Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Bài thuyết trình: Cơ sở văn hóa Việt Nam - Nho giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA 
TRANG LỚP: K56 NGÔN NGỮ 
ANH 1

Cơ sở văn hóa Việt Nam
Nho Giáo
Nhóm :
Giáo viên hướng dẫn:


KHÁI NIỆM

Nho giáo ( ?? ), còn gọi là đạo 
Nho hay đạo Khổng là một hệ 
thống đạo đức, triết lý và học 
thuyết chính trị do Đức Khổng 
Tử đề xướng và được các môn 
đồ của ông phát triển để xây 
dựng một xã hội thịnh trị. Nho 
giáo rất có ảnh hưởng tại ở các 
nước châu Á là Trung Quốc,Nhật 
Bản,Hàn Quốc,Việt Nam... 
Những người thực hành theo các 
tín điều của Nho giáo được gọi 
là các nhà Nho hay Nho sĩ 
hay nho sinh.


TỔNG QUÁT:
I.


II.
III.
IV.
V.
VI.

 Lịch sử hình thành của Nho 
giáo
 Nội dung cơ bản
 Nền giáo dục Nho giáo
 Ảnh hưởng tại Việt Nam
 Giá trị của Nho giáo
 Tiêu cực của Nho giáo


I.

Lịch sử hình thành của Nho giáo

Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, với sự đóng góp của Chu 
Công  Đán.  Đến thời  Xuân  Thu,  Đức Khổng  Tử phát  triển  tư  tưởng 
của Chu Công, hệ thống hóa và truyền bá các tư tưởng đó.
Thời  Xuân  Thu,  Đức  Khổng  Tử  đã  san  định,  hiệu  đính  và  giải  thích 
bộ Lục  kinh.  Về  sau  Kinh  Nhạc  bị  thất  lạc,  chỉ  còn  năm  bộ  kinh  gọi 
là Ngũ  kinh.  Sau  khi  Đức  Khổng  Tử  mất,  học  trò  của  ngài  soạn  ra 
cuốn Luận  ngữ.  Học  trò  xuất  sắc  nhất  của  Khổng  Tử  là  Tăng  Sâm,  dựa 
vào lời thầy mà soạn ra Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng 
Cấp viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các 
tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Bốn sách 
sau được gọi là Tứ Thư và cùng Ngũ Kinh hợp lại làm 9 bộ sách chủ yếu 

của  Nho  giáo  và  còn  là  những  tác  phẩm  văn  chương  cổ  điển  của  Trung 
Quốc. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, 
còn gọi là Nho giáo tiền Tần, Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng­Mạnh". 
Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia.


II. Nội dung cơ bản
1.

Tổ chức xã hội

Học thuyết về quản lý quốc gia và làm lợi cho dân của 
Nho  giáo  là  một  phần  của  truyền  thống  văn  hóa  Trung 
Quốc. Nho giáo giúp xã hội có tính tổ chức cao, duy trì 
trật tự xã hội, giữ gìn các tiêu chuẩn đạo đức của xã hội 
ở một mức khá cao, giúp xã hội văn minh và  ổn định lâu 
dài.
Trong thế giới quan Nho giáo: 
Quốc gia                Gia đình                   Cá nhân.
Nho giáo xem cá nhân là yếu tố căn bản nhất cấu thành 
nên gia đình và xã hội. Mỗi cá nhân có đức hạnh tốt thì 
gia đình, xã hội sẽ tốt và ngược lại.


Từ thời Hán, Nho giáo 
là trung tâm cho việc 
quản lý xã hội, duy trì 
đạo đức tại Trung Hoa 
trong suốt hơn 2000 
năm. Năm 1397, Minh 

Thái Tổ ra lệnh mỗi 
làng phải dán một tờ 


Cốt lõi của 
Nho giáo là 
Nho gia.Đó là 
một học 
thuyết chính 
trị nhằm tổ 
chức xã hội.


2.Lễ nghi
Nho  giáo  rất  xem  trọng  lễ  nghi  vì  nó  là  biểu  hiện  của 
một  xã  hội  văn  minh  và  có  trật  tự.  "Lễ"  là  những  quy 
tắc mang tính hình thức được xã hội thừa nhận để bày tỏ 
sự  tôn  trọng  đối  với  người  khác,  với  cộng  đồng  hoặc 
với những định chế xã hội và để nhận được sự tôn trọng 
của xã hội.
Nho giáo chủ trương lễ nghi phải phù hợp với địa vị xã 
hội, công lao, đức độ, tài năng, tuổi tác của người hành 
lễ và người nhận lễ.
Trong các loại lễ nghi, hai lễ nghi  phổ biến nhất  được 
Nho  giáo  rất  xem  trọng  là  tang  lễ  và  việc  cúng  tế  tổ 
tiên. 


Đám tang 


Lễ tang và 
bàn thờ 
cúng tổ tiên


3.Quan hệ xã hội
Theo  Nho  giáo,  trong  xã  hội  có  5  mối  quan  hệ  là: 
vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè. Để 
thực hiện tốt 5 mối quan hệ này cần có 3 đức tính: 
trí, dũng, nhân.
Nho  giáo  quan  niệm  Trung  dung  là  sự  ôn  hòa, 
không  thái  quá,  không  thiên  lệch  về  bên  này  hoặc 
bên  kia.  Trong  đối  nhân  xử  thế,  Trung  dung  là 
không quá cương cũng không quá nhu. Trong chính 
trị,  Trung  dung  là  không  quá  khích,  cực  đoan; 
không  cực  tả  cũng  không  cực  hữu,  không  nhảy  từ 
thái cực này sang thái cực kia.



4. Thuật lãnh đạo
Nho giáo chủ trương: "Dân vi quý, xã tắc 
thứ chi, quân vi khinh (Dân là quý nhất, 
rồi đến đất nước, cuối cùng mới là vua". 
Vua không có quyền coi nhân dân là của 
riêng mà phải lo cho dân và vì dân.
Nho giáo xem nhân dân là yếu tố quyết 
định đối với sự tồn vong của chế độ 
chính trị. 
Nho giáo là một học thuyết chính trị đề 

cao Nhân trị
Thuật lãnh đạo của Nho giáo đề cao 
những lãnh đạo biết quý trọng tài năng, 
biết dùng người.
Nho giáo chủ trương người lãnh đạo phải 
biết lắng nghe ý kiến mọi người rồi chọn 
ra quan điểm đúng đắn nhất để thi hành.


5.Chữ hiếu và xã 
hội

Người biết hiếu thuận với cha mẹ, 
kính trọng người lớn tuổi hơn mình 
thì khó lòng làm những chuyện phản 
loạn, đại nghịch bất đạo. Do vậy 
hiếu đễ là gốc của đạo nhân. 
Hiếu đạo có 3 điều: Đại hiếu là tôn 
kính cha mẹ, thứ đến là không làm gì 
gây tai tiếng cho cha mẹ, sau cùng là 
nuôi dưỡng cha mẹ
Việc kính trọng cha mẹ được đặt lên 
hàng đầu trong quan niệm về đạo 
hiếu của Nho gia.


6.Vai trò của gia đình
Ngay từ 2.500 năm trước, Khổng 
Tử đã thấy rõ vai trò của gia đình 
như một tế bào của xã hội. 

Sách Đại Học đề cao tầm quan 
trọng của gia đình đối với quốc 
gia xã hội.
Tại những nơi Nho giáo có ảnh 
hưởng, việc thờ cúng tổ tiên, 
chăm sóc phần mộ tổ tiên, 
viết gia phả dòng họ, cúng giỗ 
theo nghi lễ rất được chú trọng. 


Nho giáo quy định rất rõ tôn ti trật tự và vai trò trong gia 
đình:

v

Người đứng đầu gia đình là người có trách nhiệm lớn lao nhất trong sự duy 
trì, phát triển gia đình. 



Nho giáo coi trọng nguồn gốc con người, coi gia đình gắn chặt với họ hàng, 
coi tuyệt tự, quên mất tổ tiên là tội lỗi với tổ tiên. 



Nho  giáo  đề  cao  chữ  Hiếu,  đề  cao  lễ  nghĩa,  tiết  hạnh,  bảo  vệ  gia  đình, 
gia tộc, tông tộc.




Trong  hôn  nhân, Nho giáo đề cao tình  nghĩa  vợ chồng, không  cho phép 
ngoại tình sau khi kết hôn.



Nho 
giáo 
coi 
trọng 
trinh 
tiết, 
đối 
với 
việc 
quan hệ tình dục trước hôn nhân hoặc sống thử, đạo Nho rất phê phán.







Nho giáo cho rằng người phụ nữ cũng phải tu dưỡng bản thân, rèn luyện 
những mỹ đức như Công­Dung­Ngôn­Hạnh
Xây  dựng  gia  đình  êm  ấm  không  chỉ  là  để  cho  bản  thân  và  các  thành 
viên khác có hạnh phúc mà còn là việc quan trọng để xây dựng xã hội 
thịnh trị.


7.Vai trò của cá nhân







Đức Khổng Tử nêu lên ngũ thường với thuyết 
chính danh và chữ "Nhân" để làm chuẩn mực cho 
mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Ngũ thường: ngũ là năm, thường là hằng có. 
Người ta phải giữ năm đạo đó làm thường, 
không nên để rối loạn. Ngũ thường gồm: Nhân, 
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. 
Nho giáo đặc biệt coi trọng con người, coi con 
người cùng với Trời và Đất là“Tam tài”.


III.Nền giáo dục Nho giáo




Đạo trị quốc của Nho giáo rất xem trọng hiền 
tài,chính vì thế các triều đại quân chủ tôn sùng 
Nho  giáo  chủ trương  tuyển  dụng  nhân  tài  cho 
đất  nước  qua  các  kỳ Khoa bảng.  Các  thí  sinh 
đỗ đạt học vị trong các kỳ thi cử này, phần lớn 
được tuyển chọn làm quan chức cho triều đình.
Trước  thế  kỷ  5,  cách  tuyển  chọn  quan  chức 
chủ  yếu  là  theo “cửu phẩm trung chính chế”, 

tức là chủ yếu dựa vào hoàn cảnh xuất thân, vì 
thế,  con  em  của  các  nhà  quý  tộc  luôn  được 
chọn  vào  các  bậc  quan  cao,  gây  lũng  đoạn 
chính sách địa phương.


Hiện  nay,  một  số  nước  như Trung Quốc  chọn  ngày  10/9, Đài Loan
 chọn  ngày  28/9, Việt Nam chọn  ngày  20/11...  làmNgày Nhà giáo để  thể 
hiện sự tôn trọng đối với nghề giáo. Ví dụ, Ngày Nhà giáo tại Đài Loan 
là  một  ngày  lễ  rất  lớn,  được  tổ  chức  ở  hầu  khắp  các 
đền thờ Khổng Tử, lễ này còn được gọi là Tế Khổng Đại Điển




IV.Ảnh hưởng tại Việt Nam 






Nho Giáo ở Việt Nam cũng để lại dấu ấn rất lớn trong quá trình giáo 
dục và lịch sử dựng nước ở các triều đình phong kiến thời trung đại. 
Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đã tiếp nhận Phật giáo,Đạo giáo. 
Nho giáo để làm nên "Tam giáo đồng nguyên"(cả ba tôn giáo có cùng 
một gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba tôn giáo có cùng một mục 
đích)

Lịch sử Việt Nam ghi lại tên tuổi của nhiều bậc nhà Nho tài đức: 

Chu Văn An , Nguyễn Bỉnh Khiêm , Nguyễn Thiếp ...

Nhờ Đạo Nho, người Việt Nam rất coi trọng sự học hành. 
Văn Miếu ­ Quốc Tử Giám lập năm 1076 có thể coi đây là trường đại học 
đầu tiên ở Việt Nam.


Một số mặt tiến bộ của Nho giáo tại Việt Nam:

v





Tạo được truyền thống ham học, truyền thống tôn sư trọng đạo, truyền thống 
coi trọng người có học.
Tạo  được  cơ  chế  tuyển  dụng  người  tài  qua  thi  cử.  Bất  kể  xuất  thân  ra  sao 
(nông dân, người thợ, lính tráng...) nếu học giỏi đỗ đạt thì có thể ra làm quan 
giúp nước.

Tuy nhiên Nho giáo Việt Nam còn có mặt hạn 
chế:

v



Trong nội dung học tập, Nho giáo chỉ nói đến "trí dục" và "đức dục" mà không 
xét đến mặt "thể dục" là mặt cũng rất cần cho sự phát triển toàn diện con 

người. Những kiến thức về giới tự nhiên và về sản xuất vật chất không được 
Nho giáo đề cập.



V.Giá trị của Nho giáo
v Trong lịch sử:




Khổng giáo bao hàm lời dạy của các bậc hiền nhân Nho gia, mà là những 
chỉ dẫn về cách sống thuận theo đạo đức để con người được an vui, xã hội 
được vững mạnh. Do đó, không hề có cuộc chiến tranh nào vì lý do tôn giáo 
trong lịch sử Trung Quốc, Việt Nam, Nh ật Bản hay Tri ều Tiên. Đó là một 
điều mà các học giả phương Tây rất ca ngợi các quốc gia Đông Á.
Dân  tộc  Trung  Hoa  đã  nhiều  lần  bị  ngoại  tộc  (Mông Cổ, Mãn Thanh...) 
xâm  chiếm,  nhưng  văn  hiến  của  họ  thì  không  gươm  giáo  nào  hủy  hoại 
được, ngược lại còn đồng hóa luôn những kẻ đã chinh phục họ,  ấy là nhờ 
một phần lớn ở những tư tưởng sâu xa của Nho giáo.


v



 Hiện nay:
Về những giá trị Châu Á cụ thể, trong "Bản sắc văn hoá Việt Nam", Phan 
Ngọc coi những giá trị ưu trội của văn hóa Châu Á là:




Ham học, thông minh và tháo vát, nhạy bén với mọi thay đổi.



Cần cù, chịu khó, thích nghi với hoàn cảnh.



Gắn bó với tổ quốc, họ hàng, gia đình.





Thích sống một cuộc sống giản dị, không bị những đòi hỏi vật chất dày 
vò, lo cho con cháu còn hơn lo cho chính mình.
Phan Ngọc coi những phẩm chất nói trên là ưu thế của Nho giáo trong thời 
đại ngày nay. Khái quát từ thực tế các quốc gia có văn hoá Nho giáo, viện 
dẫn chính Khổng Tử và quan điểm của Hồ Chí Minh, Tôn Dật Tiên...


×