từng bước khắc phục khó khăn,
dần hòa nhịp với nền kinh tế thị trường. Thực tế những năm vừa qua, Công ty đã
1


quan tâm và có nhiều chương trình, kế hoạch đảm bảo sản xuất phát triển bền
vững. Tuy nhiên, do thiếu chiến lược phát triển bền vững nên hiệu quả kinh
doanh chưa thật cao.
Trong nhiều năm qua, Công ty đã thu được một số thành công nhưng cũng
gặp không ít khó khăn xuất phát từ thực tiễn thời gian qua hoạt động của các
công ty nhỏ gặp sự cạnh tranh gay gắt từ các công ty lớn, các tập đoàn nước
ngoài; cơ chế dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn nhiều bất cập, việc chủ
động hội nhập quốc tế còn hạn chế do nền kinh tế thị trường nước ta là nền kinh tế
nhiều thành phần, đa dạng về loại hình doanh nghiệp; trong đó, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại được xem như những mạch
máu li ti khơi thông đến mọi nơi của cơ thể là nền kinh tế còn nghèo nàn, lưng vốn
ít. Bán hàng có thể nói là nhiệm vụ quan trọng nhất, là vấn đề “sống còn” đối với
mỗi doanh nghiệp thương mại; tiêu thụ được hàng hoá, doanh nghiệp mới bù đắp
được chi phí bỏ ra, mới quay vòng vốn nhanh, từ đó thực hiện được mục tiêu cuối
cùng - lợi nhuận, tiếp tục chu kỳ sản xuất, kinh doanh tiếp theo và khẳng định
thương hiệu doanh nghiệp trên thương trường. Ngược lại, nếu không thu được lợi
nhuận thì doanh nghiệp sẽ nhanh chóng đi đến bờ vực của sự phá sản. Như chúng
ta đã biết, trong sản xuất, kinh doanh chúng ta không chỉ dừng lại ở việc đánh
giá kết quả sản xuất, kinh doanh mà còn đánh giá chất lượng quá trình sản xuất,

kinh doanh tạo nên thành quả đó. Đây chính là vấn đề thiết thực nhất của mỗi
doanh nghiệp, trong nền kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa và dịch vụ luôn có
sự cạnh tranh, để tồn tại và phát triển buộc các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu
quả, đây là vấn đề mấu chốt, mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp. Do đó,
chất lượng của công tác quản lý ở từng giai đoạn, mỗi hoạt động sản xuất, kinh
doanh là rất cần thiết; tất cả những cải tiến về nội dung và phương pháp quản lý
thực sự có ý nghĩa nếu làm tăng hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường là sự cạnh
tranh gay gắt; bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, không ngừng mở
rộng, nâng cao vị thế của mình trên thị trường trong nước và nước ngoài thì vẫn còn
tồn tại không ít những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thu nhập không đủ bù
2


đắp những khoản chi phí, có nguy cơ đứng trước sự phá sản, giải thể. Nguyên nhân
tình trạng trên có nhiều, song nhìn nhận đánh giá một cách tổng thể, khách quan thì
nguyên nhân của sự đổ vỡ, phá sản của các doanh nghiệp là do sự yếu kém trong
khâu tổ chức sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, với mục tiêu cao nhất là lợi nhuận đòi
hỏi doanh nghiệp thương mại phải luôn xác định được cho mình mục đích kinh
doanh cái gì? kinh doanh như thế nào?... nhằm đem lại lợi nhuận lớn nhất cho
doanh nghiệp. Sự thay đổi về cơ chế kinh tế dẫn đến sự thay đổi mục đích và yêu
cầu quản lý. Công tác quản trị với tư cách là công cụ quan trọng quản lý nền kinh tế
nói chung, đối với từng doanh nghiệp nói riêng cần được hoàn thiện sao cho phù
hợp với yêu cầu mới. Hoàn thiện lý luận về công tác quản trị cũng như việc áp dụng
vào thực tiễn từng doanh nghiệp luôn được đặt ra như một nhu cầu tất yếu.
Thực tế cho thấy, lĩnh vực hoạt động của Công ty còn nhiều tồn tại và yếu
kém như: 1. Giá cả dịch vụ chưa bám sát giá thị trường, không phản ánh đúng
chi phí hợp lý đầu vào; 2. Chất lượng dịch vụ do Công ty cung cấp không cao,
thiếu hụt so với yêu cầu của khách hàng (thị trường), một phần do Công ty

không có động lực cải thiện chất lượng, số lượng và phạm vi cung ứng dịch vụ
của Công ty bị hạn chế do những ràng buộc cứng nhắc về cơ chế thành lập và
hoạt động; 3. Đội ngũ cán bộ, công nhân viên trình độ chưa cao, chưa đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ thương mại… Điều này cho thấy, nếu không có nghiên
cứu, dự báo và xây dựng chiến lược phát triển bền vững thì Công ty không thể
đáp ứng được những yêu cầu nhiệm vụ ngày càng phức tạp trên lĩnh vực sản xuất
và kinh doanh thương mại trong tình hình hiện nay.
Để hạn chế tối đa các thất bại dẫn tới tình trạng kinh doanh bị trì trệ, buộc
phải giải thể, tự giải thể, tạm ngưng hoạt động, doanh nghiệp vừa và nhỏ cần xác
định phạm vi và đối tượng mình hướng tới; trên cơ sở quy mô, tiềm lực, loại hình
hoạt động, các doanh nghiệp phải có chiến lược phù hợp trong việc lựa chọn thị
trường, phân khúc thị trường để khai thác kinh doanh. Lựa chọn phân khúc thị
trường phù hợp là một giải pháp, sự chuẩn bị kỹ lưỡng, an toàn cho sự phát triển ổn
định của doanh nghiệp. Đồng thời, mỗi doanh nghiệp cần khai thác hiệu quả các
nguồn lực hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển, đó là: giải pháp hỗ trợ từ nhà đầu tư trong
và ngoài nước; chính sách, kế hoạch hỗ trợ của Nhà nước về nguồn vốn, tài chính,
3


công nghệ, quản trị, kinh doanh...; bên cạnh vai trò hỗ trợ của nhà nước, bản thân
doanh nghiệp nên chủ động đầu tư cải tiến công nghệ, nghiên cứu, học hỏi và ứng
dụng những mô hình, phương pháp kinh doanh mới, đẩy mạnh ứng dụng khoa học
công nghệ và các phương thức mới để phát triển nhanh hơn. Mặt khác, sự liên minh,
liên kết của nhóm doanh nghiệp kinh doanh, hoạt động cùng ngành nghề dưới hình
thức hợp tác kinh doanh, liên doanh, liên danh... cũng là một giải pháp phù hợp
nhằm phát huy vai trò, thế mạnh của từng doanh nghiệp. Những năm gần đây, xu
thế kinh tế quốc tế và khu vực Đông Nam Á tác động không nhỏ đến sự phát triển
kinh tế Việt Nam. Tốc độ tăng năng suất lao động của khu vực này tương đối ổn
định, nên dù có đóng góp lớn cho nền kinh tế nhưng hiện nay doanh nghiệp vừa và
nhỏ vẫn rất khó tiếp cận với nguồn vốn (vốn tín dụng từ các ngân hàng, nguồn vốn

từ các quỹ…) để phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Điều này khiến doanh nghiệp
vừa và nhỏ phải đối mặt với sự khác biệt trên nhiều khía cạnh liên quan đến hoạt
động kinh doanh, thương mại như: tư duy kinh doanh, nhận thức, niềm tin, tâm lý
khách hàng, văn hóa ứng xử... Do đó, mỗi doanh nghiệp cần sử dụng có hiệu quả
các giải pháp hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng xã hội và tự thân. Đối với cộng đồng
doanh nghiệp, doanh nhân, cần quan tâm đổi mới quản trị doanh nghiệp; nêu cao
tinh thần tự hào dân tộc, ý thức tuân thủ pháp luật, liêm chính trong kinh doanh; xây
dựng văn hóa doanh nghiệp, đạo đức doanh nhân, cạnh tranh lành mạnh và phát huy
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Thời gian qua, Chính phủ không ngừng triển khai thực hiện các giải pháp cải
thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, hoàn thiện khung pháp lý với tư tưởng đổi mới
mạnh mẽ, tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển. Năm 2014, Chính phủ trình
Quốc hội thông qua Luật Đầu tư và Luật DN (sửa đổi) nhằm tạo sự thay đổi tích
cực môi trường đầu tư kinh doanh; bên cạnh đó, Luật Đất đai, Luật Thương mại,
Luật Phá sản, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật thuế Thu nhập DN và hàng loạt các văn bản
quy phạm pháp luật được ban hành, tác động tích cực tới cộng đồng DN. Chính phủ
chỉ đạo, đôn đốc triển khai quyết liệt việc thực hiện các giải pháp đẩy mạnh công
tác cải cách hành chính, tạo sự chuyển biến, nâng cao chất lượng phục vụ của chính
quyền các cấp đối với người dân và DN; xoá bỏ mọi rào cản, đảm bảo quyền tự do
bình đẳng kinh doanh của cá nhân và DN. Cụ thể, Chính phủ ban hành Nghị quyết
4


số 19/NQ-CP về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia; Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 và Chỉ thị số 26/CT-TTg về hỗ
trợ và phát triển DN đến năm 2020; Nghị quyết số 75/NQ-CP về cắt giảm mức phí,
chi phí cho DN; Nghị quyết số 98/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính
phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Đảng về vấn
đề phát triển kinh tế tư nhân...; đồng thời, đẩy mạnh thực hiện các giải pháp nhằm
tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, minh bạch cho các thành phần kinh

tế, chú trọng công tác trợ giúp phát triển DN vừa và nhỏ. Triển khai hiệu quả Nghị
quyết Trung ương 5 khóa XII về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
doanh nghiệp Nhà nước và phát triển doanh nghiệp tư nhân. Tiếp tục rà soát, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, tạo đột phá về thể chế, nhất là việc đổi mới mô hình tăng
trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, các lĩnh vực kinh tế, quy hoạch phát triển, xây
dựng các đơn vị hành chính kinh tế, chú trọng tạo động lực phát triển; hệ thống
pháp luật về đầu tư công, NSNN, DNNN, nợ công, tài sản và nguồn lực công như
đất đai, tài nguyên; hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh, đất đai, xây dựng, nhà
ở, kiểm tra chuyên ngành hàng hóa, các chính sách cụ thể cải thiện môi trường đầu
tư, kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói
riêng theo tinh thần Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35 của Chính phủ; sửa đổi một số
Nghị định về đầu tư, kinh doanh nhằm giải quyết dứt điểm các vướng mắc, tạo cơ
chế liên thông, thuận lợi nhất giữa các thủ tục đầu tư, doanh nghiệp, đất đai, xây
dựng, môi trường…
Để tiếp tục nâng cao hiệu lực pháp lý, đẩy mạnh thực hiện các chính sách hỗ
trợ DN vừa và nhỏ, tại Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV, đã thông qua Luật Hỗ trợ
DN vừa và nhỏ (Luật số 04/2017/QH14) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018,
với hàng loạt chính sách hỗ trợ cơ bản dành cho các DN vừa và nhỏ như: hỗ trợ tiếp
cận tín dụng, thông tin, phát triển nguồn nhân lực, tư vấn, công nghệ... tạo bước tiến
quan trọng trong công tác hoàn thiện chính sách hỗ trợ tích cực cho DN vừa và nhỏ
phát triển mạnh mẽ hơn.
Việc ban hành cơ chế, chính sách đó tạo sự chuyển biến mạnh trong cộng
đồng DN vừa và nhỏ. Trong giai đoạn 2011-2016, cả nước có 504.073 DN đăng ký
thành lập mới, giai đoạn 2011-2014, số DN đăng ký thành lập mới có suy giảm,
5


song đến năm 2015-2016, số DN thành lập mới, quay trở lại hoạt động gia tăng
mạnh mẽ. Sự gia tăng này trùng với thời điểm Luật DN 2014 và Luật Đầu tư 2014
chính thức có hiệu lực từ tháng 7/2015. Thực tế, Luật DN và Luật Đầu tư 2014 tạo

cơ chế thông thoáng, tác động trực tiếp, thuận lợi cho DN trong quá trình kinh
doanh, khi DN có quyền tự quyết về số lượng, hình thức, nội dung của con dấu; tự
do kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm; đồng thời, thời gian
đăng ký thành lập DN được rút ngắn còn 03 ngày. Năm 2017, số DN đăng ký thành
lập mới đạt 126.859 DN; có 26.448 DN quay trở lại hoạt động; cũng trong thời
điểm này, tổng số vốn đăng ký vào nền kinh tế đạt 3.165.233 tỷ đồng (bao gồm: số
vốn đăng ký của DN đăng ký thành lập mới là 1.295.911 tỷ đồng và số vốn đăng ký
tăng thêm của các DN thay đổi tăng vốn là 1.869.322 tỷ đồng với 35.276 lượt DN
đăng ký bổ sung vốn). Tại Diễn đàn Đổi mới và Phát triển DN do Viện Nghiên cứu
Chiến lược thương hiệu và cạnh tranh tổ chức, ông Nguyễn Hoa Cương, Phó Cục
trưởng Cục Phát triển DN, Bộ Kế hoạch và đầu tư nhận định: bức tranh phát triển
của doanh nghiệp Việt Nam trong năm 2018 và các tháng đầu năm 2019 có nhiều
bước tiến khả quan, số lượng doanh nghiệp thành lập mới của Việt Nam liên tiếp đạt
kỷ lục trong những năm gần đây. Năm 2018, cả nước có hơn 131.000 doanh nghiệp
thành lập mới với số vốn đăng ký là 1,4 triệu tỷ đồng, tăng 3,5% về số doanh
nghiệp và tăng 14,1% về số vốn đăng ký. Trong 9 tháng đầu năm 2018, cả nước có
96.611 DN thành lập mới với số vốn đăng ký là 963.411 tỷ đồng, tăng 2,8% số DN
và tăng 6,7% về số vốn đăng ký; quý III/2018, cả nước có 32.080 DN thành lập
mới, giảm 15% so với quý II/2018 và giảm 1,9% so với cùng kỳ năm 2017. Tỷ
trọng vốn đăng ký bình quân trên một DN đạt 10,0 tỷ đồng, tăng 3,8% so với năm
2017. Số lao động đăng ký của các DN thành lập mới là 819.742 lao động, giảm
7,5% so với năm 2017. Số DN quay trở lại hoạt động là 22.897 DN, tăng 8,5% so
với năm 2017. Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế là 2.845.331 tỷ đồng
(tăng 32,7%) so với năm 2017, bao gồm: 936.411 tỷ đồng của DN đăng ký thành
lập mới (tăng 6,7%), đối với DN đang hoạt động có 32.144 lượt đăng ký tăng vốn
(tăng 16,6%). Năm 2019, triển vọng tốt với số lượng doanh nghiệp thành lập mới
dự kiến đạt khoảng 140.000 doanh nghiệp, riêng 5 tháng đầu năm, cả nước có gần
54.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 669,7 nghìn
6



tỷ đồng, tăng 3,2% về số doanh nghiệp và tăng 29,6% về số vốn đăng ký so với
cùng kỳ năm 2018. Đặc biệt, số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đang có
sự bùng nổ tại Việt Nam với khoảng hơn 3.000 doanh nghiệp tính đến nay, cho thấy
hệ sinh thái khởi nghiệp ngày càng được hoàn thiện và nhiều cơ hội mới về đổi mới,
sáng tạo, tạo ra sân chơi đầy hấp dẫn, thu hút các start up và các quỹ đầu tư. Không
chỉ gia tăng về số lượng, cơ cấu doanh nghiệp và vốn đăng ký của doanh nghiệp
trong một số ngành nghề tiếp tục có sự thay đổi, thể hiện sự chuyển đổi theo hướng
tích cực trong cơ cấu của nền kinh tế vào các ngành chế biến, chế tạo có giá trị gia
tăng cao hơn, nhiều ngành nghề mới liên quan đến sản xuất, chế tạo, nông nghiệp,
công nghiệp hỗ trợ. Theo ông Cương: “Điều này cho thấy niềm tin ngày càng lớn
của xã hội vào môi trường đầu tư kinh doanh. Đặc biệt, số doanh nghiệp đăng ký
thành lập mới tăng là điểm đáng mừng, chứng tỏ kỳ vọng của cộng đồng doanh
nghiệp về môi trường kinh doanh tăng lên. Quan trọng hơn, con số này cho thấy
năng lực kinh doanh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua hàm lượng
trí tuệ, hàm lượng khoa học công nghệ đã và đang có chiều hướng gia tăng, phù hợp
với xu thế chuyển đổi kinh tế số trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và gia tăng
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp”.
Nhìn nhận ở góc độ quy mô và chất lượng tăng trưởng của các doanh nghiệp,
ông Hồ Sỹ Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp cho
rằng, hầu hết các doanh nghiệp trong nước quy mô nhỏ, năng lực sản xuất, cạnh
tranh trong môi trường toàn cầu còn hạn chế. Nhìn về tổng thể, khu vực kinh tế tư
nhân còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Do đó, theo ông Hùng, chính sách
hỗ trợ phát triển doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệp trong nền kinh tế số là 2
vấn đề cần được ưu tiên để giúp doanh nghiệp tự chủ và vươn lên trong hội nhập.
Điều đó thể hiện môi trường kinh doanh trong nước tồn tại không ít khó khăn, thách
thức đối với doanh nghiệp khởi nghiệp như: hành lang pháp lý, thiếu không gian
giới thiệu sản phẩm, khó khăn khi muốn giải thể, rất cần có giải pháp khơi thông
những vấn đề vướng mắc để số doanh nghiệp thực sự đi vào hoạt động gia tăng một
cách thực chất, cộng đồng doanh nghiệp khởi nghiệp có môi trường thuận lợi để

phát triển cả về số lượng và chất lượng.

7


Việc tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ DN đầu tư, mở rộng phát triển sản xuất, kinh
doanh cần nhiều giải pháp đồng bộ hỗ trợ DN vừa và nhỏ. Cụ thể là việc tiếp tục,
hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật; nhóm giải pháp này cải thiện đáng kể môi
trường kinh doanh cho DN, tạo thuận lợi tối đa cho các DN khi tham gia vào thị
trường trong nước và nước ngoài; đồng thời, đây là nhóm giải pháp hỗ trợ trực tiếp
cho sự phát triển của DN vừa và nhỏ tại Việt Nam. Theo đó, cần xác định rõ các chủ
trương, định hướng chiến lược phát triển của cộng đồng DN vừa và nhỏ trong các
văn kiện đại hội Đảng, các nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền
kinh tế thị trường của Quốc hội, Chính phủ với những nội dung quan trọng: thúc
đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân, nâng cao năng lực sản xuất của DN; hoàn thiện
khung pháp lý và phạm vi hỗ trợ DN vừa và nhỏ phát triển trong nước, hội nhập
quốc tế, với những nội dung: xác định rõ khuôn khổ về gia nhập, hoạt động và giải
thể, phá sản của DN Việt Nam; hỗ trợ công nghệ, khoa học - kỹ thuật cho DN Việt
Nam; phát triển nguồn nhân lực cho các DN vừa và nhỏ, tập trung nâng cao năng
lực quản trị; đẩy mạnh hình thành nhóm DN Việt Nam; cung cấp thông tin hỗ trợ
DN vừa và nhỏ, xúc tiến mở rộng thị trường; xây dựng hệ thống tổ chức trợ giúp
phát triển; tổ chức thực hiện các chương trình liên quan đến sự phát triển DN Việt
Nam...; đồng thời triển khai hiệu quả, đồng bộ Luật Hỗ trợ DN vừa và nhỏ, ban
hành các chính sách hỗ trợ; đẩy mạnh hoạt động của Quỹ Bảo lãnh, Quỹ Phát triển
DN vừa và nhỏ, cùng với việc phát triển cân bằng thị trường tài chính, nhất là thị
trường chứng khoán, trái phiếu, tài chính vi mô, quỹ đầu tư… để tạo kênh dẫn vốn
đa dạng cho DN vừa và nhỏ hoạt động.
Song song với những nỗ lực cải cách thủ tục hành chính, việc cắt giảm chi
phí khởi sự kinh doanh cho DN cũng được các bộ, ban, ngành chú trọng; chỉ riêng
lĩnh vực đăng ký DN, kể từ ngày 20/01/2018, lệ phí đăng ký DN giảm 50% so với

quy định trước đây và đối với trường hợp DN đăng ký qua mạng điện tử, miễn phí
100% lệ phí. Cùng với sự bùng nổ về số lượng, DN vừa và nhỏ đã góp phần quan
trọng trong chuyển dịch cơ cấu ngành nghề thông qua tạo việc làm, thu hút lao động
từ lĩnh vực nông nghiệp, tham gia đầu tư vào các thị trường, thúc đẩy phát triển sản
xuất, kinh doanh. DN vừa và nhỏ thể hiện vai trò qua những đóng góp quan trọng
thúc đẩy sự chuyển mình và cất cánh của nền kinh tế. Ước tính trong giai đoạn
8


2015-2017, khu vực kinh tế tư nhân (trong đó DN tư nhân có vai trò chủ đạo) đóng
góp gần 50% GDP, trên 30% thu ngân sách Nhà nước, 45% vốn đầu tư thực hiện
toàn xã hội. Tốc độ tăng năng suất lao động của khu vực này tương đối ổn định.
Mặc dù những năm gần đây, tốc độ tăng năng suất lao động của cả nước liên tục
biến động nhưng tốc độ tăng năng suất lao động của khu vực kinh tế tư nhân mà chủ
yếu là DN tư nhân vẫn giữ được sự ổn định.
Dù có đóng góp lớn cho nền kinh tế nhưng hiện nay DN vừa và nhỏ vẫn rất
khó tiếp cận các nguồn vốn như: vốn tín dụng từ các ngân hàng, nguồn vốn từ các
quỹ… để phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Theo Báo cáo đánh giá môi trường
kinh doanh năm 2018 của Ngân hàng thế giới, chỉ số tiếp cận tín dụng của Việt Nam
năm 2018 được xếp hạng 29/190 nền kinh tế; 6 tháng đầu năm 2018 (tính đến
30/6/2018), dư nợ tín dụng đối với DN vừa và nhỏ chiếm khoảng 21% dư nợ toàn
nền kinh tế. Đến nay vẫn có khoảng 60% DN vừa và nhỏ chưa tiếp cận được nguồn
vốn tín dụng của ngân hàng. Bên cạnh đó, sự liên kết của DN tư nhân Việt Nam còn
yếu, đặc biệt là có rất ít mối liên kết giữa các DN nhỏ và DN có quy mô lớn hơn.
Theo Báo cáo triển vọng phát triển châu Á của Ngân hàng Phát triển Châu Á, hiện
nay mới chỉ có 21% các DN vừa và nhỏ của Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng
toàn cầu so với 30% của Thái Lan và 46% của Malaysia.
Từ những lý do trên, với mong muốn nghiên cứu theo cách tiếp cận liên
ngành của chương trình thạc sĩ Quản trị an ninh phi truyền thống, tác giả đã chọn
đề tài: “Xây dựng chiến lược phát triển bền vững cho Công ty TNHH Sản xuất

và Thương mại Nhựa Hải Long giai đoạn 2020 - 2025” làm luận văn thạc sĩ.
Việc tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài luận văn này có ý nghĩa cả trên phương
diện lý luận cũng như xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đặt ra và không trùng lặp
với bất cứ đề tài, công trình đã công bố trước đây; hơn nữa mục tiêu chính là
đảm bảo sự phát triển lâu dài, bền vững của Công ty.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Về phương diện nghiên cứu liên quan đến vấn đề xây dựng chiến lược phát
triển bền vững cho doanh nghiệp đã thu hút nhiều nhà khoa học, nhà lãnh đạo,
nhà quản lý tập trung nghiên cứu, đến nay có nhiều công trình, đề tài được
nghiệm thu, công bố. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu
9


trực diện, chuyên sâu về việc xây dựng chiến lược phát triển bền vững cho Công
ty TNHH Sản xuất và Thương mại Nhựa Hải Long.
* Các công trình, đề tài, luận án, luận văn đã công bố
- Trong tập bài giảng “Tổng quan về phát triển bền vững” (3) các tác giả
Nguyễn Bách Khoa và Hoàng Đình Phi đã giới thiệu các khái niệm cơ bản và nội
hàm của phát triển bền vững ở các cấp độ từ quốc gia đến doanh nghiệp.
- Đề tài luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Minh Hương (2011)
“Chiến lược kinh doanh tại Tổng Công ty Cổ phần may Việt Tiến và các giải
pháp thực hiện”.
- Đề tài luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Văn Huy (2017) “Chiến lược
phát triển của Công ty Cổ phần đầu tư Hoàng Thịnh Phát”.
- Đề tài luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Trọng Nhất (2018) “Xây dựng
chiến lược phát triển bền vững cho Trung tâm Quan trắc Tài nguyên Môi trường
thuộc Sở TN-MT Hà Nội”.
* Bài báo khoa học trong nước
- Tạp chí Kinh tế và Dự báo “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển
Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

- Thời báo Tài chính Việt Nam “Phát triển kinh tế và kinh doanh bền vững
trong điều kiện toàn cầu hóa”.
- Báo Nhân dân “Phát triển nền nông nghiệp hiện đại, bền vững, gắn với
xây dựng nông thôn mới”.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu, tổng hợp và lựa chọn khung lý thuyết phục vụ việc xây dựng
chiến lược phát triển bền vững cho Công ty, trong đó có quy trình, công cụ xây
dựng và đề xuất chiến lược phát triển bền vững.
- Vận dụng các công cụ lý thuyết, phân tích các yếu tố môi trường bên
trong và bên ngoài tác động tới khả năng cạnh tranh của Công ty để xây dựng và
đề xuất chiến lược phát triển bền vững cho Công ty TNHH Sản xuất và Thương
mại Nhựa Hải Long trong giai đoạn 2020 - 2025.
- Nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp để thực hiện thành công chiến
lược phát triển bền vững cho Công ty.
10


4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là quy trình xây dựng chiến lược
phát triển bền vững cho Công ty và những yếu tố bên trong và bên ngoài tác
động tới việc lựa chọn các mục tiêu chiến lược phát triển bền vững cho Công ty
TNHH Sản xuất và Thương mại Nhựa Hải Long giai đoạn 2020 - 2025.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Tổng hợp các dữ liệu cứng (thứ cấp)
trong thời gian 3 năm (từ tháng 01/2016 đến tháng 12/2018) về tình hình thực
hiện các mục tiêu của Công ty; nghiên cứu thu thập các dữ liệu thứ cấp (bảng hỏi
và phỏng vấn) để đánh giá các yếu tố bên trong và bên ngoài tác động tới việc
lựa chọn các mục tiêu chiến lược phát triển bền vững cho Công ty TNHH Sản
xuất và Thương mại Nhựa Hải Long giai đoạn 2020 - 2025.
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: Tập trung nghiên cứu và khảo sát các

hoạt động chính của Công ty trong phạm vi thành phố hay địa bàn hoạt động
chính của Công ty.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng; pháp luật của Nhà nước về quản
trị An ninh phi truyền thống. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp,
cụ thể như sau:
- Phương pháp tổng kết thực tiễn:
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và cách tiếp cận liên ngành của
khoa học an ninh phi truyền thống; dựa trên đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước; các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực
sản xuất và thương mại; tác giả luận văn tiến hành nghiên cứu các báo cáo sơ
kết, tổng kết của Công ty.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài luận văn, tác giả sử dụng phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: thu thập dữ liệu thứ cấp từ các báo cáo của Công ty trong
giai đoạn 2016 - 2018.

11


- Phương pháp chuyên gia:
Thu thập dữ liệu sơ cấp bằng phương pháp thiết kế và sử dụng phiếu khảo
sát 50 nhà quản trị và cán bộ, công nhân viên Công ty và các khách hàng quan
trọng của Công ty; phương pháp phỏng vấn chuyên sâu các cán bộ quản trị liên
quan trực tiếp tới việc xây dựng và thực hiện chiến lược hay các kế hoạch của
Công ty.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích:
Sử dụng phương pháp tổng hợp dữ liệu và phân tích thông qua sử dụng các
công cụ xây dựng chiến lược.

- Phương pháp thống kê, so sánh:
Tác giả luận văn tiến hành thống kê số liệu có liên quan đến quá trình phát
triển của Công ty.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội
dung đề tài được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1:

Lý luận cơ bản về xây dựng chiến lược phát triển bền vững

Chương 2:

Thực trạng sản xuất, kinh doanh; xây dựng chiến lược phát triển bền
vững cho Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Nhựa Hải Long
giai đoạn 2020 - 2025.

Chương 3:

Đề xuất một số giải pháp thực hiện chiến lược phát triển bền vững cho
Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Nhựa Hải Long giai đoạn
2020 - 2025.

12


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Chiến lược và chiến lược phát triển bền vững

Khái niệm “Chiến lược”
Khái niệm chiến lược trong kinh tế học và quản trị học được định nghĩa dưới
nhiều hình thức tùy theo các trường phái nghiên cứu của các nhà kinh tế học, ví dụ:
Theo Alfred D. Chandler (1962), chiến lược bao gồm việc ấn định các mục
tiêu cơ bản dài hạn của một tổ chức, đồng thời lựa chọn cách thức hoặc tiến trình
hành động và phân bổ các tài nguyên thiết yếu để thực hiện các mục tiêu đó.
Theo William F. Glueck (1976), chiến lược là một kế hoạch mang tính thống
nhất, toàn diện và tính phối hợp được thiết kế để đảm bảo rằng mục tiêu cơ bản của
doanh nghiệp sẽ được thực hiện.
Theo James B. Quinn (1980), chiến lược là kế hoạch phối hợp các mục tiêu
chủ yếu, các chính sách và hành động của đơn vị thành một tổng thể kết dính lại
với nhau.
Theo Michael Porter (1996), chiến lược là việc tạo ra một sự hài hòa giữa các
hoạt động của một công ty; theo đó, chiến lược liên quan đến vị trí cạnh tranh của
doanh nghiệp và cách thức làm cho doanh nghiệp trở nên khác biệt đối với người
tiêu dùng, nâng cao giá trị gia tăng thông qua một hệ thống các hoạt động kinh
doanh khác biệt với đối thủ cạnh tranh (Michael Porter, 1986); là sự kết hợp các
mục tiêu cuối cùng để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Theo Keven Scholes, Gerry Johnson và Whittington (2008), chiến lược là
việc xác định định hướng và phạm vi hoạt động của một tổ chức trong dài hạn, ở đó
tổ chức phải giành được lợi thế thông qua việc kết hợp các nguồn lực trong một môi
trường nhiều thử thách, nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường và đáp ứng
mong muốn của các tác nhân có liên quan đến tổ chức.
Theo tác giả Hoàng Đình Phi (3): đối với bất kỳ tổ chức hay doanh nghiệp
nào thì "chiến lược là một tài liệu, có thể viết tay, in máy hay điện tử, trong đó
13


những người có trách nhiệm đề ra sứ mệnh, tầm nhìn, giá trị cốt lõi và các mục tiêu
dài hạn cho một tổ chức, thông thường là trong 5 năm, cũng như xác định các

nguồn lực cần huy động và các giải pháp cần thực hiện để đạt được các mục tiêu
đã đề ra".
Trong khuôn khổ luận văn và ứng dụng thực tiễn, tác giả lựa chọn định nghĩa
về chiến lược cũng như các công cụ xây dựng chiến lược được giảng dạy và hướng
dẫn cho nhiều thế hệ học viên cao học theo tài liệu giảng dạy các môn học về quản
trị chiến lược và phát triển bền vững của tác giả Hoàng Đình Phi (3) thuộc Chương
trình đào tạo Thạc sĩ Quản trị An ninh phi truyền thống.
Khái niệm “Chiến lược phát triển bền vững”
Thuật ngữ “phát triển bền vững” xuất hiện vào năm 1980 trong ấn phẩm
“Chiến lược bảo tồn thế giới” với nội dung là sự phát triển của nhân loại không chỉ
chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã
hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học.
Vào năm 1987 khái niệm này được phổ biến và phát triển rộng rãi nhờ báo
cáo Brundtland được hiểu là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện
tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế
hệ tương lai…
Theo tổ chức ngân hàng phát triển Châu Á (ADB): “Phát triển bền vững là
một loại hình phát triển mới, lồng ghép quá trình sản xuất với bảo tồn tài nguyên và
nâng cao chất lượng môi trường. Phát triển bền vững cần phải đáp ứng các nhu cầu
của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng của chúng ta đáp ứng các
nhu cầu của thế hệ tương lai”.
Như vậy, phát triển bền vững được hiểu là một loại hình phát triển mới, theo
đó quá trình phát triển gắn liền với quá trình bảo tồn nhằm đảm bảo sự phát triển
của hiện tại không làm ảnh hưởng đến việc phát triển của tương lai.
Chiến lược phát triển bền vững là một tài liệu, có thể viết tay, in máy hay điện
tử, trong đó những người có trách nhiệm đề ra sứ mệnh, tầm nhìn, giá trị cốt lõi và
các mục tiêu dài hạn cho một tổ chức, xác định các nguồn lực cần huy động và các
giải pháp cần thực hiện để quá trình phát triển gắn liền với quá trình bảo tồn nhằm
đảm bảo sự phát triển hài hòa của hiện tại và tương lai.
14



1.1.2. Chiến lược phát triển của doanh nghiệp
Tùy theo quy mô và ngành nghề kinh doanh, một doanh nghiệp có thể có
nhiều loại chiến lược theo các cấp độ khác nhau như: chiến lược phát triển tổng thể
doanh nghiệp cho mỗi giai đoạn, thường là 5 năm hay 10 năm, chiến lược phát triển
nguồn nhân lực, chiến lược tài chính, chiến lược công nghệ, chiến lược sản xuất,
chiến lược marketing, chiến lược bán hàng, chiến lược văn hóa… Mục tiêu cuối
cùng của việc xây dựng và thực thi các chiến lược là đảm bảo cho doanh nghiệp tồn
tại, phát triển và duy trì khả năng cạnh tranh.
Một doanh nghiệp hành chính, công lập hay là đơn vị hành chính sự nghiệp
có thu thì cũng cần phải có chiến lược phát triển theo các giai đoạn làm mục tiêu
phấn đấu cho hoặc doanh nghiệp đó.
1.1.3. Chiến lược phát triển bền vững và khả năng cạnh tranh bền vững của
một doanh nghiệp
Trong thời gian gần đây, phát triển bền vững không chỉ là mối quan tâm của
các nhà chính trị, nhà hoạt động môi trường mà còn trở thành mối quan tâm hàng
đầu của các doanh nghiệp. Ở cấp độ quốc tế, đa số các quốc gia trên thế giới đã và
đang thực hiện cam kết ký trong Chương trình Nghị sự 21 của Liên Hợp quốc bằng
việc cụ thể hóa các mục tiêu trong việc xây dựng và thực thi chiến lược phát triển
bền vững ở tầm quốc gia. Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Chiến lược phát triển
bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 (1).
Nhận thức được tầm quan trọng của sự phát triển bền vững, các nhà quản trị
doanh nghiệp bắt đầu kết hợp yếu tố bền vững vào hoạt động sản xuất và kinh
doanh của mình như một phần của kế hoạch, chiến lược phát triển dài hạn. Trong
quá trình xây dựng chiến lược bền vững của doanh nghiệp, các nhà quản trị cần đưa
phát triển bền vững vào trọng tâm chiến lược của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp, phát triển bền vững được hiểu là việc thực thi các
chiến lược và hoạt động kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và
các đối tác tại thời điểm hiện tại mà vẫn có thể duy trì và củng cố các nguồn lực

sản xuất và kinh doanh (tài nguyên thiên nhiên, nhân lực, tài chính...) nhằm đáp
ứng cho nhu cầu trong tương lai của doanh nghiệp (IISD, 1992). Từ định nghĩa
này, có thể nhận thấy rằng chiến lược phát triển bền vững giúp cho các nhà quản
15


trị doanh nghiệp áp dụng các giải pháp phát triển bền vững vào quá trình quản trị
doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh bền vững của doanh nghiệp nhấn mạnh vào tầm quan
trọng của hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp như một yếu tố quyết
định cho sự tồn tại và phát triển cũng như sự tăng trưởng dài hạn của doanh nghiệp.
Có nhiều cách thức định nghĩa khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp: Là khả năng
doanh nghiệp có thể sản xuất ra sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn
giá của sản phẩm trên thị trường (Fafchamps M., 1995); là khả năng giành được và
duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định (Randall G., 1997); là khả
năng cung ứng sản phẩm của chính doanh nghiệp trên thị trường mà không phân
biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp (John Dunning, 1995)...
Nhìn chung, khả năng cạnh tranh là khả năng mà doanh nghiệp có được và
duy trì để có lợi nhuận nhất định thông qua việc huy động và sử dụng có hiệu quả
các năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có một năng lực cạnh
tranh, là thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc
thỏa mãn yêu cầu của thị trường để thu lợi nhuận ngày càng cao. Suy rộng ra, khả
năng cạnh tranh bền vững hàm ý khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được duy
trì nhằm đảm bảo việc khai thác các lợi thế cạnh tranh về dài hạn.
Nhiều doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển lâu dài được vì có nhiều
yếu kém về năng lực hay khả năng cạnh tranh xét trên nhiều yếu tố khác nhau căn
cứ theo hình tháp về khả năng cạnh tranh bền vững (3) theo hình dưới đây:

16



Hình 1.1. Tháp khả năng cạnh tranh bền vững của DN

1.2. Chiến lược phát triển bền vững và công tác quản trị an ninh phi truyền thống
Điểm khác biệt cơ bản của chiến lược phát triển bền vững với chiến lược phát
triển chung theo quan điểm truyền thống chính là việc chủ thể quản trị chiến lược
phát triển bền vững là những người có trách nhiệm hay đứng đầu trong một tổ chức
xác định rõ các yếu tố nội hàm của chiến lược, trong đó có các mục tiêu chiến lược
dài hạn cho tổ chức hướng tới việc duy trì các yếu tố cạnh tranh bền vững từ các
năng lực cơ bản của tổ chức cho tới chất lượng và giá cả dịch vụ cũng như lợi
nhuận, tránh nhiệm xã hội và trách nhiệm bảo vệ môi trường của một tổ chức hay
một doanh nghiệp.
An ninh phi truyền thống là một khái niệm mới xuất hiện và được đề cập đến
khá nhiều trong thời gian gần đây. An ninh phi truyền thống trở thành một mối quan
tâm lớn, một chủ đề quan trọng nhận được sự quan tâm và đầu tư nghiên cứu của
các nhà khoa học. Có rất nhiều định nghĩa và quan điểm khác nhau về an ninh phi
truyền thống, nhưng nhìn chung các vấn đề an ninh phi truyền thống hầu hết là các
vấn đề xuyên quốc gia với phạm vi rộng (kinh tế, tài nguyên - môi trường, xã hội,
17


văn hóa, y tế...), đối lập với khái niệm an ninh truyền thống, nghĩa là không bao
gồm các yếu tố liên quan đến xung đột quân sự, chính trị và ngoại giao nhưng có
thể tạo ra mối đe dọa đối với sự tồn tại và phát triển của quốc gia và nhân loại.
Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu, quản trị an ninh phi truyền thống
là một cách tiếp cận mới trong quản trị để phát triển bền vững bất kỳ một tổ chức
hay doanh nghiệp nào; đóng vai trò vô cùng quan trọng và cấp thiết đối với
doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp
(Nguyễn Văn Hưởng và cộng sự, 2015). Một số lĩnh vực quản trị an ninh doanh
nghiệp trong an ninh phi truyền thống như an ninh tài chính (phòng tránh các rủi

ro tài chính và đảm bảo nguồn lực tài chính), an ninh công nghệ (phát triển, bảo
vệ và sử dụng hiệu quả các năng lực công nghệ), an ninh con người (phát triển,
sử dụng an toàn và hiệu quả nguồn nhân lực), an ninh thương hiệu (xây dựng, sử
dụng, bảo vệ, phát triển thương hiệu)…
Nếu không có chiến lược phát triển bền vững thì bất kỳ một tổ chức hay một
doanh nghiệp nào cũng khó có thể đảm bảo phát triển bền vững trong giai đoạn 10
năm, 20 năm hay lâu hơn nữa. Chính vì vậy, bất kỳ tổ chức hay doanh nghiệp nào
cũng cần thiết phải xây dựng và thực hiện tốt chiến lược phát triển bền vững cho
các thời kỳ.
1.3. Quy trình và công cụ xây dựng chiến lược phát triển bền vững
1.3.1. Quy trình xây dựng chiến lược phát triển bền vững
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, đối với bất kỳ tổ chức hay doanh nghiệp nào thì
công tác quản trị chiến lược hay quản trị chiến lược phát triển bền vững cũng cần
phải tuân theo một quy trình quản trị chiến lược chung vừa mang tính khoa học, vừa
mang tính pháp lý để mỗi cá nhân tham gia xác định được rõ quyền và nghĩa vụ
theo luật pháp và quy định chung của tổ chức hay doanh nghiệp.
Có nhiều tác giả đưa ra những quy trình mẫu cho việc xây dựng và thực thi
chiến lược theo nhiều bước khác nhau để các tổ chức và doanh nghiệp có thể lựa
chọn sao cho phù hợp với đơn vị của mình.
Trong quá trình học tập và thực hành trong khuôn khổ Chương trình đào tạo
Thạc sĩ Quản trị An ninh phi truyền thống tại Khoa Quản trị và Kinh doanh (HSB)
thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, tác giả được tiếp cận mô hình sau:
18


Hình 1.2. Quy trình quản trị chiến lược và kế hoạch

Mô hình trên đây cơ bản minh họa cho một quy trình quản trị chiến lược của
một tổ chức hay một doanh nghiệp với 5 bước cơ bản (3)
Căn cứ theo mô hình lý thuyết trên đây thì tác giả nhận thấy bất kỳ một tổ

chức nào cũng có thể vận dụng sáng tạo các bước trong quá trình xây dựng chiến
lược phát triển. Quá trình xây dựng một chiến lược được tiến hành qua bước 1 và
bước 2 với rất nhiều công cụ có thể được sử dụng như: phân tích khả năng cạnh
tranh, phân tích năng lực, phân tích SWOT, phân tích chuỗi giá trị, sử dụng ma
trận TOWS.
1.3.2. Công cụ xây dựng chiến lược phát triển bền vững
Theo các lý thuyết cơ bản về quản trị chiến lược, thì có rất nhiều công cụ có
thể được sử dụng để xây dựng chiến lược cho một tổ chức hay một doanh nghiệp
tùy thuộc vào mục tiêu và yêu cầu. Tuy nhiên, thông qua quá trình học tập lý luận
và nghiên cứu thực tiễn ở nhiều doanh nghiệp thì tác giả nhận thấy các công cụ
chính sau đây là cần thiết và hữu ích:
19


1.3.2.1. Ma trận đánh giá các yếu tố môi trường bên trong (Internal Factor
Evaluation - IFE)
Môi trường bên trong với các yếu tố nội bộ của doanh nghiệp luôn được xem
là rất quan trọng đối với mỗi chiến lược kinh doanh và các mục tiêu mà doanh
nghiệp đó đề ra. Vì vậy, việc đánh giá các yếu tố môi trường bên trong giúp các nhà
quản trị nhìn nhận được những điểm mạnh nội bộ (internal strength) và điểm yếu
nội bộ (internal weakness) của doanh nghiệp hay của tổ chức.
Phân tích môi trường bên trong là việc phân tích nội bộ doanh nghiệp hay tổ
chức nhằm chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu và các lợi thế của doanh nghiệp hay
tổ chức trong từng lĩnh vực hoạt động làm cơ sở cho việc xây dựng và thông qua
chiến lược kinh doanh. Các yếu tố bên trong của doanh nghiệp có thể được xem xét
đến như vốn điều lệ, chất lượng tài sản có, chất lượng dịch vụ, cơ cấu tổ chức,
nguồn nhân lực, ứng dụng khoa học - công nghệ - kỹ thuật, mạng lưới marketing,
uy tín thương hiệu...
Ma trận IFE là một công cụ giúp các nhà quản trị xem xét khả năng phản ứng
của doanh nghiệp thông qua việc định lượng hóa các phân tích nội bộ doanh nghiệp;

từ đó xác định năng lực cốt lõi, tận dụng tối đa điểm mạnh để khai thác và chuẩn bị
các nguồn lực và tìm ra những biện pháp để khắc phục điểm yếu.
Các bước hình thành một ma trận IFE:
Bước 1: Lập danh mục từ 10 - 20 yếu tố bao gồm những điểm mạnh và điểm
yếu cơ bản có ảnh hưởng đến doanh nghiệp hay tổ chức và những mục tiêu mà
doanh nghiệp hay tổ chức đề ra.
Bước 2: Phân loại tầm quan trọng từ 0,01 (ít quan trọng) đến 0,1 hoặc 0,2 (rất
quan trọng) cho từng yếu tố. Tầm quan trọng hay trọng số của những yếu tố này phụ
thuộc vào mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tới sự thành công của doanh nghiệp.
Tổng số tầm quan trọng của tất cả các yếu tố phải bằng 1,0.
Bước 3: Xác định thang điểm đánh giá từng yếu tố theo thang điểm. Trong
khuôn khổ luận văn này, tác giả sử dụng thang điểm 1-5 để đưa vào các phiếu khảo
sát, phỏng vấn; trong đó 1 là điểm rất yếu, 2 là điểm trung bình yếu, 3 là điểm khá
mạnh, 4 là điểm mạnh/cao, 5 là rất mạnh hay rất cao. Thang điểm đánh giá này thể
hiện mức độ hay khả năng mà doanh nghiệp hay tổ chức có khả năng tận dụng điểm
20


×