Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Sử học: Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An từ năm 1956 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.67 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nông trường quốc doanh bắt đầu ra đời từ năm 1955 và đã trải 
qua quá trình phát triển khá mạnh mẽ, nhất là trong thập kỷ 60 của thế 
kỷ  XX. Khi   đó, mô hình  nông trường  quốc doanh  được xem  là tấm 
gương, là “đầu tàu” dẫn dắt nền nông nghiệp miền Bắc tiến lên sản 
xuất lớn xã hội chủ  nghĩa (XHCN). Tuy nhiên, chỉ  sau khoảng hơn 20 
năm phát triển, mô hình nông trường quốc doanh đã bắt đầu bộc lộ dần  
những khuyết tật của nó. 
Các nông trường quốc doanh  ở  miền Tây Nghệ  An không nằm  
ngoài thực trạng chung đó. Từ năm 1956 đến năm 2015, các nông trường 
quốc doanh ở miền Tây Nghệ An đã trải qua các giai đoạn khác nhau và  
có những thành công, đóng góp quan trọng đối với sự nghiệp phát triển 
kinh tế ­ xã hội của địa phương.  Nhưng cũng như các nông trường quốc 
doanh trên cả  nước, chỉ  sau một  thời gian phát triển   đã dần bộc lộ 
những hạn chế, yếu kém và một số nông trường quốc doanh cũng phải 
giải thể. Những nông trường quốc doanh còn tồn tại đã phải thay đổi 
cách thức quản lý, sản xuất, kinh doanh   để  vừa thoát khỏi tình trạng  
khủng hoảng, vừa phù hợp với yêu cầu mới của tình hình thực tiễn.
1.2. Không  được quan tâm nhiều như  vấn  đề  Hợp tác xã nông 
nghiệp, từ trước đến nay, những nghiên cứu về nông trường quốc doanh 
chưa thực sự  thu hút được sự  quan tâm của các nhà nghiên cứu, kể  cả 
các nhà hoạch định và thực thi chính sách. Đối với những nghiên cứu về 
Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An giai đoạn 1956 ­ 2015 thì 
lại càng ít  ỏi. Vì vậy,  việc nghiên cứu về  nông trường quốc doanh  ở 
1


miền Tây Nghệ An giai đoạn 1956 ­ 2015 là rất cần thiết nhằm đánh giá  
đúng, khách quan, toàn diện về những thành tích, đóng góp của các nông 
trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An; đồng thời thấy rõ những hạn 


chế  yếu kém và tìm ra nguyên nhân. Trên cơ  sở  đó, rút ra được những 
bài học kinh nghiệm, góp phần cung cấp cơ sơ khoa học, thực tiễn cho  
các cơ quan Đảng, Nhà nước, hoạch định chủ  trương, chính sách và chỉ 
đạo thực hiện phát triển kinh tế  ­ xã hội trong giai đoạn hiện nay. Với  
những lý do trên, chúng tôi chọn đề  tài  “Nông trường quốc doanh  ở 
miền Tây Nghệ  An từ  năm 1956 đến năm 2015”  làm Luận án tiến sĩ 
chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nông trường quốc doanh  ở 
miền Tây Nghệ  An từ  năm 1956 đến năm 2015, trên các phương diện,  
như: quá trình hình hình thành, hoạt động sản xuất kinh doanh, phương  
thức quản lý và những đóng góp của các nông trường đối với sự  phát 
triển kinh tế, chính trị, quốc phòng an ninh  ở  địa phương; từ  đó rút ra 
một số  kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nói chung và 
cho các nhà quản lý kinh tế nói riêng.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
* Về không gian, miền Tây Nghệ An bao gồm các huyện miền núi: 
Kỳ  Sơn, Quế  Phong, Quỳ  Châu, Quỳ  Hợp, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Con 
Cuông, Thanh Chương, Anh Sơn và Thị xã Thái Hòa. Trong 10 huyện thị 
đó, các nông trường quốc doanh tập trung chủ  yếu  ở  2 huyện là Quỳ 
2


Hợp, Nghĩa Đàn. Vì vậy, chúng tôi chủ  yếu nghiên cứu nông trường 
quốc doanh  ở  2 huyện này. Tuy nhiên, trong luận án có so sánh với các 
nông trường quốc doanh ở Thanh Hóa.
*  Về  thời gian, luận án giới hạn nghiên cứu Nông trường quốc 
doanh  ở  miền Tây Nghệ An từ  năm 1956 đến năm 2015. Chúng tôi lấy 
mốc mở đầu quá trình nghiên cứu năm 1956 là năm các nông trường bắt 

đầu được thành lập. Còn năm 2015, là mốc năm kết thúc nghiên cứu đối 
với đề tài này vì năm 2015 các nông trường ở miền Tây Nghệ An chính 
thức thực hiện quá trình chuyển đổi sang giai đoạn cổ phần hóa.
 * Về nội dung, luận án tập trung nghiên cứu về những yếu tố tác  
động đến sự ra đời và phát triển các nông trường quốc doanh; Quá trình  
thành lập và hệ  thống tổ  chức của các nông trường quốc doanh; Hoạt  
động sản xuất, kinh doanh và phương thức quản lý của các nông trường 
qua hai giai đoạn 1956 ­ 1986 và giai đoạn 1986 ­ 2015; Bước đầu rút ra  
một số  nhận xét về  những đóng góp của các nông trường đối với sự 
phát triển kinh tế, chính trị, quốc phòng an ninh của địa phương và từ đó 
rút  ra một  số  kinh nghiệm  trong  lĩnh  vực sản xuất nông nghiệp  nói  
chung, cho các nhà quản lý kinh tế nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
  Luận án làm rõ quá trình hình thành, xây dựng, tổ  chức và hoạt 
động   của  Nông trường quốc doanh  ở  miền Tây Nghệ  An giai đoạn 
1956 ­ 2015. Từ đó khẳng định vai trò, đóng góp của Nông trường quốc 
doanh  ở  miền Tây Nghệ  An đối với chính trị, kinh tế, xã hội của tỉnh 
Nghệ  An; Mặt khác cũng chỉ  rõ những hạn chế, yếu kém và bài học  
3


kinh nghiệm của mô hình Nông trường quốc doanh  ở  miền Tây Nghệ 
An, một mô hình đã từng một thời được coi là mô hình kiểu mẫu của  
nền sản xuất nông nghiệp XHCN.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
 ­ Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận  án.
 ­ Phân tích những yếu tố tác động đến sự  ra đời và xây dựng các 
Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An.
­ Làm rõ quá trình ra đời và xây dựng các Nông trường quốc doanh 

ở  miền Tây Nghệ  An giai đoạn 1956 ­ 2015,  trên cả  các khía cạnh tổ 
chức, lực lượng lao động,  cơ sở vật chất, tư liệu sản xuất.
­ Trình bày hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, đời 
sống vật chất và văn hóa tinh thần của nông trường viên.
­ Bước đầu đưa ra một số nhận xét về vai trò, đóng góp của nông  
trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An đối với kinh tế, chính trị, quốc 
phòng an ninh ở địa bàn miền Tây Nghệ An; trên cơ sở đó rút ra một số 
kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nông trường quốc 
doanh.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 
4.1. Nguồn tài liệu
Để  hoàn thành luận án, chúng tôi dựa trên các nguồn tài liệu chủ 
yếu sau: 
­ Tài liệu gốc: Các Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ  về phát 
triển nông trường, các báo cáo của Cục nông trường, Bộ Nông trường, 
Bộ  Nông lâm, Bộ  Nông nghiệp, của các Công ty nông nghiệp, các tư 
4


liệu lưu trữ  được khai thác từ  trung tâm lưu trữ  của Tỉnh  ủy, UBND  
tỉnh Nghệ An, Sở Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Nghệ An, 
văn phòng các Nông trường ở miền Tây Nghệ An.
­ Tài liệu tham khảo : Các công trình nghiên cứu chuyên khảo của 
các tác giả có nội dung liên quan đến nông trường quốc doanh nói chung, 
nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An nói riêng. Bên cạnh đó là 
một số công trình nghiên cứu và bài viết được công bố trên các tạp chí: 
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, tạp chí Lịch sử  quân sự, tạp chí Khoa học 
của một số trường đại học…; các luận án, luận văn và một số  website 
có nội dung liên quan đến nông trường quốc doanh.
­ Tài liệu điền dã: Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi đã 

tiến hành điền dã, khảo sát thực tế  tại các nông trường quốc doanh  ở 
miền Tây Nghệ  An để  tập hợp thêm tư  liệu và tham quan các cơ  sở 
sản xuất, chế biến của nông trường.
Ngoài   ra,   tác   giả   luận   án   còn   tiến   hành   phỏng   vấn     các   nhân  
chứng đã từng làm việc trong các nông trường quốc doanh  ở miền Tây 
Nghệ An.
4.2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để  giải quyết các nhiệm vụ  khoa học đặt ra, chúng tôi dựa trên 
cơ  sở  chủ  nghĩa duy vật biện chứng và chủ  nghĩa duy vật lịch sử; tư 
tưởng Hồ  Chí Minh và quan điểm, chủ  trương của Đảng về  Đổi mới 
và phát triển kinh tế ­ xã hội
Hai phương pháp chủ  yếu được sử  dụng là phương pháp lịch sử 
và phương pháp logic. 
5


. Với phương pháp lịch sử, chúng tôi trình bày quá trình ra đời và  
xây dựng cũng như  thực tế  hoạt động của Nông trường quốc doanh  ở 
miền Tây Nghệ An một cách hệ thống theo trình tự thời gian liên tục từ 
năm 1956 đến năm 2015.
 Với phương pháp logic, chúng tôi kết nối, xâu chuỗi các vấn đề, 
các sự kiện, hiện tượng và các nội dung với nhau một cách hợp lý nhằm  
làm rõ những nội dung cần được làm sáng tỏ.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên  
ngành khác như khu vực học, kinh tế học, xã hội học, các phương pháp  
phân   tích,   thống   kê,   đối   chiếu,   so   sánh,   điều   tra   khảo   sát   thực   địa, 
phỏng vấn nhân chứng để làm rõ thêm nội dung của luận án.
5. Đóng góp mới của luận án
Một là,  Luận án là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên 
nghiên cứu tương   đối toàn diện, có hệ  thống về  Nông trường quốc 

doanh ở miền Tây Nghệ An giai đoạn 1956 ­ 2015.
Hai là, Luận án phục dựng lại bức tranh khá toàn diện, hệ  thống 
về  quá trình ra đời, xây dựng và quá trình chuyển đổi mô hình tổ  chức 
quản lý của các nông trường quốc doanh  ở  miền Tây Nghệ  An từ  năm 
1956 đến năm 2015.
Ba là,  Luận án làm rõ hoạt động sản xuất, kinh doanh; Nêu bật 
vai trò và những   đóng góp của  nông trường quốc doanh  ở  miền Tây 
Nghệ An giai đoạn 1956 ­ 2015 đối với kinh tế, xã hội, quốc phòng an 
ninh ở địa phương; Chỉ ra những bài học kinh nghiệm.
 Bốn là, Luận án cung cấp tài liệu tham khảo và cung cấp cơ  sở 
khoa học cho việc hoạch định chính sách cũng như  quá trình lãnh đạo, 
6


chỉ  đạo thực hiện phát triển kinh tế  ­ xã hội của tỉnh Nghệ  An nói 
chung, đối với khu vực ở miền Tây Nghệ An nói riêng; Đồng thời luận  
án là tài liệu tham khảo phục vụ  cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, 
học tập về lịch sử địa phương. 
6. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở  đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phần phụ 
lục, nội dung chính luận án được trình bày trong 4 chương:
Chương 1:  Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề  tài 
luận án
Chương 2: Nông trường quốc doanh  ở  miền Tây Nghệ  từ  năm 
1956 đến năm 1986
Chương 3: Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An từ năm 
1986 đến năm 2015
Chương 4: Một số  nhận xét về  nông trường quốc doanh  ở  miền  
Tây Nghệ An


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những nghiên cứu về Nông trường quốc doanh nói chung
Từ  trước đến nay, đã có những công trình nghiên cứu về  kinh tế 
đồn điền thời thuộc địa được công bố, như: Cuốn “Đồn điền của người  
Pháp  ở  Bắc Kỳ  1884 ­ 1918” xuất bản năm 1996 (NXB Thế  giới) của 
7


tác giả Tạ Thị Thúy; Cuốn “Đồn điền Thanh Hóa thời thuộc Pháp (1940  
– 1945)” (NXB Thanh Hóa, năm 2012) của nhóm tác giả Nguyễn Trọng 
Văn, Trần Vũ Tài, Nguyễn Thị  Hạnh. Bên cạnh các công trình nghiên 
cứu, bài viết, còn có các luận án đi sâu nghiên cứu về vấn đề này; Luận  
án Tiến sĩ  “Những chuyển biến trong kinh tế  nông nghiệp Bắc Trung  
Kỳ từ 1884 đến 1945” của tác giả Trần Vũ Tài (năm 2007)
Nghiên cứu về hệ thống Nông trường quốc doanh cũng đã thu hút 
được nhiều tác giả  quan tâm. Năm 1963, tác giả  Trần Hữu Dực xuất 
bản công trình “Ra sức xây dựng và củng cố nông trường quốc doanh”, 
NXB Sự Thật ­ Hà Nội. Tác giả Hòa Bình công bố công trình nghiên cứu 
“Công tác hạch toán trong nông trường quốc doanh”  (NXB Thống kê ­ 
năm 1985); Đáng chú ý là cuốn “Lịch sử  kinh tế  Việt Nam 1945­2000,  
tập II, 1955­1975”,  (NXB Khoa học xã hội ­   năm 2005)  của tác giả 
Đặng Phong; Tác giả  Phạm Thị  Vượng công bố  bài viết   “Lực lượng  
lao động nữ  trong các nông trường quốc doanh  ở  miền Bắc Việt Nam  
giai  đoạn 1955 ­1975”  trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử,  số  3 (479) 
2016; Luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế  viết về  nông trường quốc 
doanh của Phạm Quốc Doanh, trường Đại học kinh tế quốc dân với đề 
tài “Đổi mới nông trường quốc doanh trong giai đoạn hiện nay  ở  Việt  
Nam” (bảo vệ năm 1994).

Bên cạnh đó, viết về nông trường quốc doanh nói chung còn có 
một số công trình nghiên cứu của các tác giả người Liên Xô.
Tác giả  X.I Azeva ­ M.I Chikhômirôva viết “Tổ  chức sản xuất  
trong  nông trường  quốc doanh và nông trang tập thể”  ( NXB Nông 
8


Nghiệp Hà Nội 1981); Công trình “Quản lý nông trường quốc doanh” 
của   U.N   Nagimốp   (NXB   Nông   nghiệp,   năm   1958);   Năm   1985,   I.V  
Zagôrôđnhiucơ  và C.G Charetxki viết “21 tình huống tổ  chức lao động  
khoa học trong các nông trường và nông trang” ( NXB Nông nghiệp Hà 
Nội)
1.2. Những nghiên cứu về  Nông trường quốc doanh ở miền 
Tây Nghệ An
Cuốn  “Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, tập 2 (1954 ­ 1975)”,  của nhóm 
tác giả  Bùi Ngọc Tam, Hoàng Minh Truyền, Dương Văn Em, Ngô Đức 
Khánh (NXB Nghệ  An, năm 1999); Cuốn “Lịch sử  Đảng bộ  Nghệ  An,  
tập 3 (1975­2005)”, NXB Chính trị  Quốc gia, năm 2008; Năm 2014, tác 
giả   Đinh Quang Hải công bố  bài  viết  “Tìm  hiểu  nông trường  quốc  
doanh ở miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1955­1960” trên Tạp chí Nghiên 
cứu Lịch sử  số  10 (462); Cuốn “Lịch sử  Nông trường 1/5” được biên 
soạn bởi nhóm tác giả Lê Hồng Sơn, Nguyễn Duy Đại, Lê Phước Huẩn, 
Nguyễn Thê, Hoàng Chỉnh (NXB Nghệ  An năm 2012); Cuốn “ Lịch sử 
Nông   trường   3/2’’,   của    nhóm   tác   giả   Nguyễn   Đình  Dũng,   Nguyễn 
Phơng, Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Đình Thận, Hoàng Văn Chỉnh (NXB  
Nghệ An, năm 2013).
1.3. Kết quả nghiên cứu đạt được
 Các công trình chủ yếu nghiên cứu về kinh tế đồn điền của người 
Pháp, quá trình cướp đoạt ruộng đất của thực dân Pháp đối với nông dân  
để lập đồn điền ở cả ba kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ; những công 

trình nghiên cứu về  nông trường quốc doanh nói chung, tập trung tìm 
9


hiểu sự hình thành các nông trường quốc doanh; những công trình nghiên 
cứu có liên quan trực tiếp về nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ 
An chủ  yếu nghiên cứu về lịch sử  phát triển nông trường, làm rõ sự  ra 
đời, hình thành và phát triển của các nông trường ở miền Tây Nghệ An 
qua các giai đoạn.
CHƯƠNG 2
NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH Ở MIỀN TÂY NGHỆ AN
TỪ NĂM 1956 ĐẾN NĂM 1986
2.1. Những yếu tố  tác động đến sự  ra đời và phát triển của  
nông trường quốc doanh ở miền Tây nghệ An
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Đất đai màu mỡ, khí hậu thuận lợi, nguồn nước dồi dào, cây trồng 
phong phú, miền Tây Nghệ  An hội tụ  những điều kiện thuận lợi để 
phát triển một nền kinh tế toàn diện, đặc biệt là một ngành nông nghiệp  
đa dạng, nhất là trồng cây công nghiệp và chăn nuôi đại gia súc với quy  
mô lớn. Đó cũng chính là điều kiện cho các nông trường quốc doanh  ở 
miền Tây Nghệ An ra đời và phát triển.
2.1.2. Điều kiện kinh tế ­ xã hội
Về  cơ  bản, những đồn điền lớn do người Pháp thiết lập đều tập  
trung  ở  các huyện thuộc vùng trung du miền núi như: Nghĩa Đàn, Tân 
Kỳ, Quỳ  Châu, Đô Lương và Anh Sơn. Huyện Nghĩa Đàn có mức độ 
tập trung các đồn điền của người Pháp nhiều nhất vì nơi đây có diện 
tích đất đỏ  lớn nhất của tỉnh, thuận lợi phát triển chăn nuôi và kinh 
10



doanh cây công nghiệp. Điều đó thể hiện sự độc quyền của tư bản Pháp 
trong việc kinh doanh đồn điền.
Miền Tây Nghệ  An đã tiếp nhận các lực lượng lao động từ  các 
vùng miền khác nhau, như: Lực lượng bộ đội đội miền Nam tập kết ra  
Bắc để  xây dựng vùng kinh tế  mới xã hội chủ  nghĩa và lực lượng lao  
động  ở  các địa phương sau này thành các lực lượng chủ  đạo trong các 
nông trường.
2.1.3.Chủ   trương   xây   dựng   và   phát   triển   nông   trường   của  
Đảng
Trước thời kì đổi mới, Đảng đã xác định một cách cụ thể về vị trí, 
vai trò của hệ  thống nông trường quốc doanh trong các nghị  quyết Đại  
hội của Đảng, như: Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III  
của Đảng Lao Động Việt Nam (1960); Ngày 13/1/1961, Ban Bí thư ban 
hành Thông tư  số  14­TT/TW; Nghị  quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc  
lần thứ  IV của Đảng năm 1976; Nghị  quyết của Đại hội đại biểu toàn 
quốc lần thứ V (1982).
2.2. Quá trình ra đời và hệ thống tổ chức
2.2.1. Quá trình ra đời
Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An được hình thành từ 
ba nguồn: Quốc hữu hóa các đồn điền của thực dân Pháp, của tư  bản  
hoặc của địa chủ  phong kiến Việt Nam; Các Liên đoàn sản xuất nông 
nghiệp do cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc; Những nông trường 
quân đội được thành lập theo chủ  trương chuyển ngành hàng loạt bộ 
đội sang làm kinh tế.
11


2.2.2. Hệ thống tổ chức 
Cơ  cấu tổ  chức nông trường quốc doanh về  cơ  bản đều học tập  
theo mô hình của Liên Xô: đứng đầu là giám đốc, giúp việc cho giám  

đốc là các phó giám đốc và phòng ban; các nông trường chia thành các 
khu vực sản xuất, gồm các đội và tổ. Nhìn chung, cơ cấu tổ chức nông  
trường Liên Xô tinh giản hơn so với nông trường  ở  Việt Nam. Tuy cơ 
cấu tổ  chức của các nông trường trên phạm vi cả  nước nói chung,  ở 
miền Tây Nghệ  An nói riêng vào thời điểm đó còn cồng kềnh, có tính 
chất phân tán, chưa tập trung, nhưng phù hợp với hoàn cảnh đất nước  
đang có chiến tranh. 
2.3. Hoạt động của nông trường giai đoạn 1956 – 1975
2.3.1. Khai hoang, lao động sản xuất
Trong những năm 1956 ­ 1965, các nông trường quốc doanh ở miền  
Tây Nghệ  An xây dựng, phát triển và thực hiện các nhiệm vụ  chính trị 
do   Đảng   và  Nhà  nước   giao   trong   thời   bình.   Các  nông   trường   không  
ngừng khai hoang mở  rộng diện tích gieo trồng với các loại cây trồng 
như  cây công nghiệp lâu năm  như  cà phê, cao su, và các loại cây công 
nghiệp khác như thuốc lá, vừng, bông, lạc, cây lương thực  như lúa, ngô 
và  cây ăn quả  như cam, dứa, quýt. Nông trường quốc doanh không chỉ 
hình thành vùng chuyên canh về  cây trồng, mà còn trở  thành vùng tập  
trung chăn nuôi quy mô lớn. 
Giai đoạn 1965 ­ 1975, nông trường chuyển tất cả  các hoạt động 
từ thời bình sang thời chiến. Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ 
An là vị trí quan trọng thường xuyên bị đánh phá. Do vậy nhiệm vụ của  
12


các nông trường trong giai đoạn này là vừa sản xuất, vừa chiến đấu và 
sẵn sàng chiến đấu. Trong thời điểm này, các nông trường thực sự  trở 
thành nơi dự trữ sức người, sức của, thành những cơ  sở chiến đấu cho 
cả hai miền Nam ­ Bắc. Mặc dầu chiến tranh diễn ra ác liệt, nhưng các 
nông trường vẫn hoàn thành các nhiệm vụ  nhà nước đề  ra, nhiều nông  
trường vượt mức kế hoạch.

2.3.2. Tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu
Các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An không chỉ cung 
cấp vật lực, mà còn cung cấp nguồn nhân lực cho chiến trường, làm tròn 
nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam đánh Mỹ.
Ngoài ra, trong chiến đấu các nông trường luôn nêu cao tinh thần 
tự  giác đấu tranh.  Địa bàn các nông trường vừa trở  thành căn cứ  hậu 
phương của tỉnh Nghệ An, vừa trở thành các trận địa bắn máy bay, bảo 
vệ  giao thông vận tải, nơi sơ  tán của các cơ  sở  sản xuất công nghiệp 
trong tỉnh, điểm dừng chân của con đường vận tải chi viện cho miền  
Nam. Lực lượng phòng không bảo vệ  các địa phương không chỉ  có dân 
quân, mà còn có lực lượng bộ  đội tự  vệ. Các lực lượng này phối hợp  
chiến đấu tạo nên hệ thống phòng không nhân dân dày đặc, đánh địch ở 
mọi tầng cao và chiến đấu khắp mọi vùng.
2.3.3. Đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, công nhân  
nông trường 
 Bên cạnh hoạt động sản xuất, tham gia chiến đấu, phục vụ chiến 
đấu, các nông trường quốc doanh  ở  miền Tây Nghệ  An còn quan tâm  
đến đời sống   cán bộ, công nhân nông trường trên các phương diện,  
13


như: trình độ  văn hóa, vấn đề  sức khỏe, nhà  ở, văn nghệ, thể  dục thể 
thao, trong hoàn cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, việc 
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân lao động đã có chủ 
trương và biện pháp cụ thể, nhiều nghị quyết chuyên đề  của Ban chấp  
hành, nhưng trong thực tế  vẫn còn ít đơn vị  thực hiện được việc tổ 
chức làm ăn tập thể  để  giải phóng sức lao động, nhất là lao động nữ, 
nên sức sản xuất làm ra của cải rất thấp.
2.4. Hoạt động nông trường giai đoạn 1975 ­ 1986
2.4.1. Nông trường quốc doanh miền Tây Nghệ  An trước yêu  

cầu nhiệm vụ mới
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 
1975 đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ  quốc. Nhưng 
tình hình thực tế  Việt Nam gặp rất nhiều khó khắn: cơ  sở  vật chất bị 
tàn phá; bị bao vấy cấm vận; viện trợ các nước xã hội chủ  nghĩa giảm  
sút; thiên tai liên tiếp diễn ra; việc cung  ứng vật tư, tiền vốn cho các 
đơn vị  thuộc kinh tế  quốc doanh bị  cắt giảm; nhà nước cũng không có 
đủ  hàng để  trao đổi với nông dân để  thu mua nông sản theo giá kế 
hoạch. 
Trên cả nước, hệ thống nông trường quốc doanh cũng được đầu tư 
xây dựng rộng khắp.  Tuy nhiên, nhìn chung, kết quả  tổng thể  của các 
nông trường quốc doanh trong cả nước đưa lại chưa tương xứng với sự 
đầu tư to lớn của nhà nước
2.4.2. Nông trường quốc doanh miền Tây Nghệ  An khôi phục  
sản xuất sau chiến tranh
14


Trước hoàn cảnh khó khăn, các nông trường quốc doanh  ở  miền 
Tây Nghệ An đa thanh lí các v
̃
ườn cây già cỗi, thay thế bằng các vườn 
cây mới đảm bảo năng suất sản lượng  ổn định và kinh doanh có hiệu 
quả. Các loại cây như cà phê, cao su, cam vẫn là cây trồng chủ lực của  
cać   nông   trường.   Diện   tích   trồng   các   loại   cây   công   nghiệp   lâu   năm 
không giảm sút mà được mở rộng. Các loại cây công nghiệp ngắn ngày 
như mía, thuốc lào, đậu tương, vừng lạc… cũng được chú trọng.
Co thê noi trong nh
́ ̉ ́
ưng năm đâu tiên sau khi đât n

̃
̀
́ ước thông nhât,
́
́ 
cac nông tr
́
ương quôc doanh 
̀
́
ở  miên Tây Nghê An đa co nhiêu nô l
̀
̣
̃ ́
̀
̃ ực 
trong khăc phuc hâu qua chiên tranh. Tuy nhiên, môt sô han chê trong c
́
̣
̣
̉
́
̣ ́ ̣
́
ơ 
chê quan li đa xuât hiên va bôc lô ngay môt ro net. Điêu nay đ
́ ̉ ́ ̃ ́ ̣
̀ ̣
̣
̀

̣ ̃ ́
̀ ̀ ưa đên tinh
́ ̀  
trang khung hoang cua cac nông tr
̣
̉
̉
̉
́
ương 
̀ ở  miên Tây Nghê An va nh
̀
̣
̀ ưng
̃  
bươc đi đâu tiên nhăm thich 
́
̀
̀
́ ưng v
́
ơi c
́ ơ  chê quan li kinh tê m
́ ̉ ́
́ ới trên cả 
nươc. 
́
2.4.3. Khó khăn của các nông trường và những tín hiệu chuyển  
đổi mô hình quản lý
Tại cac nông tr

́
ương qu
̀
ốc doanh  ở  miên Tây Nghê An, măc du
̀
̣
̣
̀ 
được đanh gia la hoat đông kha quan h
́
́ ̀ ̣
̣
̉
ơn so vơi môt sô nông tr
́ ̣ ́
ường khać  
trên ca n
̉ ươc, song kho khăn cung ngay môt năng nê. T
́
́
̃
̀
̣ ̣
̀ ại các nông trường 
như  Nông trường Đông Hiếu, Nông trường Cờ  Đỏ, Nông trường 1/5 
trong giai đoạn này vườn cây lâu năm bị giảm sút cả về diện tích, năng 
suất và chất lượng sản phẩm; nhiều đàn gia súc bị chết; sản xuất không 
có hiệu quả. Lương thực khan hiêm, công nhân ăn mi hat, mi bôt, co
́
̀ ̣

̀ ̣
́ 
nhưng luc phai luôc săn phat cho công nhân. Trong sinh hoat, nha 
̃
́
̉
̣
́
́
̣
̀ở danh
̀  
cho công nhân vô cung kho khăn. 
̀
́
15


Thực trang khung hoang trong tât ca cac nganh kinh tê, c
̣
̉
̉
́ ̉ ́
̀
́ ơ chê quan
́
 
liêu ngôt ngat đa dân đên tinh trang “bung ra ngoai san xuât” trong cac
̣
̣

̃ ̃ ́ ̀
̣
̀ ̉
́
́ 
nganh
̀ . Đôi m
̉ ơi tr
́ ở thanh nhiêm vu câp bach cua cac nông tr
̀
̣
̣ ́ ́
̉
́
ương, đê giai
̀
̉ ̉ 
quyêt vân đê tôn tai hay không tôn tai.
́ ́ ̀ ̀ ̣
̀ ̣

CHƯƠNG 3
NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH Ở MIỀN TÂY NGHỆ AN
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2015
3.1. Yêu cầu chuyển đổi phương thức quản lý và hoạt động của 
nông trường quốc doanh miền Tây Nghệ An giai đoạn 1986 ­ 1997
3.1.1. Yêu cầu chuyển đổi phương thức quản lý
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ  VI (12/1986) là đại hội mở  đầu 
quá trình đổi mới toàn diện đất nước, trọng tâm và trước hết là đổi mới 
về kinh tế. Sau Đại hội nền kinh tế Việt Nam đã có sự  chuyển đổi về 

cơ  chế  quản lý, từ  cơ  chế  quản lý kế  hoạch hóa tập trung bao cấp đã  
từng bước chuyển sang cơ chế  kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà 
nước. Những thay đổi trên đây đã tác động đến tình hình sản xuất nông  
nghiệp nói chung, các nông trường quốc doanh nói riêng.
Việc   chuyển   đổi   các   nông  trường   quốc  doanh   trên   phạm   vi   cả 
nước nói chung,  ở  miền Tây Nghệ  An nói riêng trở  thành một vấn đề 
bức thiết, vừa phù hợp với nhu cầu thực tiễn, vừa khắc phục những 
hạn   chế   và   phát   huy   những   thế   mạnh   sẵn   có   của   nông   trường.   Sự 
16


chuyển đổi của các nông trường diễn ra trên các lĩnh vực: hệ  thống tổ 
chức, cách thức quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh.
3.1.2. Tổ chức bộ máy
Hệ  thống tổ  chức nông trường quốc doanh trong giai đoạn này so 
với hệ thống tổ chức nông trường quốc doanh thời kỳ bao cấp đã có sự 
chuyển biến. Bộ  máy quản lý gọn nhẹ, làm việc có hiệu quả. Các khu  
vực sản xuất nay đã được thay thế  bởi các đội sản xuất, để  ban lãnh  
đạo dễ  quản lý. Các phòng ban và bộ  phận lao động trực tiếp đã phối  
hợp công việc có hiệu quả hơn. Hệ thống tổ chức nông trường chuyển 
đổi  phù  hợp với cơ  chế  mới  của  nền kinh  tế  thị  trường.  Bên cạnh 
những  ưu điểm, hệ  thống tổ  chức của nông trường còn tồn tại những  
hạn chế  nhất định, như: chi phí gián tiếp còn lớn làm  ảnh hưởng đến 
giá thành sản phẩm, đã có sự  phân công nhiệm vụ  giữa các phòng ban, 
nhưng công việc nghiên cứu tìm kiếm thị  trường chưa được phân định 
rõ ràng. 
3.1.3. Phương thức quản lý “khoán”
Năm 1989, Nông trường Tây Hiếu 1 là nông trường tiên phong thực  
hiện phương án khoán trên vùng đất Phủ  Quỳ. Trong khi đó các nông  
trường còn lại như Nông trường 3/2, Nông trường 1/5, vẫn chưa có thay 

đổi trong việc sử dụng phương thức khoán.
Năm 1995, sau khi Chính phủ  ban hành Nghị  định 01/ CP, các nông  
trường đã áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo nhằm phù hợp với điều 
kiện kinh tế  của nông trường. Trong đó, Nông trường Tây Hiếu 1 được  
đánh giá là nông trường sớm áp dụng chính sách khoán. Nông trường 3/2 
mặc dù thực hiện  muộn hơn, nhưng trong quá trình sản xuất, nông trường  
17


đã vận dụng nhiều cách khoán khác nhau nhằm để ưu tiên cho người lao  
động.
3.1.4. Hoạt động sản xuất, kinh doanh
Thực hiện quyền tự  chủ  sản xuất kinh doanh, các nông trường  ở 
miền Tây Nghệ  An nói riêng đã chủ  động tính toán, rà soát lại phương  
hướng, nhiệm vụ  sản xuất kinh doanh. Nhờ  xác định đúng đắn và cụ 
thể hơn về cơ cấu cây, con, đi vào thâm canh, chuyên canh và kinh doanh 
tổng hợp “lấy ngắn nuôi dài”, gắn sản xuất với chế biến và thị trường  
tiêu thụ sản phẩm nên sản xuất hàng hóa của nhiều nông trường đã tăng 
lên khá rõ rệt, đảm bảo hoạt động tiệu thụ  với khách hàng, tăng doanh 
thu để chủ động vốn sản xuất kinh doanh.
Những chuyển biến và thành quả  các nông trường đã đạt được 
trong quá trình đổi mới có ý nghĩa kinh tế ­ chính trị  ­ xã hội hết sức to 
lớn. Tuy nhiên, trên thực tiễn vẫn còn những tồn tại, như: hiệu quả sử 
dụng đất đai ở các nông trường nhìn chung vẫn còn thấp; thiếu vốn, cơ 
cấu vốn không thích hợp, hiệu quả  sử  dụng vốn thấp; thiết bị và công 
nghệ chế biến lạc hậu.
3.2. Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An giai đoạn 1997 ­ 
2015
3.2.1. Chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước về  đổi mới  
nông trường

Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (từ 
ngày 13 đến ngày 22/8/2001) đã ban hành Nghị quyết về   “Tiếp tục sắp  
xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước”. 
18


Hội nghị  lần thứ  năm Ban chấp hành Trung  ương Đảng khóa IX (từ 
ngày 18/2 đến 2/3/2002) đã bàn và ra các Nghị  quyết, như: Nghị  quyết 
về “Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”;  
Nghị  quyết “Về  tiếp tục đổi mới cơ  chế, chính sách, khuyến khích và  
tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”
Những chủ  trương trên của Đảng tạo điều kiện thuận lợi cho các 
nông trường đổi mới và được Nhà nước cụ  thể  hóa thành các chính 
sách.
Ngày 4/3/1997, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 135/TTg  về 
việc xây dựng quy chế  hoạt động của Hội đồng quản trị  và Ban kiểm  
soát  ở  các Tổng công ty nhà nước và các Doanh nghiệp Nhà nước có  
thành lập Hội đồng quản trị. Ngày 19/6/2002, Chính phủ ban hành Nghị 
định về việc chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
Ngày 16/6/2003 Bộ  chính trị  ban hành Nghị  quyết về  sắp xếp, đổi  
mới   và   phát   triển   nông,   lâm   trường   quốc   doanh.   Nghị   định   số 
170/204/NĐ ­ CP ngày 22/9/2004 đã quy định rõ về các hình thức chuyển  
đổi các nông trường quốc doanh có hướng kinh doanh tốt và những  
nông trường quản lý yếu kém làm ăn thua lỗ. 
Đặc   biệt,   Nghị   định   135/2005/NĐ­CP,   ngày   08/11/2005  về   việc  
giao khoán đất nông nghiệp, đất rừng sản xuất và đất có mặt nước nuôi  
trồng thủy sản trong các nông lâm trường quốc doanh. 
Nghị  quyết số  30 ­ NQ/TW ngày 17/3/2014 của Bộ  Chính trị  về 
tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả  hoạt động  
của công ty nông, lâm nghiệp. 

3.2.2. Sự thay đổi hệ thống tổ chức
19


Năm 1997, các nông trường ở miền Tây Nghệ An bắt đầu chuyển 
đổi về mô hình để cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Các nông trường  
đã chuyển đổi qua hai giai đoạn: từ  Nông trường quốc doanh chuyển 
sang Công ty nhà nước, sau đó từ Công ty nhà nước chuyển sang Công ty 
trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Do thay đổi về  tổ  chức bộ  máy, 
nên chức năng và nhiệm vụ  của công ty cũng thay đổi theo. Nhiệm vụ 
của công ty không chỉ đơn thuần thực hiện hai chức năng như giai đoạn  
trước đây. Nay các công ty kinh doanh cà phê, cao su theo quy hoạch và 
kế hoạch của nhà nước.
3.2.3. Sự thay đổi mô hình quản lý
Sau khi chuyển đổi thành các công ty, phương thức quản lý của các 
nông trường đã có sự thay đổi. Công ty đã vận dụng linh hoạt chính sách 
khoán qua từng giai đoạn. Công tác quản lý, sử  dụng đất đai đi vào nề 
nếp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của hộ nhận khoán. Sau khi có hình 
thức giao khoán theo Nghị  định 135, các nông trường trực thuộc Công ty 
Đầu tư sản xuất cà phê ­ cao su đã chuyển đổi hình thức giao khoán. Công 
ty Nông công nghiệp 3/2 áp dụng Nghị định 135/CP (2005) muộn hơn so 
với Công ty Đầu tư sản xuất và xuất khẩu cà phê cao su Nghệ An, năm 
2008 công ty bắt đầu áp dụng. Công ty 3/2 không giao khoán toàn bộ đất 
cho người lao động như  Công ty sản xuất và xuất khẩu cà phê cao su  
Nghệ  An, mà vẫn giữ  lại đất để  tổ  chức sản xuất làm mô hình thử 
nghiệm và ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật. 
3.2.4. Hoạt động sản xuất, kinh doanh
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các nông trường quốc doanh ở 
miền Tây Nghệ  An có sự   thay đổi qua hai giai đoạn: giai đoạn 1997 ­ 
2010 và giai đoạn 2010 ­ 2015

20


Q uá trình chuyển từ nông trường quốc doanh sang Công ty TNHH 
MTV của các Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An đã đáp ứng 
một số yêu cầu của thực tiễn, song cũng còn nhiều vấn đề tiếp tục phải  
nghiên cứu giải quyết. Các nông trường sau khi sát nhập vào công ty đã  
có sự  phân  định nhiệm  vụ  rõ ràng;  nguồn vốn đầu tư  vào các nông 
trường phong phú hơn; trong phương thức sản xuất kinh doanh, công ty 
đã sử dụng linh hoạt các phương thức khoán, đầu tư yếu tố khoa học kỹ 
thuật, do đó hiệu quả  sản xuất kinh doanh của công ty cũng phát triển  
hơn về cả sản lượng, doanh thu. 
Có thể  nói rằng, trong giai đoạn hiện nay các công ty đã tiếp tục  
kế  thừa và phát huy những kinh nghiệm quản lý, kỹ  thuật canh tác, 
giống cây trồng từ  các nông trường quốc doanh thời Pháp  ở  khu vực 
Phủ Quỳ. Nhưng  hiệu quả sản xuất kinh doanh thực sự chưa cao; vấn  
đề thương hiệu của sản phẩm chưa có trên thị trường; công tác quản lý 
sản phẩm yếu kém; chất lượng sản phẩm thấp; quy mô sản xuất theo  
hướng nhỏ lẻ; lợi thế về tài nguyên đất chưa được khai thác hết. 
3.2.5. Đời sống của cán bộ, công nhân nông trường
Năm 1997, các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An gặp  
không ít khó khăn trong quá trình chuyển đổi hình thức quản lý,nhưng 
vẫn tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, công nhân viên phát triển kinh tế 
gia đình, làm nhà  ở, làm vườn, chăn nuôi, tham gia xây dựng các công 
trình phúc lợi xã hội.
Đời sống vật chất tinh thần của cán bộ, công nhân của các nông 
trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An trong giai đoạn này về cơ bản 
đã có bước phát triển hơn so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, đời sống 

21



của người lao động chưa được phát triển một cách toàn diện, đang còn 
những hạn chế nhất định. 
CHƯƠNG 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH Ở 
MIỀN TÂY NGHỆ AN
4.1. Về nguồn gốc ra đời
Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An được hình thành từ 
ba   nguồn   khác   nhau.   Đây   là   một   đặc   điểm   khác   biệt   của   các   nông  
trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An so với các nông trường ở một 
số  tỉnh phía Bắc. Điển hình là  ở  Thanh Hóa hầu hết các nông trường  
được hình thành chủ yếu từ cơ sở quốc hữu hóa các đồn điền của thực  
dân Pháp và một số  nông trường quân đội như: Nông trường Yên Mỹ, 
Nông trường Vân Du, Nông trường Phúc Do.
4.2.  Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh
 Các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An là những đơn vị 
sản xuất tương đối hoàn chỉnh, sản xuất ra nhiều sản phẩm khác nhau 
qua   các  giai   đoạn.  Đây  là   đặc   điểm   có  tính   khác  biệt   của   các   nông 
trường miền Tây Nghệ  An so với các nông trường  ở  Thanh Hóa. Giai  
đoạn trước thời kỳ đổi mới, Nông trường Thống nhất, nông trường Sao 
Vàng, nông trường Thạch Thành sản xuất cây công nghiệp ngắn ngày 
gồm mía, dứa, cây công nghiệp dài ngày chỉ có cao su. Từ năm 2000, thế 
mạnh của các nông trường ở Thanh Hóa chủ yếu sản xuất dứa và mía.
Các nông trường quốc doanh  ở  miền Tây Nghệ  An trong thời kỳ 
đổi mới đã đạt được những kết quả  nhất định trong lĩnh vực sản xuất  
kinh doanh. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động sản xuất kinh 
22



doanh của các nông trường ở miền Tây Nghệ An đang còn có những tồn  
tại nhất định: chưa quản lý chặt chẽ  việc khai hoang, trồng mới đến 
chăm sóc cây; một số  chủ  nhận khoán thực hiện quy trình chăm sóc  
vườn cây chưa nghiêm túc làm ảnh hưởng đến chất lượng và sản lượng  
vườn cây. 
4.3. Về  phương thức quản lý 
Thứ nhất, việc vận dụng phương thức khoán của các nông trường:  
Nông trường Tây Hiếu 1 được xem là nông trường tiên phong trong việc 
vận dụng chính sách khoán, là mô hình thực tiễn  ở  địa phương để  trung  
ương hoạch định chính sách khoán trên phạm vi cả nước. Nông trường đã 
vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương án khoán qua từng giai đoạn
Thứ  hai, về  quá trình chuyển đổi mô hình quản lý của các nông  
trường: Quá trình chuyển đổi các nông trường quốc doanh  ở  miền Tây 
Nghệ An từ năm 1956 đến năm 2015, đã đưa đến một bước đột phá lớn 
trong sự  phát triển các nông trường. Sự  chuyển đổi đó đáp  ứng được 
nhu cầu của một cơ  chế  quản lý mới mang tính chất năng động, sáng 
tạo và phù hợp với những chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước.  
Sự   chuyển   đổi   trải   qua  hai   giai   đoạn:   chuyển   từ   nông   trường   quốc  
doanh sang công ty nhà nước (1997 ­ 2010) và từ công ty nhà nước sang  
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (2010 ­ 2015). 
4.4.  Những đóng góp của các nông trường quốc doanh  ở miền Tây 
Nghệ An
Sự ra đời và phát triển của các nông trường ở miền Tây Nghệ An đã 
góp phần làm thay đổi diện mạo và thúc đẩy sự phát triển miền Tây Nghệ 
An trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng. 
Về kinh tế
23


Sau 30 năm kể từ ngày thành lập, đến năm 1987, các nông trường 

miền Tây Nghệ An đã biến nơi đây từ vùng rừng núi âm u, rậm rạp trở 
thành những vùng kinh tế mới có đủ điều kiện để phát triển nền kinh tế 
toàn diện. 
Về xã hội
Các nông trường ra đời góp phần thay đổi sự phân bố dân cư của các  
huyện miền Tây Nghệ An. Các nông trường ra đời là tiền đề quan trọng 
để nhà nước thực hiện chủ trương đưa đồng bào miền xuôi lên khai hoang  
miền núi. Từ một huyện miền núi đất rộng người thưa, miền Tây Nghệ 
An đã thu hút đông đảo các lực lượng lên tham gia lao động, sản xuất và  
định cư.
Về quốc phòng an ninh
Trước những năm 60 của thế  kỷ  XX, miền Tây Nghệ  An là vùng 
đất hoang vu, dân cư  thưa thớt, vấn đề  quốc phòng an ninh gặp nhiều 
khó khăn. Các nông trường quốc doanh ra đời góp phần ổn định tình hình 
chính trị, ngăn cản sự chống phá của các thế lực .
4.5. Một số kinh nghiệm
Quá trình ra đời và phát triển của các nông trường quốc doanh  ở 
miền Tây Nghệ An đã để lại một số kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất  
nông nghiệp nói chung, cho các nhà quản lý kinh tế  nói riêng, như:   các  
nông trường cần phải có cơ chế quản lý phù hợp; phải đầu tư  khoa học 
kỹ  thuật, cơ  sở  vật chất hạ  tầng và trình độ  chuyên môn tay nghề  của 
người lao động.
KẾT LUẬN

24


1. Việc thành lập các nông trường quốc doanh  ở  miền Tây Nghệ 
An xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ khôi phục, phát triển kinh tế sau  
khi chiến tranh kết thúc.  Sau ba năm xây dựng, đến năm 1960, với tinh 

thần tự  lực tự  cường, các nông trường ngày càng phát triển, diện tích 
được mở  rộng. Nhiệm vụ  giao nộp sản phẩm cho Nhà nước được các 
nông trường thực hiện đầy đủ. Cùng với sự  phát triển sản xuất, kinh  
doanh, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể  dục ­ thể  thao, y tế, giáo 
dục ở nông trường đạt được nhiều thành tích.
2. Sự  ra đời và phát triển các nông trường quốc doanh miền Tây  
Nghệ  An là bước thể  nghiệm thành công cho một mô hình và phương 
thức   sản   xuất,   kinh   doanh   mới   của   ngành   nông   nghiệp   miền   Bắc. 
Những thành tựu mà các nông trường quốc doanh miền Tây Nghệ  An 
đạt được về kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh quốc phòng đã đánh dấu 
sự phát triển của một mô hình sản xuất mới trong sản xuất nông nghiệp  
ở nước ta. 
3. Sự phát triển các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An 
từ năm 1956 đến năm 2015 trải qua hai giai đoạn khác nhau. Trong thời 
kỳ  kinh tế  bao cấp, các nông trường phải thực hiện tốt các nhiệm vụ 
nhà nước giao, vừa phải sản xuất, vừa chiến đấu. Trong nền kinh tế thị 
trường, các nông trường ở miền Tây Nghệ An đã có những chuyển biến 
nhất định về cơ cấu tổ chức, phương thức khoán và hoạt động sản xuất 
kinh doanh so với giai đoạn trước.
4. Quá trình chuyển đổi mô hình của các nông trường quốc doanh ở 
miền  Tây Nghệ  An diễn ra qua hai giai  đoạn: từ  nông trường  quốc 
doanh sang công ty Nhà nước, từ công ty Nhà nước sang công ty TNHH  
MTV, vừa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, vừa phù hợp với những chủ 
25


×