Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Nông trường quốc doanh ở miền tây nghệ an từ năm 1956 đến năm 2015 tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.34 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nông trường quốc doanh bắt đầu ra đời từ năm 1955 và đã trải
qua quá trình phát triển khá mạnh mẽ, nhất là trong thập kỷ 60 của thế kỷ
XX. Khi đó, mô hình nông trường quốc doanh được xem là tấm gương, là
“đầu tàu” dẫn dắt nền nông nghiệp miền Bắc tiến lên sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa (XHCN). Tuy nhiên, chỉ sau khoảng hơn 20 năm phát triển, mô
hình nông trường quốc doanh đã bắt đầu bộc lộ dần những khuyết tật của
nó.
Các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An không nằm ngoài
thực trạng chung đó. Từ năm 1956 đến năm 2015, các nông trường quốc
doanh ở miền Tây Nghệ An đã trải qua các giai đoạn khác nhau và có
những thành công, đóng góp quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương. Nhưng cũng như các nông trường quốc doanh
trên cả nước, chỉ sau một thời gian phát triển đã dần bộc lộ những hạn chế,
yếu kém và một số nông trường quốc doanh cũng phải giải thể. Những
nông trường quốc doanh còn tồn tại đã phải thay đổi cách thức quản lý, sản
xuất, kinh doanh để vừa thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, vừa phù hợp
với yêu cầu mới của tình hình thực tiễn.
1.2. Không được quan tâm nhiều như vấn đề Hợp tác xã nông
nghiệp, từ trước đến nay, những nghiên cứu về nông trường quốc doanh
chưa thực sự thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, kể cả các
nhà hoạch định và thực thi chính sách. Đối với những nghiên cứu về Nông
trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An giai đoạn 1956 - 2015 thì lại càng
ít ỏi. Vì vậy, việc nghiên cứu về nông trường quốc doanh ở miền Tây
Nghệ An giai đoạn 1956 - 2015 là rất cần thiết nhằm đánh giá đúng, khách
1


quan, toàn diện về những thành tích, đóng góp của các nông trường quốc
doanh ở miền Tây Nghệ An; đồng thời thấy rõ những hạn chế yếu kém và


tìm ra nguyên nhân. Trên cơ sở đó, rút ra được những bài học kinh nghiệm,
góp phần cung cấp cơ sơ khoa học, thực tiễn cho các cơ quan Đảng, Nhà
nước, hoạch định chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện phát triển
kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay. Với những lý do trên, chúng tôi
chọn đề tài “Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An từ năm 1956
đến năm 2015” làm Luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nông trường quốc doanh ở miền
Tây Nghệ An từ năm 1956 đến năm 2015, trên các phương diện, như: quá
trình hình hình thành, hoạt động sản xuất kinh doanh, phương thức quản lý
và những đóng góp của các nông trường đối với sự phát triển kinh tế,
chính trị, quốc phòng an ninh ở địa phương; từ đó rút ra một số kinh
nghiệm trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nói chung và cho các nhà
quản lý kinh tế nói riêng.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
* Về không gian, miền Tây Nghệ An bao gồm các huyện miền núi:
Kỳ Sơn, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Con
Cuông, Thanh Chương, Anh Sơn và Thị xã Thái Hòa. Trong 10 huyện thị
đó, các nông trường quốc doanh tập trung chủ yếu ở 2 huyện là Quỳ Hợp,
Nghĩa Đàn. Vì vậy, chúng tôi chủ yếu nghiên cứu nông trường quốc doanh
ở 2 huyện này. Tuy nhiên, trong luận án có so sánh với các nông trường
quốc doanh ở Thanh Hóa.
2


* Về thời gian, luận án giới hạn nghiên cứu Nông trường quốc doanh
ở miền Tây Nghệ An từ năm 1956 đến năm 2015. Chúng tôi lấy mốc mở
đầu quá trình nghiên cứu năm 1956 là năm các nông trường bắt đầu được
thành lập. Còn năm 2015, là mốc năm kết thúc nghiên cứu đối với đề tài

này vì năm 2015 các nông trường ở miền Tây Nghệ An chính thức thực
hiện quá trình chuyển đổi sang giai đoạn cổ phần hóa.
* Về nội dung, luận án tập trung nghiên cứu về những yếu tố tác
động đến sự ra đời và phát triển các nông trường quốc doanh; Quá trình
thành lập và hệ thống tổ chức của các nông trường quốc doanh; Hoạt động
sản xuất, kinh doanh và phương thức quản lý của các nông trường qua hai
giai đoạn 1956 - 1986 và giai đoạn 1986 - 2015; Bước đầu rút ra một số
nhận xét về những đóng góp của các nông trường đối với sự phát triển
kinh tế, chính trị, quốc phòng an ninh của địa phương và từ đó rút ra một
số kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nói chung, cho các
nhà quản lý kinh tế nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án làm rõ quá trình hình thành, xây dựng, tổ chức và hoạt động
của Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An giai đoạn 1956 - 2015.
Từ đó khẳng định vai trò, đóng góp của Nông trường quốc doanh ở miền
Tây Nghệ An đối với chính trị, kinh tế, xã hội của tỉnh Nghệ An; Mặt khác
cũng chỉ rõ những hạn chế, yếu kém và bài học kinh nghiệm của mô hình
Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An, một mô hình đã từng một
thời được coi là mô hình kiểu mẫu của nền sản xuất nông nghiệp XHCN.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
3


- Phân tích những yếu tố tác động đến sự ra đời và xây dựng các
Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An.
- Làm rõ quá trình ra đời và xây dựng các Nông trường quốc doanh ở
miền Tây Nghệ An giai đoạn 1956 - 2015, trên cả các khía cạnh tổ chức,
lực lượng lao động, cơ sở vật chất, tư liệu sản xuất.

- Trình bày hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, đời
sống vật chất và văn hóa tinh thần của nông trường viên.
- Bước đầu đưa ra một số nhận xét về vai trò, đóng góp của nông
trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An đối với kinh tế, chính trị, quốc
phòng an ninh ở địa bàn miền Tây Nghệ An; trên cơ sở đó rút ra một số
kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nông trường quốc
doanh.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Để hoàn thành luận án, chúng tôi dựa trên các nguồn tài liệu chủ yếu
sau:
- Tài liệu gốc: Các Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ về phát
triển nông trường, các báo cáo của Cục nông trường, Bộ Nông trường, Bộ
Nông lâm, Bộ Nông nghiệp, của các Công ty nông nghiệp, các tư liệu lưu
trữ được khai thác từ trung tâm lưu trữ của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Nghệ An,
Sở Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Nghệ An, văn phòng các
Nông trường ở miền Tây Nghệ An.
- Tài liệu tham khảo: Các công trình nghiên cứu chuyên khảo của
các tác giả có nội dung liên quan đến nông trường quốc doanh nói chung,
nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An nói riêng. Bên cạnh đó là
một số công trình nghiên cứu và bài viết được công bố trên các tạp chí:
4


Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, tạp chí Lịch sử quân sự, tạp chí Khoa học của
một số trường đại học…; các luận án, luận văn và một số website có nội
dung liên quan đến nông trường quốc doanh.
- Tài liệu điền dã: Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi đã
tiến hành điền dã, khảo sát thực tế tại các nông trường quốc doanh ở miền
Tây Nghệ An để tập hợp thêm tư liệu và tham quan các cơ sở sản xuất,

chế biến của nông trường.
Ngoài ra, tác giả luận án còn tiến hành phỏng vấn các nhân chứng
đã từng làm việc trong các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An.
4.2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ khoa học đặt ra, chúng tôi dựa trên cơ
sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương của Đảng về Đổi mới và phát
triển kinh tế - xã hội
Hai phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp lịch sử và
phương pháp logic.
. Với phương pháp lịch sử, chúng tôi trình bày quá trình ra đời và
xây dựng cũng như thực tế hoạt động của Nông trường quốc doanh ở
miền Tây Nghệ An một cách hệ thống theo trình tự thời gian liên tục từ
năm 1956 đến năm 2015.
Với phương pháp logic, chúng tôi kết nối, xâu chuỗi các vấn đề, các
sự kiện, hiện tượng và các nội dung với nhau một cách hợp lý nhằm làm rõ
những nội dung cần được làm sáng tỏ.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên
ngành khác như khu vực học, kinh tế học, xã hội học, các phương pháp

5


phân tích, thống kê, đối chiếu, so sánh, điều tra khảo sát thực địa, phỏng
vấn nhân chứng để làm rõ thêm nội dung của luận án.
5. Đóng góp mới của luận án
Một là, Luận án là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên
nghiên cứu tương đối toàn diện, có hệ thống về Nông trường quốc doanh ở
miền Tây Nghệ An giai đoạn 1956 - 2015.
Hai là, Luận án phục dựng lại bức tranh khá toàn diện, hệ thống về

quá trình ra đời, xây dựng và quá trình chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý
của các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An từ năm 1956 đến
năm 2015.
Ba là, Luận án làm rõ hoạt động sản xuất, kinh doanh; Nêu bật vai
trò và những đóng góp của nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An
giai đoạn 1956 - 2015 đối với kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh ở địa
phương; Chỉ ra những bài học kinh nghiệm.
Bốn là, Luận án cung cấp tài liệu tham khảo và cung cấp cơ sở
khoa học cho việc hoạch định chính sách cũng như quá trình lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An nói chung, đối
với khu vực ở miền Tây Nghệ An nói riêng; Đồng thời luận án là tài liệu
tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về lịch sử
địa phương.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phần phụ lục,
nội dung chính luận án được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
án
6


Chương 2: Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ từ năm 1956
đến năm 1986
Chương 3: Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An từ năm
1986 đến năm 2015
Chương 4: Một số nhận xét về nông trường quốc doanh ở miền Tây
Nghệ An
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Những nghiên cứu về Nông trường quốc doanh nói chung
Từ trước đến nay, đã có những công trình nghiên cứu về kinh tế đồn
điền thời thuộc địa được công bố, như: Cuốn “Đồn điền của người Pháp ở
Bắc Kỳ 1884 - 1918” xuất bản năm 1996 (NXB Thế giới) của tác giả Tạ
Thị Thúy; Cuốn “Đồn điền Thanh Hóa thời thuộc Pháp (1940 – 1945)”
(NXB Thanh Hóa, năm 2012) của nhóm tác giả Nguyễn Trọng Văn, Trần
Vũ Tài, Nguyễn Thị Hạnh. Bên cạnh các công trình nghiên cứu, bài viết,
còn có các luận án đi sâu nghiên cứu về vấn đề này; Luận án Tiến sĩ
“Những chuyển biến trong kinh tế nông nghiệp Bắc Trung Kỳ từ 1884 đến
1945” của tác giả Trần Vũ Tài (năm 2007)
Nghiên cứu về hệ thống Nông trường quốc doanh cũng đã thu hút
được nhiều tác giả quan tâm. Năm 1963, tác giả Trần Hữu Dực xuất bản
công trình “Ra sức xây dựng và củng cố nông trường quốc doanh”, NXB
Sự Thật - Hà Nội. Tác giả Hòa Bình công bố công trình nghiên cứu “Công
tác hạch toán trong nông trường quốc doanh” (NXB Thống kê - năm
7


1985); Đáng chú ý là cuốn “Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, tập II,
1955-1975”, (NXB Khoa học xã hội - năm 2005) của tác giả Đặng Phong;
Tác giả Phạm Thị Vượng công bố bài viết “Lực lượng lao động nữ trong
các nông trường quốc doanh ở miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1955 -1975”
trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3 (479) 2016; Luận án phó tiến sĩ
khoa học kinh tế viết về nông trường quốc doanh của Phạm Quốc Doanh,
trường Đại học kinh tế quốc dân với đề tài “Đổi mới nông trường quốc
doanh trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam” (bảo vệ năm 1994).
Bên cạnh đó, viết về nông trường quốc doanh nói chung còn có một
số công trình nghiên cứu của các tác giả người Liên Xô.
Tác giả X.I Azeva - M.I Chikhômirôva viết “Tổ chức sản xuất trong
nông trường quốc doanh và nông trang tập thể” ( NXB Nông Nghiệp Hà

Nội 1981); Công trình “Quản lý nông trường quốc doanh” của U.N
Nagimốp (NXB Nông nghiệp, năm 1958); Năm 1985, I.V Zagôrôđnhiucơ
và C.G Charetxki viết “21 tình huống tổ chức lao động khoa học trong
các nông trường và nông trang” ( NXB Nông nghiệp Hà Nội)
1.2. Những nghiên cứu về Nông trường quốc doanh ở miền Tây
Nghệ An
Cuốn “Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, tập 2 (1954 - 1975)”, của nhóm
tác giả Bùi Ngọc Tam, Hoàng Minh Truyền, Dương Văn Em, Ngô Đức
Khánh (NXB Nghệ An, năm 1999); Cuốn “Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, tập
3 (1975-2005)”, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2008; Năm 2014, tác giả
Đinh Quang Hải công bố bài viết “Tìm hiểu nông trường quốc doanh ở
miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1955-1960” trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch
sử số 10 (462); Cuốn “Lịch sử Nông trường 1/5” được biên soạn bởi nhóm
8


tác giả Lê Hồng Sơn, Nguyễn Duy Đại, Lê Phước Huẩn, Nguyễn Thê,
Hoàng Chỉnh (NXB Nghệ An năm 2012); Cuốn “Lịch sử Nông trường
3/2’’, của nhóm tác giả Nguyễn Đình Dũng, Nguyễn Phơng, Nguyễn Văn
Phúc, Nguyễn Đình Thận, Hoàng Văn Chỉnh (NXB Nghệ An, năm 2013).
1.3. Kết quả nghiên cứu đạt được
Các công trình chủ yếu nghiên cứu về kinh tế đồn điền của người
Pháp, quá trình cướp đoạt ruộng đất của thực dân Pháp đối với nông dân
để lập đồn điền ở cả ba kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ; những công
trình nghiên cứu về nông trường quốc doanh nói chung, tập trung tìm hiểu
sự hình thành các nông trường quốc doanh; những công trình nghiên cứu
có liên quan trực tiếp về nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An chủ
yếu nghiên cứu về lịch sử phát triển nông trường, làm rõ sự ra đời, hình
thành và phát triển của các nông trường ở miền Tây Nghệ An qua các giai
đoạn.

CHƯƠNG 2
NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH Ở MIỀN TÂY NGHỆ AN
TỪ NĂM 1956 ĐẾN NĂM 1986
2.1. Những yếu tố tác động đến sự ra đời và phát triển của nông
trường quốc doanh ở miền Tây nghệ An
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Đất đai màu mỡ, khí hậu thuận lợi, nguồn nước dồi dào, cây trồng
phong phú, miền Tây Nghệ An hội tụ những điều kiện thuận lợi để phát
triển một nền kinh tế toàn diện, đặc biệt là một ngành nông nghiệp đa
dạng, nhất là trồng cây công nghiệp và chăn nuôi đại gia súc với quy mô
9


lớn. Đó cũng chính là điều kiện cho các nông trường quốc doanh ở miền
Tây Nghệ An ra đời và phát triển.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Về cơ bản, những đồn điền lớn do người Pháp thiết lập đều tập trung
ở các huyện thuộc vùng trung du miền núi như: Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Quỳ
Châu, Đô Lương và Anh Sơn. Huyện Nghĩa Đàn có mức độ tập trung các
đồn điền của người Pháp nhiều nhất vì nơi đây có diện tích đất đỏ lớn nhất
của tỉnh, thuận lợi phát triển chăn nuôi và kinh doanh cây công nghiệp.
Điều đó thể hiện sự độc quyền của tư bản Pháp trong việc kinh doanh đồn
điền.
Miền Tây Nghệ An đã tiếp nhận các lực lượng lao động từ các vùng
miền khác nhau, như: Lực lượng bộ đội đội miền Nam tập kết ra Bắc để
xây dựng vùng kinh tế mới xã hội chủ nghĩa và lực lượng lao động ở các
địa phương sau này thành các lực lượng chủ đạo trong các nông trường.
2.1.3.Chủ trương xây dựng và phát triển nông trường của Đảng
Trước thời kì đổi mới, Đảng đã xác định một cách cụ thể về vị trí, vai
trò của hệ thống nông trường quốc doanh trong các nghị quyết Đại hội của

Đảng, như: Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
Lao Động Việt Nam (1960); Ngày 13/1/1961, Ban Bí thư ban hành Thông
tư số 14-TT/TW; Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của
Đảng năm 1976; Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V
(1982).
2.2. Quá trình ra đời và hệ thống tổ chức
2.2.1. Quá trình ra đời
Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An được hình thành từ ba
nguồn: Quốc hữu hóa các đồn điền của thực dân Pháp, của tư bản hoặc của
10


địa chủ phong kiến Việt Nam; Các Liên đoàn sản xuất nông nghiệp do cán
bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc; Những nông trường quân đội được
thành lập theo chủ trương chuyển ngành hàng loạt bộ đội sang làm kinh tế.
2.2.2. Hệ thống tổ chức
Cơ cấu tổ chức nông trường quốc doanh về cơ bản đều học tập theo
mô hình của Liên Xô: đứng đầu là giám đốc, giúp việc cho giám đốc là các
phó giám đốc và phòng ban; các nông trường chia thành các khu vực sản
xuất, gồm các đội và tổ. Nhìn chung, cơ cấu tổ chức nông trường Liên Xô
tinh giản hơn so với nông trường ở Việt Nam. Tuy cơ cấu tổ chức của các
nông trường trên phạm vi cả nước nói chung, ở miền Tây Nghệ An nói
riêng vào thời điểm đó còn cồng kềnh, có tính chất phân tán, chưa tập
trung, nhưng phù hợp với hoàn cảnh đất nước đang có chiến tranh.
2.3. Hoạt động của nông trường giai đoạn 1956 – 1975
2.3.1. Khai hoang, lao động sản xuất
Trong những năm 1956 - 1965, các nông trường quốc doanh ở miền
Tây Nghệ An xây dựng, phát triển và thực hiện các nhiệm vụ chính trị do
Đảng và Nhà nước giao trong thời bình. Các nông trường không ngừng
khai hoang mở rộng diện tích gieo trồng với các loại cây trồng như cây

công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su, và các loại cây công nghiệp khác
như thuốc lá, vừng, bông, lạc, cây lương thực như lúa, ngô và cây ăn quả
như cam, dứa, quýt. Nông trường quốc doanh không chỉ hình thành vùng
chuyên canh về cây trồng, mà còn trở thành vùng tập trung chăn nuôi quy
mô lớn.
Giai đoạn 1965 - 1975, nông trường chuyển tất cả các hoạt động từ
thời bình sang thời chiến. Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An là
vị trí quan trọng thường xuyên bị đánh phá. Do vậy nhiệm vụ của các nông
11


trường trong giai đoạn này là vừa sản xuất, vừa chiến đấu và sẵn sàng
chiến đấu. Trong thời điểm này, các nông trường thực sự trở thành nơi dự
trữ sức người, sức của, thành những cơ sở chiến đấu cho cả hai miền Nam
- Bắc. Mặc dầu chiến tranh diễn ra ác liệt, nhưng các nông trường vẫn
hoàn thành các nhiệm vụ nhà nước đề ra, nhiều nông trường vượt mức kế
hoạch.
2.3.2. Tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu
Các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An không chỉ cung
cấp vật lực, mà còn cung cấp nguồn nhân lực cho chiến trường, làm tròn
nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam đánh Mỹ.
Ngoài ra, trong chiến đấu các nông trường luôn nêu cao tinh thần tự
giác đấu tranh. Địa bàn các nông trường vừa trở thành căn cứ hậu phương
của tỉnh Nghệ An, vừa trở thành các trận địa bắn máy bay, bảo vệ giao
thông vận tải, nơi sơ tán của các cơ sở sản xuất công nghiệp trong tỉnh,
điểm dừng chân của con đường vận tải chi viện cho miền Nam. Lực lượng
phòng không bảo vệ các địa phương không chỉ có dân quân, mà còn có lực
lượng bộ đội tự vệ. Các lực lượng này phối hợp chiến đấu tạo nên hệ thống
phòng không nhân dân dày đặc, đánh địch ở mọi tầng cao và chiến đấu
khắp mọi vùng.

2.3.3. Đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, công nhân nông
trường
Bên cạnh hoạt động sản xuất, tham gia chiến đấu, phục vụ chiến
đấu, các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An còn quan tâm đến
đời sống cán bộ, công nhân nông trường trên các phương diện, như: trình
độ văn hóa, vấn đề sức khỏe, nhà ở, văn nghệ, thể dục thể thao, trong hoàn
cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, việc chăm lo đời sống
12


vật chất và tinh thần cho công nhân lao động đã có chủ trương và biện
pháp cụ thể, nhiều nghị quyết chuyên đề của Ban chấp hành, nhưng trong
thực tế vẫn còn ít đơn vị thực hiện được việc tổ chức làm ăn tập thể để giải
phóng sức lao động, nhất là lao động nữ, nên sức sản xuất làm ra của cải
rất thấp.
2.4. Hoạt động nông trường giai đoạn 1975 - 1986
2.4.1. Nông trường quốc doanh miền Tây Nghệ An trước yêu cầu
nhiệm vụ mới
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Nhưng tình hình
thực tế Việt Nam gặp rất nhiều khó khắn: cơ sở vật chất bị tàn phá; bị bao
vấy cấm vận; viện trợ các nước xã hội chủ nghĩa giảm sút; thiên tai liên
tiếp diễn ra; việc cung ứng vật tư, tiền vốn cho các đơn vị thuộc kinh tế
quốc doanh bị cắt giảm; nhà nước cũng không có đủ hàng để trao đổi với
nông dân để thu mua nông sản theo giá kế hoạch.
Trên cả nước, hệ thống nông trường quốc doanh cũng được đầu tư xây
dựng rộng khắp. Tuy nhiên, nhìn chung, kết quả tổng thể của các nông
trường quốc doanh trong cả nước đưa lại chưa tương xứng với sự đầu tư to
lớn của nhà nước
2.4.2. Nông trường quốc doanh miền Tây Nghệ An khôi phục sản

xuất sau chiến tranh
Trước hoàn cảnh khó khăn, các nông trường quốc doanh ở miền Tây
Nghệ An đã thanh lí các vườn cây già cỗi, thay thế bằng các vườn cây mới
đảm bảo năng suất sản lượng ổn định và kinh doanh có hiệu quả. Các loại
cây như cà phê, cao su, cam vẫn là cây trồng chủ lực của các nông trường.
Diện tích trồng các loại cây công nghiệp lâu năm không giảm sút mà được
13


mở rộng. Các loại cây công nghiệp ngắn ngày như mía, thuốc lào, đậu
tương, vừng lạc… cũng được chú trọng.
Có thể nói trong những năm đầu tiên sau khi đất nước thống nhất,
các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An đã có nhiều nỗ lực trong
khắc phục hậu quả chiến tranh. Tuy nhiên, một số hạn chế trong cơ chế
quản lí đã xuất hiện và bộc lộ ngày một rõ nét. Điều này đưa đến tình trạng
khủng hoảng của các nông trường ở miền Tây Nghệ An và những bước đi
đầu tiên nhằm thích ứng với cơ chế quản lí kinh tế mới trên cả nước.
2.4.3. Khó khăn của các nông trường và những tín hiệu chuyển
đổi mô hình quản lý
Tại các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An, mặc dù được
đánh giá là hoạt động khả quan hơn so với một số nông trường khác trên
cả nước, song khó khăn cũng ngày một nặng nề. Tại các nông trường như
Nông trường Đông Hiếu, Nông trường Cờ Đỏ, Nông trường 1/5 trong giai
đoạn này vườn cây lâu năm bị giảm sút cả về diện tích, năng suất và chất
lượng sản phẩm; nhiều đàn gia súc bị chết; sản xuất không có hiệu quả.
Lương thực khan hiếm, công nhân ăn mì hạt, mì bột, có những lúc phải
luộc sắn phát cho công nhân. Trong sinh hoạt, nhà ở dành cho công nhân
vô cùng khó khăn.
Thực trạng khủng hoảng trong tất cả các ngành kinh tế, cơ chế quan
liêu ngột ngạt đã dẫn đến tình trạng “bung ra ngoài sản xuất” trong các

ngành. Đổi mới trở thành nhiệm vụ cấp bách của các nông trường, để giải
quyết vấn đề tồn tại hay không tồn tại.

14


CHƯƠNG 3
NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH Ở MIỀN TÂY NGHỆ AN
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2015
3.1. Yêu cầu chuyển đổi phương thức quản lý và hoạt động của nông
trường quốc doanh miền Tây Nghệ An giai đoạn 1986 - 1997
3.1.1. Yêu cầu chuyển đổi phương thức quản lý
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) là đại hội mở đầu quá
trình đổi mới toàn diện đất nước, trọng tâm và trước hết là đổi mới về kinh
tế. Sau Đại hội nền kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển đổi về cơ chế quản
lý, từ cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung bao cấp đã từng bước chuyển
sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Những thay
đổi trên đây đã tác động đến tình hình sản xuất nông nghiệp nói chung, các
nông trường quốc doanh nói riêng.
Việc chuyển đổi các nông trường quốc doanh trên phạm vi cả nước
nói chung, ở miền Tây Nghệ An nói riêng trở thành một vấn đề bức thiết,
vừa phù hợp với nhu cầu thực tiễn, vừa khắc phục những hạn chế và phát
huy những thế mạnh sẵn có của nông trường. Sự chuyển đổi của các nông
trường diễn ra trên các lĩnh vực: hệ thống tổ chức, cách thức quản lý và
hoạt động sản xuất kinh doanh.
3.1.2. Tổ chức bộ máy
Hệ thống tổ chức nông trường quốc doanh trong giai đoạn này so với
hệ thống tổ chức nông trường quốc doanh thời kỳ bao cấp đã có sự chuyển
biến. Bộ máy quản lý gọn nhẹ, làm việc có hiệu quả. Các khu vực sản xuất
nay đã được thay thế bởi các đội sản xuất, để ban lãnh đạo dễ quản lý. Các

phòng ban và bộ phận lao động trực tiếp đã phối hợp công việc có hiệu
quả hơn. Hệ thống tổ chức nông trường chuyển đổi phù hợp với cơ chế
15


mới của nền kinh tế thị trường. Bên cạnh những ưu điểm, hệ thống tổ chức
của nông trường còn tồn tại những hạn chế nhất định, như: chi phí gián
tiếp còn lớn làm ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm, đã có sự phân công
nhiệm vụ giữa các phòng ban, nhưng công việc nghiên cứu tìm kiếm thị
trường chưa được phân định rõ ràng.
3.1.3. Phương thức quản lý “khoán”
Năm 1989, Nông trường Tây Hiếu 1 là nông trường tiên phong thực
hiện phương án khoán trên vùng đất Phủ Quỳ. Trong khi đó các nông trường
còn lại như Nông trường 3/2, Nông trường 1/5, vẫn chưa có thay đổi trong
việc sử dụng phương thức khoán.
Năm 1995, sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 01/ CP, các nông
trường đã áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo nhằm phù hợp với điều kiện
kinh tế của nông trường. Trong đó, Nông trường Tây Hiếu 1 được đánh giá là
nông trường sớm áp dụng chính sách khoán. Nông trường 3/2 mặc dù thực
hiện muộn hơn, nhưng trong quá trình sản xuất, nông trường đã vận dụng
nhiều cách khoán khác nhau nhằm để ưu tiên cho người lao động.
3.1.4. Hoạt động sản xuất, kinh doanh
Thực hiện quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, các nông trường ở miền
Tây Nghệ An nói riêng đã chủ động tính toán, rà soát lại phương hướng,
nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Nhờ xác định đúng đắn và cụ thể hơn về cơ
cấu cây, con, đi vào thâm canh, chuyên canh và kinh doanh tổng hợp “lấy
ngắn nuôi dài”, gắn sản xuất với chế biến và thị trường tiêu thụ sản phẩm
nên sản xuất hàng hóa của nhiều nông trường đã tăng lên khá rõ rệt, đảm
bảo hoạt động tiệu thụ với khách hàng, tăng doanh thu để chủ động vốn
sản xuất kinh doanh.

16


Những chuyển biến và thành quả các nông trường đã đạt được trong
quá trình đổi mới có ý nghĩa kinh tế - chính trị - xã hội hết sức to lớn. Tuy
nhiên, trên thực tiễn vẫn còn những tồn tại, như: hiệu quả sử dụng đất đai
ở các nông trường nhìn chung vẫn còn thấp; thiếu vốn, cơ cấu vốn không
thích hợp, hiệu quả sử dụng vốn thấp; thiết bị và công nghệ chế biến lạc
hậu.
3.2. Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An giai đoạn 1997 2015
3.2.1. Chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước về đổi mới
nông trường
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (từ
ngày 13 đến ngày 22/8/2001) đã ban hành Nghị quyết về “Tiếp tục sắp xếp
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước”. Hội
nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (từ ngày 18/2
đến 2/3/2002) đã bàn và ra các Nghị quyết, như: Nghị quyết về “Tiếp tục
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”; Nghị quyết “Về
tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát
triển kinh tế tư nhân”
Những chủ trương trên của Đảng tạo điều kiện thuận lợi cho các nông
trường đổi mới và được Nhà nước cụ thể hóa thành các chính sách.
Ngày 4/3/1997, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 135/TTg về
việc xây dựng quy chế hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát
ở các Tổng công ty nhà nước và các Doanh nghiệp Nhà nước có thành lập
Hội đồng quản trị. Ngày 19/6/2002, Chính phủ ban hành Nghị định về việc
chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
17



Ngày 16/6/2003 Bộ chính trị ban hành Nghị quyết về sắp xếp, đổi
mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh. Nghị định số 170/204/NĐ
- CP ngày 22/9/2004 đã quy định rõ về các hình thức chuyển đổi các nông
trường quốc doanh có hướng kinh doanh tốt và những nông trường quản
lý yếu kém làm ăn thua lỗ.
Đặc biệt, Nghị định 135/2005/NĐ-CP, ngày 08/11/2005 về việc giao
khoán đất nông nghiệp, đất rừng sản xuất và đất có mặt nước nuôi trồng
thủy sản trong các nông lâm trường quốc doanh.
Nghị quyết số 30 - NQ/TW ngày 17/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp
tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công
ty nông, lâm nghiệp.
3.2.2. Sự thay đổi hệ thống tổ chức
Năm 1997, các nông trường ở miền Tây Nghệ An bắt đầu chuyển đổi
về mô hình để cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Các nông trường đã
chuyển đổi qua hai giai đoạn: từ Nông trường quốc doanh chuyển sang
Công ty nhà nước, sau đó từ Công ty nhà nước chuyển sang Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên. Do thay đổi về tổ chức bộ máy, nên chức
năng và nhiệm vụ của công ty cũng thay đổi theo. Nhiệm vụ của công ty
không chỉ đơn thuần thực hiện hai chức năng như giai đoạn trước đây. Nay
các công ty kinh doanh cà phê, cao su theo quy hoạch và kế hoạch của nhà
nước.
3.2.3. Sự thay đổi mô hình quản lý
Sau khi chuyển đổi thành các công ty, phương thức quản lý của các
nông trường đã có sự thay đổi. Công ty đã vận dụng linh hoạt chính sách
khoán qua từng giai đoạn. Công tác quản lý, sử dụng đất đai đi vào nề nếp,
nâng cao tinh thần trách nhiệm của hộ nhận khoán. Sau khi có hình thức giao
18


khoán theo Nghị định 135, các nông trường trực thuộc Công ty Đầu tư sản

xuất cà phê - cao su đã chuyển đổi hình thức giao khoán. Công ty Nông
công nghiệp 3/2 áp dụng Nghị định 135/CP (2005) muộn hơn so với Công
ty Đầu tư sản xuất và xuất khẩu cà phê cao su Nghệ An, năm 2008 công ty
bắt đầu áp dụng. Công ty 3/2 không giao khoán toàn bộ đất cho người lao
động như Công ty sản xuất và xuất khẩu cà phê cao su Nghệ An, mà vẫn
giữ lại đất để tổ chức sản xuất làm mô hình thử nghiệm và ứng dụng
những thành tựu khoa học kỹ thuật.
3.2.4. Hoạt động sản xuất, kinh doanh
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các nông trường quốc doanh ở
miền Tây Nghệ An có sự thay đổi qua hai giai đoạn: giai đoạn 1997 2010 và giai đoạn 2010 - 2015
Q uá trình chuyển từ nông trường quốc doanh sang Công ty TNHH
MTV của các Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An đã đáp ứng
một số yêu cầu của thực tiễn, song cũng còn nhiều vấn đề tiếp tục phải
nghiên cứu giải quyết. Các nông trường sau khi sát nhập vào công ty đã có
sự phân định nhiệm vụ rõ ràng; nguồn vốn đầu tư vào các nông trường
phong phú hơn; trong phương thức sản xuất kinh doanh, công ty đã sử
dụng linh hoạt các phương thức khoán, đầu tư yếu tố khoa học kỹ thuật, do
đó hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty cũng phát triển hơn về cả sản
lượng, doanh thu.
Có thể nói rằng, trong giai đoạn hiện nay các công ty đã tiếp tục kế
thừa và phát huy những kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật canh tác, giống cây
trồng từ các nông trường quốc doanh thời Pháp ở khu vực Phủ Quỳ.
Nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh thực sự chưa cao; vấn đề thương
hiệu của sản phẩm chưa có trên thị trường; công tác quản lý sản phẩm yếu
kém; chất lượng sản phẩm thấp; quy mô sản xuất theo hướng nhỏ lẻ; lợi
thế về tài nguyên đất chưa được khai thác hết.
19


3.2.5. Đời sống của cán bộ, công nhân nông trường

Năm 1997, các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An gặp
không ít khó khăn trong quá trình chuyển đổi hình thức quản lý,nhưng vẫn
tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, công nhân viên phát triển kinh tế gia
đình, làm nhà ở, làm vườn, chăn nuôi, tham gia xây dựng các công trình
phúc lợi xã hội.
Đời sống vật chất tinh thần của cán bộ, công nhân của các nông
trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An trong giai đoạn này về cơ bản đã
có bước phát triển hơn so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, đời sống của
người lao động chưa được phát triển một cách toàn diện, đang còn những
hạn chế nhất định.
CHƯƠNG 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH Ở
MIỀN TÂY NGHỆ AN
4.1. Về nguồn gốc ra đời
Nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An được hình thành từ ba
nguồn khác nhau. Đây là một đặc điểm khác biệt của các nông trường
quốc doanh ở miền Tây Nghệ An so với các nông trường ở một số tỉnh
phía Bắc. Điển hình là ở Thanh Hóa hầu hết các nông trường được hình
thành chủ yếu từ cơ sở quốc hữu hóa các đồn điền của thực dân Pháp và
một số nông trường quân đội như: Nông trường Yên Mỹ, Nông trường
Vân Du, Nông trường Phúc Do.
4.2. Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh
Các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An là những đơn vị
sản xuất tương đối hoàn chỉnh, sản xuất ra nhiều sản phẩm khác nhau qua
các giai đoạn. Đây là đặc điểm có tính khác biệt của các nông trường miền
20


Tây Nghệ An so với các nông trường ở Thanh Hóa. Giai đoạn trước thời
kỳ đổi mới, Nông trường Thống nhất, nông trường Sao Vàng, nông trường

Thạch Thành sản xuất cây công nghiệp ngắn ngày gồm mía, dứa, cây công
nghiệp dài ngày chỉ có cao su. Từ năm 2000, thế mạnh của các nông
trường ở Thanh Hóa chủ yếu sản xuất dứa và mía.
Các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An trong thời kỳ đổi
mới đã đạt được những kết quả nhất định trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động sản xuất kinh doanh
của các nông trường ở miền Tây Nghệ An đang còn có những tồn tại nhất
định: chưa quản lý chặt chẽ việc khai hoang, trồng mới đến chăm sóc cây;
một số chủ nhận khoán thực hiện quy trình chăm sóc vườn cây chưa
nghiêm túc làm ảnh hưởng đến chất lượng và sản lượng vườn cây.
4.3. Về phương thức quản lý
Thứ nhất, việc vận dụng phương thức khoán của các nông trường:
Nông trường Tây Hiếu 1 được xem là nông trường tiên phong trong việc vận
dụng chính sách khoán, là mô hình thực tiễn ở địa phương để trung ương
hoạch định chính sách khoán trên phạm vi cả nước. Nông trường đã vận
dụng linh hoạt, sáng tạo các phương án khoán qua từng giai đoạn
Thứ hai, về quá trình chuyển đổi mô hình quản lý của các nông
trường: Quá trình chuyển đổi các nông trường quốc doanh ở miền Tây
Nghệ An từ năm 1956 đến năm 2015, đã đưa đến một bước đột phá lớn
trong sự phát triển các nông trường. Sự chuyển đổi đó đáp ứng được nhu
cầu của một cơ chế quản lý mới mang tính chất năng động, sáng tạo và
phù hợp với những chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước. Sự
chuyển đổi trải qua hai giai đoạn: chuyển từ nông trường quốc doanh sang
công ty nhà nước (1997 - 2010) và từ công ty nhà nước sang công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên (2010 - 2015).
21


4.4. Những đóng góp của các nông trường quốc doanh ở miền Tây
Nghệ An

Sự ra đời và phát triển của các nông trường ở miền Tây Nghệ An đã góp
phần làm thay đổi diện mạo và thúc đẩy sự phát triển miền Tây Nghệ An trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng.
Về kinh tế
Sau 30 năm kể từ ngày thành lập, đến năm 1987, các nông trường
miền Tây Nghệ An đã biến nơi đây từ vùng rừng núi âm u, rậm rạp trở
thành những vùng kinh tế mới có đủ điều kiện để phát triển nền kinh tế
toàn diện.
Về xã hội
Các nông trường ra đời góp phần thay đổi sự phân bố dân cư của các
huyện miền Tây Nghệ An. Các nông trường ra đời là tiền đề quan trọng để
nhà nước thực hiện chủ trương đưa đồng bào miền xuôi lên khai hoang miền
núi. Từ một huyện miền núi đất rộng người thưa, miền Tây Nghệ An đã thu
hút đông đảo các lực lượng lên tham gia lao động, sản xuất và định cư.
Về quốc phòng an ninh
Trước những năm 60 của thế kỷ XX, miền Tây Nghệ An là vùng đất
hoang vu, dân cư thưa thớt, vấn đề quốc phòng an ninh gặp nhiều khó
khăn. Các nông trường quốc doanh ra đời góp phần ổn định tình hình
chính trị, ngăn cản sự chống phá của các thế lực .
4.5. Một số kinh nghiệm
Quá trình ra đời và phát triển của các nông trường quốc doanh ở miền
Tây Nghệ An đã để lại một số kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp nói chung, cho các nhà quản lý kinh tế nói riêng, như: các nông
trường cần phải có cơ chế quản lý phù hợp; phải đầu tư khoa học kỹ thuật, cơ
sở vật chất hạ tầng và trình độ chuyên môn tay nghề của người lao động.
22


KẾT LUẬN
1. Việc thành lập các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An

xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ khôi phục, phát triển kinh tế sau khi
chiến tranh kết thúc. Sau ba năm xây dựng, đến năm 1960, với tinh thần
tự lực tự cường, các nông trường ngày càng phát triển, diện tích được mở
rộng. Nhiệm vụ giao nộp sản phẩm cho Nhà nước được các nông trường
thực hiện đầy đủ. Cùng với sự phát triển sản xuất, kinh doanh, các hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thể dục - thể thao, y tế, giáo dục ở nông trường
đạt được nhiều thành tích.
2. Sự ra đời và phát triển các nông trường quốc doanh miền Tây Nghệ
An là bước thể nghiệm thành công cho một mô hình và phương thức sản
xuất, kinh doanh mới của ngành nông nghiệp miền Bắc. Những thành tựu
mà các nông trường quốc doanh miền Tây Nghệ An đạt được về kinh tế,
văn hóa – xã hội, an ninh quốc phòng đã đánh dấu sự phát triển của một
mô hình sản xuất mới trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta.
3. Sự phát triển các nông trường quốc doanh ở miền Tây Nghệ An từ
năm 1956 đến năm 2015 trải qua hai giai đoạn khác nhau. Trong thời kỳ
kinh tế bao cấp, các nông trường phải thực hiện tốt các nhiệm vụ nhà nước
giao, vừa phải sản xuất, vừa chiến đấu. Trong nền kinh tế thị trường, các
nông trường ở miền Tây Nghệ An đã có những chuyển biến nhất định về
cơ cấu tổ chức, phương thức khoán và hoạt động sản xuất kinh doanh so
với giai đoạn trước.
4. Quá trình chuyển đổi mô hình của các nông trường quốc doanh ở
miền Tây Nghệ An diễn ra qua hai giai đoạn: từ nông trường quốc doanh
sang công ty Nhà nước, từ công ty Nhà nước sang công ty TNHH MTV,
vừa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, vừa phù hợp với những chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra, đồng thời mang đến những thay
đổi lớn trong tổ chức bộ máy, phương thức quản lý và hoạt động sản xuất
23


kinh doanh. Bên cạnh đó, hoạt động của công ty vẫn còn những hạn chế

trong quá trình chuyển đổi, như: hiệu quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
chưa tương xứng tiềm năng về điều kiện đất đai; công tác quản lý sản
phẩm còn kém; chưa giải quyết được vấn đề thị trường.
5. Quá trình hình thành và phát triển các nông trường ở miền Tây
Nghệ An đã làm thay đổi diện mạo miền Tây Nghệ An trên tất cả các lĩnh
vực về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Các nông trường góp phần tạo ra
việc làm và tăng nguồn thu nhập cho nhân dân các huyện ở nơi đây. Đồng
thời làm cho diện tích đất canh tác của các huyện được mở rộng, nhiều
xóm làng mới được hình thành, nhiều ngành công nghiệp ra đời, y tế,
trường học được xây dựng. Quá trình di cư của lao động ở nhiều vùng
miền khác nhau tập trung về nơi đây góp phần tạo nên sự đông đúc, đa
dạng về cơ cấu dân cư, đồng thời tạo nên sự đa dạng trong phong tục tập
quán. Từng bước nâng cao trình độ văn hóa cho đồng bào dân tộc thiểu số
ở miền Tây Nghệ An.
6. Quá trình chuyển đổi mô hình của các nông trường quốc doanh ở
miền Tây Nghệ An đã đáp ứng một số yêu cầu của thực tiễn, song cũng
còn nhiều vấn đề cần được giải quyết. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của
các công ty vẫn còn thấp. Các hộ nhận khoán sản xuất mang tính tự phát,
thời vụ, không tuân thủ các quy trình kỹ thuật. Sản phẩm làm ra chưa có
thương hiệu và thị trường tiêu thụ. Hơn nữa, công tác quản lý đất canh tác
của một số nông trường còn kém, hiện tượng người dân lấn chiếm đất, làm
nhà trái phép vẫn diễn ra. Từ thực trạng này đặt ra nhiệm vụ cho các nhà
quản lý là phải thay đổi tư duy chiến lược trong hoạt động sản xuất và chế
biến.

24




×