Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Tình trạng dinh dưỡng và hiệu quả can thiệp gạo tăng cường sắt, kẽm ở trẻ em từ 36 đến 60 tháng tuổi tại huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.27 MB, 140 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADB

The Asian Development Bank - Ngân hàng Phát triển Châu Á

BYT

Bộ Y tế

CC

Chiều cao

CC/T

Chiều cao theo tuổi

CN

Cân nặng

CN/T

Cân nặng theo tuổi

CN/CC

Cân nặng theo chiều cao

CT


Can thiệp

ĐC

Đối chứng

CSHQ

Chỉ số hiệu quả

FAO

Food and Agriculture Organization – Tổ chức Liên hợp quốc
về lương thực và nông nghiệp

Hb

Hemoglobin - Huyết sắc tố

HQCT

Hiệu quả can thiệp

IZNCG

International Zinc Nutrition Consultative Group – Tổ chức tư
vấn quốc tế về kẽm

SDD


Suy dinh dưỡng

UNICEF

The United Nations Children's Fund - Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp
Quốc

UNDP

United Nations Development Programme - Chương trình Phát
triển Liên hợp quốc

VCDD

Vi chất dinh dưỡng

WHO

World Health Organization - Tổ chức y tế thế giới

WAZ

Weight-for-Age Z-score - Chỉ số Z-score cân nặng/tuổi

WHZ

Weight-for-Height Z-score - Chỉ số Z-score cân nặng/chiều cao


MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .......................................................... 3
1.1. Tình hình suy dinh dưỡng ở trẻ em hiện nay và một số yếu tố liên quan......... 3
1.1.1. Tình hình suy dinh dưỡng ở trẻ em trên thế giới ............................. 3
1.1.2. Tình hình suy dinh dưỡng ở trẻ em tại Việt Nam ............................ 5
1.1.3. Một số yếu tố liên quan tới suy dinh dưỡng .................................... 7
1.2. Thực trạng thiếu máu, thiếu sắt, thiếu kẽm ở trẻ em ........................... 10
1.2.1. Thực trạng thiếu máu, thiếu sắt ở trẻ em ....................................... 10
1.2.2. Thực trạng thiếu kẽm ở trẻ em ...................................................... 13
1.3. Các biện pháp phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng......................... 16
1.3.1. Đa dạng hóa chế độ ăn.................................................................. 16
1.3.2. Bổ sung vi chất dinh dưỡng .......................................................... 16
1.3.3. Tăng cường vi chất trong thực phẩm ............................................ 17
1.3.4. Tăng cường sắt, kẽm vào gạo để phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng 25
1.4. Các nghiên cứu thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng cải thiện tình
trạng dinh dưỡng ................................................................................ 29
1.4.1. Trên thế giới ................................................................................. 29
1.4.2. Tại Việt Nam ................................................................................ 31
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............ 33
2.1. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................... 33
2.1.1. Địa bàn nghiên cứu....................................................................... 33
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu ................................................................... 34
2.1.3. Thời gian nghiên cứu.................................................................... 35
2.2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 36
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu ...................................................................... 36
2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu .............................................. 41


2.2.3. Các biến số và chỉ số cần thu thập trong nghiên cứu ..................... 44
2.2.4. Các kỹ thuật, công cụ và tiêu chuẩn đánh giá áp dụng trong nghiên cứu ... 46

2.2.5. Quá trình tổ chức nghiên cứu........................................................ 52
2.2.6. Phương pháp xử lý số liệu ............................................................ 54
2.2.7. Các sai số có thể mắc phải và biện pháp khắc phục ...................... 55
2.2.8. Đạo đức nghiên cứu...................................................................... 57
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................. 58
3.1. Xác định tỷ lệ suy dinh dưỡng, tỷ lệ thiếu máu ở trẻ từ 36 đến dưới 60 tháng
tuổi và một số yếu tố liên quan tại huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình ............. 58
3.2. Đặc điểm khẩu phần, tỷ lệ thiếu kẽm, thiếu sắt của trẻ em từ 36 đến
dưới 60 tháng tuổi tham gia nghiên cứu can thiệp............................... 67
3.3. Hiệu quả gạo tăng cường sắt, kẽm cải thiện tình trạng dinh dưỡng của
trẻ em từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi tại địa bàn nghiên cứu ................ 76
Chương 4: BÀN LUẬN .............................................................................. 87
4.1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng, tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em từ 36 đến dưới 60 tháng
tuổi và một số yếu tố liên quan tại huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình ....... 87
4.2. Phân tích đặc điểm khẩu phần, tỷ lệ thiếu sắt, thiếu kẽm của trẻ em từ
36 đến dưới 60 tháng tuổi tham gia nghiên cứu can thiệp ................... 96
4.3. Hiệu quả can thiệp gạo tăng cường sắt, kẽm cải thiện tình trạng dinh
dưỡng của trẻ em từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi tại địa bàn nghiên cứu . 106
4.4. Tính mới của nghiên cứu .................................................................. 113
4.5. Hạn chế của nghiên cứu.................................................................... 114
KẾT LUẬN ............................................................................................... 115
KHUYẾN NGHỊ....................................................................................... 117
CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Phân bố trẻ từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi tham gia nghiên cứu
theo giới . ................................................................................... 58

Bảng 3.2. Phân bố tình trạng dinh dưỡng của trẻ trẻ từ 36 đến dưới 60
tháng tuổi theo giới tính . ........................................................... 58
Bảng 3.3. Tỷ lệ % SDD thể nhẹ cân theo nhóm tuổi và giới tính của trẻ
từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi . .................................................... 59
Bảng 3.4. Tỷ lệ % SDD thể thấp còi theo nhóm tuổi và giới tính của trẻ
từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi . .................................................... 60
Bảng 3.5. Phân tích tỷ lệ SDD theo 3 chỉ tiêu nhân trắc của trẻ từ 36 đến
dưới 60 tháng tuổi . .................................................................... 61
Bảng 3.6. Tỷ lệ thiếu máu của trẻ từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi theo địa
bàn nghiên cứu . ......................................................................... 61
Bảng 3.7. Tỷ lệ thiếu máu của trẻ trẻ từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi theo
giới tính, nhóm tuổi và tình trạng dinh dưỡng. ........................... 62
Bảng 3.8. Phân tích hồi quy logistic mối liên quan giữa tình trạng dinh
dưỡng với một số yếu tố nhân khẩu học . ................................... 63
Bảng 3.9. Phân tích hồi quy logistic mối liên quan giữa suy dinh dưỡng
thấp còi với một số yếu tố nhân khẩu học .................................. 65
Bảng 3.10. Số lượng đối tượng tham gia giai đoạn nghiên cứu can thiệp ..... 67
Bảng 3.11. Tần suất tiêu thụ thực phẩm thường xuyên của trẻ trong tháng qua . 68
Bảng 3.12. Mức tiêu thụ lương thực, thực phẩm của trẻ tham gia nghiên
cứu can thiệp .............................................................................. 69
Bảng 3.13. Giá trị năng lượng khẩu phần của trẻ theo nhóm tuổi, giới tính .. 70
Bảng 3.14. Giá trị Protein khẩu phần của trẻ theo nhóm tuổi và giới tính..... 70
Bảng 3.15. Giá trị Lipid khẩu phần của trẻ theo nhóm tuổi và giới tính ....... 71


Bảng 3.16. Tỷ lệ trẻ đạt về nhu cầu khối lượng các chất sinh năng lượng
khẩu phần................................................................................... 72
Bảng 3.17. Hàm lượng một số chất khoáng trong khẩu phần ........................ 73
Bảng 3.18. Giá trị trung bình một số chỉ số xét nghiệm ở trẻ trước can
thiệp ........................................................................................... 73

Bảng 3.19. Mức độ thiếu máu ở trẻ trước can thiệp ..................................... 74
Bảng 3.20. Hiệu quả can thiệp lên cân nặng và tình trạng dinh dưỡng thể
nhẹ câncủa trẻ ở 2 nhóm can thiệp và đối chứng ........................ 76
Bảng 3.21. Hiệu quả can thiệp lên cân nặng và tình trạng dinh dưỡng thể
nhẹ cân của trẻ theo nhóm tuổi................................................... 78
Bảng 3.22. Hiệu quả các biện pháp can thiệp lên chiều cao và tình trạng
dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ .................................................. 79
Bảng 3.23. Hiệu quả can thiệp lên chiều cao và tình trạng dinh dưỡng thể
thấp còi theo nhóm tuổi .............................................................. 81
Bảng 3.24. Hiệu quả can thiệp đối với nồng độ Hb, kẽm huyết thanh và
feritin, TfR qua các thời điểm can thiệp. .................................... 82
Bảng 3.25. Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ thiếu máu và thiếu kẽm ............... 83
Bảng 3.26. Hiệu quả cải thiện khẩu phần ăn của trẻ trước sau can thiệp
nhóm tuổi 1 ................................................................................ 85
Bảng 3.27. Hiệu quả cải thiện khẩu phần ăn của trẻ trước sau can thiệp
nhóm tuổi 2 ................................................................................ 86


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ các thể suy dinh dưỡng của trẻ từ 36 đến dưới 60
tháng tuổi .............................................................................. 59
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ SDD thể gầy còm theo nhóm tuổi và giới tính của trẻ từ
36 đến dưới 60 tháng tuổi....................................................... 60
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ thiếu máu, thiếu kẽm ở trẻ trước can thiệp .................... 74
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ thiếu sắt ở trẻ trước can thiệp ........................................ 75
Biểu đồ 3.5. Hiệu quả can thiệp tình trạng dinh dưỡng thể nhẹ cân ............ 77
Biểu đồ 3.6. Hiệu quả can thiệp lên tình trạng dinh dưỡng thể thấp còi của
trẻ ở 2 nhóm can thiệp và đối chứng....................................... 80
Biểu đồ 3.7. Hiệu quả can thiệp đối với dự trữ sắt thấp và dự trữ sắt cạn kiệt
của trẻ qua các thời điểm can thiệp......................................... 84



1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng trưởng ở trẻ em bị chi phối bởi nhiều yếu tố như yếu tố di truyền và
môi trường bên ngoài, trong đó có dinh dưỡng. Dinh dưỡng hợp lý là yếu tố
môi trường quan trọng đối với sự tăng trưởng và kiểm soát sức khỏe, bệnh tật
trong các giai đoạn vòng đời. Đầu tư cho dinh dưỡng xuyên suốt vòng đời
không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế mà còn mang ý nghĩa xã hội thiết thực
như tiết kiệm chi phí chăm sóc Y tế, tăng năng lực trí tuệ và năng suất lao
động của người trưởng thành. Nhiều công trình khoa học đã ghi nhận dinh
dưỡng chính là nền tảng cho sự phát triển thể lực, sức khoẻ, trí tuệ, tầm vóc
của trẻ [60], [115]. Tại hội nghị quốc tế cấp cao về dinh dưỡng lần thứ 2 tổ
chức tại Rome tháng 11/2014, các chuyên gia cảnh báo tình trạng suy dinh
dưỡng (SDD) toàn cầu vẫn tồn tại ở mức quá cao trong thời gian dài [124].
Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, tình trạng dinh
dưỡng cũng được cải thiện. Khi nhắc tới SDD, các chuyên gia cho rằng nó
không chỉ đơn thuần là nạn đói mà còn ám chỉ khái niệm "đói tiềm ẩn" hay
tình trạng thiếu các vi chất thiết yếu như Vitamin D, A, sắt và kẽm. Suy dinh
dưỡng và thiếu vi chất dinh dưỡng, đặc biệt là thiếu sắt và kẽm đang là vấn đề
có nghĩa sức khỏe cộng đồng, trong đó nhóm đối tượng có nguy cơ cao là phụ
nữ và trẻ em. Các số liệu điều tra của Viện Dinh dưỡng Quốc gia và một số
nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ thiếu hụt vi chất dinh dưỡng trẻ em ở mức trên
30%, có 45,7% trẻ bị thiếu máu kết hợp với thiếu kẽm [4],[17],[20].
Sự thiếu hụt vi chất dinh dưỡng hoàn toàn có thể phòng ngừa và thanh toán
được nếu các đối tượng có nguy cơ được bổ sung liên tục một lượng nhỏ các vi
chất đó. Để phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng có nhiều giải pháp trong đó có
giải pháp tăng cường vi chất vào thực phẩm. Đây là giải pháp đã được thực hiện
ở một số nước đang phát triển và có những thành công đáng kể. Tăng cường vi

chất vào thực phẩm là can thiệp lâu dài, khả thi và bền vững nhằm cải thiện vấn
đề thiếu vi chất dinh dưỡng trên thế giới cũng như ở nước ta [4], [12].


2

Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp, nơi đây được coi là vựa lúa của đồng
bằng sông Hồng. Gạo cũng là nguồn lương thực chính không thể thiếu trong
bữa ăn hằng ngày của người dân Việt Nam nói chung và người dân Thái Bình
nói riêng, mức tiêu thụ trung bình của trẻ dưới 5 tuổi khoảng 191,6 g/trẻ/ngày.
Cho tới nay ở Thái Bình chưa có một chương trình tăng cường sắt, kẽm
phòng chống thiếu kẽm nào được triển khai, mặc dù một số nghiên cứu đã cho
thấy tỷ lệ thiếu đa vi chất ở trẻ dưới 5 tuổi tại Thái Bình chiếm tỷ lệ khá cao.
Do đó, với giả thiết nếu sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm trong khẩu phần của
trẻ sẽ giúp giảm tỷ lệ thiếu vi chất dinh dưỡng, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng
thấp còi. Vì vậy, chúng tôi triển khai chương trình bổ sung sắt, kẽm vào gạo
cho trẻ lứa tuổi 36 đến dưới 60 tháng tuổi là nhóm trẻ trong độ tuổi nhà trẻ,
mẫu giáo đã thực hiện hoàn toàn chế độ ăn cơm. Việc đánh giá hiệu quả của
gạo tăng cường sắt, kẽm lên tình trạng sức khỏe của người dân nói chung và
trẻ em nói riêng sẽ là cơ sở để đưa ra các chính sách phù hợp về tăng cường
đa vi chất vào gạo ở Việt Nam, bổ sung khuyến nghị cho nghị định 09/2016
NĐ-CP ngày 28/1/2016 của Chính phủ về qui định tăng cường vi chất vào
thực phẩm. Do đó, chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Tình trạng dinh dưỡng và
hiệu quả can thiệp gạo tăng cường sắt, kẽm ở trẻ em từ 36 đến dưới 60
tháng tuổi tại huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình” nhằm mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ suy dinh dưỡng, tỷ lệ thiếu máu, ở trẻ em từ 36 đến dưới 60
tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình năm 2015.
2. Phân tích đặc điểm khẩu phần và tỷ lệ thiếu sắt, thiếu kẽm của trẻ em
từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi tham gia nghiên cứu can thiệp tại huyện Vũ Thư
tỉnh Thái Bình năm 2015.

3. Đánh giá hiệu quả can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng bằng gạo tăng
cường sắt, kẽm cho trẻ em từ 36 đến dưới 60 tháng tuổi tại địa bàn nghiên cứu.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình suy dinh dưỡng ở trẻ em hiện nay và một số yếu tố liên quan
1.1.1. Tình hình suy dinh dưỡng ở trẻ em trên thế giới
Nghiên cứu tập hợp kết quả từ 576 cuộc điều tra đại diện của các quốc
gia và vùng lãnh thổ trong giai đoạn 1990 đến 2010 cho thấy năm 1990 trên
thế giới tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị SDD thể thấp còi chiếm khoảng 40,0%. Vùng
châu Mỹ La tinh và Caribe là 24,6%. Tỷ lệ SDD thấp còi châu Á năm 1990 là
48,4%. Các quốc gia đang phát triển là 44,6%; các quốc gia phát triển 6,1%.
Đến năm 2010 trên toàn cầu, thấp còi ở trẻ em đã giảm từ 39,7% xuống còn
26,7%. Tuy nhiên, mức độ giảm tỷ lệ SDD thấp còi có sự khác nhau rõ rệt
giữa các khu vực. Ở châu Phi tỷ lệ thấp còi hầu như ít thay đổi. Sau 20 năm,
tỷ lệ SDD thấp còi vẫn dao động trong mức 40,0%; trong khi đó châu Á có
những chuyển biến mạnh mẽ, giảm đáng kể tỷ lệ SDD thấp còi từ 49,0% năm
1990 xuống còn 28,0% trong năm 2010. Tuy nhiên, ở đa số các nước đang
phát triển, thấp còi vẫn còn là một vấn đề có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng
trong giai đoạn hiện nay [102], [105]. Khoảng 80% trẻ dưới 5 tuổi thấp còi
trên thế giới nằm ở 14 quốc gia trong đó nhiều quốc gia như Đông Timor,
Burundi, Niger và Madagascar, Banglades, Campuchia, Camarun, Etiopia có
tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi thấp còi cao nhất (hơn một nửa trẻ em dưới 5 tuổi bị
SDD thấp còi) [58], [89], [92]. Đến năm 2012 tỷ lệ thấp còi chung toàn thế
giới khoảng 25,0%; trong đó 56,0% ở Châu Á, 36,0% ở châu Phi [70].
Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới công bố tháng 5/2012 cho thấy
trong 15 năm vừa qua các quốc gia đang phát triển trung bình mới chỉ giảm

được 1,5% trẻ em SDD nhẹ cân [122]. Theo báo cáo về tình hình an ninh
lương thực thế giới năm 2016, FAO đã nhận định rằng số ca SDD toàn cầu


4

tuy có giảm sau 15 năm nhưng vẫn còn ở mức cao [126]. Do đó, tình trạng
này sẽ khó có khả năng đạt được “mục tiêu phát triển thiên niên kỷ thứ nhất’’
giảm một nửa tỷ lệ SDD tại các nước đang phát triển từ 20,0% vào năm 19901992 xuống còn 10,0% vào năm 2015 [110].
Trong khi 98,0% nạn đói trên thế giới tập trung ở các nước đang phát
triển và chiếm đến 16,0% dân số thế giới thì tại từng khu vực cho thấy châu Á
là nơi tập trung chủ yếu của tình trạng SDD, đã tạo nên gánh nặng lớn về kinh
tế khi cải thiện tình trạng SDD tại khu vực này cũng như cản trở việc đạt được
mục tiêu thiên niên kỷ thứ nhất [59],[108],[121],[127].
Tại khu vực Đông Nam Á, tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi
cũng tương tự: tỉ lệ SDD thấp còi năm 1990 là 58,6% giảm xuống 33,9% vào
năm 2014; SDD nhẹ cân giảm từ 46,9% năm 1990 xuống 24,8% vào năm
2014 [100],[101],[109],[113].
Báo cáo của WHO cho thấy, đến năm 2015 trên toàn cầu có 156 triệu
trẻ em bị SDD thấp còi, chiếm khoảng 23,0% tổng số trẻ dưới 5 tuổi. Nhiều
bằng chứng cho thấy mặc dù số trẻ dưới 5 tuổi bị SDD thấp còi còn cao,
nhưng tỉ lệ phân bố không đều ở các khu vực trên thế giới [60], [111], [125].
SDD thấp còi có mức độ trầm trọng hơn SDD thể nhẹ cân. Ở các nước
đang phát triển, trẻ ở nông thôn có nguy cơ mắc SDD thấp còi cao gấp 1,5 lần
so với trẻ ở thành phố [83], [88], [116]. Chiều hướng giảm SDD thấp còi ở trẻ
em dưới 5 tuổi cũng tương tự như với SDD nhẹ cân. Tỷ lệ SDD thấp còi ở các
nước đang phát triển là 26,8% (2014), toàn thế giới là 22,5% (2013) [123].
Dự đoán đến năm 2020, tỷ lệ SDD thấp còi trên toàn thế giới tiếp tục giảm.
Tỷ lệ SDD thấp còi ở các nước đang phát triển sẽ tiếp tục giảm từ 29,8% năm
2000 xuống khoảng 16,3% năm 2020. Ở Châu Phi mức độ giảm ít hơn rất

nhiều, từ 34,9% xuống còn 31,1% trong khoảng 20 năm tới [90], [97].


5

1.1.2. Tình hình suy dinh dưỡng ở trẻ em tại Việt Nam
Theo thống kê của Liên Hợp Quốc 80,0% trẻ bị SDD thấp còi trên thế
giới tập trung ở 14 nước, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, tình trạng SDD tại
Việt Nam phổ biến ở khu vực nông thôn và dân tộc thiểu số.
Năm 2014, điều tra tại 11 tỉnh cho thấy tỷ lệ thấp còi ở trẻ dưới 24 tháng
tuổi là 9,5% trong đó 5,0% trẻ dưới 6 tháng tuổi và 15,3% trẻ từ 6 đến 23,9
tháng tuổi. Tỷ lệ trẻ SDD nhẹ cân và SDD gầy còm tương ứng là 5,8% và 3,4%.
Có 3,7% trẻ dưới 6 tháng tuổi và 8,4% trẻ từ 6 đến 23,9 tháng tuổi bị nhẹ cân. Tỷ
lệ gầy còm là 3,3% ở trẻ dưới 6 tháng tuổi và 3,6% ở trẻ từ 6 đến 23,9 tháng tuổi.
Tỷ lệ thấp còi và nhẹ cân ở trẻ trai cao hơn so với trẻ gái: 11,4% trẻ em trai so
với 7,6% trẻ gái bị thấp còi; 6,4% trẻ trai so với 5,1% trẻ gái bị nhẹ cân. Ở trẻ
dưới 6 tháng tuổi, không có sự khác biệt nào về tình trạng thấp còi, nhưng có
một chút khác biệt về tình trạng nhẹ cân và gầy còm [51].
Tỷ lệ thấp còi, nhẹ cân và gầy còm khác biệt tuỳ thuộc tỉnh thành điều tra.
Ở Đà Nẵng, tỷ lệ trẻ dưới 24 tháng tuổi bị thấp còi là thấp nhất (4,9%). Các tỉnh
có tỷ lệ trẻ thấp còi cao là Cà Mau (11,7%), Quảng Trị (11,9%), Đắk Lắk
(13,8%) và Đắk Nông (17,4%). Tỷ lệ trẻ nhẹ cân dao động từ 2,6% tại Đà Nẵng
đến 7,6% tại Hải Phòng. Tỷ lệ trẻ gầy còm dao động từ 1,6% tại Đắk Nông đến
5,0% tại Hải Phòng. Tỷ lệ thấp còi và nhẹ cân tăng theo tuổi, trong số trẻ từ 18
đến 23,9 tháng tuổi, 20,8% trẻ bị thấp còi và 10,7% trẻ bị nhẹ cân [3].
Kết quả của tác giả Nguyễn Thanh Hà khi nghiên cứu về tình trạng đa
vi chất của trẻ từ 6-36 tháng tuổi SDD thấp còi tại huyện Gia Bình tỉnh Bắc
Ninh cho thấy, thiếu máu, thiếu vitamin A và thiếu kẽm trên trẻ SDD thấp còi
đều ở mức nặng theo phân loại của WHO. Trẻ bị SDD thấp còi có tỷ lệ thiếu
đa vi chất khá cao. Có 37,6% số trẻ SDD thấp còi thiếu 1 loại vi chất, 23,5%

trẻ thiếu 2 vi chất kết hợp và 8,2% tổng số trẻ SDD thấp còi thiếu kết hợp cả 3
loại vi chất [11].


6

Các kết quả nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng Việt Nam đến năm 2014
cho thấy: Phân bố SDD ở nước ta không đồng đều giữa các vùng sinh thái,
nhiều địa phương miền núi tỷ lệ SDD cao hơn hẳn vùng đồng bằng. Tỷ lệ cao
nhất ở vùng Tây Nguyên (22,6% với SDD nhẹ cân và 34,9% với SDD thấp
còi). Ở vùng Đông Nam Bộ tỷ lệ SDD thấp hơn so với các vùng khác (8,4%
với SDD nhẹ cân và 18,3% với SDD thấp còi), thấp nhất trong các vùng sinh
thái của cả nước. Riêng tỷ lệ SDD thấp còi cao nhất ở vùng Tây Nguyên
(34,9%), Trung du và miền núi phía Bắc (20,3%). Tỷ lệ SDD thể thấp còi
không đồng đều theo vùng sinh thái. Vùng núi và cao nguyên phía Bắc và
Vùng bắc miền Trung và ven biển miền Trung vẫn ở cấp độ ý nghĩa sức khỏe
cộng đồng cao (>30,0%). Tốc độ giảm trung bình trong 10 năm qua của tỷ lệ
SDD nhẹ cân là 1,26%/năm; của tỷ lệ SDD thấp còi là 1,4%/năm [45].
SDD cũng có liên quan mật thiết với tình trạng kinh tế, xã hội của
người dân. Tỷ lệ SDD nhẹ cân của trẻ em ở nông thôn (13,8%) cao hơn vùng
thành thị (7,1%). Tương tự, tỷ lệ SDD thấp còi của trẻ em ở vùng nông thôn
(21,8%) cao hơn vùng thành thị (12,1%), tỷ lệ SDD gày còm của trẻ em ở
vùng nông thôn (6,6%) cao hơn vùng thành thị (5,0%) [51].
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng sông Hồng, năm 2010 tỷ lệ SDD thể
nhẹ cân của Thái Bình là 17,3%, SDD thấp còi là 26,7% cao hơn so với tỷ lệ
chung của vùng đồng bằng sông Hồng là 25,5%. Nghiên cứu của Trần Quang
Trung tại vùng ven biển huyện Tiền Hải, Thái Bình năm 2012 cho thấy, tình
trạng SDD ở trẻ em dưới 5 tuổi phổ biến nhất là tỷ lệ mắc thể thấp còi với
26,9% rồi đến thể nhẹ cân 11,1% và thấp nhất là thể gầy còm 4,5%; tỷ lệ SDD
tăng dần lên theo tuổi, tăng nhanh từ nhóm 13-24 tháng và tỷ lệ cao nhất từ

các nhóm trẻ trên 24 tháng. Trẻ em SDD phối hợp nhiều thể chiếm xấp xỉ
30,0% trong số trẻ em, riêng thể thấp còi có 36,8% phối hợp với các thể SDD
khác (27,0% phối hợp với nhẹ cân, phối hợp với thừa cân chiếm 5,9%, phối


7

hợp gầy còm là 3,9%) [42]. Đến năm 2014, theo kết quả của hoạt động giám
sát dinh dưỡng hằng năm do Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh tiến hành dưới sự
chỉ đạo kỹ thuật của Viện Dinh dưỡng Quốc gia thì tại Thái Bình, tỷ lệ SDD
nhẹ cân là 13,8%; SDD thấp còi là 25,2% và SDD gầy còm là 6,6% [51].
Như vậy, có thể thấy suy dinh dưỡng ở trẻ là vấn đề được nhiều tổ chức
quan tâm. Theo UNICEF, đến tháng 8/2016 trên toàn quốc có 45,0% ca tử
vong ở trẻ dưới 5 tuổi có liên quan đến SDD. Đây là mối quan ngại về Y tế
Công cộng ở Việt Nam với khoảng 1,8 triệu trẻ em bị suy dinh dưỡng thấp
còi. Bên cạnh đó, có 200.000 trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng cấp tính nặng.
1.1.3. Một số yếu tố liên quan tới suy dinh dưỡng
Ba yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến SDD là an ninh thực phẩm,
thực hành dinh dưỡng kém và bệnh tật, các yếu tố này chịu ảnh hưởng lớn
của đói nghèo.
1.1.3.1. An ninh lương thực hộ gia đình không đảm bảo: An ninh lương thực
hộ gia đình không đảm bảo là yếu tố quan trọng dẫn đến thiếu lương thực về
số lượng và chất lượng - bao gồm thiếu năng lượng, protein và vi chất dinh
dưỡng. Hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo đói ở các vùng sâu, vùng xa và vùng khó
khăn còn cao. Đó chính là nguyên nhân tiềm tàng đe dọa tình trạng thiếu
dinh dưỡng cá thể. Ngoài ra mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố phụ thuộc
vào khả năng tiếp cận thực phẩm ở từng hộ gia đình mà cụ thể là phụ thuộc
rất nhiều vào kiến thức dinh dưỡng, phong tục tập quán kiêng khem của từng
nhóm dân tộc.
Nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng Quốc gia thấy; ngay ở khu vực

đồng bằng Bắc bộ và Trung du cũng chưa xác lập được an ninh lương thực
hộ gia đình. Tổng Điều tra Dinh dưỡng toàn quốc năm 2010 gần đây cũng
cho thấy vẫn còn từ 10-25% số hộ thiếu đói lương thực vào thời điểm giáp
hạt. Tình trạng mất an ninh thực phẩm theo mùa là một vấn đề rất đáng quan


8

tâm. Đây vẫn còn là một tồn tại khá phổ biến; ở những hộ nghèo, có 33,0%
gia đình thiếu ăn trước thời vụ và 19,0% gia đình trong tình trạng thiếu ăn
sau thu hoạch [45].
1.1.3.2. Thực hành dinh dưỡng kém
Thực hành dinh dưỡng kém liên quan đến sự mất cân đối trong bữa ăn
và sự lựa chọn ưu tiên hợp lý cho đối tượng là trẻ em và người mẹ mang thai.
Ngay cả khi một hộ gia đình đảm bảo được an ninh lương thực vẫn có thể
thiếu lương thực thực phẩm đối với cá thể, nhất là các cá thể có nguy cơ cao
như trẻ em dưới 5 tuổi, phụ nữ mang thai… mà nguyên nhân chủ yếu là do
thực hành dinh dưỡng [64]. Các yếu tố nhạy cảm nhất trong thực hành dinh
dưỡng ở trẻ em là sữa mẹ, chế độ ăn bổ sung và kiến thức dinh dưỡng cũng
như trình độ văn hóa của bà mẹ ảnh hưởng tới chất lượng nuôi trẻ.
a) Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ chưa tốt
Sữa mẹ là nguồn thức ăn tự nhiên của trẻ em. Ngoài việc cung cấp chất
dinh dưỡng hợp lý về số lượng, còn là nguồn cung cấp globulin miễn dịch.
Hàm lượng và tỷ lệ các chất dinh dưỡng trong sữa mẹ của phụ nữ Việt Nam
cũng tương đương với các nước khác. Tuy nhiên, phần lớn trẻ em, đặc biệt là
ở các nước kém phát triển và đang phát triển, thời gian bú sữa mẹ chưa được
đảm bảo, nhất là thời gian bú sữa mẹ hoàn toàn [80].
b) Ăn bổ sung không đủ số lượng và chất lượng bữa ăn
+ Về số lượng bữa ăn, chế độ chăm sóc ưu tiên không được chú trọng
dẫn đến số bữa ăn không đảm bảo và không đúng bữa đang còn tồn tại phổ

biến [85]. Hiện nay ở nông thôn, hệ thống nhà trẻ không còn nên việc chăm
sóc trẻ được ủy thác cho người già hoặc trẻ vị thành niên. Những người này
hầu như hoàn toàn không có kiến thức dinh dưỡng. Chính vì với chế độ chăm
sóc như vậy nên dạng thức ăn được sử dụng cũng rất tùy tiện. Có một bộ phận


9

lớn (45%) trẻ dưới 8 tháng tuổi được cho ăn bằng cháo nấu một lần ăn cả
ngày. Đây là dạng thức ăn rất nghèo năng lượng nhưng lại được sử dụng rất
phổ biến ở nông thôn.
Về chất lượng bữa ăn, tập quán nuôi dạy trẻ tùy tiện vẫn còn tồn tại
khá phổ biến ở nhiều vùng miền và có ảnh hưởng quan trọng đến tỷ lệ suy
dinh dưỡng chung trong cộng đồng. Ngày nay, trình độ dân trí đã thay đổi
đáng kể so với những thập niên trước, nhiều tập quán xấu đã được loại trừ
nhưng vấn đề cân đối bữa ăn cũng đang là tồn tại khá phổ biến. Tần suất sử
dụng thức ăn giàu năng lượng và giữ vai trò sinh học quan trọng không cao.
Tập quán ăn kiêng, nguyên nhân đầu tiên là các bà mẹ không dám cho
trẻ nhỏ ăn thêm dầu mỡ, rau xanh vẫn còn tồn tại. Bên cạnh đó, bà mẹ không
có thời gian để chế biến cẩn thận từng bữa ăn cho trẻ. Nguyên nhân thứ ba là
do nghèo đói, không có tiền để mua thực phẩm thường xuyên cho trẻ.
c/ Trình độ văn hóa thấp và thiếu kiến thức dinh dưỡng
Nhiều tập quán ăn uống không có lợi như ăn kiêng (kiêng dầu mỡ, cá,
rau xanh…) còn duy trì; không biết tận dụng nguồn thức ăn giầu dinh dưỡng
sẵn có như đậu, vừng, lạc…bán trứng gà, hoa quả để mua thực phẩm chế biến
sẵn; không cho ăn đủ bữa, không thực hành bữa ăn cân đối…
Nguyên nhân tiềm tàng của SDD do sự bất cập trong dịch vụ chăm sóc
bà mẹ trẻ em, thiếu kiến thức của người chăm sóc trẻ, yếu tố chăm sóc của gia
đình, các vấn đề nước sạch, vệ sinh môi trường, tình trạng nhà ở không đảm
bảo, mất vệ sinh. Yếu tố không kém quan trọng đó là sự chăm sóc của mẹ đối

với con. Khi đời sống khá hơn, gia đình ít con, trình độ văn hóa người mẹ cao
hơn thì thời gian người mẹ dành cho đứa trẻ nhiều hơn và thực hành dinh
dưỡng cũng như chăm sóc trẻ tốt hơn và ngược lại [61]. Cuộc tổng điều tra về
dinh dưỡng trẻ em trên toàn quốc năm 2011 cho thấy: tỉ lệ SDD ở cả 3 thể:
nhẹ cân, thấp còi, gầy còm đều rất khác nhau giữa các vùng miền, giữa trình


10

độ học vấn, nhận thức của các bà mẹ và người chăm sóc trẻ: ở đồng bằng
Sông Hồng, các tỉ lệ SDD trên lần lượt là: 12,7%; 22,7%; 5,4%; ở ĐB Sông
Cửu Long lần lượt là: 15,2%; 26,8%; 7,0%; ở Tây Bắc lần lượt là: 22,1%;
33,6%; 6,9% và các tỉnh Tây Nguyên lần lượt là: 25,9%; 37,3%; 8,6% [31].
1.1.3.3. Vai trò của bệnh tật
Bệnh tật được coi là một trong hai nguyên nhân trực tiếp gây SDD ở trẻ
em. Nhiễm trùng làm tăng sự hao hụt các chất dinh dưỡng, trẻ biếng ăn và ăn
với số lượng ít hơn do giảm ngon miệng. Các nghiên cứu ước tính rằng nhiễm
trùng ảnh hưởng đến 30,0% sự giảm chiều cao ở trẻ em. Những trẻ có HIV
thường bị tiêu chảy và kéo theo là tình trạng SDD. Nhiễm khuẩn dễ đưa đến
SDD do rối loạn tiêu hoá, và ngược lại SDD dễ dẫn tới nhiễm khuẩn do
đề kháng giảm. Do đó, tỷ lệ SDD có thể dao động theo mùa và thường cao
trong những mùa có các bệnh nhiễm khuẩn lưu hành ở mức cao (tiêu chảy,
viêm hô hấp, sốt rét). Bên cạnh tiêu chảy, các bệnh nhiễm trùng khác cũng
ảnh hưởng nhiều tới dinh dưỡng như nhiễm khuẩn đường hô hấp, sởi và các
bệnh ký sinh trùng đường ruột [33], [46], [61].
1.2. Thực trạng thiếu máu, thiếu sắt, thiếu kẽm ở trẻ em
1.2.1. Thực trạng thiếu máu, thiếu sắt ở trẻ em
Thiếu máu và các thiếu hụt vi chất dinh dưỡng phổ biến ở khu vực
châu Phi, châu Á, khu vực tiểu vùng Sahara, đặc biệt là các nước kém phát
triển và đang phát triển, làm suy giảm tăng trưởng, giảm khả năng miễn dịch

và nhận thức [55], [56], [68]. Mặc dù nhiều chương trình can thiệp phòng
chống thiếu máu, thiếu sắt đã được thực hiện nhưng tỷ lệ thiếu máu, thiếu sắt
trên thế giới nhìn chung vẫn còn cao, đặc biệt ở các nhóm trẻ suy dinh dưỡng
[98], [104]. Tại Việt Nam, theo kết quả tổng điều tra quốc gia về VCDD năm
2014, 2015 - Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho thấy ở nhóm tuổi càng nhỏ trẻ
càng có nguy cơ thiếu máu cao: nhóm trẻ 0-12 tháng và 12-24 tháng có tỷ lệ


11

thiếu máu cao nhất đạt 45,0% và 42,7%; trong khi đó ở nhóm 24-35 tháng tỷ
lệ này là 23,0%; nhóm 36-47 tháng tỷ lệ này là 18,8%; nhóm 48-60 tháng tỷ
lệ này là 14,3%; tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em vùng thành thị là 22,2%; ở nông
thôn là 28,4%; ở miền núi là 31,2% [48].
Nghiên cứu của Trần Quang Trung về thực trạng SDD thấp còi và
hiệu quả cải thiện khẩu phần cho trẻ dưới 5 tuổi tại vùng ven biển Tiền
Hải, Thái Bình cho thấy tỷ lệ thiếu máu chung ở trẻ thấp còi 25-48 tháng là
27,7% trong đó trẻ SDD chỉ thấp còi có tỷ lệ thiếu máu là 26,8%; trẻ SDD
phối hợp thấp còi và gầy còm là 40,0%. Nhóm trẻ có mẹ uống viên sắt khi
mang thai bị thiếu máu (27,3%) thấp hơn so với trẻ có bà mẹ không uống
(35,7%). Nhóm trẻ có mẹ ăn uống tốt khi mang thai có tỷ lệ thiếu máu
(24,9%) thấp hơn so với nhóm bà mẹ không được ăn uống bồi dưỡng tốt
(50,0%) [42]. Trong đó tỷ lệ thiếu máu của trẻ em 6-36 tháng tuổi ở Quảng
Trị khi tác giả Trần Thị Lan nghiên cứu hiệu quả của bổ sung đa vi chất
dinh dưỡng và tẩy giun ở trẻ em 12-36 tháng tuổi SDD thấp còi người dân
tộc Vân Kiều và Pakoh lại là 44,3% [20].
Tác giả Phan Bích Nga khi tìm hiểu tình trạng VCDD của trẻ sơ sinh
đủ tháng có cân nặng thấp đẻ tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương kết quả về
nồng độ ferritin huyết thanh đạt mức trung bình cao là 188 µg/L ở nhóm trẻ
SDD bào thai ở thời điểm ngày đầu sinh. Tỷ lệ trẻ có nồng độ ferritin huyết

thanh thấp chỉ có 1,5% ở nhóm suy dinh dưỡng bào thai trong ngày đầu sinh.
Tuy vậy, tỷ lệ thiếu máu ở đối tượng trẻ SDD bào thai trong nghiên cứu này
rất cao là 84,0% [26].
Nghiên cứu điều tra tình hình thiếu vi chất ở 6 tỉnh miền núi phía Bắc
đã phát hiện thấy tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em là 29,1% thuộc mức trung bình về ý
nghĩa sức khỏe cộng đồng. Tỷ lệ dự trữ sắt thấp (Ferritin<30ng/mL) là 49,1%.
Tương tự, tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt (cả Hb và Ferritin thấp) là 52,9% [44].


12

Nghiên cứu của Phạm Vân Thúy mô tả cắt ngang trên 586 trẻ, xác định
tỷ lệ thiếu máu, thiếu sắt, thiếu kẽm và vitamin A ở trẻ 12-72 tháng tuổi năm
2010, tại 19 tỉnh/thành của Việt Nam cho thấy, tỷ lệ trẻ em SDD thể thấp còi
là 23,2%; SDD thể gầy còm là 6,3%; 7% số trẻ bị thừa cân/ béo phì. Tỷ lệ
thiếu máu là 9,1%; thiếu sắt là 12,9%. Tỷ lệ thiếu máu, thiếu sắt thuộc mức ý
nghĩa sức khỏe cộng đồng nhẹ theo phân loại của WHO. Tỷ lệ thiếu máu và
tình trạng sắt của trẻ <18 tháng cao nhất so với các nhóm tuổi khác [38].
Như vậy, có thể thấy sự thiếu hụt VCDD là một vấn đề có ý nghĩa sức
khỏe cộng đồng ở trẻ em Việt Nam dưới 5 tuổi. Nghiên cứu của Nguyễn Văn
Nhiên và cộng sự năm 2008 ở trẻ em nông thôn Việt Nam trước tuổi đến
trường thấy có 55,6% thiếu máu và 86,9% thiếu kẽm [91]. Tình trạng thiếu
máu thiếu sắt thường kèm theo thiếu axit folic. Axit folic cần thiết cho sự phát
triển và phân chia tế bào của người, động vật, thực vật và cần thiết cho sự
hình thành của tế bào máu, đặc biệt trong cấu tạo và phát triển hệ thống thần
kinh của thai nhi. Mỗi năm trên thế giới có tới 400.000 trẻ sinh ra có dị tật
ống thần kinh. Nguyên nhân cụ thể gây ra dị tật này có liên quan đến cả yếu
tố di truyền và môi trường, đồng thời liên quan với vấn đề thiếu hụt axit folic.
Thiếu axit folic là nguyên nhân làm của khoảng 3.000-4.000 trẻ em Việt Nam
sinh ra mắc các dị tật bẩm sinh ống thần kinh rất nghiêm trọng như nứt đốt

sống, não ủng thủy, thai vô sọ.
Hiện nay, chương trình phòng chống thiếu máu do thiếu sắt được triển
khai với 2 hoạt động là bổ sung viên sắt-acid folic; giáo dục truyền thông kết
hợp với phòng chống nhiễm giun. Ở nơi có chương trình, tỷ lệ thiếu máu ở
phụ nữ tuổi sinh đẻ hạ xuống còn 25,0%; tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt chung ở trẻ
em dưới 5 tuổi xuống còn 32,1%; giảm một nửa so với những năm 90 khi bắt
đầu chương trình. Tuy nhiên, chương trình mới triển khai giới hạn ở 1282 xã


13

trong toàn quốc và tỷ lệ trẻ trong năm đầu đời bị thiếu máu do thiếu sắt vẫn
còn ở mức cao đặc biệt những trẻ cân nặng sơ sinh thấp [43].
1.2.2. Thực trạng thiếu kẽm ở trẻ em
Nghiên cứu của tác giả Saeed Akhtar tại một số nước Nam Á từ năm
2000 đến 2012 cho thấy, Tỉ lệ thiếu kẽm đang rất phổ biến ở các nước đang
phát triển đặc biệt là những nước thuộc nhóm có nền kinh tế - xã hội chậm phát
triển, 61% dân số các nước này có nguy cơ cao bị thiếu kẽm, gần 4,0% tỉ lệ tử
vong của trẻ em được xác nhận là do có liên quan đến tình trạng thiếu kẽm
[99]. Nghiên cứu của tác giả Hasan M.I; cũng cho thấy kết quả tương tự [78].
Ở Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển, chất lượng bữa ăn
kém, ăn nhiều ngũ cốc, thiếu thức ăn có nguồn gốc động vật là một trong
những nguyên nhân quan trọng gây thiếu kẽm cũng như các VCDD khác. Một
số nghiên cứu thuộc miền Núi phía Bắc cho thấy tỷ lệ trẻ thiếu kẽm khá cao
86,9% trẻ em (87,2% ở trẻ trai và 86,5% ở trẻ gái). Mặc dù các số liệu về tình
trạng kẽm huyết thanh và tỷ lệ thiếu kẽm trên quần thể có nguy cơ cao ở Việt
Nam còn hạn chế, nhưng tỷ lệ này là rất cao so với phân loại của IZNCG
(>20,0%) [91].
Số liệu điều tra trên toàn quốc về tình hình thiếu kẽm ở những nhóm
đối tượng nguy cơ cao như trẻ nhỏ và phụ nữ tuổi sinh đẻ là chưa đầy đủ

nhưng kết quả của một số nghiên cứu gần đây cho thấy tỉ lệ thiếu kẽm ở trẻ
dưới 5 tuổi là rất cao. Kết quả Điều tra về tình trạng dinh dưỡng tại 6 tỉnh ở
Việt Nam năm 2009 cho thấy tỷ lệ phụ nữ có thai bị thiếu kẽm là 90,0%; ở trẻ
em dưới 5 tuổi là 81,2% và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 65,0% [4].
Tỷ lệ thiếu kẽm chiếm tỉ lệ rất cao, ngay ở cả khu vực thành thị (49,7%),
cao nhất là khu vực miền núi (80,8%) qua cuộc điều tra quốc gia về VCDD
năm 2014-2015 do Viện Dinh dưỡng Quốc gia tổ chức thực hiện ở 3 khu vực
trên toàn quốc, bao gồm khu vực thành phố Hà Nội, thành phố Huế, thành


14

phố Hồ Chí Minh; khu vực nông thôn (Nam Định, Nghệ An, Bạc Liêu); khu
vực miền núi (Bắc Kạn, Quảng Ngãi, Kon Tum) cho thấy, tỉ lệ thiếu kẽm của
3 vùng tương ứng là: 49,7%; 71,6%; - 80,8% (trung bình chung là: 69,4%). Tỉ
lệ người dân sử dụng thực phẩm bổ sung kẽm và đa vi chất chung của 3 khu
vực là 7,7% và 4,3% [27], [47].
Kết quả nghiên cứu của Trần Thúy Nga và cộng sự về tình trạng thiếu
kẽm của trẻ dưới 5 tuổi tại 5 xã thuộc huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình trên 447
trẻ dưới 5 tuổi được lấy máu đo nồng độ kẽm huyết thanh. Tỉ lệ thiếu kẽm ở
trẻ dưới 5 tuổi là 85,0%. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ thiếu kẽm
ở trẻ dưới 24 tháng tuổi là: 91,8% và ở trẻ 24-59 tháng tuổi là 81,3%. Tỉ lệ
thiếu thiếu kẽm ở trẻ dưới 5 tuổi tại các xã nghiên cứu rất cao [27].
Trong nghiên cứu của Phan Bích Nga khi tìm hiểu tình trạng VCDD
của trẻ sơ sinh đủ tháng có cân nặng thấp đẻ tại Bệnh viện Phụ sản Trung
ương kết quả cho thấy: Tỷ lệ kẽm huyết thanh thấp chiếm 52,8% ở nhóm trẻ
SDD bào thai. Theo Nhóm tư vấn quốc tế về Kẽm khoảng 27,8% người dân
Việt Nam đang có nguy cơ thiếu kẽm [26].
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thanh Hà trên 6-36 tháng tuổi bị SDD
thấp còi tại huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, cũng cho thấy cho thấy, tỷ lệ

thiếu kẽm trên trẻ SDD thấp còi cũng ở mức nặng theo phân loại của WHO.
Tỷ lệ thiếu kẽm giảm theo nhóm tuổi, tỷ lệ cao nhất ở trẻ 6-24 tháng tuổi là
41,5% và thấp hơn ở nhóm trẻ 25-36 tháng tuổi là 38,2% [11].
Kết quả điều tra về tình trạng thiếu đa VCDD ở trẻ nhỏ tại các vùng
nông thôn Việt Nam của tác giả Nguyễn Văn Nhiên và cộng sự: tỷ lệ thiếu
kẽm, selenium, magnesium và đồng cao (86,9%; 62,3%; 51,9% và 1,7%). Tỉ
lệ trẻ thiếu đồng thời từ 2 VCDD trở lên chiếm tới 79,4%. Các tác giả cũng
tìm thấy mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa thiếu máu và thiếu


15

selenium, thiếu retinol huyết thanh. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy
thiếu đa vi chất dinh dưỡng ở trẻ nhỏ vẫn là vấn đề rất phổ biến ở Việt Nam.
Nghiên cứu cắt ngang mô tả nhằm đánh giá tình trạng SDD và tình
trạng thiếu VCDD của 220 trẻ SDD thấp còi, trên đối tượng trẻ 12-47 tháng
tuổi tại 2 xã miền núi thuộc huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang của Trương
Tuyết Mai, Nguyễn Thị Thúy Hồng cho thấy tỷ lệ trẻ SDD thấp còi thiếu
kẽm là 47,7%. Thiếu máu, thiếu sắt và thiếu kẽm là các yếu tố ảnh hưởng tới
tình trạng SDD thấp còi của trẻ 12-47 tháng tuổi [22].
Nghiên cứu của tác giả Lê Thị Thu Hà và cộng sự về thực trạng SDD
thấp còi và mối liên quan với thiếu máu và thiếu kẽm của trẻ 12-47 tháng tuổi
tại huyện Tam Đảo, Vĩnh Phúc năm 2014 cho thấy: Trẻ bị SDD thấp còi có tỉ
lệ thiếu kẽm rất cao 92,7%. Tình trạng thiếu kẽm ảnh hưởng rất lớn tới SDD
thấp còi của trẻ em tại huyện Tam Đảo, những trẻ SDD thấp còi có nguy cơ
thiếu kẽm gấp 26 lần so với trẻ không bị SDD. Tỉ lệ này cao như vậy có thể là
do chế độ ăn của trẻ không đa dạng thực phẩm, không ăn hoặc ít ăn các thực
phẩm giàu kẽm [10].
Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 586 trẻ, xác định tỷ lệ thiếu máu, thiếu
sắt, thiếu kẽm và vitamin A ở trẻ 12-72 tháng tuổi tại 19 tỉnh/thành của Việt

Nam của tác giả Phạm Vân Thúy cho thấy tỷ lệ trẻ bị thiếu kẽm là 51,9%
thuộc mức ý nghĩa sức khỏe cộng đồng nặng, và tỷ lệ thiếu kẽm ở nông thôn
cao hơn có ý nghĩa thống kê so với thành thị [38].
Nghiên cứu của tác giả Đặng Hoàng Cương khi đánh giá thực trạng
SDD và thiếu máu, thiếu kẽm, thiếu albumin, đặc điểm khẩu phần ở trẻ thấp
còi từ 25 đến 48 tháng tuổi tại 3 xã, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, năm
2016 cho thấy có 66,1% trẻ thấp còi bị thiếu kẽm trong đó tỷ lệ này là 62,5%
trẻ thấp còi nam và 69,2% trẻ thấp còi nữ. Tình trạng thiếu kẽm xảy ra ở
57,1% trẻ thấp còi trong độ tuổi 25-36 tháng và 75,9% trẻ thấp còi trong độ


16

tuổi 37-48 tháng. Có sự khác biệt giữa hai nhóm tuổi về tình trạng thiếu kẽm
với p<0,05 [6].
1.3. Các biện pháp phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng
Có ba phương pháp dự phòng thiếu VCDD:
- Đa dạng hóa chế độ ăn: là lựa chọn tối ưu và bền vững nhất nhưng
lại mất nhiều thời gian thực hiện nhất.
- Bổ sung vi chất dinh dưỡng có hiệu quả cải thiện nhanh tình trạng
VCDD cho các cá nhân và nhóm dân số mục tiêu.
- Tăng cường vi chất trong thực phẩm: Mang lại hiệu quả chậm hơn
nhưng có tác động rộng rãi và bền vững hơn.
1.3.1. Đa dạng hóa chế độ ăn
Tăng tính đa dạng cho chế độ ăn là tăng cả số lượng và phạm vi các
thức ăn giàu VCDD. Tăng tính đa dạng cho chế độ ăn giúp cải thiện tình trạng
dinh dưỡng một cách khả quan vì nó cho phép cơ thể tiêu thụ đồng thời nhiều
thành phần dinh dưỡng và nhiều loại vi chất. Tuy nhiên, phương pháp này còn
tồn tại những hạn chế, một trong những hạn chế chính là cần thay đổi thói
quen và cần giáo dục cho người dân thấy mỗi loại thức ăn cung cấp các vi

chất và các chất dinh dưỡng đặc thù ra sao.
Ở Việt Nam, khoảng 40% phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ thiếu VCDD, đặc
biêt là thiếu máu do thiếu sắt, điều này gây ảnh hưởng nặng nề tới sức khỏe
của chính họ và cả những đứa con mà mà họ sinh ra. Giải pháp cải thiện tình
trạng thiếu VCDD dựa vào chế độ ăn đa dạng thực phẩm là giải pháp cơ bản,
dài hạn và bền vững nhất [1],[4],[26].
1.3.2. Bổ sung vi chất dinh dưỡng
Bổ sung VCDD bằng đường uống là việc cung cấp những liều tương
đối lớn các vi chất dinh dưỡng, thường là dưới hình thức thuốc, viên nang
hoặc siro. Ưu điểm của phương pháp này là cung cấp lượng tối ưu một hoặc


17

nhiều chất dưới hình thức rất dễ hấp thụ và thường là cách nhanh nhất để
kiểm soát thiếu hụt vi chất đối với người dân hay nhóm người dân được xác
định là đang thiếu [63],[66],[71].
Chương trình bổ sung VCDD đã được áp dụng rộng rãi để cung cấp
chất sắt và acid folic cho phụ nữ mang thai, phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ. Trẻ em
lứa tuổi học đường, nữ vị thành niên và phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ 15-49 tuổi
cũng là đối tượng của chương trình can thiệp VCDD. Chương trình bổ sung vi
chất yêu cầu phải sản xuất và nhập khẩu các sản phẩm dạng đóng gói tương
đối đắt tiền cũng như yêu cầu tuân thủ nghiêm ngặt về liều lượng và cách sử
dụng, nhất là khi áp dụng lâu dài [26],[72],[76],[86].
1.3.3. Tăng cường vi chất trong thực phẩm
Theo định nghĩa của WHO/FAO: tăng cường VCDD vào thực phẩm
thực tế là tăng cường lượng các VCDD vào thực phẩm nhằm cải thiện chất
lượng dinh dưỡng của thực phẩm, cải thiện sức khỏe cộng đồng với việc giảm
tối đa sự ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe cộng đồng.
Về cơ bản, chiến lược này có thể mang lại những cải tiến nhanh chóng

về tình trạng vi chất dinh dưỡng cho người dân, với chi phí rất hợp lý, đặc biệt
là nếu tận dụng được công nghệ hiện có và mạng lưới phân phối địa phương.
Tuy nhiên, mỗi cá nhân phải tiêu thụ một lượng thực phẩm tăng cường đầy
đủ. Do vậy, cần hỗ trợ người dân dễ tiếp cận và sử dụng với những loại thực
phẩm này. Tăng cường vi chất vào thực phẩm không được làm thay đổi thuộc
tính: mùi vị, cảm quan của thực phẩm đó [73],[74],[77].
1.3.3.1. Các yêu cầu đối với thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng
a) Đối với vi chất dinh dưỡng bổ sung
Theo qui định của pháp luật, VCDD bổ sung vào thực phẩm phải đảm
bảo các điều kiện sau [37]:


18

- Nguồn VCDD bổ sung vào thực phẩm phải đảm bảo chất lượng và vệ
sinh an toàn thực phẩm.
- Không gây ảnh hưởng đến tính chất của thực phẩm (màu sắc, mùi vị,
cấu trúc, đặc điểm chế biến).
- Không làm giảm thời hạn sử dụng của thực phẩm.
- Hàm lượng, dạng và độ tinh khiết của VCDD được qui định đối với
từng loại thực phẩm tăng cường VCDD khác nhau.
b) Đối với thực phẩm tăng cường VCDD [37].
- Thực phẩm phải có khả năng tiếp cận đến quần thể dân cư can thiệp
(giá cả, tính tiện dụng, khả năng phân phối, vận chuyển sản phẩm).
- Việc thiết lập qui trình sản xuất phải phù hợp để đảm bảo chi phí sản
xuất hợp lý.
- Sản phẩm phải có chất lượng dinh dưỡng (thành phần, hàm lượng các
VCDD) đáp ứng theo qui định, chất lượng cảm quan chấp nhận được đối với
các đối tượng tiêu thụ, phải đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Sự hợp pháp về nhãn mác sản phẩm, nhu cầu về dinh dưỡng và sức

khỏe đặt ra đối với sức khỏe cộng đồng.
Về tác động sinh học đối với thực phẩm bổ sung phụ thuộc vào:
- Hàm lượng các VCDD trong khẩu phần ăn
- Khả năng sinh học và sự chuyển hóa sinh học của các VCDD.
- Tầm quan trọng của các chất dinh dưỡng bù đắp
Ý nghĩa sức khỏe cộng đồng của thực phẩm tăng cường bao gồm
- Giúp cho nhóm dân cư có nguy cơ cải thiện được giá trị sinh học của
các vi chất bổ sung thông qua thực phẩm tăng cường.
- Có hàm lượng các VCDD dưới ngưỡng mà khi tiêu thụ một lượng
thực phẩm tăng cường quá lớn gây quá liều.


19

1.3.3.2. Những hình thức tăng cường vi chất vào thực phẩm:
Chương trình tăng cường thực phẩm mang đến những lợi ích rõ ràng
đến nền y tế cộng đồng [1]. Chương trình cần ưu tiên loại VCDD phổ biến bị
thiếu hụt nhất trong số đông dân số, và sự thiếu hụt vi chất này gây ra những
ảnh hưởng bất lợi nhất cho sức khỏe con người [75],[79],[87].
a) Các hình thức tăng cường thực phẩm chính
Có 3 hình thức tăng cường thực phẩm chính:
- Tăng cường loại thực phẩm được sử dụng rộng rãi bởi dân số rộng
khắp (tăng cường đại trà - Mass fortification).
- Tăng cường thực phẩm cho một nhóm người như dành cho trẻ nhỏ
hoặc dân di cư (tăng cường có chủ đích -Targeted fortification).
- Tăng cường loại thực phẩm được sản xuất để bán ra thị trường (tăng
cường theo định hướng thị trường - Market-driven fortification).
- Tăng cường đại trà (Mass fortification):
Tăng cường đại trà là bổ sung thêm một hoặc nhiều VCDD vào loại
thực phẩm được tiêu thụ rộng rãi trên toàn cầu như ngũ cốc, bột mỳ, gia vị và

sữa. Hình thức này thường do nhà nước chỉ định, ủy thác và quy định. Tăng
cường đại trà nói chung là lựa chọn tốt nhất khi phần lớn dân số có nguy cơ bị
thiếu hụt một VCDD cụ thể. Ở Việt Nam, trước đây Bộ Y tế đã ban hành văn
bản quy định các tiêu chuẩn kỹ thuật về bổ sung vi chất vào thực phẩm
(Quyết định số 6289/2003/QĐ-BYT ngày 9/12/2003), đưa ra những hướng
dẫn cụ thể về hàm lượng các VCDD được phép bổ sung trong bột mỳ, dầu ăn.
Đến đầu năm 2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 09/2016/NĐCP về quy định tăng cường VCDD vào thực phẩm. Nghị định có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 15/3/2016. Nghị định này quy định về VCDD bắt buộc tăng
cường vào thực phẩm, thực phẩm bắt buộc tăng cường VCDD và trách nhiệm
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tăng cường VCDD vào thực


×