Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Y học: Tình trạng dinh dưỡng và hiệu quả can thiệp gạo tăng cường sắt, kẽm ở trẻ em từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi tại huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.36 KB, 24 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tăng trưởng ở trẻ em bị chi phối bởi nhiều yếu tố: yếu tố di truyền và
môi trường bên ngoài trong đó có dinh dưỡng. Dinh dưỡng hợp lý là yếu tố
môi trường quan trọng đối với sự tăng trưởng và kiểm soát sức khỏe, bệnh tật
trong các giai đoạn vòng đời. Đầu tư cho dinh dưỡng xuyên suốt vòng đời
không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế mà còn mang ý nghĩa xã hội thiết thực
như tiết kiệm chi phí chăm sóc y tế, tăng năng lực trí tuệ và năng suất lao
động của người trưởng thành. Dinh dưỡng chính là nền tảng cho sự phát triển
thể lực, sức khoẻ, trí tuệ, tầm vóc của trẻ.
Khi nhắc tới Suy dinh dưỡng (SDD), các chuyên gia cho rằng nó không
chỉ đơn thuần là nạn đói mà còn ám chỉ khái niệm "đói tiềm ẩn" hay tình
trạng thiếu các vi chất thiết yếu như Vitamin D, A, sắt và kẽm. Đây đang là
vấn đề có nghĩa sức khỏe cộng đồng, trong đó nhóm đối tượng có nguy cơ
cao là phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là trẻ dưới 5 tuổi. Các số liệu điều tra của
Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho thấy, tỷ lệ thiếu hụt vi chất dinh dưỡng trẻ
em ở mức trên 30%.
Sự thiếu hụt về vi chất dinh dưỡng hoàn toàn có thể phòng ngừa và
thanh toán được nếu các đối tượng có nguy cơ được bổ sung liên tục một
lượng nhỏ các vi chất đó. Để phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng có thể
thực hiện nhiều giải pháp trong đó có giải pháp tăng cường vi chất vào thực
phẩm. Thực phẩm được sử dụng tăng cường vi chất thường là các thực
phẩm được người dân sử dụng thường xuyên. Tăng cường vi chất vào thực
phẩm là can thiệp lâu dài khả thi và bền vững nhằm cải thiện vấn đề thiếu vi
chất dinh dưỡng.
Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp và gạo là nguồn lương thực chính của
người dân. Cho tới nay chưa có nghiên cứu nào về đánh giá hiệu quả của gạo
tăng cường đa vi chất lên tình trạng sức khỏe của người dân nói chung và trẻ
em nói riêng. Việc đánh giá hiệu quả của sử dụng gạo tăng cường đa vi chất


cho trẻ em là rất cần thiết làm cơ sở để đưa ra các chính sách phù hợp về tăng
cường đa vi chất vào gạo ở Việt Nam. Chính vì vậy chúng tôi nghiên cứu đề


2

tài: “Tình trạng dinh dưỡng và hiệu quả can thiệp gạo tăng cường sắt, kẽm
ở trẻ em từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi tại huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình”
nhằm mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ Suy dinh dưỡng, tỷ lệ thiếu máu, ở trẻ em từ 36 đến
dưới 60 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình
2. Phân tích đặc điểm khẩu phần và tỷ lệ thiếu kẽm, thiếu sắt của trẻ em
từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi tham gia nghiên cứu can thiệp
3. Đánh giá hiệu quả can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng bằng gạo
tăng cường sắt, kẽm cho trẻ em từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi tại địa bàn
nghiên cứu.
Những đóng góp mới của đề tài
Luận án đã đóng góp thêm những dẫn liệu về tình hình suy dinh dưỡng
của trẻ ở tỉnh Thái Bình, đồng thời xác định được tỷ lệ thiếu kẽm, thiếu sắt
và dự trữ sắt thấp ở trẻ em nhóm tuổi 36-60 tháng tuổi làm cơ sở đề xuất các
giải pháp can thiệp cải thiện tình trạng thiếu vi chất cho trẻ em.
Gạo là lương thực chính của người dân Việt Nam. Bổ sung sắt, kẽm
vào gạo là giải pháp có khả năng tiếp cận đến toàn thể quần dân cư.
Nghiên cứu cho thấy sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm trong khẩu phần
hằng ngày của trẻ đã cải thiện khẩu phần ăn, tăng nồng độ kẽm huyết thanh,
tăng hàm lượng sắt dự trữ, giảm tỷ lệ thiếu máu, thiếu kẽm. Đó là những yếu
tố góp phần cải thiện nhanh sự phát triển thể lực của trẻ, và làm cơ sở khẳng
định nghị định 09/2016 NĐ-CP ngày 28/1/2016 của Chính phủ về qui định
tăng cường vi chất vào thực phẩm là cần thiết và cần phát triển trên quy mô
rộng rãi hơn.

4. Bố cục của luận án
Luận án gồm 115 trang, 31 bảng, 4 biểu đồ và 129 tài liệu tham khảo
trong đó có 76 tài liệu nước ngoài. Phần đặt vấn đề 2 trang, tổng quan tài liệu
31 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 23 trang, kết quả nghiên cứu
28 trang, bàn luận 28 trang, kết luận và kiến nghị 3 trang.


3

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình SDD ở trẻ em hiện nay và một số yếu tố liên quan
1.1.1. Tình hình SDD ở trẻ em trên Thế giới
Từ 576 cuộc điều tra đại diện của các quốc gia và vùng lãnh thổ trong
giai đoạn 1990 đến 2010 cho thấy năm 1990 trên thế giới tỷ lệ trẻ dưới 5
tuổi bị SDD thể thấp còi chiếm khoảng 40%. Vùng châu Mỹ La tinh và
Caribe là 24,6%. Tỷ lệ SDD thấp còi châu Á năm 1990 là 48,4%. Các quốc
gia đang phát triển là 44,6%; các quốc gia phát triển 6,1%. Đến năm 2010
trên toàn cầu, thấp còi ở trẻ em đã giảm từ 39,7% xuống còn 26,7%. Tuy
nhiên, mức độ giảm tỷ lệ SDD thấp còi có sự khác nhau rõ rệt giữa các khu
vực. Ở châu Phi tỷ lệ thấp còi hầu như ít thay đổi. Sau 20 năm, tỷ lệ SDD
thấp còi vẫn dao động trong mức 40%, trong khi đó châu Á có những
chuyển biến mạnh mẽ, giảm đáng kể tỷ lệ SDD thấp còi từ 49% năm 1990
xuống còn 28% trong năm 2010. Tuy nhiên, ở đa số các nước đang phát
triển, thấp còi vẫn còn là một vấn đề có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng trong
giai đoạn hiện nay. Khoảng 80% trẻ dưới 5 tuổi thấp còi trên thế giới nằm ở
14 quốc gia trong đó nhiều quốc gia như Đông Timor, Burundi, Niger và
Madagascar, Banglades, Campuchia, Camarun, Etiopia có tỷ lệ trẻ em dưới
5 tuổi thấp còi cao nhất. Đến năm 2012 tỷ lệ thấp còi chung toàn thế giới
khoảng 25,0%, trong đó 56% ở Châu Á, 36% ở châu Phi. Đến năm 2015
trên toàn cầu có 156 triệu trẻ em bị SDD thấp còi, chiếm khoảng 23% tổng

số trẻ dưới 5 tuổi. Nhiều bằng chứng cho thấy mặc dù số trẻ dưới 5 tuổi bị
SDD thấp còi còn cao, nhưng tỉ lệ phân bố không đều ở các khu vực trên thế
giới. SDD thấp còi có mức độ trầm trọng hơn SDD thể nhẹ cân. Ở các nước
đang phát triển, trẻ ở nông thôn có nguy cơ mắc SDD thấp còi cao gấp 1,5
lần so với trẻ ở thành phố. Dự đoán đến năm 2020, tỷ lệ SDD thấp còi trên
toàn thế giới tiếp tục giảm.
1.1.2. Tình hình SDD ở trẻ em tại Việt nam
Các kết quả nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng Việt Nam đến năm
2014 cho thấy: Phân bố SDD ở nước ta không đồng đều giữa các vùng sinh


4

thái, nhiều địa phương miền núi tỷ lệ SDD cao hơn hẳn vùng đồng bằng. Tỷ
lệ cao nhất ở vùng Tây Nguyên (22,6% với SDD nhẹ cân và 34,9% với
SDD thấp còi). Ở vùng Đông Nam Bộ tỷ lệ SDD thấp hơn so với các vùng
khác (8,4% với SDD nhẹ cân và 18,3% với SDD thấp còi), thấp nhất trong
các vùng sinh thái của cả nước. Riêng tỷ lệ SDD thấp còi cao nhất ở vùng
Tây Nguyên (34,9%), Trung du và miền núi phía Bắc (20,3%). Tỷ lệ SDD
thể thấp còi không đồng đều theo vùng sinh thái. Vùng núi và cao nguyên
phía Bắc và Vùng bắc miền Trung và ven biển miền Trung vẫn ở cấp độ ý
nghĩa sức khỏe cộng đồng cao (>30%).
Kết quả của tác giả Nguyễn Thanh Hà khi nghiên cứu về tình trạng đa
vi chất của trẻ từ 6-36 tháng tuổi SDD thấp còi tại huyện Gia Bình, Bắc
Ninh cho thấy, thiếu máu, thiếu vitamin A và thiếu kẽm trên trẻ SDD thấp
còi đều ở mức nặng theo phân loại của WHO. Trẻ bị SDD thấp còi có tỷ lệ
thiếu đa vi chất khá cao. Có 37,6% số trẻ suy dinh dưỡng thấp còi thiếu 1
loại vi chất, 23,5% trẻ thiếu 2 vi chất kết hợp và 8,2% tổng số trẻ suy dinh
dưỡng thấp còi thiếu kết hợp cả 3 loại vi chất.
1.1.3. Một số yếu tố liên quan tới SDD

Ba yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến SDD là an ninh thực phẩm,
thực hành dinh dưỡng kém và bệnh tật, các yếu tố này chịu ảnh hưởng lớn
của đói nghèo.
1.1.3.1. An ninh lương thực hộ gia đình không đảm bảo: An ninh lương
thực hộ gia đình không đảm bảo là yếu tố quan trọng dẫn đến thiếu lương
thực về số lượng và chất lượng - bao gồm thiếu năng lượng, protein và vi
chất dinh dưỡng. Hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo đói ở các vùng sâu, vùng xa và
vùng khó khăn còn cao. Đó chính là nguyên nhân tiềm tàng đe dọa tình
trạng thiếu dinh dưỡng cá thể. Ngoài ra mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố
phụ thuộc vào khả năng tiếp cận thực phẩm ở từng hộ gia đình mà cụ thể là
phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức dinh dưỡng, phong tục tập quán kiêng
khem của từng nhóm dân tộc.
1.1.3.2. Thực hành dinh dưỡng kém: Thực hành dinh dưỡng kém liên
quan đến sự mất cân đối trong bữa ăn và sự lựa chọn ưu tiên cho trẻ em và


5

người mẹ mang thai. Ngay cả khi hộ gia đình đảm bảo được an ninh lương
thực vẫn có thể thiếu lương thực thực phẩm đối với cá thể, nhất là các cá thể
có nguy cơ cao như trẻ em dưới 5 tuổi, phụ nữ mang thai… mà nguyên
nhân chủ yếu là do thực hành dinh dưỡng.
1.1.3.3. Vai trò của bệnh tật: Bệnh tật được coi là một trong hai nguyên
nhân trực tiếp gây suy dinh dưỡng ở trẻ em. Nhiễm trùng làm tăng sự hao
hụt các chất dinh dưỡng, trẻ biếng ăn và ăn với số lượng ít hơn do giảm
ngon miệng. Các nghiên cứu ước tính rằng nhiễm trùng ảnh hưởng đến 30%
sự giảm chiều cao ở trẻ em.
1.2. Thực trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở trẻ em
Kết quả tổng điều tra quốc gia về Vi chất dinh dưỡng năm 2014, 2015
cho thấy ở nhóm tuổi càng nhỏ trẻ càng có nguy cơ thiếu máu cao: nhóm trẻ

0-12 tháng và 12-24 tháng có tỷ lệ thiếu máu cao nhất đạt 45,0% và 42,7%;
trong khi đó ở nhóm 24-35 tháng tỷ lệ này là 23,0%; nhóm 36-47 tháng tỷ lệ
này là 18,8%; nhóm 48-60 tháng tỷ lệ này là 14,3%; tỷ lệ thiếu máu ở trẻ
em vùng thành thị là 22,2%; ở nông thôn là 28,4%; ở miền núi là 31,2%.
Nghiên cứu điều tra tình hình thiếu vi chất ở 6 tỉnh miền núi phía Bắc
đã phát hiện thấy tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em là 29,1%, thuộc mức trung bình
về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Tỷ lệ dự trữ sắt thấp (Ferritin < 30ng/mL)
là 49,1%. Tương tự, tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt (cả Hb và Ferritin thấp)
là 52,9%.
1.3. Các biện pháp phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng
- Đa dạng hóa chế độ ăn: là lựa chọn tối ưu và bền vững nhất nhưng
lại mất nhiều thời gian thực hiện nhất.
- Tăng cường vi chất trong thực phẩm: Mang lại hiệu quả chậm hơn
nhưng có tác động rộng rãi và bền vững hơn.
- Bổ sung vi chất dinh dưỡng có hiệu quả cải thiện nhanh tình trạng vi
chất dinh dưỡng cho các cá nhân và nhóm dân số mục tiêu.


6

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
* Giai đoạn 1: Trẻ em từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi và các bà mẹ có
con từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi thuộc 4 xã Minh Khai, Nguyên Xá, Song
An, Minh Lãng huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
* Giai đoạn 2: Trẻ em từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi và các bà mẹ có con
từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi thuộc 2 xã Xã Minh Khai (can thiệp) và Xã
Nguyên Xá (đối chứng).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: gồm 2 giai đoạn kế tiếp nhau.

2.2.1.1. Nghiên cứu mô tả cắt ngang: Xác định tỷ lệ SDD, tỷ lệ thiếu
máu và một số yếu tố liên quan ở trẻ em từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi.
2.2.1.2. Nghiên cứu can thiệp cộng đồng ngẫu nhiên có đối chứng
Trẻ em từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi được chia làm 2 nhóm: nhóm can
thiệp và nhóm đối chứng. Trước khi áp dụng các biện pháp can thiệp, trẻ em
ở cả 2 nhóm đều được kiểm tra các chỉ số:
- Cân nặng, chiều cao.
- Xét nghiệm: Hb, kẽm huyết thanh, feritin huyết thanh (SF), TfR, CRP.
- Phỏng vấn bà mẹ về khẩu phần của trẻ
Nhóm can thiệp: Là những trẻ em từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi đang
sống tại xã Minh Khai, được ăn gạo tăng cường sắt, kẽm trong thời gian 12
tháng liên tục.
Nhóm đối chứng: Là những trẻ em từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi đang
sống tại xã Nguyên Xá, không được ăn gạo tăng cường sắt, kẽm.
Trẻ em tham gia nghiên cứu can thiệp được phân chia theo 2 nhóm tuổi
lúc bắt đầu tiến hành can thiệp:
+ Nhóm tuổi 1: Là nhóm 36-47 tháng tuổi.
+ Nhóm tuổi 2: Là nhóm 48 đến dưới 60 tháng tuổi.
Đánh giá kết quả qua điều tra tại các thời điểm M0; M12 có so sánh với
nhóm đối chứng tại M0 và M12.


7

2.2.2. Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu
Cỡ mẫu:
p (1 − p )
- Cỡ mẫu để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ n = Z 2 (1− α / 2 )
d2
Theo tính toán n= 461 trẻ, vì chọn mẫu chùm nên cỡ mẫu nhân gấp đôi;

vậy cỡ mẫu là 922 trẻ. Thực tế điều tra 938 trẻ.
- Cỡ mẫu xác định tỷ lệ thiếu máu: Là toàn bộ số trẻ tham gia đánh giá
các chỉ số nhân trắc (938 trẻ).
- Cỡ mẫu cho giai đoạn 2 nghiên cứu can thiệp
Z 2δ 2 N
n= 2
(e N ) + ( Z 2δ 2 )
Tính ra cỡ mẫu n = 71 trẻ cho một nhóm cộng 10% số trẻ bỏ cuộc. Số

Cỡ mẫu điều tra khẩu phần

trẻ điều tra khẩu phẩn của 1 nhóm là 80 trẻ.
Cỡ mẫu cho xét nghiệm

n = ( Z 1− α

δ 12 + δ 22
+ Z 1− β )
(µ1 − µ 2 ) 2
2

Các cỡ mẫu đã được tính toán cho từng chỉ tiêu như sau: Xét nghiệm
Hemoglobin huyết thanh là 130; Xét nghiệm Feritin huyết thanh là 136; Xét
nghiệm Zn huyết thanh là 135.
Cỡ mẫu cho đánh giá hiệu quả can thiệp là 136 trẻ em cho mỗi nhóm là
đủ để bao trùm lên việc theo dõi toàn bộ các chỉ số quan tâm. Thực tế có 324
trẻ ở 2 nhóm tham gia vào nghiên cứu can thiệp trong đó có 167 trẻ ở nhóm
can thiệp và 157 trẻ ở nhóm đối chứng.
Chọn mẫu
+ Giai đoạn 1:

- Chọn địa bàn nghiên cứu: chủ động chọn huyện Vũ Thư.
- Chọn xã: Chọn ngẫu nhiên lấy 4 xã để nghiên cứu là xã Minh Khai, xã
Song Lãng, xã Nguyên Xá và xã Song An.
- Chọn đối tượng điều tra: Chọn toàn bộ các cháu từ 36 đến <60 tháng
tuổi theo đúng tiêu chuẩn chọn mẫu và loại mẫu cho đủ cỡ mẫu đã tính.
+ Giai đoạn 2: Chọn đối tượng trong nghiên cứu can thiệp.


8

- Chọn địa bàn nghiên cứu can thiệp: Trong 4 xã nghiên cứu ở giai đoạn
1, Chọn ngẫu nhiên 2 xã. Bốc thăm ngẫu nhiên được xã Minh Khai là xã can
thiệp và xã Nguyên Xá là xã đối chứng. Chọn toàn bộ số trẻ em từ 36 đến
<60 tháng tuổi của 2 xã vào NC giai đoạn 2.
2.2.3. Các kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu:
- Kỹ thuật nhân trắc, tính tuổi, phân loại SDD trẻ em theo WHO 2007.
- Kỹ thuật phỏng vấn, điều tra và phân tích khẩu phần 24h qua
- Kỹ thuật khám lâm sàng
- Xét nghiệm sinh hóa, huyết học: Hb, Kẽm, Ferritin, CRP và TfR
2.3.4. Xử lý số liệu: Số liệu được phân tích bằng phần mềm SPSS 16.0 tại
Trường Đại học Y Dược Thái Bình. Sử dụng các test thống kê ứng dụng
trong nghiên cứu y sinh học để phân tích kết quả.
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng, tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em từ 36 đến dưới 60
tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình
Bảng 3. 1. Phân bố tình trạng dinh dưỡng của trẻ theo giới tính
Các thể SDD

Nhẹ cân


Thấp còi

Gầy còm

Thừa cân
béo phì

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

Nam (n=476)

68

14,3


140

29,4

25

5,3

17

3,6

Nữ (n=462)

51

11,0

106

22,9

14

3,0

11

2,4


Chung (n=938)

119

12,7

246

26,2

39

4,2

28

3,0

Giới tính

p

<0,05

<0,05

<0,05

>0,05


Kết quả bảng cho thấy có 12,7% trẻ SDD nhẹ cân với tỷ lệ ở nam là
14,3% cao hơn ở nữ là 11,0% có ý nghĩa với p<0,05. Có 26,2% trẻ SDD thấp
còi với tỷ lệ ở nam là 29,4% cao hơn ở nữ là 22,9% có ý nghĩa với p<0,05;
có 4,2% trẻ SDD gầy còm với tỷ lệ ở nam là 5,3% cao hơn ở nữ là 3,0% có ý
nghĩa với p<0,05 và có 3,0% trẻ thừa cân, béo phì.


9

Bảng 3.2. Tỷ lệ % SDD thể nhẹ cân theo nhóm tuổi và giới tính
Nam
Nữ
P
Tháng
tuổi
n
SL
%
n
SL
%
36 - 47 246
30
12,2
236
22
9,3
> 0,05
48 - <60 230
38

16,5
226
29
12,8
> 0,05
> 0,05
Chung 476
68
14,3
462
51
11,0
Kết quả bảng trên cho thấy tỷ lệ SDD nhẹ cân ở nam là 14,3% cao hơn ở
nữ là 11,0% có ý nghĩa với p>0,05. Trong đó tỷ lệ trẻ SDD nhẹ cân ở cả 2
nhóm tuổi từ 36-47 tháng và 48-<60 tháng, nam đều cao hơn so với nữ, tuy
nhiên không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Bảng 3.3. Tỷ lệ % SDD thể thấp còi theo nhóm tuổi và giới tính
Nam
Nữ
P
Tháng
tuổi
n
SL
%
n
SL
%
36 - 47
246

62
25,2
236
48
20,3
> 0,05
48 - <60
230
78
33,9
226
58
25,7
< 0,05
Chung 476
140 29,4
462
106
22,9
< 0,05
Kết quả bảng trên cho thấy tỷ lệ SDD thấp còi ở nam là 29,4% cao hơn ở
nữ là 22,9% có ý nghĩa với p<0,05. Trong đó, tỷ lệ trẻ SDD thấp còi ở cả 2
nhóm tuổi từ 36-47 tháng và 48-<60 tháng, nam đều cao hơn so với nữ. Tuy
nhiên, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) chỉ gặp ở nhóm 48 đến dưới
60 tháng tuổi.
Bảng 3.4. Phân tích tỷ lệ SDD theo 3 chỉ tiêu nhân trắc
Các thể SDD

Tỷ lệ mắc theo
từng thể SDD


Mắc ít nhất 1 thể SDD
Nhẹ cân đơn thuần
Gầy còm đơn thuần
Thấp còi đơn thuần
TCBP đơn thuần
Phối hợp

36-47
(n= 482)
26,7
5,2
1,2
15,7
2,3
13,3

Tháng tuổi
48-60
(n= 456)
30,2
6,3
2,2
18,4
2,7
15,8

Chung
(n= 938)
28,5

5,7
1,7
17,1
2,5
14,5

Kết quả bảng trên cho thấy 28,5% trẻ bị ít nhất một thể SDD. Trong số
đó mắc SDD thấp còi đơn thuần chiếm 17,1% và ở trẻ nhóm tuổi 48-60 tháng
cao hơn nhóm 36-47 tháng với p<0,05. Tỷ lệ trẻ SDD phối hợp nhiều thể
chiếm 14,5%.


10

Bảng 3.5. Tỷ lệ thiếu máu của trẻ theo giới tính, nhóm tuổi,
tình trạng dinh dưỡng
n
SL
%
p
Giới tính
Nữ
462
109
23,6
> 0,05
Nam
476
115
24,2

Tháng tuổi
36-47 tháng
482
120
24,9
> 0,05
48-60 tháng
456
104
22,8
Tình trạng dinh dưỡng
Mắc ít nhất 1 thể SDD
267
116
43,4
< 0,05
Không SDD
671
108
16,1
Kết quả bảng trên cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở trẻ nữ 23,6% thấp hơn ở trẻ
nam là 24,2%, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Tỷ lệ thiếu máu ở trẻ từ 36-47 tháng tuổi là 24,9% cao hơn ở trẻ từ 48 đến
dưới 60 tháng tuổi là 22,8%, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống
kê với p>0,05. Tỷ lệ thiếu máu ở trẻ bị mắc ít nhất một thể suy dinh dưỡng là
43,4% cao hơn rất nhiều so với nhóm trẻ không mắc suy dinh dưỡng với
16,1%; sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
* Phân tích một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng
Trình độ học vấn của mẹ, nghề mẹ không có liên quan nhiều đến tình
trạng dinh dưỡng của trẻ trong phân tích đơn biến nhưng trong phân tích đa

biến, nhóm trẻ có mẹ là công nhân có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi cao
hơn 1,8 lần (95%CI: 1,1-3,1) so với trẻ có mẹ là nông dân. Trẻ trong gia
đình có nhiều hơn 2 con và trẻ có thứ tự sinh từ thứ 2, thứ 3 trở lên có xu
hướng có suy dinh dưỡng cao hơn so với gia đình ít con và trẻ là con đầu
lòng nhưng khác biệt này không có ý nghĩa thống kê cả trong phân tích đơn
biến và đa biến (p>0,05). Trẻ nam và nhóm 48-60 tháng tuổi có nguy cơ suy
dinh dưỡng hơn 1,4 lần so với trẻ nữ cả trong phân tích đơn và đa biến
(p<0,05). Đối với tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi trẻ nam có nguy cơ
suy dinh dưỡng cao hơn trẻ nữ 1,4 lần (95%CI:1,1-1,8), nguy cơ này tăng
lên 1,5 lần (95%CI: 1,1-2,0) khi phân tích đa biến. Nhóm tuổi 48-60 tháng
tuổi có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi cao hơn nhóm 36-47 tháng 1,4 lần
(95%CI: 1,1-1,9) cả trong phân tích đơn biến và đa biến. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,05.


11

3.2. Đặc điểm khẩu phần, tỷ lệ thiếu kẽm, thiếu sắt của trẻ em từ 36 đến
dưới 60 tháng tuổi tham gia nghiên cứu can thiệp
Bảng 3.6. Mức tiêu thụ lương thực, thực phẩm của đối tượng tham gia
nghiên cứu can thiệp (n=278)
Nhóm ĐC
Nhóm CT
P
Nhóm thực phẩm
(n=154)
(n=143)
Gạo
162,8±39,2 165,6±31,5 > 0,05
> 0,05

Lương thực khác, SP chế biến 38,95±38,8
33,6±30,5
Dầu mỡ
> 0,05
10,9±4,4
11,1±3,25
Rau, quả chín
116,3±57,2 102,7±46,9 > 0,05
Thịt và SP chế biến
> 0,05
69,5±29,2
68,4±34,1
Cá, thủy sản
> 0,05
25,4±15,9
26,2±13,2
Trứng, sữa
> 0,05
34,9±20,8
35,7±23,6
Qua bảng trên cho thấy mức tiêu thụ lương thực thực phẩm của trẻ
không có sự khác biệt đáng kể nào giữa nhóm can thiệp và đối chứng. Mức
tiêu thụ gạo trung bình của trẻ là 162,8 g/ngày ở nhóm can thiệp và 165,6
g/ngày ở nhóm đối chứng.
Bảng 3.7. Giá trị năng lượng khẩu phần (Kcal/ngày) của trẻ theo nhóm
tuổi, giới tính (n=278)
Tổng
Cơ cấu năng lượng khẩu phần
Biến số
năng lượng

%P
%L
%G
Nhóm
tuổi
Giới
tính

36-47 tháng

1116,9±189,6 16,1±2,6 27,4±9,2

56,7±10,7

48- <60 tháng 1150,1±210,8 16,6±3,0 28,5±10,1 54,9±12,2
Nam

1125,9±216,3 16,7±3,0 28,3±10,4 55,1±12,5

Nữ

1145,2±185,2 16,0±2,6

27,7±8,9

56,4±10,4

1135,1±201,9 16,4±2,8

28,0±9,7


55,7±11,5

Chung

Kết quả bảng trên cho thấy giá trị năng lượng khẩu phần chung của trẻ là
1135,1±201,9 Kcal, trong đó ở trẻ nam là 1125,9±216,3; ở trẻ nữ là
1145,2±185,2; nhóm tuổi 36-47 tháng là 1116,9±189,6; nhóm tuổi 48-<60
tháng là 1150,1±210,8 Kcal. Cơ cấu năng lượng khẩu phần có 16,4% năng
lượng do protein cung cấp, 28% năng lượng do lipid cung cấp và 55,7% năng
lượng do glucid cung cấp.


12

Bảng 3.8. Tỷ lệ trẻ đạt về nhu cầu khối lượng các chất sinh năng lượng
khẩu phần (g/ngày) (n=278)
Tỷ lệ đạt
Năng lượng khẩu phần
SL
Tỷ lệ (%)
Nam
32
22,1
Năng lượng
Nữ
46
34,6
(Kcal)
Chung

78
28,1
Nam
145
100,0
Năng lượng do
Nữ
133
100,0
protein đóng góp
Chung
278
100,0
Nam
87
60,0
Protein ĐV/ tổng
Nữ
75
56,4
đạt 60%
Chung
162
58,3
Nam
62
42,8
Năng lượng do
Nữ
71

53,4
lipid đóng góp
Chung
133
47,8
Nam
30
20,7
Năng lượng do
Nữ
54
40,6
glucid đóng góp
Chung
84
30,2
Kết quả bảng trên cho thấy 28,1% trẻ đạt nhu cầu khuyến nghị về năng
lượng, trong đó ở trẻ nam là 22,1% và ở trẻ nữ là 34,6%. 100% trẻ đạt nhu
cầu năng lượng do protein cung cấp, tuy nhiên tỷ lệ trẻ đạt 60% Protein ĐV/
Protein tổng chỉ chiếm 58,3%. 47,8% trẻ đạt nhu cầu năng lượng do lipid
cung cấp và 30,2% trẻ đạt nhu cầu năng lượng do glucid cung cấp.
Bảng 3.9. Hàm lượng một số chất khoáng trong khẩu phần (n=278)
Một số chất khoáng
Calci (mg)
Kẽm
Photphos
Sắt

X


±SD

477±204,5

Tỷ lệ đạt nhu cầu KN
n
%
67
24,1

4,2±1,5

141

50,7

669,7±192,3

228

82,0

4,9±2,3

132

47,5

Kết quả bảng trên cho thấy hàm lượng trung bình Calci, kẽm, photphos,
sắt của trẻ lần lượt là: 477±204,5 mg; 4,2±1,5 µg; 669,7±192,3 mg;

4,9±2,3mg. Tỷ lệ đạt nhu cầu khuyến nghị Calci là 24,1%; kẽm là 50,7%;
photphos là 82% và tỷ lệ đạt nhu cầu sắt là 47,5%.


13

Bảng 3.10. Giá trị trung bình 1 số chỉ số xét nghiệm ở trẻ trước can thiệp
Nhóm ĐC
(n=154)

Nhóm CT
(n=143)

P

114,3±8,6

114,5±8,4

> 0,05

8,4±2,9

9,0±2,8

> 0,05

Ferritin huyết thanh (µg/L)

45,1±26,7


57,9±31,2

< 0,05

TfR huyết thanh (µg/L)

2,76±0,63

2,79±0,81

> 0,05

CRP huyết thanh

0,75±0,85

0,88±1,11

> 0,05

Chỉ số xét nghiệm
Hb (g/dl)
Kẽm (µmol/l)

Kết quả bảng trên cho thấy, không có sự khác biệt về nồng độ trung bình
các chỉ số Hb, kẽm, TfR huyết thanh, CRP huyết thanh của của 2 nhóm đối
chứng và ở nhóm can thiệp không có sự khác biệt với p >0,05. Chỉ số Ferritin
huyết thanh của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p <0,05

Bảng 3.11. Tỷ lệ thiếu máu, thiếu kẽm ở trẻ trước can thiệp

Chỉ số

Nhóm ĐC
(n=154)

Nhóm CT
(n=143)

p

SL

%

SL

%

Thiếu máu

42

27,3

43

30,1


> 0,05

Thiếu kẽm

102

66,2

94

65,7

> 0,05

Thiếu máu, thiếu kẽm
kết hợp

28

18,2

35

24,5

> 0,05

Kết quả bảng trên cho thấy, tỷ lệ thiếu máu, tỷ lệ thiếu kẽm, tỷ lệ thiếu
máu thiếu kẽm kết hợp ở nhóm đối chứng lần lượt là 28,3%; 65,9% và
19,5%. Tỷ lệ thiếu máu, tỷ lệ thiếu kẽm, tỷ lệ thiếu máu thiếu kẽm kết hợp ở

nhóm can thiệp lần lượt là 27,1%; 60,7% và 20,0%. Sự khác biệt giữa 2
nhóm không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.


14

Bảng 3.12. Tình trạng dự trữ sắt ở trẻ trước can thiệp
Nhóm ĐC
(n=154)

Chỉ số

Nhóm CT
(n=143)

P

SL

%

SL

%

Dự trữ sắt cạn kiệt
(Ferritin <10µg/L)

9


5,8

0

0,0

-

Dự trữ sắt thấp
(Ferritin <30 µg/L)

34

22,1

40

28,0

> 0,05

Thiếu sắt mô
(TfR> 8,6 µg/L)

1

0,6

2


1,4

> 0,05

Kết quả bảng trên cho thấy, tỷ lệ dự trữ sắt cạn kiệt, dự trữ sắt thấp và
thiếu sắt mô ở nhóm đối chứng lần lượt là 5,8%; 22,1%; 0,6%. Tỷ lệ dự trữ
sắt thấp và thiếu sắt mô ở nhóm can thiệp lần lượt là 0,7%; 28,0% và 1,4%.
Sự khác biệt không có ý nghĩa với p>0,05.
3.3. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng
của trẻ em từ 36 đến 60 tháng tuổi tại địa bàn nghiên cứu
Bảng 3.13. Hiệu quả các biện pháp can thiệp lên cân nặng và tình trạng
dinh dưỡng thể nhẹ cân
Chỉ số

Nhóm ĐC (n=167) Nhóm CT (n=157)
Cân nặng trung bình (Kg,



p

SD)

M0

14,5±1,95

14,7±2,3

> 0,05


M12

16,2±1,96

16,5±2,3

> 0,05

M12 - M0

1,67±0,23

1,77±0,43

Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân CN/T: n (%)
M0

21 (12,6)

20 (12,7)

> 0,05

M12

21 (12,6)

12 (7,6)


> 0,05

>0,05

<0,05

0,0

40,0

p trước sau
CSHQ
HQCT

40,0

< 0,05


15

Kết quả bảng trên cho thấy sau can thiệp mức tăng cân ở nhóm ĐC là
1,67 (kg) thấp hơn so với nhóm CT 1,77 (kg), sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p<0,05. Tỷ lệ SDD ở nhóm CT giảm từ 12,7% tại M0 xuống còn
7,6% tại M12, còn nhóm đối chứng không có sự khác biệt nào. Hiệu quả
can thiệp là 40%.
Bảng 3.14. Hiệu quả các biện pháp can thiệp lên chiều cao và tình trạng dinh
dưỡng thể thấp còi
Chỉ số


Nhóm ĐC
(n=167)

Nhóm CT
(n=157)

Chiều cao trung bình (cm,

p

X ± SD)

M0

97,5±5,2

98,4±5,97

> 0,05

M12

102,7±5,3

105,4±5,99

< 0,05

M12 - M0


5,2±1,07

6,98±0,84

< 0,05

Tỷ lệ SDD thấp còi CC/T (SL, %)
Mắc mới

4 (2,6)

0 (0,0)

< 0,05

Phục hồi

5 (3,3)

16 (10,2)

< 0,05

M0

49 (29,3)

45 (28,7)

> 0,05


M12

48 (28,7)

29 (18,5)

< 0,05

>0,05

<0,05

< 0,05

2,0

35,5

< 0,05

p trước sau
CSHQ
HQCT

33,5

Kết quả bảng trên cho thấy, nhóm can thiệp tăng chiều cao trung bình
6,98 cm, cao hơn nhóm đối chứng (5,2), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05. Tỷ lệ phục hồi sau can thiệp của nhóm can thiệp cao hơn nhóm đối

chứng (10,2% so với 3,3%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Hiệu quả can thiệp là 33,5%.


16

Bảng 3.15. Hiệu quả can thiệp đối với nồng độ Hb, kẽm huyết thanh và
feritin, TfR qua các thời điểm can thiệp.

Các chỉ số

Nhóm ĐC
(n=151)

Nhóm CT
(n=140)

p

114,3±8,6

114,5±8,4

> 0,05

118,6±13,5

120,3±7,6

> 0,05


4,4

5,7

<0,05

<0,05

8,5±2,9

9,0±2,85

> 0,05

9,7±2,2

10,8±2,07

<0,05

1,18±3,1

1,83±3,27

<0,05

>0,05

<0,05


M0

44,9±26,9

57,87±31,54

<0,05

M12

58,4±31,2

65,9±36,6

<0,05

M12 - M0

13,5±27,0

8,02±40,8

<0,05

<0,05

<0,05

2,77±0,64


2,8±0,82

>0,05

2,81±1,11

2,54±0,57

< 0,05

0,044±1,00

-0,26±0,83

<0,05

>0,05

<0,05

Giai đoạn
M0

Hb trung M12
bình (g/L)
M12 -M0
p (trước sau)
M0
Kẽm

M12
trung bình
(µmol/dL) M12 - M0
p (trước sau)

Ferritin
(µg/L)

p (trước sau)
M0
TfR
M12
(mg/L, X
M12 - M0
± SD)
p (trước sau)

Kết quả bảng trên cho thấy, sau can thiệp, nồng độ trung bình Hb, kẽm
huyết thanh và feritin đều tăng cao hơn trước. Sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p<0,05. Mức tăng ở nhóm can thiệp cao hơn có ý nghĩa thống kê với
p<0,05. Nồng độ TfR giảm có ý nghĩa thống kê ở cả 2 nhóm nhưng nhóm
can thiệp có mức giảm nhiều hơn.


17

Bảng 3.16. Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ thiếu máu và thiếu kẽm
Giai đoạn

Nhóm ĐC

(n=151)

Nhóm CT
(n=140)

p

M0

40 (26,5)

42 (30,0)

> 0,05

M12

35 (23,5)

21 (15,0)

< 0,05

Mức giảm thiếu máu (%)

3,0

15,0

< 0,05


Chỉ số hiệu quả (%)

12,5

50,0

< 0,05

Các chỉ số
Thiếu máu (%)

Hiệu quả can thiệp (%)

37,5
M0

99 (65,6)

92 (65,7)

> 0,05

M12

73 (48,3)

37 (26,4)

< 0,05


Mức giảm thiếu kẽm (%)

17,3

39,3

< 0,05

CSHQ (%)

26,3

59,8

< 0,05

Thiếu kẽm (%)

HQCT (%)

33,5

Kết quả bảng trên cho thấy cả 2 nhóm đều giảm tỷ lệ thiếu máu và thiếu
kẽm nhưng mức độ giảm ở nhóm can thiệp cao hơn nhóm đối chứng. Hiệu
quả can thiệp giảm tỷ lệ thiếu máu và thiếu kẽm là 37,5% và 33,5%.
Bảng 3.17. Hiệu quả can thiệp đối với dự trữ sắt của trẻ qua các thời điểm
can thiệp.
Nhóm ĐC Nhóm CT
(n=151)

(n=140)

Các chỉ số

Giai đoạn

% thiếu dự trữ sắt
(thấp và cạn kiệt)

M0

42(27,8)

40 (26,8)

> 0,05

M12

35 (23,2)

17 (12,1)

< 0,05

Mức giảm (%)

4,6

14,7


< 0,05

Chỉ số hiệu quả (%)

16,7

57,5

< 0,05

Hiệu quả can thiệp (%)

p

40,8

Kết quả bảng trên cho thấy dự trữ sắt của trẻ đã có cải thiện đáng kể sau
can thiệp. Hiệu quả can thiệp cải thiện dự trữ sắt của trẻ là 40,8%.


18

CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm suy dinh dưỡng, tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em từ 36 đến dưới 60
tháng tuổi và một số yếu tố liên quan.
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện tại 4 xã của huyện Vũ Thư, tỉnh
Thái Bình, kết quả cho thấy: Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân chung ở trẻ em từ 36 đến
dưới 60 tháng tuổi là 12,7%, trong đó ở trẻ trai (14,3%) cao hơn trẻ gái
(11,0%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ này của chúng

tôi thấp hơn so với trung bình của cả nước năm 2014 (14,5%), của tỉnh Thái
Bình là 13,8%. So với một số nghiên cứu cùng thời điểm thì tỷ lệ SDD thể
nhẹ cân thấp hơn kết quả điều tra tại một số khu vực miền núi và miền
Trung, Tây Nguyên. Tại Kon Tum, tỷ lệ SDD thể nhẹ cân là 23,9%, ở Gia
Lai là 24,3%, ở Lai châu là 23,2%, ở Hà Giang là 23,1%.
Tỷ lệ SDD thể thấp còi trong nghiên cứu của chúng tôi ở mức trung
bình (26,2%) tương đương với tỷ lệ chung toàn quốc là 24,9% năm 2014.
SDD thấp còi gặp ở độ 1 là chủ yếu chiếm 22,1%. Tỷ lệ SDD thấp còi độ 2 là
4,2% thấp hơn nhiều so với toàn quốc là 10,5%, và của Thái Bình năm 2010
là 10,3%. Tỷ lệ SDD thấp còi ở nam là 29,4% cao hơn ở nữ là 22,9% có ý
nghĩa với p<0,05. Trong đó tỷ lệ trẻ SDD nhẹ cân ở cả 2 nhóm tuổi từ 36-47
tháng và 48-60 tháng, nam đều cao hơn so với nữ, tuy nhiên không có ý
nghĩa thống kê với p>0,05. Kết quả này của chúng tôi tương tự như nghiên
cứu của tác giả Khúc Thị Tuyết Hường tại Nghệ An năm 2011.
Nhóm tuổi từ 48 đến 60 tháng tuổi có tỷ lệ mắc ít nhất một thể SDD
cao nhất 30,2% và trẻ từ 36-47 tháng tuổi có tỷ lệ trẻ SDD thấp hơn là
26,7%. Kết quả này phù hợp với kết quả của thông tin giám sát dinh dưỡng
Việt Nam năm 2014. Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi thấy nhóm trẻ SDD
thể nhẹ cân đơn thuần là 5,7%; thể thừa cân béo phì đơn thuần chung tương
ứng là 2,5%; thể SDD thấp còi đơn thuần là 17,1% và SDD thể phối hợp là
14,5%. Điều này cho thấy việc can thiệp giảm tỷ lệ SDD cần ưu tiên tập
trung cho các giải pháp phòng chống SDD thấp còi và các thể phối hợp.


19

Tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng là một trong những nguyên nhân
quan trọng dẫn đến SDD, đặc biệt là SDD thấp còi. tỷ lệ thiếu máu chung ở
trẻ tham gia nghiên cứu là 23,9%. Thiếu máu ở trẻ bị mắc ít nhất một thể suy
dinh dưỡng là 43,4% cao hơn rất nhiều so với nhóm trẻ không mắc suy dinh

dưỡng với 16,1%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. So với tỷ lệ
thiếu máu của trẻ em 6 - 36 tháng tuổi ở Quảng Trị (44,3%) thì tỷ lệ thiếu
máu trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn do địa bàn và độ tuổi của trẻ có
những điểm khác nhau.
Suy dinh dưỡng kết hợp với thiếu máu là rất phổ biến ở các nước đang
phát triển. Nghiên cứu của Hoàng Văn Phương tại Hà Nam cho thấy tỷ lệ
thiếu máu của trẻ 36-59 tháng tuổi là 26,4%, ở mức trung bình có ý nghĩa sức
khoẻ cộng đồng, chủ yếu là thiếu máu ở mức độ nhẹ (22,2%). Nồng độ
hemoglobin trung bình là 115,9 g/l. Tỷ lệ thiếu máu cao nhất ở nhóm trẻ 3641 tháng tuổi (30,1%). Kết quả này của tác giả cũng tương tự như kết quả
nghiên cứu của chúng tôi.
4.2. Đặc điểm khẩu phần, tỷ lệ thiếu kẽm, thiếu sắt của trẻ em từ 36 đến
dưới 60 tháng tuổi tham gia nghiên cứu can thiệp
Tình trạng trẻ em bị suy dinh dưỡng, đặc biệt là suy dinh dưỡng thấp
còi, thiếu vi chất dinh dưỡng vẫn còn rất phổ biến và đều có chung nguyên
nhân là khẩu phần ăn của trẻ em các lứa tuổi chưa đáp ứng cả về số lượng và
chất lượng. Do đó, nghiên cứu đã thực hiện phân tích khẩu phần ăn của trẻ.
Kết quả cho thấy giá trị năng lượng khẩu phần chung của trẻ là 1135,1±201,9
Kcal, trong đó ở trẻ nam là 1125,9±216,3; ở trẻ nữ là 1145,2±185,2; nhóm
tuổi 36-47 tháng là 1116,9±189,6; nhóm tuổi 48-<60 tháng là 1150,1±210,8
Kcal. Cơ cấu năng lượng khẩu phần có 16,4% năng lượng do protein cung
cấp, 28% năng lượng do lipid cung cấp và 55,7% năng lượng do glucid cung
cấp. Tỷ lệ trẻ đạt 60% Protein ĐV/ Protein tổng chỉ chiếm 58,3%. 47,8% trẻ
đạt nhu cầu năng lượng do lipid cung cấp. hàm lượng trung bình Calci, kẽm,
photphos, sắt của trẻ lần lượt là: 477±204,5 mg; 4,2±1,5 µg; 669,7±192,3mg;
4,9±2,3mg. Tỷ lệ đạt nhu cầu khuyến nghị Calci là 24,1%; kẽm là 50,7%;
photphos là 82% và tỷ lệ đạt nhu cầu sắt là 47,5%.


20


Tỷ lệ thiếu máu, thiếu kẽm và thiếu máu thiếu kẽm kết hợp ở nhóm đối
chứng lần lượt là 27,3%; 66,2% và 18,2%. Ở nhóm can thiệp lần lượt là
30,1%; 65,7% và 24,5%. Sự khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống
kê với p>0,05. Tỷ lệ đối tượng có dự trữ sắt cạn kiệt, dự trữ sắt thấp và thiếu
sắt mô ở nhóm đối chứng lần lượt là 5,8%; 22,1%; 0,6%. Tỷ lệ dự trữ sắt cạn
kiệt, dự trữ sắt thấp và thiếu sắt mô ở nhóm can thiệp lần lượt là 0,0%; 28,0%
và 1,4%. Sự khác biệt không có ý nghĩa với p>0,05.
Nhiều nghiên cứu cũng đã cho thấy kết quả tương tự như nghiên cứu
của chúng tôi. Tác giả Trần Thị Quỳnh Anh thực hiện nghiên cứu tại
Thanh Sơn, Phú Thọ cho thấy hàm lượng vitamin A trong khẩu phần ăn
của trẻ 12-23 tháng chỉ đáp ứng được 65%. Hàm lượng sắt, kẽm, calci và
vitamin D trong khẩu phần ăn đáp ứng cho nhóm 6-11 tháng tuổi và 12-23
tháng tuổi tương ứng là 50,0% và 29,1%; 68,3% và 70,7%; 46,5% và 47%;
9% và 6%. Kết luận: Tỷ lệ thiếu máu của trẻ 6-23 tháng tuổi cao. Năng
lượng khẩu phần ăn bổ sung và lượng các vi chất dinh dưỡng chưa đạt so
với nhu cầu khuyến nghị.
4.3. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng
của trẻ em từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi tại địa bàn nghiên cứu
Từ nghiên cứu mô tả cắt ngang ban đầu cho thấy tỷ lệ SDD thấp còi ở
trẻ 36 đến dưới 60 tháng tuổi vẫn còn ở ngưỡng ý nghĩa sức khỏe cộng đồng
mức cao. Một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến SDD ở trẻ trong
nghiên cứu này là khẩu phần ăn của trẻ không đủ. Để đề phòng thiếu vi chất
dinh dưỡng, đa dạng hóa bữa ăn, sử dụng nguồn thực phẩm tại chỗ được xem
là một trong những chiến lược dài hạn, bền vững để thanh toán thiếu vi chất
dinh dưỡng. Do vậy, từ phân tích khẩu phần thực tế của trẻ trong nghiên cứu,
chúng tôi đã tổ chức các buổi tư vấn dinh dưỡng trực tiếp về chế độ ăn của
trẻ cho các bà mẹ, người nuôi trẻ cùng các cô nuôi dạy trẻ của 2 nhóm đối
chứng và can thiệp được tiến hành như nhau. Tất cả các bà mẹ đều được tư
vấn trực tiếp về tình trạng dinh dưỡng của trẻ, tư vấn chế độ ăn dựa trên khẩu
phần thực tế hàng ngày. Nhóm can thiệp, ngoài hoạt động truyền thông tư

vấn dinh dưỡng, trẻ được ăn cơm có gạo nấu ăn hằng ngày trộn với gạo
premix (gạo tăng cường sắt, kẽm trong thời gian 12 tháng liên tục).


21

Kết quả sau 12 tháng can thiệp, mức tăng cân mức tăng cân ở nhóm
ĐC là 1,67 (kg) thấp hơn so với nhóm CT 1,77 (kg), sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p<0,05. Tỷ lệ SDD ở nhóm CT giảm từ 12,7% tại M0 xuống
còn 7,6% tại M12, còn nhóm đối chứng không có sự khác biệt nào. Hiệu quả
can thiệp là 40%. Nhóm can thiệp tăng chiều cao trung bình 6,98 cm, cao
hơn nhóm đối chứng (5,2cm), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Tỷ lệ phục hồi sau can thiệp của nhóm can thiệp cao hơn nhóm đối chứng
(10,2% so với 3,3%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Hiệu quả
can thiệp là 33,5%. Điều đó cho thấy tác dụng cải thiện truyền thông và khẩu
phần ăn (CT) có tác dụng tăng cân và chiều cao tốt hơn ở nhóm truyền thông
đơn thuần (ĐC). Mức độ tăng cân, tang chiều cao của nhóm CT tương đương
với chuẩn của WHO.
Nghiên cứu can thiệp bằng cách cho ăn bổ sung cháo ngao hàng tuần
trong vòng 1 năm của Trần Quang Trung cũng trên toàn bộ nhóm trẻ lứa tuổi
24-48 tháng tại Tiền Hải cho thấy, sau 1 năm trẻ tăng cân nặng trung bình là
1,5 kg và chiều cao trung bình 6,9 ± 1,1 cm. Riêng nhóm thấp còi tăng được
7,7 ± 0,9 cm và có 39,2% thoát khỏi thấp còi.
Mức độ cải thiện thiếu vi chất dinh dưỡng cũng được thể hiện rất rõ
trong nghiên cứu của chúng tôi. Sau can thiệp, nồng độ trung bình Hb, kẽm
huyết thanh và feritin đều tăng cao hơn trước. Sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p<0,05. Mức tăng ở nhóm can thiệp cao hơn có ý nghĩa thống kê với
p<0,05. Nồng độ TfR giảm có ý nghĩa thống kê ở cả 2 nhóm nhưng nhóm
can thiệp có mức giảm nhiều hơn. Mức độ giảm thiếu máu ở nhóm đối
chứng. Tỷ lệ thiếu máu và thiếu kẽm sau can thiệp đều giảm ở 2 nhóm

nhưng mức độ giảm ở nhóm can thiệp cao hơn nhóm đối chứng. Hiệu quả
can thiệp giảm tỷ lệ thiếu máu và thiếu kẽm là 37,5% và 33,5%. Mức độ dự
trữ sắt của trẻ đã có cải thiện đáng kể sau can thiệp. Hiệu quả can thiệp cải
thiện dự trữ sắt của trẻ lần lượt là 40,8%.
Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu thực hiện các biện pháp can thiệp
khác nhau để bổ sung vi chất cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho trẻ em dưới


22

5 tuổi. Tác giả Nguyễn Đức Vinh thực hiện nghiên cứu can thiệp cộng đồng,
đánh giá trước và sau can thiệp với mục tiêu đánh giá hiệu quả của sữa tươi
bổ sung vi chất đối với sự cải thiện tình trạng dinh dưỡng của học sinh mẫu
giáo tại huyện Nghĩa Đàn tỉnh Nghệ An cho thấy cho trẻ uống sữa tươi bổ
sung vi chất 180 ml ngày với thời gian 5 ngày/tuần trong 5 tháng, kết quả cho
thấy có sự cải thiện có ý nghĩa thống kê các chỉ số Z-score cân nặng/tuổi
(tăng 0,04; p=0,002), Z-score BMI/tuổi (tăng 0,05; p=0,021) và Z-score cân
nặng/chiều cao (tăng 0,07; p<0,001), và làm giảm có ý nghĩa tỷ lệ suy dinh
dưỡng thể nhẹ cân (giảm 2,8%) và có xu hướng giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng
thể thấp còi và gầy còm.
Chế độ ăn bổ sung vi chất hiện đang là một xu hướng của ở các nước
trên thế giới. Một nghiên cứu song song tại 2 địa điểm Trung Quốc và Úc
cho thấy có sự lựa chọn khác nhau về chế độ ăn bổ sung. Ở Trung Quốc, các
chất bổ sung trong chế độ ăn uống phổ biến nhất là canxi (58,5%) và kẽm
(40,4%), còn ở Úc, các loại thường xuyên được sử dụng nhất là hỗn hợp các
vitamin, chất khoáng (46,2%) và dầu cá (42,3%). Một nghiên cứu tại New
Zealand cũng đã tiến hành một thử nghiệm chế độ ăn uống trong vòng 20
tuần để đánh giá hiệu quả của bổ sung thịt đỏ và sữa giàu vi chất đối với tình
trạng thiếu kẽm nhẹ ở trẻ. Kết quả cho thấy khẩu phần kẽm tăng mạnh đến
0,8mg/ngày ở nhóm ăn thịt đỏ và 0,7mg/ngày ở nhóm dùng sữa nhưng nồng

độ kẽm huyết thanh và kẽm ở tóc chưa tăng tương ứng.
Một nghiên cứu đánh giá khẩu phần ăn của phụ nữ và trẻ em nông thôn
Bangladeh đã cho thấy khẩu phần kẽm hàng ngày cũng chỉ đạt 2,5mg ở trẻ
em và 5,4mg ở phụ nữ. Trong đó có 49% và 69% kẽm trong khẩu phần cho
trẻ em và phụ nữ được cung cấp từ gạo. Do đó, nghiên cứu đã khuyến cáo
lựa chọn giống gạo có hàm lượng kẽm cao giúp phòng chống thiếu kẽm cho
các đối tượng.
Trong nghiên cứu chúng tôi đã bổ sung sắt, kẽm vào gạo trong khẩu
phần ăn của trẻ ở nhóm CT nên đã làm tăng đáng kể hàm lượng sắt, kẽm
trong khẩu phần cho trẻ, giúp tăng thúc đẩy phát triển cân nặng, chiều cao
của trẻ, đồng thời giảm tỷ lệ thiếu kẽm, thiếu máu, tăng dự trữ sắt. Đây là
hướng can thiệp tốt cho chương trình phòng chống SDD hiện nay.


23

KẾT LUẬN
1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng, tỷ lệ thiếu máu, ở trẻ em từ 36 đến dưới 60 tháng
tuổi và một số yếu tố liên quan
Tỷ lệ SDD của trẻ từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi còn cao (28,5%), trong
đó SDD thấp còi chiếm 26,2%, SDD thể nhẹ cân là 12,7%, SDD gầy còm là
4,2% và chỉ có 3% trẻ bị thừa cân, béo phì. Trẻ nam và nhóm trẻ 48- <60
tháng tuổi có nguy cơ SDD cao hơn trẻ nữ và nhóm 36-47 tháng, sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Tỷ lệ thiếu máu của trẻ cũng rất cao, tới 23,9%
Không tìm thấy mối liên quan giữa trình độ học vấn của mẹ, nghề của
mẹ, và số lượng trẻ trong gia đình đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ.
2. Đặc điểm khẩu phần, tỷ lệ thiếu kẽm, thiếu sắt của trẻ em từ 36 đến dưới
60 tháng tuổi
Tỷ lệ các chất sinh nhiệt P:L:G trong khẩu phần ăn của trẻ là

16,4%:28,0%: 55,7% chưa đáp ứng được nhu cầu khuyến nghị, trong đó, chỉ
có 28,1% trẻ đạt nhu cầu khuyến nghị về năng lượng, 47,8% trẻ đạt nhu cầu
năng lượng do lipid cung cấp và 30,2% trẻ đạt nhu cầu năng lượng do glucid
cung cấp. Tỷ lệ trẻ ăn đạt nhu cầu khuyến nghị các vitamin và chất khoáng
còn thấp, trong đó đạt về calci là 24,1%; kẽm 50,7%; photphos 82,0%, sắt
47,5%, vitamin A là 26,6% và viatamin C là 34,2%.
Trước can thiệp (M0), tỷ lệ thiếu máu của trẻ rất cao, ở nhóm đối
chứng là 27,3%; ở nhóm can thiệp là 30,1%. Tỷ lệ thiếu kẽm là 66%. Tỷ lệ
thiếu máu và thiếu kẽm phối hợp ở cả 2 nhóm đối chứng và can thiệp cũng
rất cao, tương ứng là 18,2% và 24,5%, sự khác nhau không có ý nghiã thống
kê với p>0,05
Tỷ lệ trẻ có dự trữ sắt thấp rất cao; ở nhóm đối chứng là 22,1% và
nhóm can thiệp là 28,0%; khác nhau không có YNTK với p>0,05


24

3. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng
của trẻ em từ 36 đến 60 tháng tuổi
Sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm với liều tăng cường 4 mg sắt và 1 mg
kẽm/1g premix) hàng ngày cải thiện tốt tình trạng SDD, ở nhóm can thiệp tỷ
lệ SDD giảm từ 12,7% (M0) xuống 7,6% (M12), đạt hiệu quả can thiệp 40%,
trong khi ở nhóm chứng tỷ lệ thay đổi không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ phục
hồi SDD thấp còi sau 12 tháng của nhóm can thiệp cao hơn nhóm đối chứng
(10,2% so với 3,3%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm cải thiện có ý nghĩa thống kê lượng
sắt dự trữ ở trẻ em, hàm lượng Hemoglobin, Ferritin huyết thanh và
Transferrin receptors (p<0.05); tỷ lệ thiếu máu, thiếu sắt ở Nhóm can thiệp
giảm có ý nghĩa thống kê, từ 30,0% và 26,8% tại M0 xuống 15,0% và 12,1%
tại M12 ở Nhóm can thiệp so với Nhóm chứng (p<0,05), đạt hiệu quả can

thiệp là 37,5% và 40,8%
KHUYẾN NGHỊ
1. Cần triển khai mở rộng giải pháp tăng cường sắt, kẽm vào gạo nhằm
nâng cao giá trị dinh dưỡng của gạo, trong phòng chống SDD và thiếu vi chất
dinh dưỡng ở trẻ em và cả cộng đồng, vì đây là biện pháp hiệu quả và khả thi
trong điều kiện của vùng nông thôn, nông nghiệp như Thái Bình.
2. Cần triển khai nghiên cứu trong thời gian dài hơn trên các nhóm đối
tượng khác nhau để khẳng định hiệu quả của giải pháp trong phòng chống
SDD và thiếu vi chất dinh dưỡng ở cộng đồng và được cộng đồng chấp nhận.



×