Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Đề tài: Một số vấn đề về thanh toán không dùng tiền mặt và thực trạng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.34 KB, 39 trang )

                                                    

LỜI MỞ ĐẦU

    Quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa đã kéo theo các phương thức 
thanh toán phát triển, phương thức sau kế  thừa và phát triển các phương 
thức trước đó. Để khắc phục những nhược điểm của phương thức thanh  
toán bằng tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt đã ra đời và phát huy  
được những ưu việt của nó.
     Hiện nay  ở  rất nhiều nước trên thế  giới, việc thanh toán không dùng 
tiền mặt đã trở  nên quen thuộc với mỗi người dân, trong khi đó  ở  Việt  
Nam, khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt còn chiếm tỷ lệ rất hạn 
chế. Thanh toán không dùng tiền mặt chưa được người dân chấp nhận  
rộng rãi. Có thể  nói chúng ta chưa phát huy được tính  ưu việt của thanh  
toán không dùng tiền mặt và vì vậy chưa tận dụng hết các điều kiện tốt 
nhất cho sự phát triển của nền kinh tế.
    Thời gian qua, Nhà nước ta đã không ngừng đưa ra các biện pháp, các 
văn bản pháp quy nhằm phát huy tốt  phương thức thanh toán không dùng 
tiền mặt. Tuy nhiên, tình trạng thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta 
còn nhiều hạn chế và gây nhiều phiền toái cho người sử dụng.
    Vì vậy, hiện nay việc tìm hiểu để tìm ra hướng đi đúng cho sự phát 
triển thanh toán không dùng tiền mặt là rất cần thiết. Nó đòi hỏi phải có 
sự quan tâm, nghiên cứu một cách đầy đủ, phải có cái nhìn sâu hơn, rộng 
hơn.
     Với mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về phương thức thanh toán 
này, em đã chọn đề tài: “Một số vấn đề về thanh toán không dùng tiền 
mặt và thực trạng ở Việt Nam”

1



CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN 
KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
I.
LƯU THÔNG TIỀN TỆ
1. Khái niệm và vai trò của lưu thông tiền tệ
     _ Lưu thông tiền tệ  là sự  vận động của tiền tệ  trong nền kinh tế  để 
thực hiện các quan hệ  thương mại, hàng hóa, phân phối thu nhập, hình 
thành nguồn vốn và phúc lợi xã hội.
       _ Sự  lưu thông tiền tệ  trong nền kinh tế  đóng vai trò như  hệ  thống  
mạch máu trong một cơ  thể, nếu hệ  thống mạch máu này hoạt động tốt  
thì cơ thể sẽ khỏe mạnh và phát triển, ngược lại nếu hệ thống mạch máu 
này hoạt động trục trặc, hoặc hơn thế  nữa là bị  tắc nghẽn thì cơ  thể  sẽ 
ốm yếu và sẽ không thể phát triển bình thường.
2. Các hình thức lưu thông tiền tệ.
2.1. Lưu thông bằng tiền mặt
    _ Khái niệm: là sự  vận động của tiền mặt trong nền kinh tế  phục vụ 
cho               các quan hệ thương mại với quy mô nhỏ và trong nội bộ dân  
cư là chính.
    _  Ưu điểm: đơn giản, chu chuyển nhanh, không gây ách tắc trong chu 
chuyển và nó có hiệu quả kinh tế cao đối với người tham gia lưu thông.
   _ Nhược điểm:
      + Tốn kém về mặt chi phí lưu thông tiền tệ như: in ấn, bảo quản, tổ 
chức lưu thông…
      + Gây ra những hiện tượng tiêu cực xã hội: trộm cắp, rửa tiền, trốn  
thuế…
      + Nạn tiền giả.
2.2. Lưu thông không dùng tiền mặt.
    _ Khái niệm: là hình thức lưu thông trong đó tiền tệ  và hàng hóa vận 
động tương đối độc lập với nhau, đáp ứng cho nhu cầu thanh toán với quy  

mô lớn, thông thường là các doanh nghiệp.

2


   _ Nhược điểm:
      + Phải có trình độ nhất định mới tham gia được.
      + Mọi thanh toán phải thông qua ngân hàng.
      + Trang bị cơ sở vật chất ban đầu khá tốn kém
      + Vấn đề bảo mật.
   _ Ưu điểm:
      + Khắc phục được một phần chi phí lưu thông.
      + Tăng cường khả năng kiểm soát của nhà nước, của ngân hàng.
      + Tạo ra sự văn minh lịch sự trong thanh toán.
II.
THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT.
1. Nguồn gốc thanh toán không dùng tiền mặt.
     Trong xã hội loài người, nếu còn sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng 
hóa, thì sự tồn tại của mối quan hệ T_H là một tất yếu khách quan. Đó là 
mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau.
     Theo tiến trình lịch sử hình thành tiền tệ, đồng tiền đã có những bước  
phát triển từ  thấp đến cao. Trong nền kinh tế  tự  nhiên khép kín, do nhu  
cầu còn rất đơn giản con người tự sản xuất được những gì mình cần và  
do đó họ  không nhu cầu trao đổi. Khi xã hội phát triển và mở  rộng hơn,  
họ  thấy rằng mình không thể  tự  sản xuất thứ  mà mình cần do nhiều lý  
do,lúc này nhu cầu trao đổi xuất hiện và vấn đề  là trao đổi như  thế  nào. 
Vấn đề trùng lắp nhu cầu xuất hiện. Nhưng không phải lúc nào và ở  đâu 
cũng có sự trùng lắp nhu cầu. Muốn trao đổi được hàng hóa người ta nghĩ 
tới một hàng hóa mà nhiều người cùng cần, đó là vật đứng ra làm vật  
ngang giá chung_hình thức đầu tiên của tiền tệ. Lúc đầu vật ngang giá 

chung rất đơn giản, nó có thể là vỏ sò vỏ hến hay con bò, miếng đồng…
Do yêu cầu thuận tiện trong trao đổi người ta thấy rằng cần phải có vật  
ngang giá chung thế  nào đó dễ  vận chuyển, dễ chia nhỏ, không hao mòn 
và có thể tích trữ dùng cho sau này.  Con người đã chọn vàng.
      Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, hàng hóa đưa vào lưu thông 
càng nhiều, đòi hỏi phải có thêm lượng tiền đưa vào thêm đáp  ứng nhu  
cầu của hàng hóa đưa vào lưu thông. Hơn thế  nữa người ta thấy rằng  
trong mua bán chịu, tờ giấy ghi nợ cũng có gía trị như tiền vậy. Tiền giấy  
ra đời và nó đã giúp cho việc trao đổi hàng hóa diễn ra thuận lợi hơn rất 
nhiều.
     Nhưng sản xuất không ngừng phát triển, khối lượng tiền đưa vào lưu 
thông ngày một lớn, đặc biệt là khi có lạm phát. Tiền giấy bộc lộ những  
hạn chế nhất định như: chi phí in ấn,bảo quản,tiền giả,kiểm đếm…Hơn 
nữa trong nền kinh tế phát triển như ngày nay khối lượng tiền trong một  
3


giao dịch là rất lớn, nếu thanh toán bằng tiền mặt thì rõ ràng là bất tiện.  
Như vậy đòi hỏi phải có phương thức mới  ưu việt hơn khắc phục được  
những hạn chế  trên, phù hợp với một giai đoạn phát triển kinh tế  mới. 
Thanh toán không dùng tiền mặt xuất hiện như  một tất yếu, thể  hiện  
bước phát triển và hoàn thiện ở đỉnh cao của lịch sử phát triển tiền tệ.
2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt.
     Thanh toán là cầu nối giữa sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu dùng.  
Đồng thời nó cũng là khâu mở  và là khâu kết thúc của quá trình tái sản 
xuất xã hội. Tổ  chức tốt công tác thanh toán nói chung sẽ  tạo điều kiện  
cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một cách trôi chảy nhịp  
nhàng. Ngược lại việc thanh toán bị  trục trặc, ách tắc thì quá trình sản 
xuất kinh doanh sẽ lâm vào trì trệ.
     Hiện nay khi mà nền kinh tế thế giới đã phát triển sang một giai đoạn 

mới, lúc nay ngân hàng phải phát huy đầy đủ  các chức năng của chức  
năng của mình đó là trung tâm thanh toán trong nền kinh tế.
     Ta có thể hiểu thanh toán không dùng tiền mặt là sự vận động của tiền  
tệ với chức năng là phương tiện thanh toán giữa các tổ chức cá nhân trong 
xã hội bằng cách trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản này sang tài khoản 
khác hoặc bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian thanh toán của ngân 
hàng hay tổ chức tín dụng khác.
     Đối với nền kinh tế thi trường thanh toán không dùng tiền mặt có vai 
trò rất lớn.
  _ Đối với nền kinh tế nói chung:
       + Thanh toán không dùng tiền mặt không chỉ  phục vụ  cho các hoạt  
động của các tổ chức, cá nhân mà nó còn góp phần mở rộng các quan hệ 
kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân.
      + Thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển hàng hóa, vật tư, tăng nhanh 
tốc độ lưu chuyển vốn trong nền kinh tế.
  _ Đối với ngân hàng:
      + Thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho ngân hàng tập trung được 
các nguồn vốn trong dân cư.
           + Giúp cho ngân hàng có được khoản thu từ  phí cung cấp dịch vụ 
thanh toán ổn định và an toàn.
           + Tạo điều kiện cho ngân hàng Nhà Nước kiểm soát và điều tiết  
lượng tiền đi vào lưu thông, từ đó có các chính sách phù hợp tác động vào 
nền kinh tế.
      + Với vai trò là các trung gian tài chính việc thanh toán qua ngân hàng  
giúp cho việc thu thập các nguồn thông tin về doanh nghiêp và sự chuyển  
4


dịch vốn trong nền kinh tế. Tạo điều kiện cho việc thẩm định các dự  án 
đầu tư được tốt hơn.

  _ Đối với xã hội:
       + Tạo môi trường thanh toán văn minh, lịch sự, thuận tiện và nhanh 
chóng.
       + Giúp  cho người dân có thói quen thanh toán qua ngân hàng và sử 
dụng các dịch vụ ngân hàng.
      + Hạn chế nạn tiền giả, rửa tiền, thành lập các quỹ đen…
3. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
     Theo quyết định 22/QD­NH ngày 21/01/1994 do Thống đốc ngân hàng 
Nhà Nước ban hành, các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt được 
áp dụng trong hệ thống ngân hàng bao gồm: séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm 
thu, thư tín dụng, ngân phiếu thanh toán, thẻ thanh toán. Tuy nhiên, một số 
chuyên gia cho rằng ngân phiếu không phải là TTKDTM mà chỉ  là một  
loại tiền mệnh giá lớn.
3.1. Thanh toán bằng séc
      _ Séc là phương tiện thanh toán do người kí phát lập dưới hình thức  
chứng từ theo mẫu in sẵn lệnh cho người thực hiện thanh toán trả không 
điều kiện một số tiền nhất định cho người thụ hưởng có tên trên séc hoặc 
người cầm séc
     _ Các chủ thể tham gia thanh toán séc:
       + Người ký phát: là người lập và kí tên trên séc để ra lệnh cho người  
thực hiện thanh toán thay mặt mình trả số tiền ghi trên séc
        + Người được trả  tiền: là người ký phát chỉ  định có quyền hưởng  
hoặc chuyển nhượng quyền hưởng đối với số tiền ghi trên tờ séc
       + Người thụ hưởng: là người cầm tờ séc mà tờ séc đó:
     ­ có ghi tên người được trả tiền là chính mình; hoặc
      ­ không ghi tên người trả  tiền hoặc ghi cụm từ “Trả cho người cầm  
séc”; hoặc:
         ­ đã chuyển nhượng bằng ký hậu cho mình thông qua dãy chữ  ký  
chuyển nhượng liên tục.
        + Đơn vị  thực hiện thanh  toán: là tổ  chức cung  ứng dịch vụ  thanh  

toán nơi người ký phát được sử dụng tài khoản thanh toán với một khoản  
tiền để  ký phát séc theo thỏa thuận giữa người ký phát với tổ  chức cug  
úng dịch vụ thanh toán đó
       + Đơn vị thu hộ: là tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán làm dịch vụ 
thu hộ séc

5


        +  Trung tâm thanh toán bù trừ  séc: là NHNN hoặc TCTD cung cấp 
dịch vụ  thanh toán được NHNN cấp phép để  tổ  chức, chủ  trì việc trao  
đổi, thanh toán bù trừ séc và quyết toán các nghĩa vụ tài chính phát sinh từ 
việc thanh toán séc cho các tổ  chức cung  ứng dịch vụ  thanh toán là thành 
viên.
      _ Ngày ký phát: là ngày mà người ký phát ghi trên séc để  làm căn cứ 
tính thời hạn xuất trình của tờ séc.
     _ Thời hạn xuất trình: 30 ngày theo lịch, kể từ ngày ký phát đến ngày 
ký phát đến ngày tờ séc đó được xuất trình tại địa điểm thanh toán.
Trong thời hạn này, tờ séc được thanh toán vô điều kiện khi xuất trình.
     _ Thời hạn thanh toán của séc: là 6 tháng kể từ ngày ký phát, nếu sau 
thời hạn xuất trình người thực hiện thanh toán không nhận được thông 
báo đình chỉ thanh toán đối với tờ séc đó và người ký phát đang có khoản  
tiền được sử dụng đủ để chi trả cho tờ séc đó.
Nếu người chủ tài khoản vi phạm phát hành séc đến tờ thứ hai, NHNN sẽ 
thông báo đến tất cả  các ngân hàng, khách hàng phát hành séc quá số  dư 
sẽ  bị  đình chỉ  việc sử  dụng loại séc đó, thời gian đình chỉ  tối thiểu là 3  
tháng. Trong trường hợp việc vi phạm nguyên tắc phát hành séc dẫn tới 
hậu quả nghiêm trọng thì người phát hành sec sẽ  bị truy tố theo quy định 
của pháp luật.
     _ Các loại séc:

         + Séc chuyển khoản:
      Séc chuyển khoản­ séc thông thường là loại séc do chủ  tài khoản ký  
phát và trực tiếp giao cho người thụ hưởng để  thực hiện nghĩa vụ  thanh  
toán của mình
      Như  vậy, khi nhận séc, người thụ  hưởng không biết chắc chắn khả 
năng thanh toán của người ký phát đối với tờ  séc đó. Do đó séc chuyển  
thường dùng trong trường hợp 2 bên tín  nhiệm nhau trong thanh toán
      Cơ  chế  sử dụng séc chuyển khoản hiện nay quy định: thời hạn hiệu  
lực của séc là 10 ngày và séc chuyển khoản chỉ  áp dụng thanh toán giữa 
các khách hàng có tài khoản  ở  một chi nhánh ngân hàng hoặc khác chi  
nhánh ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ và giao nhận chứng từ trực  
tiếp hàng ngày.
         + Séc bảo chi:
      Séc bảo chi là séc đã được tổ  chức cung  ứng dịch vụ  thanh toán xác  
nhận khả  năng thanh toán trước khi người chi trả trao séc cho người thụ 
hưởng để nhận hàng hóa và dịch vụ.

6


     Như vậy, séc bảo chi là tờ séc đã được đảm bảo khả năng chi trả, do 
đó nó được dùng trong trường hợp 2 bên mua bán không tín nhiệm nhau 
về thanh toán
     Trước khi muốn phát hành séc bảo chi cho người thụ hưởng, người ký  
phát phải đến tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ mình để  làm 
thủ tục bảo chi cho tờ séc. Sau khi tờ séc được đóng dấu bảo chi, ghi ký 
hiệu mật lên tờ séc, người ký phát mới có thể dùng tờ séc đó để  trao cho 
người thụ hưởng.
         + Séc bảo lãnh:
     Séc bảo lãnh là séc đã được đảm bảo trả tiền đối với một phần hoặc 

toàn bộ số tiền ghi trên séc bằng việc bảo lãnh của một bên thư ba(người  
bảo lãnh),  nhưng không phải là đơn vị thanh toán
      Như vậy, cũng như  séc bảo chi, séc bảo lãnh là tờ  séc đã được đảm 
bảo khả năng chi trả, do đó nó được dùng trong trường hợp 2 bên mua bán 
không tín nhiệm nhau về thanh toán
     Séc bảo lãnh cũng được sử dụng để thanh toán giữa hai khách hàng mở 
tài khoản tại cùng một tổ  chức cung  ưng dịch vụ thanh toán hoặc tại hai 
tổ chức cung  ứng dịch vụ thanh toán có cam kết thực hiện thanh toán séc  
cho các khách hàng của nhau.
3.2. Thanh toán bằng Lệnh chi hay ủy nhiệm chi(UNC):
    _ Lệnh chi hay UNC là lệnh của chủ tài khoản ủy nhiệm cho tổ chức  
cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ mình trích một số tiền nhất định từ 
tài khoản tiền gửi của mình cho người được hưởng có tài khoản  ở  cùng 
tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc khác tổ chức cung ứng dịch vụ 
thanh toán.
     Như vậy, Lệnh chi hay UNC được áp dụng trong thanh toán tiền hàng  
hóa, dịch vụ  hoặc chuyển tiền của người sử  dụng dịch vụ  thanh toán  
trong cùng tổ  chức cung  ứng dịch vụ  thanh toán hoặc giữa các tổ  chức 
cung ứng dịch vụ thanh toán.
         Lệnh chi có thể  được sử  dụng để  thanh toán, chuyển tiền giữa hai  
khách hàng mở  tài khoản tại một tổ  chức cung  ứng dịch vụ  thanh toán 
hoặc hai khách hàng mở tài khoản tại hai tổ chức cung  ứng dịch vụ khác 
nhau.
     Trường hợp dùng Lệnh chi hay UNC để thanh toán tiền hàng hóa, dịch 
vụ thì khi thực hiện lệnh chi, số tiền của lệnh chi được chuyển thẳng vào 
tài khoản thanh toán của người thụ hưởng.
     Trường hợp dùng trực tiếp lệnh chi hay UNC để chuyển tiền đứng tên 
người thụ  hưởng thì chuyển trả  vào tài khoản thanh toán của người thụ 
7



hưởng(nếu người thụ  hưởng có tài khoản tại tổ  chức cung  ứng dịch vụ 
tiền phải trả” (nếu người thụ hưởng không có tài khoản tại tổ chức cung 
ứng dịch vụ thanh toán nhận chuyển tiền)
     Chủ tài khoản cũng có thể dùng lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi để chuyển  
tiền bằng cách đề nghị tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ mình  
phát   hành   séc   chuyển   tiền   cầm   tay.   Trường   hợp   này   chỉ   sử   dụng   để 
chuyển tiền giữa hai tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cùng hệ thống.
      Thời hạn thực hiện lệnh chi hay UNC do tổ chức cung  ứng dịch vụ 
thanh toán thỏa thuận với người sử  dụng dịch vụ  thanh toán. Khi kiểm 
soát, hạch toán lệnh chi, các bên phải thực hiện đúng thời hạn đã quy định 
để đảm bảo thanh toán nhanh lệnh chi.
Thực tế, UNT chiếm  ưu thế  tuyệt đối trong thanh toán không dùng tiền  
mặt vì nó thuận tiện, dễ dàng và các lý do khách quan.
3.3. Thanh toán bằng ủy nhiệm thu(UNT) 
      Nhờ  thu hoặc  ủy nhiệm thu được áp dụng trong giao dịch thanh toán  
giữa những người sử  dụng dịch vụ thanh toán có mở  tài khoản trong nội  
bộ  tổ chức cung  ứng dịch vụ  thanh toán hoặc giữa các tổ  chức cung ứng 
dịch vụ thanh toán, trên cơ sở có thỏa thuận hoặc hợp đồng về điều kiện 
thu hộ giữa bên trả tiền và bên thụ hưởng.
         Thực chất của nhờ  thu hay  ủy nhiệm thu là giấy tờ  thanh toán do  
người ban lập để ủy thác cho tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thu hộ 
một số tiền  ở người mua tương  ứng với giá trị  hàng hóa dịch vụ  đã cung 
ứng.
      Tuy nhiên, việc tự  động lập  ủy nhiệm thu này có thể  dẫn tới người  
bán lập ủy nhiệm thu hoặc nhờ thu để thu khống, thu thừa tiền của người  
mua, do đó nhờ thu hay UNT chỉ được sử dụng để thanh toán những hàng 
hóa, dịch vụ có dụng cụ có ghi đo chính xác như điện, điện thoại, nước…
      Thời hạn thực hiện nhờ  thu hay  ủy nhiệm thu do tổ chức cung  ứng  
dịch vụ thanh toán thỏa thuận với người sử dụng dịch vụ thanh toán.

      Trong thời gian không quá một ngày làm việc kể  từ  thời điểm nhận  
được UNT do tổ  chức cung  ứng dịch vụ  thanh toán phục vụ  người thụ 
hưởng gửi đến, tổ  chức cung  ứng dịch vụ  thanh toán phục vụ  người trả 
tiền phải hoàn tất việc trích tài khoản của người trả  tiền nếu trên tài  
khoản của người chi trả đó có đủ điều kiện để thực hiện giao dịch thanh  
toán, hoặc báo cho người trả  tiền biết nếu trên tài khoản của người đó 
không có đủ tiền để thực hiện giao dịch thanh toán, đồng thời theo dõi để 
thanh toán khi tài khoản của người trả tiền có đủ tiền.

8


Thực tế, UNT chiếm tỷ trọng thanh toán rất nhỏ  vì ít thuận tiện, khó áp 
dụng.
3.4. Thanh toán bằng thư tín dụng:
   *Thư tín dụng là một văn bản cam kết có điều kiện được ngân hàng mở 
theo yêu cầu của người sử  dụng thanh toán( người xin mở  thư  tín dụng)  
theo đó ngân hàng thực hiện yêu cầu của người sử  dụng dịch vụ  thanh  
toán để:
_ Trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh của 
người thụ hưởng khi nhận được bộ  chứng từ xuất trình phù hợp với các 
điều kiện của thư tín dụng.
_ Chấp nhận trả  tiền hoặc  ủy quyền cho ngân hàng khác trả  tiền theo  
lệnh của người thụ  hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai 
khi nhận được bộ  chứng từ  xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh 
toán của thư tín dụng.
   *Đặc điểm:
_ Thư tín dụng dùng trong thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ trên cơ sở hợp 
đồng hinh tế đã ký kết và trong trường hợp giữa người mua và người bán 
không tín nhiệm lẫn nhau.

_ Thường áp dụng khi bên bán hoặc bên mua giao dịch không thường  
xuyên, không biết nhau hoặc giao dịch lần đầu, hoặc do yêu cầu của bên 
bán đòi hỏi bên bán đòi hỏi bên mua đảm bảo cho khả  năng thanh toán 
chắc chắn.
   *Phạm vi thanh toán:
Thư tín dụng dùng để  thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ  theo hợp kinh tế 
đã ký kết giữa người mua và người bán mở  tài khoản  ở  hai ngân hàng 
cùng hệ thống. Trường hợp thanh toán ra khác hệ thống thì tại địa bàn của  
ngân hàng phục vụ  người bán phải có một ngân hàng cùng hệ  thống với 
ngân hàng phục vụ người mua tham gia thanh toán bù trừ.
   *Điều kiện thanh toán:
_ Thư tín dụng chỉ thanh toán một lần và cho một người bán. Trường hợp 
thanh toán không hết thì phải hoàn lại số tiền mở thư tín dụng cho người  
mua.
_ Thời hạn hiệu lực: 3 tháng kể  từ  ngày ngân hàng phục vụ  người mua  
mở  thư  tín dụng đến ngày người bán nộp chứng từ  thanh toán vào ngân 
hàng.
_ Thanh toán thư tín dụng nội địa đòi hỏi người mua phải lưu ký 100% giá  
trị thư tín dụng tại ngân hàng.
3.5. Thanh toán bằng thẻ ngân hàng 
9


3.5.1. Khái niệm thẻ:
      Thẻ ngân hàng là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt do 
ngân hàng phát hành cho khách hàng, theo đó người sử  dụng thẻ  có thể 
dùng để thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ tại các ĐVCNT hay rút tiền mặt 
tại các ngân hàng đại lý thanh toán thẻ hoặc tại các máy rút tiền tự động 
ATM.
     Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán hiện đại vì nó gắn liền 

với kỹ  thuật tin học  ứng dụng trong ngân hàng. Thẻ  thanh toán do ngân 
hàng phát hành và bán cho khách hàng của mình( các doanh nghiệp, cá 
nhân) để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ, thanh toán nợ và lĩnh tiền mặt. 
Ở  một số  nước, các hãng, các công ty lớn cũng phát hành thẻ  thanh toán  
để thu tiền bán hàng của hãng mình.
    3.5.2. Đặc điểm cấu tạo của thẻ:
   _ Mặt trước bao gồm:
       + Nhãn hiệu thương mại của thẻ
       + Tên và logo của ngân hàng phát hành thẻ
       + Số thẻ, tên chủ thẻ dược in nổi
  _ Mặt sau của thẻ bao gồm:
        + Dải băng từ  chứa các thông tin đã được mã hóa theo một chuẩn  
thống nhất như: số thẻ, ngày hết hạn, các yếu tố kiểm tra an toàn khác.
       + Ô chữ ký dành cho chủ thẻ
3.5.3. Phân loại thẻ
   *Phân loại theo đặc tính kỹ thuật
  _ Thẻ băng từ: được sản xuất dựa trên kỹ thuật từ tính với một dải băng  
từ chứa 2 rãnh thông tin ở mặt sau của thẻ.
  _ Thẻ điện tử có bộ vi xử lý Chip( thẻ thông minh): là thế  hệ mới nhất  
của thẻ thanh toán, thẻ thông minh dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học nhờ 
gắn vào thẻ “Chip” điện tử có cấu trúc như một máy tính hoàn hảo. Thẻ 
thông minh có nhiều nhóm với dung lượng nhớ  của “chip” điện tử  khác 
nhau.
     Thông thường, một tấm thẻ thông minh được gắn chip điện tử để thay  
thế  cho dải băng từ  sau thẻ. Cũng có trường hợp thẻ  thông minh có cả 
chip điện tử  và băng từ. Thẻ  thông minh gắn chip xử  lý dữ  liệu có khả 
năng vừa lưu trữ các thông tin về chủ thẻ, điểm thưởng tích lũy đồng thời 
lưu   giữ   số   liệu   về   những   lần   giao   dịch   tại   đơn   vị   chấp   nhận   thẻ 
(ĐVCNT). Tính năng vượt trội này của thẻ thông minh giúp cắt giảm chi 
phí xử  lý đối với ngân hàng và các trung gian thanh toán bởi việc đối 

chiếu thông tin tài khoản và thông tin của chủ thẻ cũng như việc cập nhật  
10


thông tin liên quan tới thẻ  giờ  đây được thực hiện ngay tại đơn vị  chấp  
nhận thẻ(ĐVCNT).
   *Phân loại theo tính chất thanh toán ( nội dung kinh tế) của thẻ 
   _ Thẻ ghi nợ (Debit Card)­ thẻ loại A: là loại thẻ  có quan hệ  trực tiếp  
và gắn với tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ  thẻ. Để  sử  dụng loại 
thẻ này, chủ thẻ phải có tài khoản hoạt động thường xuyên tại ngân hàng. 
Loại thẻ  này khi rút tiền tại các máy tự  động(ATM) hay mua hàng hóa 
dịch vụ  tại các đơn vị  chấp nhận thẻ(ĐVCNT), giá trị  các giao dịch sẽ 
được trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ. Như vậy người sử dụng  
thẻ này không phải lưu ký tiền vào tài khoản đảm bảo thanh toán thẻ, căn  
cứ để thanh toán là số dư tài khoản tiền gửi của chủ sở hữu thẻ tại ngân 
hàng và hạn mức thanh toán tối đa của thẻ do ngân hàng quy định.
      Trong các hình thức thẻ  ghi nợ, thẻ ATM là hình thức phát triển đầu 
tiên, nó cho phép chủ  thẻ  tiếp cận trực tiếp với tài khoản của mình tại 
ngân hàng từ máy rút tiền tự  động. Chủ  thẻ  có thể  thực hiện nhiều giao 
dịch khác nhau tại máy rút tiền tự  đông ATM, bao gồm: xem số  dư  tài  
khoản, chuyển khoản, rút tiền, in sao kê, xem các thông tin quảng cáo…
Hệ thống máy ATM hiện đại còn cho phép chủ thẻ gửi tiền vào tài khoản  
của mình ngay tại các máy ATM. Tuy nhiên, sử  dụng thẻ  ATM, chủ  thẻ 
chỉ có thể tiếp cận với tài khoản của mình từ những máy rút tiền tự động.  
Đây là một hạn chế  bởi tài khoản cá nhân chưa được tận dụng triệt để 
trong thanh toán dịch vụ, hàng hóa tại các ĐVCNT.
         Sự  tiện lợi là đặc điểm quan trọng nhất của thẻ  ATM. Bằng cách 
nhập mã số  cá nhân PIN, chủ  thẻ  có thể  tiếp cận tài khoản cá nhân của 
mình tại các máy rút tiền tự động 24/24h một ngày và 7 ngày trong tuần.  
Điều này có nghĩa là nhiều giao dịch được thực hiện ngoài giờ  làm việc  

của ngân hàng và các ngày nghỉ.
   _ Thẻ  trả  trước(Prepaid Card)­ thẻ  loại B: là loại thẻ  mới được phát 
triển trên thế giới, khách hàng không cần phải thực hiện các thủ tục phát  
hành thẻ  theo yêu cầu của ngân hàng như  điền vào yêu cầu phát thẻ, 
chứng minh tài chính…, họ chỉ cần trả cho ngân hàng một số tiền sẽ được  
ngân hàng bán cho một tấm thẻ với mệnh giá tương đương. Đặc tính của 
loại thẻ  này giống như mọi thẻ bình thường khác, chỉ cóđiều thẻ  này chỉ 
được giới hạn trongộc số  tiền có trong thẻ  và chi tiêu trong một khoảng  
thời gian nhất định tùy thuộc vào quy định của mỗi ngân hàng, tức là hạn 
mức thẻ không có tính chất tuần hoàn.
  _ Thẻ  tín dụng (Credit Card)­ thẻ loại C: là loại thẻ được sử  dụng phổ 
biến nhất, theo đó người chủ  thẻ  được sử  dụng một hạn mức tín dụng  
11


quy định không trả lãi (nếu chủ thẻ hoàn trả số tiền đã sử dụng đúng thời  
hạn) để  mua sắm hàng hóa dịch vụ  tại những cơ  sở  chấp nhận loại thẻ 
này. Thẻ tín dụng là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt cho  
phép người sử  dụng khả  năng chi tiêu trước trả  tiền sau. Khoảng thời  
gian từ khi thẻ được dùng để thanh toán hàng hóa, dịch vụ tới lúc chủ thẻ 
phải trả  tiền cho ngân hàng có độ  dài phụ  thuộc vào từng loại thẻ  tín 
dụng của các tổ  chức khác nhau. Thời gian này chủ  thẻ  hoàn toàn được  
miễn lãi đối với số tiền phát sinh. Nếu hết thời gian miễn lãi này mà toàn 
bộ  số  tiền phát sinh chưa được thanh toán cho ngân hàng thì chủ  thẻ  sẽ 
chịu những khoản phí và lãi chậm trả. Khi toàn bộ số tiền phát sinh được  
hoàn trả  cho ngân hàng, hạn mức tín dụng của chủ  thẻ  được khôi phục 
như ban đầu. Đây còn gọi là tính chất tuần hoàn của thẻ tín dụng.
     Các tổ chức tài chính như ngân hàng hay các công ty tài chính phát hành  
thẻ tín dụng cho khách hàng dựa trên uy tín và khả năng đảm bảo chi trả 
của từng khách hàng. Khả  năng đảm bảo chi trả  được xác định dựa trên 

tổng hợp nhiều thông tin khác nhau như: thu nhập, tình hình chi tiêu, mối 
quan hệ  sẵn có đối với các tổ  chức tài chính, địa vị  xã hội…của khách  
hàng. Do đó, mỗi khách hàng có những hạn mức tín dụng khác nhau.
3.5.4. Các chủ thể tham gia vào hoạt động phát hành và thanh toán 
thẻ
     Hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng có sự tham  
gia chặt chẽ  của 4 chủ thẻ  là: ngân hàng phát hành thẻ, ngân hàng thanh 
toán thẻ, chủ thẻ và các đơn vị chấp nhận thẻ. Từng chủ thẻ đóng vai trò  
quan trọng khác nhau trong việc phát huy tối đa vai trò làm phương tiện 
thanh toán hiện đại của thẻ ngân hàng.
  _ Ngân hàng phát hành:
Ngân hàng phát hành là ngân hàng thực hiện việc:
       + Thẩm định tính năng pháp lý và khả năng tài chính khách hàng.
       + Phát hành thẻ cho các khách hàng có kết quả thẩm định đạt yêu cầu
       + Tạo sao kê cho chủ thẻ và quyết toán với chủ thẻ
     Ngoài ra, ngân hàng phát hành còn có quyền ký kết hợp đồng đại lý với 
bên thứ  ba, là một ngân hàng hoặc một tổ  chức tài chính tín dụng khác 
trong việc phát hành thẻ  tín dụng. Trong trường hợp nay, ngân hàng phát 
hành tận dụng được  ưu thế  của bên thứ  ba về  kinh nghiệm, khả  năng 
thâm nhập thị trường và những ưu việt về vị trí địa lý; tuy nhiên cũng phải 
chịu rủi ro về tài chính bởi bên thứ ba lúc này hoạt động dưới danh nghĩa  
là ngân hàng phát hành. Bên thứ  ba khi ký kết hợp đồng đại lý với ngân  
hàng phát hành được gọi là ngân hàng phát hành đại lý (ngân hàng đại lý). 
12


Các ngân hàng này không tham gia toàn bộ vào quá trình phát hành thẻ mà 
chủ  yếu có nhiệm vụ  phân phát các tờ  rơi tại hệ  thống chi nhánh của  
mình và nhận những đơn xin phát hành thẻ  của khách hàng và trong một  
số  trường hợp tham gia vào quá trình thẩm định khả  năng tài chính của  

khách hàng dựa trên kinh nghiệm và mối quan hệ sẵn có. Ngân hàng phát  
hành là tổ chức thực hiện các công việc còn lại như quyết định hạn mức  
tín dụng cho khách hàng, ký kết hợp đồng và in thẻ
      Để  phục vụ  việc phát hành thẻ, các ngân hàng phải đầu tư  lơn vào  
trang thiết bị  bởi công tác phát hành đòi hỏi những công nghệ  hiện đại. 
Trong đó ngân hàng phát hành phải trang bị  hệ  thống in thẻ, hệ  thống 
quản lý và cập nhật dữ  liệu liên quan đến chủ  thẻ  và tình hình chi tiêu 
của chủ  thẻ…Chính vì vậy thông thường, để  trở  thành ngân hàng phát 
hành thẻ, ngoài uy tín, những ngân hàng và tổ  chức tín dụng nói chung 
phải đáp  ứng được những yêu cầu nhất định về  khả  năng tài chính, đầu  
tư công nghệ và chất xám.
  _ Chủ thẻ:
     Chủ thẻ là những cá nhân hoặc người được ủy quyền (nếu là thẻ  do  
công ty  ủy quyền sử  dụng) được ngân hàng phát hành thẻ  có tên in nổi 
trên thẻ  và sử  dụng thẻ  theo điều khoản trong hợp đồng đã ký kết với 
ngân hàng phát hành
      Theo thông lệ, mỗi chủ thẻ chính thường có thể  phát hành thêm một  
thẻ  phụ. Như  vậy, phát sinh hai khái niệm thẻ  chính và thẻ  phụ. Tuy 
nhiên chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ  cùng chi tiêu một tài khoản. Chủ  thẻ 
phụ  cũng có trách nhiệm thanh toán các khoản phát sinh trong kỳ  nhưng 
chủ  thẻ  chính là người có trách nhiệm thanh toán cuối cùng đối với ngân 
hàng
     Chủ thẻ sử dụng thẻ của mình để thanh toán hàng hóa, dịch vụ tại các  
đơn vị  chấp nhận thẻ,  ứng tiền mặt tại các điểm  ứng tiền mặt tại hệ 
thống ngân hàng hoặc sử dụng thẻ để thực hiện các giao dịch tại may rút  
tiền tự động ATM. Trong trường hợp thẻ tín dụng, sau một khoảng thời  
gian nhất định tùy theo quy định của từng ngân hàng phát hành, chủ thẻ sẽ 
nhận được sao kê(statement) là bản thông báo số  tiền mà chủ  thẻ  phải 
thanh toán với ngân hàng và thời điểm thanh toán cũng như  số  tiền thanh  
toán tối thiểu bắt buộc. Nếu là thẻ ghi nợ, ngân hàng sẽ  tự động trích nợ 

tài khoản của chủ thẻ theo giá trị giao dịch được thực hiện bằng thẻ.
   _ Ngân hàng thanh toán:
Ngân   hàng   thanh   toán   là   ngân   hàng   chấp   nhận   các   loại   thẻ   như   một 
phương tiện thanh toán thông qua việc ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ 
13


với các điểm cung  ứng hàng hóa, dịch vụ  trên địa bàn. Trong hợp đồng 
chấp nhận thẻ  ký kết với các đơn vị  cung  ứng hàng hóa, dịch vụ, ngân 
hàng thanh toán thẻ cam kết:
        + Chấp nhận các đơn vị  này vào hệ  thống thanh toán thẻ  của ngân 
hàng.
       + Cung cấp các thiết bị đọc thẻ tự động cho các đơn vị này kèm theo  
những hướng dẫn sử dụng hoặc chương trình đào tạo nhân viên cách thức  
vận hành cùng với dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng đi kèm trong suốt thời gian  
hoạt động
       + Quản lý và xử lý những giao dịch có sử dụng thẻ trong những đơn  
vị này.
     Thông thường, ngân hàng thanh toán thu từ các đơn vị  cung ứng hàng  
hóa, dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với họ một mức phí chiết  
khấu (discount rate) cho việc xử lý các giao dịch có sử  dụng thẻ  tại đây.  
Mức phí này cao hay thấp phụ thuộc vào từng ngân hàng và vào mối quan 
hệ chiến lược đối với các đơn vị khác nhau.
      Trên thực tế, rất nhiều ngân hàng vừa là ngân hàng phát hành vừa là 
ngân hàng thanh toán thẻ.
  _ Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT):
     Các đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ 
như   một   phương   tiện   thanh   toán   được   gọi   là   đơn   vị   chấp   nhận  
thẻ(ĐVCNT). Các ngành kinh doanh của các ĐVCNT trải rộng từ  những  
cửa hiệu bán lẻ, những nhà hàng ăn uống, đến khách sạn, sân bay…Tại  

nhiều nước trên thế giới, khi thẻ ngân hàng đã trở thành một phương tiện  
thanh toán thông dụng, chúng ta có thể  nhìn thấy những biểu trưng của 
thẻ thường tại các cửa hàng. Ở Việt Nam, các ĐVCNT tập trung chủ yếu 
tại các ngành hàng, dịch vụ có thu hút nhiều khách nước ngoài như những 
cửa hàng bán đồ  thủ  công mỹ  nghệ, lưu niệm tại các trung tâm thương  
mại, những nhà hàng, khách sạn lớn, các đại lý bán vé máy bay…
         Để  trở  thành ĐVCNT đối với một loại thẻ  ngân hàng nào đó, nhất 
thiết là đơn vị  này phải có tình hình tài chính tốt và có năng lực kinh  
doanh. Cũng như  việc ngân hàng phát hành thẩm định khách hàng trước  
khi phát hành thẻ cho họ, các ngân hàng thanh toán cũng sẽ chỉ quyết định  
ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với những đơn vị kinh doanh hiệu quả, có  
khả năng thu hút nhiều giao dịch sử dụng thẻ.
      Mặc dù phải trả  cho ngân hàng thanh toán một tỷ  lệ  phí chiết khấu 
theo số  tiền trong mỗi giao dịch, các ĐVCNT vẫn có được lợi thế  cạnh 
tranh bởi việc chấp nhận thanh toán bằng thẻ  ngân hàng sẽ  giúp các đơn  
14


vị này thu hút được một lượng khách hàng lớn, nâng cao số lượng các giao 
dịch thực hiện, giảm chi phí quản lý tiền mặt, góp phần tăng hiệu quả 
kinh doanh.
4. Các phương thức thanh toán
  4.1. Phương thức thanh toán liên chi nhánh ngân hàng
           Thanh toán giữa hai khách hàng có tài khoản tại hai đơn vị  ngân 
hàng/chi nhánh ngân hàng thuộc cùng địa bàn tỉnh, thành phố, hoặc
           Thanh toán giữa hai khách hàng có tài khoản tại hai đơn vị  ngân 
hàng/chi nhánh ngân hàng thuộc cùng hệ thống ngân hàng thương mại
    4.2. Phương thức thanh toán liên ngân hàng
             Thanh toán giữa hai khách hàng có tài khoản tại hai đơn vị  ngân  
hàng/chi nhánh ngân hàng khác địa bàn, khác hệ  thống ngân hàng thương  

mại. 
         Thanh toán liên ngân hàng là hoạt động thuờng xuyên giữa các ngân 
hàng thành viên trong nghiệp vụ  chuyển tiền giữa các ngân hàng tại các 
địa
 
phương
 
khác
 
nhau.
CITAB : Áp dụng cho các thành viên đã tham gia điện tử ngân hàng, thông  
thường chỉ có các thành phố lớn, TpHCM, Cần Thơ,Hải phòng, Đà Nẳng, 
Hà nội
       VCB:Thanh toán thông qua tất cả  các loại tiền có mở  tài khoản tại 
VCB, chỉ thực hiện lệnh chuyển tiền có
     Hệ thống thanh toán bù trừ áp dụng cho các ngan hàng có mở tài khoản  
tại ngân hàng Nhà nước nơi trú đóng
      Việc áp dụng tùy thuộc vào mỗi địa bàn khác nhau. Ví dụ, nếu các tỉnh  
thành mà không có CN mở tại địa phương, thì các ngân hàng thường thông 
qua NHNN tại tpHCM và Tỉnh đó để  truyền lệnh, thông qua NHNN nơi  
muốn nhận và đi
Tùy thuộc vào phí chuyển tiền mà sử dụng CITAD hay VCB
    4.3. Phương thức thanh toán bù trừ trực tiếp
      Thanh toán bù trừ là một phương thức thanh toán trong ngoại thương,  
trong đó tiền hàng không được thanh toán trực tiếp và ngay giữa người  
bán và người mua mà được ghi vào một tài khoản được gọi là tài khoản 
Clearing, đến cuối kỳ tiến hành bù trừ giữa tài khoản của hai bên. Cụ thể 
là, tài khoản Clearing được chia làm hai bên, bên Nợ và bên Có, thường là  
trong một năm xuất hiện nhiều thương vụ giữa bên A và bên B, khi bên A 
mua của bên B một lô hàng thì trị giá hàng sẽ được ghi vào bên Có của tài 

15


khoản bên A và Nợ  vào tài khoản bên B, còn nếu bên B mua của bên A 
một lô hàng thì trị giá sẽ được ghi vào bên Có của tài khoản B và ghi vào 
bên Nợ của tài khoản A. Đến cuối năm sẽ tiến hành bù trừ giữa bên Có và 
Nợ của hai tài khoản, và theo nguyên tắc số liệu cuối cùng ở hai tài khoản 
phải trùng khớp nhau. Khi đó nếu tài khoản A có số dư bên Có, tức là tài 
khoản B sẽ có số  dư bên Nợ, và số dư đó chính là số tiền mà bên B phải 
thanh toán cho bên A. Ngược lại, nếu tài khoản B có số dư bên Có, tức là 
tài khoản A có số dư bên Nợ, lúc đó số dư đó chính là khoản tiền mà bên 
A phải trả cho bên B. 
Tiền tệ được sử  dụng trong thanh toán bù trừ  là đồng tiền clearing tức 
là đồng   tiền   không được  chuyển đổi  ra   bất   kỳ đồng   tiền   nào   khác, 
không được chuyển khoản sang các tài khoản khác, bên nào dư nợ sẽ phải 
trả bằng ngoại tệ tự do hoặc chuyển sang tài khoản vay nợ năm sau hoặc 
trả nợ bằng hàng hóa, dịch vụ theo yêu cầu của nước chủ nợ. Tùy theo sự 
thỏa thuận của hai bên, tiền tệ  clearing có thể được lựa chọn là tiền tệ 
của một trong hai nước của hai bên hoặc tiền tệ  của nước thứ  ba. Với  
phương thức thanh toán này có thể qui định cả hai bên phải mở tài khoản 
hoặc chỉ cần một bên mở tài khoản.
Thực chất   phương   thức   thanh   toán   bù   trừ được   sử   dụng   nhiều   trong 
Hiệp định mua bán hàng hóa dịch vụ giữa chính phủ  hai quốc gia, hoặc 
giữa hai thương nhân có quan hệ buôn bán thân thiết và hàng năm trao đổi 
với nhau nhiều loại hàng hóa. Để đơn giản thủ tục thanh toán hai bên sử 
dụng phương thức thanh toán bù trừ, ví dụ  như  Hiệp định thương mại và 
thanh toán clearing Việt Nam và Campuchia những năm 1960 qui định mở 
tài   khoản bằng đồng   Bảng   Anh,   Hiệp định   Việt   Nam   ký   với Ấn Độ 
bằng đồng Rupi Ấn Độ, với Ai Cập bằng đồng Bảng Ai Cập...Với những 
loại hiệp định như thế này, nước nào mở tài khoản nước đó sẽ có lợi, bởi 

vì nước không mở tài khoản muốn nhập hàng trước thì phải có số dư Có 
trên tài khoản nếu không phải xuất hàng trước rồi sau đó mới được phép 
nhập   hàng.   Ngược   lại,   nước   mở   tài   khoản   không có số   dư Có   trên 
tài khoản vẫn được quyền nhập khẩu. Để giải quyết sự không công bằng 
này, hiệp định kí kết giữa hai nước phải quy  định tín dụng thấu chi  cho 
nước không mở  tài khoản clearing. Hiện nay với sự  phát triển của hệ 
thống ngân hàng, đặc biệt việc sử dụng phương thức thanh toán tín dụng 
chứng từ  L/C đã trở  thành tập quán, thì phương thức thanh toán bù trừ 
rất ít được sử dụng.     
16


  4.4. Phương thức thanh toán qua ngân hàng Nhà nước
     NHNN thực hiện chủ trì thanh toán cho toàn bộ hệ thông NHTM
     NHTW là cơ quan quản lý Nhà nước về các lĩnh vực tiền tệ­tín dụng­
thanh toán­ngoại hối và ngân hàng nhằm mục đích điều hòa lưu thông tiền 
tệ và lưu thông hàng hóa được nhanh chóng chính xác và thông suốt.
III.   NHỮNG   QUY   ĐỊNH   MANG   TÍNH   NGUYÊN   TẮC   TRONG 
THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
         Thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ  trung gian của ngân 
hàng, nghiệp vụ này có liên quan chặt chẽ đến quan hệ trao đổi hàng hóa 
và dịch vụ  của tất cả  các tổ  chức cá nhân trong nền kinh tế. Để  hoạt 
động thanh toán không dùng tiền mặt diễn ra thuận lợi, an toàn, bảo đảm 
quyền lợi của các bên tham gia, cần phải thống nhất công tác tổ  chức và 
có những quy định cụ thể. Ngân hàng Nhà nước đã có những quy định như 
sau:
  1. Quy định chung:
       Các doanh nghiệp, cơ  quan nhà nước, đoàn thể  cá nhân được quyền 
lựa chọn ngân hàng để mở tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
     Việc mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng, kho bạc nhà nước thì thực  

hiện qua tài khoản được ghi bằng đồng Việt Nam. Trường hợp ghi bằng  
ngoại tệ  phải thực hiện theo quy chế  quản lý ngoại hối của chính phủ 
Việt Nam ban hành.
 2. Quy định đối với ngân hàng
      Thực hiện  ủy thác thanh toán của chủ tài khoản, bảo đảm chính xác, 
an toàn, thuận tiện. Các ngân hàng và kho bạc có trách nhiệm chi trả bằng  
tiền mặt hoặc chuyển khoản trong phạm vi số dư tiền gửi theo yêu cầu 
của chủ tài khoản.
      Kiểm tra khả năng thanh toán của chủ  tài khoản trước khi thực hiện 
thanh toán và được  ủy quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản không đủ 
tiền, đồng thời không chịu trách nhiệm về  những nội dung liên đới của 
bên khách hàng.
     Nếu thiếu sót trong quá trình thanh toán, gây thiệt hại cho khách hàng 
thì ngân hàng và kho bạc phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và tùy  
theo mức độ thiệt hại mà có thể bị xử lý theo pháp luật.
     Khi thực hiện các dịch vụ thanh toán cho khách hàng, ngân hàng được  
thu phí theo quy định của ngân hàng nhà nước.
3. Quy định đối với khách hàng

17


     Để  đảm bảo thực hiện thanh toán đầy đủ  kịp thời, các chủ  tài khoản 
phải có đủ  tiền trên tài khoản, mọi trường hợp thanh toán quá số  dư  là 
phạm pháp và phải xử lý theo quy định của pháp luật
     Chủ tài khoản phải lập chứng từ theo mẫu sẵn do ngân hàng ấn hành  
và các chứng từ phải đầy đủ các yếu tố quy định về mẫu, chữ ký đăng ký 
tại ngân hàng.

18



CHƯƠNG II:
VÀI NÉT VỀ THANH TOÁN KHÔNG 
DÙNG TIỀN MẶT TẠI  VIỆT NAM

I.

THỰC TRẠNG
Cơ  sở  pháp lý của hệ  thống các hình thức thanh toán  
không dùng tiền mặt ở Việt Nam
      Để  hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng hoàn thiện 
hơn, Chính phủ  và ngân hàng Nhà nước Việt Nam không ngừng nghiên  
cứu và đưa ra các văn bản có tính pháp lý, tạo hành lang pháp lý cho hoạt 
động thanh toán không dùng tiền mặt và các hình thức thanh toán không 
dùng tiền mặt phát huy tác dụng. Hệ  thống các văn bản pháp quy đó bao 
gồm:
  _ Luật NHNN và luật các tổ chức tín dụng ban hành năm 1997, trong đó 
có đề cập đến vấn đề thanh toán qua ngân hàng.
   _  Quyết   định  371/QD­NHNN  của  Thống  đốc  NHNN   ban  hành  ngày 
19/10/1999 về quy chế phát hành và thanh toán thẻ ngân hàng.
  _ Nghị định 64/2001/ND­CP của Chính phủ ban hành ngày 20/09/2001 về 
hoạt động thanh toán qua tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
  _ Quyết định 226/2002/QD­NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày 
26/03/2002 về  việc ban hành quy chế  hoạt động thanh toán qua các tổ 
chức dịch vụ thanh toán
  _ Quyết định 235/2002/QD­NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày 
01/04/2002 về chấm dứt phát hành ngân phiếu thanh toán.
   _ Quyết định 1092/2002/QD­NHNN của Thống đốc NHNN ban hành 
ngày 08/10/2002 quy định thủ  tục thanh toán qua các tổ  chức cung  ứng  

dịch vụ thanh toán.
   _ Nghị  định 159/2003/ND­CP của Chính phủ  ban hành ngày 10/12/2003 
về cung ứng và sử dụng séc có hiệu lực thi hành ngày 01/04/2004.
     Đã có một thời, việc kiểm soát tiền mặt tồn quỹ  được thực hiện ráo 
riết, tỷ  trọng thanh toán không dùng tiền mặt(qua ngân hàng) tăng cao,  
thanh toán bằng tiền mặt giảm mạnh. Nhưng biện pháp hành chính đó 
không phù hợp với cơ  chế  thị  trường. Đến nay, nhiều chuyên gia ngân  
hàng cho rằng thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam vẫn chiếm tỷ 
lệ  thấp, khoảng 30% tổng doanh số  thanh toán trong nền kinh tế. Nhiều 
nghìn tỷ đồng tiền mặt trong từng cá nhân, gia đình, quỹ cơ quan, đơn vị,  
doanh nghiệp để  thanh toán trực tiếp khi mua hàng hóa, kể  cả  mua bất  
19


động sản trị  giá hàng tỷ  đồng. Sử  dụng tiền mặt phổ  biến trong thanh 
toán vừa gây quá nhiều lãng phí, vừa là kẽ  hở  lớn cho nạn tham nhũng, 
buôn lậu, trốn thế  luồn lách, lẩn trốn sự  kiểm soát của Nhà nước và xã 
hội.
     Trong thời kỳ tập trung bao cấp, Nhà nước ta cũng rất quan tâm đề ra  
những chủ  trương lớn về  việc sử  dụng phương tiện thanh toán không 
dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Tuy nhiên, do  ảnh hưởng của cơ  chế 
mệnh lệnh hành chính quan liêu cùng với hệ  thống ngân hàng một cấp, 
mở  rộng thanh toán chuyển khoản chỉ  phát huy hiệu lực trong bộ  phận 
kinh tế Nhà nước. Lợi ích chính đáng và hợp pháp của chủ thể thanh toán 
không được tôn trọng đúng mức chính là lý do làm cho những chủ trương  
nói trên kém thực thi, thậm chí còn bị biến dạng trở thành phương tiện thể 
hiện quyền lực nhằm mục  đích gây sách nhiễu, phiền hà. Trước năm  
1985, thanh toán không dùng tiền mặt chiếm 80%, nhưng trong cuộc lạm  
phát phi mã 1985­1988, thanh toán không dùng tiền mặt sút giảm ghê gớm 
vì tiền khan hiếm đến mức các ngân hàng quốc doanh khi đó, với thế độc 

quyền, đã khất chi tiền mặt. Một cái séc chuyển khoản nộp vào ngân hàng 
phải 15 ngày sau mới tính ra bằng tiền mặt được.
         Thực tế  trên đã  ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động thanh toán không 
dùng tiền mặt hiện nay, nhất là khi nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị 
trường. Mọi việc lại trở  nên “quá đà” khi xã hội không chấp nhận rộng 
rãi các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Hệ  thống thanh toán 
thông qua định chế  tài chính­ngân hàng mặc dù có bước phát triển vượt  
bậc so với trước đây, nhưng nhìn chung còn nhiều bất cập trong xu thế 
hội nhập quốc tế, chưa đi vào cuộc sống, thậm chí còn rất xa lạ  với đại 
đa số dân cư.
      
       Theo đánh giá của các cơ  quan chức năng, mức độ  thanh toán bằng 
tiền mặt ở Việt Nam là rất phổ biến. Khảo sát thực trạng thanh toán năm  
2003 tại 750 doanh nghiệp Việt Nam ở 3 miền Bắc, Trung, Nam cho thấy: 
các doanh nghiệp tư nhân (có trên 500 công nhân trở  lên) tiến hành 63 % 
các giao dịch qua hệ  thống ngân hàng. Những doanh nghiệp có ít hơn 25  
công nhân, 47% các giao dịch được thực hiện qua hệ thống ngân hàng. Các 
doanh nghiệp Nhà nước tiến hành 80% các giao dịch thông qua hệ  thống  
ngân hàng.
       Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước và tư  nhân đều trả  lương cho  
người lao động bằng tiền mặt. Trong các hộ kinh doanh, có đến 86,2% số 
hộ vẫn chi trả hàng hóa bằng tiền mặt; 75% số hộ kinh doanh chi trả dịch 
20


vụ  bằng tiền mặt; 72% số  hộ  kinh doanh tư  nhân nộp thuế  bằng tiền  
mặt…
      Tuy nhiên, một số năm trở lại đây, tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương  
tiện thanh toán xã hội đang có xu hướng giảm dần qua từng năm.   Năm 
1997 là 32,2%; năm 2001 là 23,7%; năm 2004 là 20,3%; năm 2005 là 19% 

và đến tháng 3­2006 là 18,5%. 
     Từ nền tảng thanh toán hoàn toàn thủ  công (mọi giao dịch thanh toán  
đều dựa trên cơ  sở  chứng từ  giấy), hệ  thống thanh toán xã hội của Việt 
Nam chuyển dần sang phương thức xử lý bán tự động. Đến nay, các giao  
dịch thanh toán sử dụng chứng từ điện tử chiếm tỷ trọng khá lớn trong các 
hoạt động giao dịch thanh toán. Thời gian xử  lý hoàn tất một giao dịch 
được rút ngắn từ hàng tuần xuống còn vài phút, vài giây, hoặc tức thời. 
      Dịch vụ tài khoản cá nhân của hệ  thống ngân hàng thương mại hiện  
đang phát triển. Số lượng tài khoản cá nhân trong toàn bộ  hệ  thống ngân 
hàng cuối năm 2004 tăng gần 10 lần so với năm 2000 (từ  135.000 tài  
khoản lên tới 1.297.000 tài khoản). Năm 2005 đã tăng lên 5 triệu tài khoản 
với số  dư  khoảng 20.000 tỷ  đồng. Số  tài khoản tăng trung bình khoảng 
150%; số dư tài khoản tăng trung bình 120% mỗi năm. 
     Máy giao dịch tự động (ATM), các thiết bị POS và mạng lưới đơn vị 
chấp nhận thẻ  ngân hàng đã có những phát triển đáng kể  về  số  lượng. 
Đến tháng 6­2006, số máy ATM là 2,154 máy; số lượng đơn vị chấp nhận 
thẻ   khoảng   12.000   (so   với   8.789   đơn   vị   chấp   nhận   thẻ   năm   2003).  
     Về đối tượng tham gia cung ứng dịch vụ thanh toán không còn giới hạn  
ở các ngân hàng, Kho bạc Nhà nước mà còn có cả các tổ chức khác không 
phải ngân hàng. Thị  trường dịch vụ  thanh toán trở  nên cạnh tranh hơn,  
không chỉ  giữa các ngân hàng mà còn giữa ngân hàng và các tổ  chức làm 
dịch vụ thanh toán
     Thực trạng xã hội nước ta vẫn là : "một quốc gia sử  dụng quá nhiều 
tiền mặt " như nhận xét của nhiều khách nước ngoài. Thực trạng đó theo  
Phó thủ  tướng Nguyễn Tấn Dũng :"...làm cho việc điều hòa lưu thông 
tiền tệ và quản lý kho quỹ rất khó khăn, phân tán, tốn kém, ảnh hưởng rất  
lớn   đến   việc   hiện   đại   hóa   công   nghệ   ngân   hàng   và   cấu   trúc   lại   hệ 
thống..."
  1. Thanh toán bằng Séc :
   Ngày 9/5/1996, chính phủ  đã ban hành nghị  định 30 về  phát hành và sử 

dụng séc. Ngày 27/12/1996 Ngân hàng Nhà nước đã ban hành thông tư 07  
hướng dẫn việc thi hành nghị  định trên của chính phủ. Những văn bản 
pháp quy về phát hành và sử dụng séc có hiệu lực hơn 5 năm nay. Nhưng,  
21


séc vẫn chưa đi vào cuộc sống. Như  vậy, những văn bản pháp quy trên, 
nhất thông tư  07 của ngân hàng Nhà nước có những điểm chưa phù hợp,  
nên séc chưa đi vào cuộc sống. Ta có thể thấy rõ điều này qua các con số 
thống kê về thanh toán không dùng tiền mặt TP.HCM.
      TP.HCM là một thành phố  lớn có tốc độ  phát triển và thu nhập bình 
quân đầu người cao nhất cả nước. Nhưng các hình thức thanh toán không 
dùng tiền mặt cũng phát triển rất ì ạch.
      Thanh toán bằng séc thuận lợi và nhanh chóng trong giao dịch mua bán. 
Nhưng, ra đời đã lâu mà séc vẫn chưa phát triển được như  mong đợi  ở 
Việt
 
Nam.
        Thanh toán bằng séc đã ra đời từ  lâu  ở  nước ta nhưng đến nay loại 
hình thanh toán này vẫn chưa phát triển như  mong đợi.  Ở  các ngân hàng 
thương mại, hình thức thanh toán bằng séc chiếm tỷ lệ  rất thấp (khoảng 
2%) trong tổng thanh toán phi tiền mặt; trong đó chủ  yếu là thanh toán 
giữa các doanh nghiệp với nhau, còn thanh toán giữa doanh nghiệp với cá  
nhân, giữa cá nhân với cá nhân rất ít.
              đây là một ví dụ, dẫn chứng thực tế :
       vừa qua, các doang nghiệp (DN) lắp ráp xe gắn máy hai bánh đã mua 
linh kiện của các DN sản xuất trong nước, thực hiện nội địa hóa, với số 
tiền hơn tỷ đồng, thanh toán một lần bằng tiền mặt trốn thuế. Xảy ra 
hiện tượng này một phần là do dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt 
của ngân hàng (NH) chưa phát triển, Chính phủ chưa ban hành cơ chế ; 

phạm vi và số tiền tối đa được thanh toán bằng tiền mặt.
   _Mặc dù có nhiều công cụ thanh toán hiện đại xuất hiện, nhưng séc vẫn 
là một công cụ  thanh toán phổ  biến trên thế  giới. Phần lớn  ở  các nước  
đều có Luật séc riêng, hoặc séc sẽ được quy định trong luật Thương Mại, 
hoặc nếu không sẽ  sử  dụng ngay Luật Thống nhất về  séc, nên kho sử 
dụng séc được đảm bảo. Còn  ở  Việt Nam chưa có Luật séc, trong luật 
Thương Mại cũng không quy mà mới chỉ được ban hành dưới dạng Nghị 
định của Chính phủ. Song thực tế Nghị định này và Thông tư hướng dẫn 
của NHNN để thực hiện Nghị định về séc còn nhiều điểm chưa phù hợp, 
do vậy tính khả  thi không cao, tính pháp lý chưa đảm bảo vững chắc,  
quyền lợi va nghĩa vụ  của những người tham gia sử  sụng séc không rõ 
ràng.
NGUYÊN NHÂN :
­ Một là, vấn đề mở tài khoản :

22


        Trong thông tư  của Ngân hàng nhà nước hướng dẫn thi hành Nghị 
định 30 về phát hành và sử dụng séc chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và 
văn bản pháp quy của Ngân hàng nhà nước. Trong thông tư 07 dùng ngôn 
từ  “tài khoản thanh toán” trong khi đó hệ  thống kế  toán của ngân hàng 
thương mại do Ngân hàng nhà nước ban hành chỉ  có tài khoản tiền gửi  
không   kỳ   hạn  và   tài   khoản   tiền  gửi   có  kỳ   hạn.   Trên   thế   giới,   doanh  
nghiệp, cá nhân cùng một lúc mở  hai tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và 
chỉ tài khoản tiền gửi không kỳ hạn mới có quyền rút tiền mặt hoặc thanh  
toán không dùng tiền mặt.
 ­     Hai là, hình thức tờ Séc do ngân hàng nhà nước thiết kế  không phù  
hợp với thực tế.
      Theo mẫu Séc kèm theo thông tư  07 của ngân hàng nhà nước, người  

phát hành Séc ngoài việc ghi họ tên người thụ hưởng còn phải ghi số ngày 
cấp và cấp CMND ; số  hiệu tài khoản tiền gửi không kỳ  hạn và địa chỉ 
người thụ  hưởng. Điều này thực tế  rất khó thực hiện. Người phát hành 
séc và người thụ  hưởng cùng thành phố, phải gặp nhau mới thực hiện 
được nội dung tờ séc này yêu cầu.
     Nội dung trên là không cần thiết mà nên dành cho chi nhánh ngân hàng  
hoặc kho bạc nhà nước tiếp nhận tờ séc. Các chuyên gia cho rằng trên tờ 
séc chỉ cần một chữ ký của chủ tài khoản hoặc người được chủ tài khoản 
ủy quyền.
         ­    Ba là, phạm vi thanh toán của séc quá hẹp
     Như trong phần lý luận chung ta đã thấy thanh toán bằng séc có phạm 
vi khá hẹp, không cho thanh toán ngoài hệ thống, ngoài địa bàn thành phố 
nên bị hạn chế. Thủ tục luân chuyển séc cũng chậm vì còn yêu cầu ghi nợ 
trước, ghi có sau. Trường hợp 2 đơn vị  mua bán có tài khoản tại 2 nơi  
khác nhau, phải mất thời gian chuyển cho ngân hàng bên mua ghi nợ trước  
rồi ngân hàng bán ghi có sau vào tài khoản đơn vị  bán. Việc này áp dụng 
với cả séc bảo chi gây không ít phiền hà cho khách vì phải lưu ký tiền trên 
tài khoản mà không rút ngắn được thời gian luân chuyển chứng từ.
­     Với các dịch vụ thanh toán, việc sử dụng các công cụ thanh toán ban  
hành theo nghị định 91/CP, Quy định 22­NH và Thông tư 08 của ngân hàng 
Nhà Nước về  kinh doanh thương mại hiện nay không còn phù hợp với 
thực tế. Các hình thức thanh toán séc định mức, thư  tín dụng hoàn toàn 
không được sử dụng, séc chuyển tiền chỉ được sử dụng rất ít.
­    Một số  thủ tục còn rườm rà như  trong chế  độ  quy định khi mua séc, 
chủ tài khoản phải lập giấy đề nghị bán séc, đồng thời ủy nhiệm chi trích 
tài khoản tiền gửi để mua séc, hay loại chứng từ cho cùng một nội dung. 
23


Một số trường hợp như người thụ hưởng séc nộp séc vào ngân hàng quá 

thời hạn thanh toán, đơn vị  thu hộ  chuyển séc chậm cho đơn vị  thanh 
toán...phải đến UBND xã phường nơi cư trú hoặc đóng trụ sở để xin xác  
nhận lý do bất khả  kháng. Quy định này khiến cho công chúng cân nhắc 
việc lựa chọn sử  séc vì các cơ  quan chức năng nói trên chưa chắc đã am 
tường về  séc để  dễ  dàng xác nhận trên chứng từ. Do đó, cần xác định rõ 
thế  nào là yếu tố  “bất khả  kháng” để  các cơ  quan chức năng có thể  dễ 
dàng xác nhận.
     Với tài khoản cá nhân, chỉ được ủy quyền từng lần phát hành séc hoặc 
ủy quyền trong một thời gian nhất định, mỗi lần ủy quyền phải ra UBND  
huyện, quận xác nhận. Đối với pháp nhân, chủ  tài khoản là người toàn 
quyền  chịu  trách  nhiệm  về  sử   dụng  tài  khoản  của  mình.  Mỗi  khi   ủy 
quyền tạm thời cho người khác, chủ  tài khoản cũng phải ra UBND quận 
huyện xác nhận là điều vô lý. Đối với thời hạn hiệu lực, nếu chỉ cho phép 
có 15 ngày thì quá ngắn so vơi thông lệ   ở  các nước khác 6 tháng hay 1 
năm. Do hiện nay séc được phép chuyển nhượng nên nếu kéo dài thời 
gian hiệu lực của tờ  séc sẽ  làm cho người thụ  hưởng séc an tâm hơn,  
không phải lo đi minh chứng yếu tố bất khả kháng tại các cơ  quan chức  
năng. Theo các chuyên gia, không cần ghi địa chỉ người phát hành séc vì họ 
đã có tài khoản tín dụng, và địa chỉ  của họ  đã lưu trong hồ  sơ  mở  tài 
khoản. Cũng không cần ghi số  chứng minh thư  nhân dân của người thụ 
hưởng tên tờ  séc vì một khi séc đã cho phép chuyển nhượng thì người 
thực sự  trình séc lĩnh tiền  ở  ngân hàng có thể  không phải là người thụ 
hưởng có tên ghi trên séc, còn với séc vô danh thì người nào trình séc 
người đó lĩnh tiền.
      Thanh toán bằng séc thuận lợi và nhanh chóng trong giao dịch mua bán. 
Nhưng, ra đời đã lâu mà séc vẫn chưa phát triển được như  mong đợi  ở 
Việt Nam.
    2.Thanh toán bằng ủy nhiệm chi
     Thanh toán bằng ủy nhiệm chi rất phổ biến vi nó sử dụng đối với mọi  
đối tượng, thuận tiện và dễ dàng.

      Trong thực tế, UNC chiếm trên 80% thanh toán không dùng tiền mặt
           Thanh toán bằng UNC được  ưa chuộng nhất do thủ  tục đơn giản, 
hiện đang chiếm vị thế tuyệt đối trong khâu thanh toán giữa các thể nhân 
và pháp nhân khác nhau trong nền kinh tế.
    3. Thanh toán bằng ủy nhiệm thu
      Thanh toán bằng ủy nhiệm thu chiếm tỷ trọng trong thanh toán rất nhỏ 
so với ủy nhiệm chi vì nó ít thuận tiện và khó áp dụng.
24


   4. Thực trạng thanh toán bằng thư tín dụng
Đây là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tương đối phổ biến
 Ví dụ :
Thư  tín dụng là hình thức phổ  biến hiện nay, đây là hình thức mà Ngân  
hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNTVN) thay mặt Người nhập khẩu  
cam kết với Người xuất khẩu/Người cung cấp hàng hoá sẽ trả tiền trong 
thời gian qui định khi Người xuất khẩu/Người cung cấp hàng hoá xuất  
trình những chứng từ  phù hợp với qui định trong L/C đã được NHNTVN  
mở  theo yêu cầu của người nhập khẩu (Mẫu mở  L/C được in sẵn do  
NHNT cấp)
Thông qua hình thức này, người  nhập khẩu  được tiếp cận với những 
chuẩn mực thanh toán quốc tế  (hiện hành là: UCP 600 ­ Các qui tắc và 
thực hành thống nhất về  Tín dụng chứng từ  do Phòng thương mại quốc 
tế phát hành).
Là khách hàng mở  L/C nhập khẩu của NHNTVN, Quý khách còn có thể 
yêu cầu NHNTVN tư vấn về những điều khoản thanh toán...tốt nhất phù 
hợp với thông lệ quốc tế để đạt hiệu quả.
Trong hình thức này, thực chất NHNTVN đã đứng ra bảo lãnh thanh toán 
cho người nhập khẩu. Vì vậy, NHNT sẽ  đưa ra một số  yêu cầu đối với  
khách hàng như: Đề  nghị  ký quỹ, vay vốn...Căn cứ  vào khả  năng thanh 

toán, uy tín của khách hàng, NHNT có thể  áp dụng mức miễn, giảm ký  
quỹ  khác nhau do Giám đốc từng địa bàn NHNTVN công bố  trong từng 
thời kỳ cụ thể.
Trong nhiều năm qua, việc tuân thủ nghiêm túc các chuẩn mực thanh toán 
quốc tế  đã tạo được sự  tín nhiệm của đông đảo các Ngân hàng phục vụ 
Người xuất khẩu cũng như Người nhập khẩu mở L/C tại NHNT.
   5. Thanh toán bằng thẻ
        Thanh toán bằng thẻ, dù còn khá khiêm tốn nhưng được coi là khả 
quan và có chiều hướng phát triển vì đang hấp dẫn cá nhân sử  dụng. Sau  
25


×