Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Một số quan điểm về giáo dục đồng cảm cho trẻ mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.67 MB, 4 trang )

VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 124-127

MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ GIÁO DỤC ĐỒNG CẢM CHO TRẺ MẦM NON
Nguyễn Thị Minh Trang - Trường Đại học Bạc Liêu
Ngày nhận bài: 06/4/2019; ngày chỉnh sửa: 12/5/2019; ngày duyệt đăng: 25/5/2019.
Abtract: Empathy education for preschool children contributes to laying the foundation about
affection, about understanding, knowing how to put oneself in the position of others, thereby
helping children to sympathize, share difficulties with people around them with real action.
Therefore, this is the most appropriate stage of empathy education, contributing to comprehensive
development of personality for children. The article mentions some views on “empathetic
education” for preschool children of domestic and foreign researchers, which is a basis for
confirming the important role of empathy education for children from early childhood.
Keywords: View, empathy education, preschool children.
1. Mở đầu
“Đồng cảm” là khả năng hiểu hoặc cảm nhận được
cảm xúc, cảm nghĩ, tình cảm của người khác ở một thời
điểm nhất định qua cách nhìn của họ, nghĩa là khả năng
đặt bản thân vào vị trí của người khác để cảm nhận được
điều đang diễn ra ở những người xung quanh, từ đó có
những hành động phù hợp thể hiện sự cảm thông đối với
những người đó. Đồng cảm là yếu tố rất cần thiết trong
một xã hội văn minh, trong đó mọi người phải biết quan
tâm đến nhau, mong muốn được chia sẻ với những cảnh
ngộ bất hạnh, là sự tinh tế của con người trong việc cảm
nhận bản thân mình và thế giới xung quanh để có thể
sống hòa nhập cùng môi trường thiên nhiên và xã hội.
Trẻ từ 0-6 tuổi là giai đoạn phát triển có tính quyết định
để tạo nên thể lực, nhân cách, năng lực phát triển trí tuệ
trong tương lai. Trẻ em lứa tuổi mầm non, tình cảm thống


trị tất cả các mặt trong hoạt động tâm lí của trẻ, giáo dục
đồng cảm (GDĐC) cho trẻ em là một điều kiện quan
trọng góp phần thực hiện và phát triển hành vi tốt cho trẻ.
GDĐC cho trẻ có thể góp phần đặt nền tảng về tình cảm,
về sự thấu hiểu, biết đặt mình vào vị trí của người khác
để từ đó giúp trẻ dễ cảm thông, biết chia sẻ những khó
khăn với mọi người xung quanh bằng hành động thực tế.
Do vậy, đây là giai đoạn GDĐC thích hợp nhất góp phần
phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập và phát triển, nhịp
sống quá bộn bề, bon chen... làm cho con người chai sạn
về cảm xúc, ít quan tâm đến nỗi đau, nỗi bất hạnh của
người khác... vì thế, GDĐC cho thế hệ trẻ ngày nay nói
chung và trẻ mầm non nói riêng cần được quan tâm hơn
nữa. Bài viết phân tích một số quan điểm về “GDĐC”
cho trẻ mầm non của các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước, là cơ sở để khẳng định vai trò quan trọng của
GDĐC cho trẻ ngay từ tuổi nhỏ.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái niệm về đồng cảm

“Đồng cảm” từ lâu đã là một khái niệm được quan
tâm của ngành tâm lí học và các chuyên ngành khác.
Nguồn gốc của từ “đồng cảm” là từ “Einfühlung” của
tiếng Đức, có nghĩa là “cảm giác thành” do Robert
Vischer (1873) khi ông nghiên cứu ở lĩnh vực thẩm mĩ.
Theo ông, “Einfühlung” là để mô tả kinh nghiệm của một
cá nhân với nghệ thuật, chẳng hạn như cảm giác “tuyệt
vời” khi ngắm một bức tranh đẹp hay nghe một giai điệu
âm nhạc [1; tr 101].

Cuối thế kỉ IXX, nguồn gốc của “đồng cảm” do
Thoedore Lipps một triết gia người Đức, ông đã chấp
nhận quan điểm của Robert Vischer về sự đồng cảm hay
cảm xúc thẩm mĩ (Einfühlung, nghĩa đen là cảm giác) và
đặt tên cho “Einfühlung” nghĩa là thấy từ bên trong (in feeling). Lipps sử dụng “Einfühlung” trong lĩnh vực triết
học để mô tả mối quan hệ giữa các cá nhân với môi
trường xung quanh.
Edward Titchener, một nhà tâm lí học Mĩ gốc Anh đã
rất thích thuật ngữ “Einfülung” và khi được bổ nhiệm làm
giáo sư tâm lí học tại Đại học Cornell, New York, ông đã
cố gắng giới thiệu thuật ngữ “Einfülung” tới Mĩ nhưng
người Mĩ đã không dùng đến thuật ngữ phức tạp của người
Đức [2]. Vì vậy, năm 1909 ông là người đầu tiên chuyển
từ bản dịch của tiếng Đức “Einfühlung” sang tiếng Anh
“Empathy”. Đồng cảm được Titchener đề cập trong lĩnh
vực thẩm mĩ, thực nghiệm xúc cảm và mối liên hệ của cảm
xúc và thẩm mĩ. Titchener được coi là người đầu tiên đề
cập đồng cảm bằng tiếng Anh “Empathy” từ bản dịch của
tiếng Đức “Einfühlung”, có nghĩa là hiểu được cảm xúc
của người khác “Đồng cảm là đặt mình vào vị trí của
người khác để thực sự hiểu người đó đang nghĩ gì và trải
qua điều gì đó” [1; tr 100]. Trong những giai đoạn đầu
xuất hiện, “đồng cảm” vẫn chưa được chú ý nghiên cứu
sâu về bản chất, đặc điểm, cơ chế của nó. Tuy nhiên, trải
qua thời gian dài, những nghiên cứu về đồng cảm được
nhiều nhà tâm lí học quan tâm.

124

Email:



VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 124-127

Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Đồng cảm là cùng
có chung một mối cảm xúc, cảm nghĩ” [3; tr 423]. Nói
cách khác, giữa thông cảm, lây lan cảm xúc với đồng cảm
không có ranh giới rõ ràng. Như vậy, tính xúc cảm trong
đồng cảm được đề cao, lấn át cả vai trò của nhận thức và
đây là xu hướng chung khi khái niệm đồng cảm được sử
dụng trong mối quan hệ cá nhân. Trong giao tiếp, đồng
cảm là một yếu tố quan trọng giúp cho quá trình giao tiếp
thành công và có hiệu quả cao, đồng thời, giúp cho các
mối quan hệ ngày càng phát triển. Có thể cách diễn đạt
là khác nhau nhưng tựu chung vẫn là khả năng biết xác
định vị trí trong giao tiếp, biết đặt vị trí của mình vào vị
trí của đối tượng để có thể vui, buồn với niềm vui, nỗi
buồn của họ.
Các tác giả như: Greenson (1960), Stoland (1969),
Mehrabian & Epstein (1972), Hoffman (1987), Batson
(1991), Gillett (1993) cho rằng đồng cảm được hiểu là
một quá trình cảm xúc, cụ thể là “Sự chia sẻ cảm xúc”
của chủ thể đối với khách thể. Cơ sở của nó là lây lan
cảm xúc (emotional contagion) hay bắt chước cảm xúc
của người khác.
Nghiên cứu tâm lí học xã hội cũng cho thấy, trạng
thái cảm xúc của con người là đặc điểm của đồng cảm.
Davis và các cộng sự (1987) đã nghiên cứu và chứng

minh rằng, khi con người ở một tâm trạng hạnh phúc có
xu hướng từ thiện nhiều hơn, yêu thương, đồng cảm
nhiều hơn và tích cực hơn trong việc trong việc giúp đỡ
những người khác. Trạng thái cảm xúc của con người
cũng là một đặc tính của đồng cảm. Đây là mặt phát triển
quan trọng của đồng cảm.
2.2. Một số quan điểm về giáo dục đồng cảm cho trẻ
mầm non
GDĐC cho trẻ em được các nhà nghiên cứu đề cập
với nhiều quan điểm khác nhau. Vậy các quan điểm về
đồng cảm và GDĐC cho trẻ như thế nào?
2.2.1. Sự đồng cảm ở trẻ
Đến cuối thế kỉ XX, nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lí
học phát triển đã bắt đầu tập trung vào việc trẻ sơ sinh và
trẻ mầm non có sự đồng cảm hay không? Đồng cảm có
ở trẻ bắt đầu khi nào? Có cần phải GDĐC cho trẻ hay
không? GDĐC vào thời điểm nào lứa tuổi nào và giáo
dục ra sao?
Các nghiên cứu đã chỉ ra, đồng cảm xuất hiện từ tuổi
sơ sinh. Theo Hoffman, M.L. (1976), Zahn-Wexler et al
(1990) cho rằng, trẻ sơ sinh có cũng có dấu hiệu đồng
cảm khi chúng nghe tiếng khóc của những trẻ sơ sinh
khác. Những trẻ phát triển bình thường bắt đầu có mối
quan tâm đồng cảm đến các thành viên trong gia đình từ
12-24 tháng tuổi [4; tr 128], [2; tr 119]. Hay dựa trên các
nghiên cứu cổ điển của Simper (1971) và các nghiên cứu

của Hoffman (1976), đồng cảm nổi lên trong giai đoạn
sớm, và có thể được quan sát thấy trong phản ứng khóc
của trẻ sơ sinh. Trong các nghiên cứu này, trẻ sơ sinh dù

chỉ mới sinh một ngày tuổi, nhưng nếu được tiếp xúc với
âm thanh tiếng khóc của những trẻ sơ sinh khác trẻ cũng
dễ khóc hơn [4; tr 132]. Đây là một bằng chứng cho sự
hiện diện của phản ứng bẩm sinh đồng cảm. BischofKöhler, D. (1989) cho rằng ở giai đoạn này, trẻ đã có
đồng cảm được thể hiện thông qua một phản ứng khóc
tự động, nó gần như hoàn toàn sinh học và có thể phục
vụ một mục đích phát triển [5; tr 14].
Wispé (1987) đã dựa vào nghiên cứu của Lipps khi
nghiên cứu tâm lí học lí thuyết cũng cho rằng đồng cảm
là mang tính bản năng. Bản năng con người khi mới sinh
ra đã có sự đồng cảm trong cảm xúc, những cảm xúc này
được nuôi dưỡng và giáo dục tốt sẽ phát triển mạnh mẽ
và sâu sắc hơn trong những giai đoạn lứa tuổi tiếp theo
[6; tr 21].
Zahn-Waxler at al (1990) trong nghiên cứu về sự phát
triển ở trẻ em đã sử dụng phương pháp quan sát sự quan
tâm của trẻ đến với người thân cha mẹ hoặc người nuôi
dưỡng trẻ khi họ gặp chuyện buồn hay căng thẳng. Họ
phát hiện ra rằng, trẻ em sớm nhất là 2 tuổi đã có dấu hiệu
của sự đồng cảm, biểu hiện là trẻ biết giúp đỡ, chia sẻ,
thể hiện những cử chỉ hành vi như ôm, hôn hoặc vỗ
lưng... và mức độ thể hiện sự đồng cảm tùy thuộc vào đối
tượng mà trẻ tiếp xúc (cha mẹ, ông bà hay người chăm
sóc chúng) [2; tr 115].
Như vậy, quan điểm của các nhà nghiên cứu cho thấy
biểu hiện đồng cảm của trẻ đã có khi trẻ mới sinh, đồng
cảm sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân
cách của trẻ sau này. Trong giai đoạn trẻ còn nhỏ, vai trò
của người lớn nhất là những người gần gũi chăm sóc cho
trẻ có ảnh hưởng rất lớn đối với biểu hiện và phát triển

đồng cảm của trẻ. Do đó, người lớn cần phải gần gũi, yêu
thương, chăm sóc và giáo dục trẻ, để giúp sự đồng cảm
của trẻ phát triển tốt hơn.
2.2.2. Một số quan điểm về giáo dục đồng cảm cho trẻ
mầm non
Theo các nghiên cứu trên thì đồng cảm đã có ở trẻ từ
sơ sinh và phát triển dần theo độ tuổi. Vậy, để GDĐC
cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non, các nhà nghiên cứu thể
hiện quan điểm như thế nào?
Trẻ em bẩm sinh có thể kết nối tình cảm với người
khác và trong quá trình phát triển trẻ có khả năng học tập,
lĩnh hội kinh nghiệm, sự giáo dục của người lớn. Theo
Ann Stone (2015) [7], GDĐC cho trẻ là đa diện bởi vì nó
liên quan đến nhiều khía cạnh phát triển của con người,
bao gồm cả thần kinh, xúc cảm, nhận thức và xã hội.
Ngôn ngữ chính là phương tiện để người lớn giao lưu

125


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 124-127

chia sẻ và giáo dục cho trẻ về đạo đức, hành vi xã hội và
trong đó có sự đồng cảm. Vì thế, GDĐC cho trẻ có thể
bằng con đường giao tiếp, bằng những hành động đẹp…
của những người thân trong gia đình và mọi người xung
quanh trẻ.
Erin Browne (2010) [8] cho rằng, đồng cảm và sự

phát triển đồng cảm rất quan trọng đối với trẻ, giúp cảm
nhận và hiểu người khác, giúp cho hành vi của trẻ mang
tính đạo đức và ý thức xã hội. Trong nghiên cứu, tác giả
chỉ ra sự đồng cảm của trẻ có mối quan hệ lớn với cha
mẹ và người chăm sóc trẻ. Trẻ em học tập, tiếp nhận hành
vi, cảm xúc và hành động từ “mẫu” của người lớn, những
bài học về đồng cảm qua sự tiếp xúc và giao tiếp của trẻ
với cha mẹ, người chăm sóc có nghĩa rất lớn giúp cho
đồng cảm và sự phát triển đồng cảm ở trẻ với người khác.
Tác giả cũng chỉ ra mối quan hệ đồng cảm giữa cha mẹ
và trẻ: phần lớn cha mẹ có sự đồng cảm cao thì con cũng
có tính đồng cảm cao, đứa trẻ bị ảnh hưởng bởi tính đồng
cảm của mẹ nhiều hơn cha. Đặc biệt, tác giả còn chỉ ra
trẻ có cha mẹ càng lớn tuổi thì có tính đồng cảm cao hơn
những trẻ có cha mẹ còn ít tuổi. Từ đó, tác giả khẳng định
người lớn trong gia đình có vai trò rất lớn trong việc
GDĐC cho trẻ nhỏ.
Chantal D. Hayes (2015) [9; tr 297] trong nghiên cứu
của mình đã khẳng định: đồng cảm là kĩ năng rất cần thiết
mà trẻ em cần phải học trong quá trình phát triển toàn diện,
góp phần vào sự thành công trong tương lai của trẻ. Để
GDĐC cho trẻ, cha mẹ cần dạy dỗ và uốn nắn trẻ thường
xuyên. Tác giả đưa ra 3 hướng dẫn đơn giản để cha mẹ
GDĐC cho trẻ trong hoạt động hàng ngày ở gia đình:
- Tạo nền tảng cho sự đồng cảm: bằng cách mỗi ngày
trước khi đến trường mẫu giáo nhắc nhở trẻ hãy vui vẻ,
yêu thương mọi người, chiều về hỏi trẻ có vui không và
làm được việc gì tốt, giúp đỡ được cho ai, có ai giúp đỡ
trẻ không..., sau đó khen ngợi hành vi tốt của trẻ và trò
chuyện nói về sự biết ơn của trẻ với người đã giúp đỡ

trẻ. Đây là một yếu tố ban đầu góp phần quan trọng trong
việc GDĐC cho trẻ và được hình, thành củng cố thường
xuyên hàng ngày.
- Xác định cảm xúc: Ban đầu có thể khó khăn đối với
trẻ nhưng phải tập cho trẻ nêu lên những cảm xúc cụ thể
của bản thân và có thể xác định cảm xúc của trẻ ở những
người khác. Giúp trẻ đặt tên cho cảm xúc của bản
thân. Khi trẻ thấy tức giận, người lớn có thể nói, “Có vẻ
như con đang cảm thấy tức giận à. Đôi khi chúng ta đều
có tức giận” hay nếu như trẻ lấy đồ chơi của người khác
chúng ta có thể nói “Bạn ấy đang buồn và khóc đấy” hay
“Có vẻ như bạn ấy đang buồn khi con lấy đồ chơi của
bạn ấy, con có thể làm gì để giúp bạn ấy cảm thấy tốt
hơn?”. Có thể sử dụng sách làm cơ hội để yêu cầu trẻ xác
định cảm xúc trong các nhân vật của câu truyện.

- Người lớn hãy là tấm gương cho trẻ: Theo tác giả,
người lớn là tấm gương GDĐC cho trẻ, vì trẻ luôn theo
dõi bạn và học cách cư xử theo hành động, cảm xúc, đồng
cảm của người lớn trong cuộc sống hàng ngày.
Đa phần các nhà nghiên cứu về GDĐC cho trẻ mầm
non đều cho rằng, GDĐC cho trẻ ngay lứa tuổi mầm non
là rất quan trọng góp phần hình thành nhân cách tốt cho
trẻ, bên cạnh đó họ cũng đề ra một số phương pháp cho
cha mẹ và những người xung quanh trẻ GDĐC cho trẻ
tốt hơn.
Ngày nay, với xu thế hội nhập thế giới và trong khu
vực, các nhà nghiên cứu tâm lí học - giáo dục học trẻ em
Việt nam đã quan tâm nhiều đến xúc cảm tình cảm và
giáo dục xúc cảm tình cảm ngay từ nhỏ, trong đó có

GDĐC. Mọi công trình nghiên cứu về GDĐC cho trẻ đều
bắt đầu lứa tuổi mầm non.
Đinh Thị Kim Thoa (2000) cho rằng “Đồng cảm một biện pháp quan trọng để giải quyết xung đột ở trẻ
mẫu giáo”. Tác giả đề cập một số quan niệm về sự đồng
cảm và hiểu biết xã hội; các giai đoạn phát triển đồng
cảm của con người; sự đồng cảm và sự nhập vai; đồng
cảm và xung đột. Tác giả khẳng định “xung đột xảy ra ở
mọi lúc, mọi nơi trong xã hội và trong cuộc sống tinh
thần, là yếu tố không tránh khỏi, đặc biệt là khi con người
tham gia vào hoạt động cùng nhau. Trẻ em rất khác nhau
trong hứng thú, hiểu biết và thói quen cho nên xung đột
rất dễ xảy ra. Tuy nhiên để giải quyết tốt các xung đột
chúng ta cần phát triển đồng cảm ở trẻ... Xung đột có thể
ít xảy ra hơn nếu trẻ biết chia sẻ những cảm xúc nhu cầu
với bạn, biết đặt mình vào vị trí người khác để có thể hiểu
tình cảm và suy nghĩ của người khác. Trẻ có khả năng
đồng cảm thì nhân cách càng năng động” [10; tr 25]. Vì
vậy, tác giả cho rằng, việc giúp các cô giáo mầm non hiểu
biết vai trò của xung đột, khả năng đồng cảm và mối quan
hệ giữa chúng là rất cần thiết trong việc giáo dục trẻ ở
trường mầm non hiện nay.
Theo Nguyễn Thụy Anh (2010) [11], đồng cảm là kĩ
năng quan trọng không kém những kĩ năng khác mà cha
mẹ cần phải dạy cho con của mình. Bởi vì, đồng cảm
chính là cái gốc của lòng nhân ái, tính nhân văn của trẻ
khi trưởng thành. Đứa trẻ, trước khi trưởng thành ra xã
hội rộng lớn, thì trong một bối cảnh nhỏ hơn là gia đình,
trẻ phải được học cách quan sát và nhận biết cảm xúc của
những người thân, cả cảm xúc tích cực lẫn tiêu cực. Điều
này giúp trẻ có những phản ứng hợp lí, đúng mực với

từng trường hợp - đó chính là sự đồng cảm. Tác giả đề
cập, khi chúng ta nói “dạy trẻ sự đồng cảm” có lẽ là chưa
chính xác, vì sự đồng cảm có mầm mống tự nhiên trong
tâm hồn trẻ thơ, là tiềm năng có sẵn của mỗi cá nhân.
Người lớn - thầy cô, bố mẹ - chỉ cần khơi gợi để giúp
năng lực ấy không bị thui chột, hơn thế nữa, được phát

126


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 124-127

triển đầy đủ và linh hoạt, hài hòa với xã hội mà đứa trẻ
đang tồn tại và lớn lên. Ở đây, tác giả nhấn mạnh “linh
hoạt” là khả năng đồng cảm của đứa trẻ phải được
hướng sao cho đúng chỗ và công bằng - có nghĩa giáo
dục trẻ đồng cảm với việc tốt, người tốt và có thái độ
ngược lại với người xấu. Có thể lấy ví dụ về những
“người xấu”, những nhân vật phản diện trong truyện bố
mẹ thường đọc cho trẻ (như người anh trong truyện Cây
khế…) khi bị trừng phạt có gợi hay không ở trẻ sự đồng
cảm - thương xót?
Khả năng đồng cảm ở trẻ nhỏ có được nhờ những
phẩm chất như: tố chất tinh tế, nhạy cảm; khả năng quan
sát chi tiết; khả năng tưởng tượng, đặt mình vào vị trí của
người khác và bằng tưởng tượng nhận được những trải
nghiệm mà người khác có thể phải trải qua; khả năng lưu
giữ những cảm nhận có được do trải nghiệm (nỗi đau thể

xác, nỗi đau tinh thần… mình từng phải chịu đựng hay
niềm vui sướng mà mình từng có); khả năng chia sẻ khó
khăn với người khác, cùng người khác giải quyết vấn đề;
khả năng cảm thấy hạnh phúc khi người khác có niềm
vui. Dựa vào những phẩm chất này, tác giả đưa ra 5 biện
pháp để GDĐC cho trẻ ngay từ lúc trẻ chưa biết nói như
sau: Các cách khơi gợi và trau dồi lòng đồng cảm với
người, vật xung quanh ở trẻ mẫu giáo; Bài tập quan sát;
Dạy trẻ cách thể hiện sự đồng cảm qua hành động; Luôn
tìm hiểu cảm nhận của trẻ sau hành vi chia sẻ với người
khác cảm xúc và các vấn đề của họ và hãy hướng cho trẻ
có được lòng trắc ẩn không vụ lợi; Dùng văn học đánh
thức và trau dồi sự đồng cảm.
Như vậy, đa phần các quan điểm về GDĐC cho trẻ
em mầm non đều nhấn mạnh rằng, đồng cảm là khả năng
sẵn có trong mỗi trẻ và khả năng này cần được bồi dưỡng,
rèn luyện trẻ để giúp trẻ biết cảm nhận và chia sẻ những
điều tốt đẹp trong cuộc sống, góp phần phát triển cách
toàn diện về nhân cách cho trẻ.
3. Kết luận
Đồng cảm là đặt mình vào vị trí của người khác để
thực sự hiểu người đó đang nghĩ gì và trải qua điều gì đó.
Đồng cảm xuất hiện sớm từ tuổi sơ sinh; trẻ em bẩm sinh
có thể kết nối tình cảm với người khác và trong quá trình
phát triển, trẻ có khả năng học tập, lĩnh hội kinh nghiệm
và sự giáo dục của người lớn. Vì vậy, cần có biện pháp
giáo dục trẻ ngay từ sơ sinh và các giai đoạn phát triển
tiếp theo. Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh, trong GDĐC,
vai trò của người lớn rất quan trọng; tình cảm, sự quan
tâm chăm sóc, lời nói, tấm gương của những người ông

bà, cha mẹ và các cô giáo lứa tuổi mầm non giúp trẻ cảm
nhận, thấu hiểu đồng cảm và có sự đồng cảm cao đối với
người khác ngay từ tuổi thơ. GDĐC góp phần quan trọng
hình thành và phát triển toàn diện về nhân cách của trẻ;
nhà giáo dục, phụ huynh, mọi người xung quanh trẻ cần

hiểu trẻ và có phương pháp GDĐC cho trẻ phù hợp ngay
từ lứa tuổi mầm non.
Tài liệu tham khảo
[1] David Depew (2015). Empathy, Psychology, and
Aesthetics: Reflections on a Repair Concept; An
Interdisciplinary Journal of Rhetorical Analysis and
Invention, University of Iowa, Vol. 4, DOI:
10.13008/2151-2957.1033, pp. 99-107.
[2] Zahn-Waxler, C., & Radke-Yarrow, M (1990). The
origin of empathic concern. Motivation and
Emotion, Vol. 14, No. 2, pp.107-130.
[3] Vĩnh Lộc (Chủ biên) - Bắc Đoan - Ngọc Hạnh Quỳnh Tâm (2000). Từ điển tiếng Việt. NXB Thanh
niên.
[4] Hoffman, M.L. (1976). Empathy, roletaking, guilt
and the development of altruistic motives. In T.
Lickona (Ed.). Moral development and behavior
(pp.124-143). New York: Holt, Rinehart &
Winston.
[5] Bischof-Köhler, D. (1989). Spiegelbild und
Empathie.
Die
Anfänge
der
sozialen

Kognition.Bern: Huber.
[6] Wispé, L. (1987). History of the concept of empathy.
In N. Eisenberg & J. Strayer (Eds.), Empathy and its
development (pp. 17-37). Cambridge: Cambridge
University Press,
[7] Sarah Ann Stone (2015) A Path to Empathy: Child
and Family Communication, Dissertations Brigham Young University - Provo.
[8] Erin Browne (2010). The Relationship between
Empathy in Children and their Parents. A Senior
Project submitted in partial fulfillment of the
requirements for the Bachelor of Science Degree in
Child Development, California Polytechnic State
University.
[9] Chantal D. Hayes (2015). The Importance of
Teaching Children Empathy. An Interdisciplinary
Journal of Rhetorical Analysis and Invention,
University of Iowa, Vol. 53, No. 3, pp. 285-306.
[10] Đinh Thị Kim Thoa (2000). Đồng cảm - một biện
pháp quan trọng để giải quyết xung đột ở trẻ mẫu
giáo. Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 9, tr 24-25.
[11] Nguyễn Thụy Anh (2010). Giáo dục đồng cảm cho trẻ
mầm non. Tạp chí Mẹ và Bé, số 1, tháng 7, tr 15-17.
[12] Carol Anne Wien (2006). Developmentally
Appropriate Practice in “Real Life”. Education,
York University, Toronto, Canada.
[13] Published in Slovakia as: Zákulisie a pôvod
empatie.Yehuda TagarVitalita magazine, Bratislava
Slovakia. Yehuda Tagar, April 2014, pp. 54‐55.

127




×