Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Triết học: Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (880.16 KB, 27 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
NGễ I SN
NGUYN THNH MINH

ĐộI NGũ CáN Bộ DÂN TộC THIểU Số ở
CáC TỉNH QUảNG BìNH, QUảNG TRị
Và THừA THIÊN HUế HIệN NAY
CHUYấN NGNH CH NGHA X HI KHOA HC
Mó s: 62 22 03 08

TểM TT LUN N TIN S

H NI - 2018


Luận án được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học : 1. PGS.TS. Nguyễn Quốc Phẩm
2. TS. Lô Quốc Toản

Phản biện 1: ……………………………………………………. .
Phản biện 2: …………………………………………………….
Phản biện 3: …………………………………………………….

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi……giờ……ngày……tháng…….năm 2018

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh




1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế là ba tỉnh phía
Nam của khu vực Bắc Trung Bộ. Năm 1976, ba tỉnh này đã được sáp
nhập thành tỉnh Bình Trị Thiên có tỉnh lỵ đóng tại thành phố Huế.
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, theo Quyết định của Quốc hội khóa VIII,
kỳ họp thứ 5, tỉnh Bình Trị Thiên được tách ra như cũ, riêng Thừa
Thiên sau khi tách ra mang tên gọi mới là tỉnh Thừa Thiên Huế. Các
dân tộc thiểu số (DTTS) của Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên
Huế chủ yếu là người Bru-Vân Kiều, Cơ-tu, Ta-ôi, Chứt và một bộ
phận dân tộc khác cư trú tập trung trên dãy Trường Sơn ở phía Tây
và Tây Nam của các tỉnh. Đây là khu vực có vị trí đặc biệt quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế, ổn định chính trị và an ninh, quốc
phòng của đất nước ta. Đây cũng là khu vực phải chịu ảnh hưởng
nặng nề của tàn tích chiến tranh đặc biệt là chất độc màu da cam và
bom mìn còn sót lại. Đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội của đồng bào
các dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn: sản xuất chủ yếu là nông
nghiệp lạc hậu và lệ thuộc nhiều vào tự nhiên; trình độ dân trí thấp;
những tiềm năng to lớn của vùng chưa được phát huy một cách hiệu
quả… Đặc biệt, đời sống của người Rục (một nhóm của tộc người
Chứt được phát hiện từ năm 1959) vẫn còn rất nghèo nàn, lạc hậu.
Trên lĩnh vực công tác dân tộc, thực hiện đoàn kết các tộc người ở
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế cũng có những điểm đặc
thù, nhạy cảm liên quan đến đồng thuận xã hội mà tiêu biểu nhất là
vấn đề tộc danh của người Pa Kô và người Bru -Vân Kiều. Cho đến
nay, người Pa Kô vẫn chưa có tên trong danh mục các thành phần
dân tộc ở Việt Nam mặc dù đã có kiến nghị Quốc hội đưa đúng tên

tộc người Pa Kô vào danh mục. Với người Bru -Vân Kiều cũng có
những tranh luận về tộc danh khi một bộ phận đồng bào mong muốn
tách biệt rõ ràng tên gọi người Bru và Vân Kiều.
Để giải quyết những khó khăn nêu trên, cần phải thực hiện
đồng bộ hệ thống các giải pháp mà trong đó ưu tiên phát triển đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số có ý nghĩa tiên quyết. Cán bộ dân tộc thiểu số
tác động trực tiếp đến hiệu quả thực hiện đường lối, chủ trương, của
Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước ở vùng dân tộc thiểu số và
miền núi. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “…“cán bộ là cái
gốc của mọi công việc”, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của
Đảng”. Hiện nay, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở Quảng Bình,


2
Quảng Trị và Thừa Thiên Huế còn nhiều bất cập: số lượng cán bộ
dân tộc thiểu số còn hạn chế, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu
của sự phát triển; cơ cấu cán bộ chưa hợp lý; một bộ phận không nhỏ
cán bộ người dân tộc thiểu số vẫn còn tồn tại tư tưởng công thần hoặc
tự ti, ỉ lại vào cấp trên. Vì thế, vấn đề cấp bách đặt ra là cần phải có
những nghiên cứu khoa học nhằm đánh giá đúng thực trạng và đưa ra
các giải pháp đúng đắn để phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ đất nước trong tình hình mới.
Bên cạnh đó, trong những năm qua dù có một số công trình
khoa học nghiên cứu về vấn đề dân tộc ở các tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên Huế nhưng các công trình đó chủ yếu
nghiên cứu trên lĩnh vực lịch sử, văn hóa tộc người, các vấn đề về
sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số. Hiện chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện, hệ thống về đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên

Huế dưới góc độ chính trị - xã hội. Từ lý do trên, nghiên cứu sinh đã
chọn đề tài “Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên Huế hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ
triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, luận án đề xuất các
quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát triển đội ngũ này trong
giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
- Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên Huế.
- Đánh giá thực trạng và chỉ rõ những vấn đề đặt ra đối với quá
trình phát triển đội ngũ cán bộ DTTS ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng
Trị và Thừa Thiên Huế.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát triển
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên Huế hiện nay.


3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đội ngũ cán bộ DTTS ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên Huế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên
Huế hiện nay bao gồm nhiều nội dung nhưng mục đích cuối cùng đều
là hướng tới sự phát triển đội ngũ cán bộ DTTS nhằm đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) đất nước. Vì vậy, trong luận án này, nghiên cứu sinh lựa chọn
phát triển đội ngũ cán DTTS ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên Huế làm nội dung nghiên cứu.
Phạm vi về không gian: Luận án nghiên cứu ở ba tỉnh Quảng
Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu phát triển đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên
Huế từ khi thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc (năm 2003) đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của
luận án
4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về cán bộ
và đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Luận án cũng kế thừa, tiếp thu
những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học về vấn đề dân tộc
và phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay.
- Cơ sở thực tiễn: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế đã
được xác định trong phạm vi nghiên cứu.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận án vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng và phương pháp luận duy vật lịch sử vào quá trình nghiên cứu.
- Các phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Sử dụng các phương

pháp phân tích và tổng hợp, phân loại và hệ thống hóa, lịch sử và
logic, so sánh và đối chiếu để đánh giá các tài liệu nhằm khái quát
những kết quả nghiên cứu về mặt lí thuyết có liên quan đến đề tài.


4
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: gồm các phương pháp
quan sát, điều tra xã hội học, điền dã dân tộc học, phỏng vấn chuyên gia
nhằm tìm hiểu thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các
tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Trong phương pháp
điều tra xã hội học, luận án đã xây dựng và sử dụng phiếu điều tra nhằm
đánh giá động lực phát triển của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các
tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Đối tượng được khảo
sát là 207 cán bộ dân tộc thiểu số đang công tác trong hệ thống chính trị
các cấp từ cấp xã đến cấp tỉnh ở ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên Huế. Thời gian tiến hành khảo sát là từ tháng 12 năm 2015 đến
tháng 06 năm 2016. Sau khi hoàn thành khảo sát, nghiên cứu sinh đã sử
dụng chương trình SPSS (Statistical Package for Social Studies) để kiểm
định độ tin cậy của các biến điều tra trên, phân tích nhân tố đối với các
biến điều tra và kết quả đánh giá của đối tượng điều tra làm cơ sở cho
việc nhận định đánh giá thực trạng vấn đề nghiên.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án đã đưa ra quan niệm về đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số; phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Luận án cũng làm rõ những yếu tố cơ
bản tác động đến sự phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các
tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
- Dưới góc độ chính trị - xã hội, luận án làm rõ thực trạng và
những vấn đề đang đặt ra hiện nay đối với đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.

- Luận án đề xuất quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát
triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng
Trị và Thừa Thiên Huế trong những năm tiếp theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
- Luận án góp phần bổ sung, làm rõ hơn những quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và
chính sách phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
- Luận án phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế trên
cơ sở những tiêu chí cụ thể được đưa ra trong Quyết định Số
402/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới ngày 14 tháng 3
năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ; chỉ rõ những vấn đề đang đặt ra
và đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát triển đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số ở các địa bàn đã nêu.


5
- Luận án có thể làm tư liệu tham khảo phục vụ cho việc
nghiên cứu, giảng dạy những chuyên đề liên quan đến vấn đề dân tộc
và đội ngũ cán bộ DTTS trong chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa
học và các chuyên ngành khác như: dân tộc học, chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử...
- Luận án góp phần cung cấp những luận cứ lý luận và thực
tiễn cho việc hoạch định các chính sách về cán bộ DTTS ở các tỉnh
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, có thể làm tài liệu tham
khảo trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận án có 4 chương và 10 tiết.

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
(Từ trang 6 đến trang 22)
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NƢỚC
NGOÀI LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Tuyển tập 40 năm chính luận, của Lý Quang Diệu; A review of
ethnic minority policies and programs in Vietnam; Tôn trọng trí thức,
tôn trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước của hai tác
giả Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diện (đồng chủ biên); A review of
ethnic minority policies and programs in Vietnam (Đánh giá các chính
sách và chương trình dân tộc thiểu số ở Việt Nam) của Nguyen, Thi
Thu Phuong and Baulch, B; Country Social Analysis: Ethnicity and
Development in Vietnam (Phân tích xã hội quốc gia: Dân tộc và Phát
triển ở Việt Nam) của World bank; Status- quo of human resource in
ethnic minority areas and recommending solutions for human
resource development in ethnic minority areas (Hiện trạng nguồn
nhân lực của các vùng các dân tộc thiểu số và một số khuyến nghị
phát triển nguồn nhân lực ở các vùng dân tộc thiểu số) của Tran, Thi
Hanh. Talent Management: A focus on excellence managing human
resources in a knowledge economy (Quản lý tài năng: Tập trung vào
nguồn nhân lực xuất sắc trong nền kinh tế tri thức)của tác giả Patrick
Merlevede. Những công trình trên chủ yếu nghiên cứu về vấn đề
chính sách phát triển vùng DTTS, về nguồn nhân lực người DTTS và
về thu hút, trọng dụng nhân tài và xây dựng đội ngũ công chức thực
sự là tài liệu tham khảo rất có giá trị cho luận án.


6
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG

NƢỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.2.1. Những công trình nghiên cứu về vấn đề dân tộc và
chính sách dân tộc
Vấn đề dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc được nhiều
nhiều nhà khoa học tập trung nghiên cứu, tiêu biểu là: Mấy vấn đề lý
luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, của hai tác
giả Nguyễn Quốc Phẩm - Trịnh Quốc Tuấn. Hệ thống chính trị cấp cơ
sở và dân chủ hóa đời sống xã hội nông thôn miền núi vùng dân tộc
thiểu số của tác giả Nguyễn Quốc Phẩm. Một số vấn đề dân tộc và
phát triển, của tác giả Lê Ngọc Thắng. 60 năm công tác dân tộc - Thực
tiễn và bài học kinh nghiệm, do Ủy ban Dân tộc biên soạn. Công bằng
và bình đẳng xã hội trong quan hệ tộc người ở các quốc gia đa dân
tộc, của tác giả Nguyễn Quốc Phẩm. Xây dựng và hình thành hệ thống
chính sách dân tộc ở Việt Nam, do Lê Ngọc Thắng. Phát triển nguồn
nhân lực vùng dân tộc thiểu số Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, của tác giả Nguyễn Đăng
Thành. 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban chấp
hành TW khóa IX về công tác dân tộc và tôn giáo - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, của Hoàng Minh Đô - Lê Văn Lợi (Đồng chủ
biên).Sự biến đổi những giá trị xã hội truyền thống của đồng bào các
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay, của Nguyễn Ngọc Hòa. Xây
dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên. Quan hệ tộc
người ở Tây nguyên trong thời kỳ đổi mới, của Trương Minh Dục. Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về công tác dân tộc
qua 30 năm đổi mới, do Ủy ban Dân tộc biên soạn.
1.2.2. Những công trình nghiên cứu về đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số
Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa luận cứ và giải pháp, của Lê
Phương Thảo, Nguyễn Cúc, Doãn Hùng (Đồng chủ biên). Phát triển

nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta
hiện nay, của Lô Quốc Toản. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số của Đảng bộ bộ đội biên phòng từ năm 1996 đến năm
2006”, của Đặng Văn Trọng. Tạo nguồn cán bộ công chức xã người
dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay, của
Trương Thị Bạch Yến. Xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận người dân
tộc thiểu số trong thời kỳ mới, của Thào Xuân Sùng.


7
1.2.3. Những công trình nghiên cứu về vấn đề dân tộc ở các
tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế
Các dân tộc ít người ở Bình Trị Thiên, của tập thể tác giả Nguyễn
Quang Lộc, Nguyễn Hữu Thông, Trần Văn Tuấn, Dương Đình Khôi,
Vũ Thị Việt, Nguyễn Xuân Hồng, Nguyễn Văn Mạnh. Luật tục của
người Tà Ôi, Cơ tu, Bru - Vân Kiều ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế của
Nguyễn Văn Mạnh. KaTu kẻ sống đầu nguồn ngọn nước, do Nguyễn
Hữu Thông. Đồng bào các dân tộc thiểu số Thừa Thiên Huế mang họ
Hồ của chủ tịch Hồ Chí Minh, do Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế chủ trì xuất
bản. Người Tà Ôi ở Thừa Thiên Huế, do Hoàng Sơn.
1.2.4. Những công trình nghiên cứu về phát triển đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên Huế
Tài liệu các chuyên đề, nghiệp vụ, chính sách dân tộc cho cán
bộ địa phương tỉnh Thừa Thiên Huế, do Ban Dân tộc tỉnh Thừa Thiên
Huế biên soạn. Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số thuộc hệ
thống chính trị cấp tỉnh và huyện các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên
hiện nay - Thực trạng và giải phá, của Trương Minh Dục. Xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh Duyên hải miền Trung Thực trạng, dự báo nhu cầu và giải pháp của Nguyễn Văn Chỉnh.
Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên môn - nghiệp vụ thuộc các dân tộc

thiểu số ở miền Trung nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của Phạm Hảo.
1.3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH
NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Thứ nhất, các công trình đã đi sâu nghiên cứu và làm sáng tỏ
quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn
đề dân tộc và giải quyết các mối quan hệ dân tộc.
Thứ hai, nhiều công trình đã nghiên cứu và trình bày hệ thống
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và bình đẳng tộc người trên
các lĩnh vực.
Thứ ba, một số công trình đã đi sâu vào làm rõ thực trạng,
phương hướng, quan điểm và giải pháp phát triển ở một số vấn đề
liên quan đến chính sách đối với vùng dân tộc thiểu số như.
Thứ tư, đã có một số nghiên cứu bước đầu liên quan đến phát
triển đội ngũ cán bộ DTTS ở miền Trung trong đó có các tỉnh Quảng
Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.


8
1.4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU
- Luận án làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về đội ngũ
cán DTTS số và phát triển đội ngũ cán bộ DTTS ở các tỉnh Quảng
Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
- Làm rõ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ DTTS trong phát
triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số các tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
- Luận án làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với
phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
- Luận án luận giải các quan điểm và đề xuất các giải pháp chủ

yếu nhằm phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng
Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay.
Chƣơng 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH QUẢNG BÌNH,
QUẢNG TRỊ VÀ THỪA THIÊN HUẾ
(Từ trang 23 đến trang 66)
2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
DÂN TỘC THIỂU SỐ
2.1.1. Khái niệm “Đội ngũ cán bộ”,“đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số”, “phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số”
2.1.1.1. Khái niệm “Đội ngũ cán bộ”
Đội ngũ cán bộ là khái niệm được sử dụng phổ biến trong
nghiên cứu khoa học cũng như trong thực tiễn, có thể khái quát: đội
ngũ: là một khái niệm dùng để chỉ một tập hợp số đông người cùng
chức năng hoặc nghề nghiệp được tổ chức thành lực lượng nhằm
thực hiện những nhiệm vụ nhất định.
Cán bộ: là người đảm nhiệm chức vụ nhất định trong hệ
thống tổ chức của Đảng, bộ máy Nhà nước, trong lực lượng vũ
trang và trong các cơ quan đoàn thể; có phẩm chất đạo đức và
năng lực đáp ứng yêu cầu công việc, hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong một giai
đoạn lịch sử nhất định.


9
Thông qua cách giải thích hai khái niệm “đội ngũ” và “cán bộ”
như trên, có thể khái quát: Đội ngũ cán bộ là tập hợp những người
đảm nhiệm chức vụ nhất định trong hệ thống chính trị, có chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật và nội quy của

cơ quan; có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của đặc thù
công việc và góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong
những giai đoạn lịch sử nhất định.
2.1.1.2. Khái niệm “Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số”
Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là tập hợp những cán bộ xuất
thân từ dân tộc thiểu số đảm nhiệm chức vụ nhất định trong hệ thống
chính trị, có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của
pháp luật và nội quy của cơ quan; có phẩm chất và năng lực đáp ứng
yêu cầu của đặc thù công việc và góp phần thúc đẩy sự phát triển của
đất nước trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Trong một số
trường hợp, cụm từ “đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số” được sử
được sử dụng thay cho khái niệm “đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số”.
Đây là hai cụm từ đồng nghĩa và hoàn toàn có thể thay thế cho nhau
mà không gây nên sự nhầm lẫn trong thực tiễn và trong lý luận.
2.1.1.3. Khái niệm phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
Phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là tổng hợp những
hoạt động nhằm thúc đẩy sự biến đổi của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số theo xu hướng đi lên cả về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những giai đoạn lịch
sử nhất định. Từ quan niệm trên có thể hiểu phát triển đội ngũ cán bộ
DTTS ở Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế bao gồm:
Thứ nhất, về nội dung: phát triển số lượng, phát triển về chất
lượng,phát triển về cơ cấu đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Thứ hai, về chủ thể phát triển: Phát triển đội ngũ cán bộ DTTS
số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế là trách
nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị đứng đầu là tổ chức đảng, quần
chúng nhân dân và mỗi cán bộ dân tộc thiểu số.
Thứ ba, về phương thức phát triển: thực hiện bằng nhiều
phương thức khác nhau: tuyên truyền, giáo dục; tạo nguồn, quy
hoạch, đào tạo bồi dưỡng; khen thưởng, kỷ luật, luân chuyển; bằng

thể chế, quy định và kiểm tra giám sát cán bộ DTTS…


10
2.1.2. Quan điểm của C. Mác - Ph. Ăngghen và V.I. Lênin
về đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
C.Mác - Ph.Ăngghen chưa có những luận giải cụ thể đề đội
ngũ cán bộ DTTS. Tuy nhiên, hai ông đã thấy được tính tất yếu của
việc xây dựng một lực lượng có thể đưa lý luận cách mạng vào thực
tiễn đấu tranh, vận động, lãnh đạo và tổ chức quần chúng, thúc đẩy
sự phát triển của phong trào cách mạng. Trên cơ sở kế thừa những
luận điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen, Lênin đã xây dựng lý luận khoa
học về cán bộ. Người cương quyết chống lại chủ nghĩa dân tộc lớn,
chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và đề cao tư tưởng bình đẳng. Người chú
trọng tất cả các khâu tiếp theo của công tác cán bộ như: đào tạo, bồi
dưỡng; bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ…
2.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số
Để phát triển đội ngũ cán bộ DTTS, Bác chú ý đến các nội
dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, phải phát huy tinh thần đoàn kết trong công tác cán
bộ DTTS.
Thứ hai, cần tránh tâm lý tự ti, ngại cải tiến của một số cán bộ
dân tộc thiểu số
Thứ ba, cần bồi dưỡng và tự bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số
gắn liền với công tác quy hoạch cán bộ
Thứ tư, ưu tiên phát triển đội ngũ cán bộ nữ người dân tộc
thiểu số
2.1.4. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát
triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trên
tinh thần bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Thứ ba, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ DTTS phải toàn
diện, hài hòa, phù hợp đặc điểm tộc người và yêu cầu, nhiệm vụ
trong từng giai đoạn cách mạng.
Thứ tư, phát triển giáo dục đào tạo vùng dân tộc thiểu số làm
cơ sở cho tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số.


11
Thứ năm, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị trên cơ sở chủ động, tích cực
của chính đồng bào DTTS.
2.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH
QUẢNG BÌNH, QUẢNG TRỊ VÀ THỪA THIÊN HUẾ
2.2.1. Các yếu tố tác động đến phát triển đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế
2.2.1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên
Nhìn chung các yếu tố địa lý tự nhiên tác động không thuận chiều
đối với quá trình phát triển đội ngũ cán bộ DTTS ở các tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Điều kiện địa lý tự nhiên khắc nghiệt đã
kìm hãm sự phát triển mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội vùng dân tộc
thiểu số trong đó có sự phát triển đội ngũ cán bộ DTTS.
2.2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Trình độ phát triển kinh tế của vùng dân tộc thiểu số các tỉnh

Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế còn thấp. Đây là rào cản
tương đối lớn trong việc thực hiện các chính sách dân tộc trong đó có
phát triển đội ngũ cán bộ DTTS.
Về tổ chức xã hội, Trong cách thức tổ chức xã hội của đồng
bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên Huế, những người có uy tín như già làng, trưởng bản, người
đứng đầu dòng họ có vai trò rất quan trọng. Nếu phát huy được vai
trò của lực lượng này trong chính sách phát triển đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số sẽ mang lại hiệu quả rất tích cực.
2.2.1.3. Đặc điểm dân cư tộc người
Có bốn dân tộc thiểu số bản địa ở Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên Huế là: dân tộc Bru - Vân Kiều, dân tộc Cơ-tu, dân tộc
Ta-ôi và dân tộc Chứt, với số lượng 148.248 chiếm 5,7% tổng dân số
của ba tỉnh. Mặc dù không nhiều DTTS nhưng vấn đề tộc danh của
các dân tộc ở đây lại là vấn đề quan trọng cần giải quyết khi thực
hiện phát triển đội ngũ cán bộ DTTS.
2.2.1.4. Đặc điểm về văn hóa
Nhìn chung, văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số Quảng
Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế rất đặc sắc, phong phú và đa
dạng biểu hiện trong cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần như:
kiến trúc, điêu khắc, trong trang phục, lễ hội, phong tục, tập quán,
dân ca, dân vũ,tinh thần đoàn kết, yêu nước…Đây sẽ là không gian


12
tốt cho những chính sách nhân văn như chính sách phát triển đội ngũ
cán bộ DTTS thực sự mang lại hiệu quả.
2.2.1.5. Mối quan hệ giữa các dân tộc thiểu số ở Quảng
Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế
Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, vùng

dân tộc thiểu số các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế
là căn cứ địa cách mạng. Đây là vùng đất anh dũng với truyền thống
đoàn kết, yêu nước và vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng là một
thuận lợi rất lớn đối với việc phát triển đội ngũ cán bộ DTTS.
2.2.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế
2.2.2.1. Cán bộ dân tộc thiểu số là người đề xuất các chính
sách ở vùng dân tộc thiểu số cho Đảng và Nhà nước
Cán bộ DTTS ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên Huế xuất thân là người dân tộc thiểu số, là người có uy tín,
hiểu rõ những đặc điểm văn hóa, tâm lý, biết ngôn ngữ tộc người là
cơ sở để thực hiện công tác dân vận hiệu quả.
2.2.2.2. Cán bộ dân tộc thiểu số là người đi đầu trong công
tác dân vận ở vùng dân tộc thiểu số
Cán bộ DTTS ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên Huế thường người có uy tín, được tin tưởng và am hiểu văn
hóa, tâm lý, nguyện vọng của đồng bào DTTS nên sẽ có nhiều lợi thế
trong công tác dân vận.
2.2.2.3. Cán bộ dân tộc thiểu số là người lãnh đạo, quản lý,
tổ chức triển khai đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi ở các tỉnh Quảng
Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế
Cán bộ DTTS không chỉ là người gắn bó lâu dài, am hiểu thực
tiễn miền núi mà còn là người ý thức được trách nhiệm to lớn của mình
trong việc góp phần đưa các DTTS tiến kịp với trình độ phát triển chung
của đất nước. Mong muốn góp phần thúc đẩy sự phát triển của quê
hương và trách nhiệm với cộng đồng trở thành động lực to lớn thúc đẩy
cán bộ dân tộc thiểu số phấn đấu không ngừng trong công tác.
2.2.2.4. Cán bộ dân tộc thiểu số các tỉnh Quảng Bình, Quảng
Trị và Thừa Thiên Huế là lực lượng tiên phong trong việc thực

hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội ở địa phương
Muốn thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội ở vùng miền núi các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa


13
Thiên Huế thì cán bộ dân tộc thiểu số trước hết phải là lực lượng
nòng cốt, tiên phong, noi gương tốt để đồng bào làm theo. Hành động
thực tiễn chính là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm lý thuyết. Lời nói đi đôi
với việc làm và việc làm không chỉ là minh chứng cho lời nói mà còn
là thước đo lòng nhiệt tình và năng lực thực tiễn của cán bộ dân tộc
thiểu số. Người dân chỉ tin những người có lòng nhiệt tình và năng
lực thực tiễn. Bên cạnh đó, cán bộ dân tộc thiểu số là người dân tộc
thiểu số, cán bộ làm được thì đồng bào sẽ làm được. Đây chính là
logic tâm lý của đồng bào.
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH QUẢNG BÌNH, QUẢNG TRỊ
VÀ THỪA THIÊN HUẾ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
(Từ trang 67đến trang 106)
3.1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH QUẢNG BÌNH, QUẢNG
TRỊ VÀ THỪA THIÊN HUẾ
3.1.1. Thành tựu phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế và
nguyên nhân
3.1.1.1. Thành tựu phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế
Thứ nhất, số lượng cán bộ dân tộc thiểu số đã có những chuyển
biến tích cực.
Thứ hai, chất lượng đội ngũ cán bộ DTTS ở các tỉnh Quảng

Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế có những chuyển biến tích cực
trên một số mặt nhất định.
Thứ ba, thành tựu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên Huế.
Thứ tư, công tác tuyển dụng, tạo nguồn và quy hoạch cán bộ
DTTS ngày càng hiệu quả hơn.
3.1.1.2. Nguyên nhân của thành tựu
Thứ nhất, sự phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số.
Thứ hai, các cấp chính quyền ngày càng quan tâm hơn đến đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.


14
Thứ ba, việc ban hành và tổ chức triển khai chính sách phát triển
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được thực hiện kịp thời, nghiêm túc.
Thứ tư, sự phát triển của giáo dục và đào tạo vùng dân tộc
thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế đã
thúc đẩy sự phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Thứ năm, sự nỗ lực, phấn đấu của đồng bào các dân tộc thiểu
số và đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
3.1.2. Những hạn chế trong phát triển đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên
Huế và nguyên nhân
3.1.2.1. Những hạn chế trong phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế
Thứ nhất, số lượng cán bộ dân tộc thiểu số tăng nhưng thiếu sự
cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực, đặc biệt còn rất thiếu cán bộ
DTTS làm công tác dân tộc.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ DTTS cấp tỉnh còn thiếu và cấp cơ sở

còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển.
Thứ ba, trình độ quản lý nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu.
Thứ tư, trình độ tin học và ngoại ngữ của đội ngũ DTTS còn
thấp chưa đáp ứng được nhu cầu công việc và học tập.
Thứ năm, thiếu những cán bộ có trình độ cao trong nhiều lĩnh vực.
Thứ sáu, năng lực thực tiễn còn hạn chế.
Thứ bảy, cơ cấu giới tính trong đội ngũ cán bộ DTTS các tỉnh
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế còn có sự chênh lệch lớn.
3.1.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Nguyên nhân khách quan:
+ Những yếu tố thời tiết khắc nghiệt và địa hình không thuận lợi.
+ Do lịch sử để lại và hậu quả nặng nề của chiến tranh.
+ Khi bước vào thời kỳ đổi mới, vùng DTTS và miền núi tỉnh
các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế ở trên một xuất
phát điểm thấp.
+ Sự chống phá, xuyên tạc chính sách dân tộc nói chung và
chính sách phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng của
các thế lực thù địch.
Nguyên nhân chủ quan:
Đối với chính quyền các cấp:
+ Công tác quản lý Nhà nước về chính sách cán bộ dân tộc
thiểu số còn bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập, đôi lúc bị động.


15
+ Hạn chế trong nhận thức và thực hiện chính sách cán bộ DTTS.
Việc nhận thức về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà
nước về phát triển đội ngũ cán bộ DTTS của các cấp, các ngành chưa
sâu sắc, nhiều lúc còn mang nặng tính chủ quan, giáo điều.
Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số Quảng Bình, Quảng Trị

và Thừa Thiên Huế.
+ Trình độ dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên Huế còn thấp.
+ Tâm lý tự ti, cam chịu, tư tưởng bảo thủ cùng với sự bị động,
trông chờ, ỷ lại và phó mặc cho nhà nước trong bộ phận đồng bào
DTTS vẫn còn tồn tại.
+ Phong tục tập quán lạc hậu.
+ Những mâu thuẫn về tộc danh chưa được giải quyết một cách
thấu đáo dẫn đến hình thành rào cản vô hình trong công tác cán bộ.
+ Chính sách dân tộc chưa phát huy được động lực của cán bộ DTTS.
3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC
TỈNH QUẢNG BÌNH, QUẢNG TRỊ VÀ THỪA THIÊN HUẾ
3.2.1. Nhận thức của hệ thống chính trị các cấp về phát
triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số chƣa tƣơng xứng với vị trí,
vai trò của đội ngũ này
Việc phát triển đội ngũ cán bộ DTTS là một nhiệm vụ lâu dài,
khó khăn và có ý nghĩa chiến lược ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị
và Thừa Thiên Huế. Nhiều địa phương chưa có kế hoạch toàn diện,
lâu dài cho việc phát triển đội ngũ cán bộ DTTS. Cũng có lúc các địa
phương nhận thức việc phát triển đội ngũ cán bộ DTTS một cách đơn
giản, máy móc nên chỉ nặng về phát triển số lượng mà chưa chú ý
nhiều đến chất lượng cán bộ, cơ cấu cán bộ và đặc biệt là việc tuyển
dụng, bổ nhiệm cán bộ đúng với yêu cầu của xã hội và năng lực
chuyên môn của cán bộ. Vùng DTTS ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng
Trị và Thừa Thiên Huế có những đặc điểm riêng. Vì vậy, phát triển
đội ngũ cán bộ DTTS nói riêng cũng cần phải chú ý đến những đặc
điểm riêng đó để thực hiện hiệu quả hơn.
3.2.2. Trách nhiệm của hệ thống chính trị các cấp chưa tương
xứng với yêu cầu của công tác phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu

số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế
Trách nhiệm của hệ thống chính trị các cấp là phải cụ thể hóa
những chủ trương, đường lối của Đảng về công tác phát triển đội ngũ


16
cán bộ DTTS thành những chính sách, những chương trình, những
nội dung phù hợp với đặc điểm địa phương. Thực tiễn của công tác
phát triển đội ngũ cán bộ DTTS ở Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên Huế cho thấy ở nhiều nơi vẫn diễn ra hiện tượng trùng lặp,
chống chéo về chức năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức không phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ được giao. Vì vậy, việc làm rõ trách nhiệm của
hệ thống chính trị các cấp ở địa phương, vai trò của tổ chức Đảng đối
với công tác cán bộ, quy hoạch và đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số là
một nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
3.2.3. Mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số với đòi hỏi tinh giản biên chế và cải cách hành
chính ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế
Phát triển toàn diện đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là yêu cầu
tất yếu của công tác cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Thực trạng cán bộ DTTS ở các tỉnh
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế cho thấy một bộ phận
không nhỏ cán bộ hiện nay chưa thể nhanh chóng đáp ứng yêu cầu
này. Bên cạnh đó, với việc hầu hết các cơ quan trên địa bàn đã tuyển
dụng hết chỉ tiêu được giao nên trong những năm tới rất khó phát
triển nhanh số lượng cán bộ dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu.
3.2.4. Mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số với những rào cản trong cơ chế, chính sách sử
dụng, đãi ngộ và tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế

Những cơ chế chính sách sử dụng, đãi ngộ và tạo nguồn cán bộ
DTTS không chỉ giúp cán bộ DTTS yên tâm công tác mà còn là bằng
chứng cho sự tin tưởng, quan tâm của Đảng và Nhà nước vào khả năng
của đồng bào. Điều này không chỉ có ý nghĩa chính trị mà còn mang ý
nghĩa nhân văn sâu sắc. Vấn đề đặt ra ở đây là cần phải nghiên cứu, đề
xuất, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách ưu tiên, sử dụng đãi
ngộ và tạo nguồn cán bộ DTTS ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên Huế thực sự hiệu quả và phù hợp với thực tiễn địa phương
khi mà nguồn lực dành cho công tác này còn hạn chế.
3.2.5. Ý thức, trách nhiệm tham gia đào tạo và tự đào tạo
của bản thân cán bộ dân tộc thiểu số chưa tương xứng với vai
trò, vị trí của đội ngũ này
Suy cho cùng sự phát triển của tập thể phải dựa vào sự phát
triển của cá nhân. Để mỗi cá nhân phát triển thì yếu tố khách quan


17
đóng vai trò quan trọng và yếu tố chủ quan giữ vai trò quyết định. Do
ảnh hưởng của những tư tưởng truyền thống, một bộ phận cán bộ
DTTS Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế chỉ coi trọng tri
thức kinh nghiệm, cách thức quản lý truyền thống. Bên cạch đó, một
bộ phận lại có tư tưởng chủ quan, công thần hoặc tư ti, ngại tiếp cận
với tri thức mới đặc biệt là những tri thức về quản lý. Vì thế, cần
tuyên truyền để cán bộ DTTS thấy được trách nhiệm của mình trong
việc đào tạo và tự đào tạo để đáp ứng yêu cầu công tác.
Chƣơng 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH QUẢNG BÌNH,
QUẢNG TRỊ VÀ THỪA THIÊN HUẾ HIỆN NAY
(Từ trang 107 đến trang 141)

4.1. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CẦN QUÁN TRIỆT TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC
THIỂU SỐ
4.1.1. Phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phải gắn
liền với chiến lƣợc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn
Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là nhiệm vụ
trọng yếu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đội ngũ
cán bộ DTTS là lực lượng lãnh đạo, lực lượng nòng cốt, đi đầu trong
quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở vùng dân
tộc thiểu số. Quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn
ở mỗi địa phương khác nhau. Vì vậy, chiến lược phát triển đội ngũ
cán bộ DTTS phải luôn luôn gắn liền với chiến lược đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở các địa phương.
Có như thế công tác cán bộ DTTS mới thực sự khoa học, hiệu quả,
trách lãng phí các nguồn lực phục vụ cho công tác cán bộ và cả lãng
phí chính đội ngũ cán bộ đã được đào tạo.
4.1.2. Phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là nhiệm
vụ chiến lƣợc lâu dài, thƣờng trực, cấp bách của các tỉnh Quảng
Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế
Công tác cán bộ DTTS là công tác vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài
đồng thời là công tác thường trực, cấp bách gắn với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương. Đây là nguyên tắc rất quan trọng trong
chính sách cán bộ DTTS. Nguyên tắc này đòi hỏi khi xây dựng chiến lược


18
và sách lược phát triển cán bộ DTTS cần phải tuân thủ quan điểm toàn
diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử cụ thể. Có như thế đội ngũ
cán bộ DTTS mới thực sự đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách

mạng trước sự vận động biến đổi của tình hình trong nước và quốc tế.
4.1.3. Phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế phải trên cơ sở tôn
trọng những giá trị văn hóa và đặc điểm tâm lý tộc ngƣời
Đây là quan điểm thể hiện tính lịch sử cụ thể trong phát triển
đội ngũ cán bộ DTTS. Quan điểm này là cơ sở quan trọng cho việc
hoạch định và triển khai các chính sách phát triển đội ngũ cán bộ
DTTS ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Những
giá trị văn hóa và đặc điểm tâm lý tộc người ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả của chính sách dân tộc nói chung và chính sách phát triển
đội ngũ cán bộ DTTS nói riêng. Vì thế, tôn trọng những giá trị văn
hóa và đặc điểm tâm lý tộc người là quan điểm mang tính nguyên tắc
trong phát triển đội ngũ cán bộ DTTS.
4.1.4. Phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế phải phát huy đƣợc
vai trò, ý thức tự giác của bản thân mỗi cán bộ dân tộc thiểu số
Ý thức, trách nhiệm, tự học tập, tự đào tạo của cán bộ DTTS
để đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện ở các địa phương là yếu tố
quyết định sự phát triển của cán bộ. Đây cũng chính là nhiệm vụ
thường xuyên của cán bộ và cũng là tiêu chí quan trọng đánh giá chất
lượng đội ngũ cán bộ DTTS, là căn cứ cho việc quy hoạch, luân
chuyển và bổ nhiệm cán bộ. Vấn đề đặt ra ở đây là cần có sự nỗ lực
của bản thân cán bộ DTTS và cả hệ thống chính trị nhằm nâng ý thức
tự học tập, tự đào tạo cho cán bộ dân tộc thiểu số thành một nét văn
hóa trong công tác cán bộ.
4.2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH QUẢNG
BÌNH, QUẢNG TRỊ VÀ THỪA THIÊN HUẾ
4.2.1. Nhóm giải pháp thống nhất và nâng cao nhận thức về
tầm quan trọng của phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

Thứ nhất, cần quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về bình đẳng tộc người, về chính sách
phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở Quảng Bình, Quảng Trị
và Thừa Thiên Huế.


19
Thứ hai, sử dụng hiệu quả các phương tiện thông tin truyền
thông trong việc tuyên truyền nhằm thống nhất và nâng cao nhận
thức về tầm quan trọng của phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Thứ ba, cần phát huy vai trò của của hệ thống chính trị trong
việc nâng cao nhận thức tầm quan trọng của phát triển đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số.
Thứ tư, thực hiện dân chủ hóa công tác cán bộ DTTS gắn với
việc mạnh dạn phân công cán bộ DTTS có năng lực lãnh đạo các
hoạt động của địa phương.
Thứ năm, phát huy vai trò của người có uy tín trong cộng đồng
dân tộc thiểu số trong công tác phát triển ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
4.2.2. Nhóm giải pháp về quy hoạch tạo nguồn cán bộ
ngƣời dân tộc thiểu số
Thứ nhất, xác định đúng mục tiêu ngắn hạn và lâu dài của việc
xây dựng, quy hoạch và thực hiện quy hoạch tạo nguồn đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số.
Thứ hai, xây dựng các giải pháp, công cụ để xây dựng quy
hoạch và thực hiện quy hoạch tạo nguồn đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số và lựa chọn giải pháp, công cụ tối ưu nhất để thực hiện quy hoạch
tạo nguồn đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Thứ ba, phát huy dân chủ trong xây dựng quy hoạch và thực
hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
4.2.3. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách phát triển đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
Thứ nhất, đổi mới cơ chế, chính sách huy động nguồn tài chính
phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Thứ hai, đổi mới cơ chế, chính sách tài chính cho phát triển
cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên Huế.
Thứ ba, cần có cơ chế, chính sách thu hút tri thức người dân
tộc thiểu số và tri thức người Kinh công tác lâu dài ở vùng dân tộc
thiểu số các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
4.2.4. Nhóm giải pháp về nâng cao ý thức trách nhiệm
tham gia đào tạo và tự đào tạo của cán bộ các dân tộc thiểu số ở
địa phƣơng
Thứ nhất, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục để cán bộ dân
tộc thiểu số ý thức được trách nhiệm của bản thân trong việc tham gia
đào tạo và tự đào tạo.


20
Thứ hai, cần xây dựng và thực hiện nghiêm túc quy định về
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ dân tộc thiểu số.
Thứ ba, thực hiện đánh giá năng lực cán bộ bằng hiệu quả
công tác và thông qua khảo sát ý kiến của người dân.
Thứ tư, đưa ý thức trách nhiệm tham gia đào tạo và tự đào tạo
là cơ sở quan trọng trong quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ.
Thứ năm, tạo môi trường thi đua học tập trong từng cơ quan đơn vị.
4.2. . Nhóm giải pháp về giáo dục và đào tạo nh m nâng
cao chất lƣợng nguồn cán bộ dân tộc thiểu số
Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nhằm thúc đẩy sự phát
triển năng lực nguồn nhân lực vùng DTTS sẽ là cơ sở cho công tác tạo
nguồn cán bộ DTTS. Chất lượng giáo dục vào đào tạo phụ thuộc vào

bốn yếu tố cơ bản: người dạy và người quản lý giáo dục, người học, cơ
sở vật chất, chương trình dạy học. Để nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo ở vùng dân tộc và thiểu số các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên Huế cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp tác động đến
cả bốn yếu tố trên. Tuy nhiên, trong các yếu tố đó, người dạy là yếu tố
mang tính chất quyết định nhất. Vì vậy, để nâng cao chất lượng giáo
dục, vấn đề cơ bản đầu tiên phải nâng cao năng lực của nhà giáo. Sự
phát triển giáo dục và đào tạo các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên Huế cũng không nằm ngoài quy luật đó.
4.2.6. Nhóm giải pháp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
vùng dân tộc thiểu số
Trên lĩnh vực kinh tế:
Thứ nhất, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật
phục vụ cho phát triển kinh tế ở vùng DTTS các tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn, phát triển kinh tế hàng hóa đồng thời có những
chính sách nhằm thu hút vốn đầu tư, khoa học - công nghệ vào phát
triển vùng DTTS.
Thứ ba, tập trung đầu tư phát triển một số ngành kinh tế mũi
nhọn của vùng DTTS.
Thứ tư, tiếp tục thực hiện hiệu quả chính sách giao đất, giao
rừng và chuyển giao kỹ thuật canh tác cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội
Thứ nhất, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc người,
chống lại các hủ tục lạc hậu, nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào.
Thứ hai, thực hiện hiệu quả các chính sách xã hội trên địa bàn
dân tộc.



21
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số có vai trò đặc biệt
đối với các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Nội
dung này không chỉ là sự thể hiện rõ nét chính sách bình đẳng tộc
người trên lĩnh vực chính trị mà còn tạo động lực to lớn thúc đẩy sự
phát triển mọi mặt đời sống xã hội vùng dân tộc thiểu số ở các tỉnh
nêu trên. Tuy nhiên, đây cũng là một nội dung phức tạp và nhạy cảm
đòi hỏi cần phải có những bước thực hiện đúng đắn và khoa học.
Những sự chủ quan, áp đặt, xa rời thực tiễn trong việc đề xuất, ban
hành và thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số chắc chắn sẽ tác động tiêu cực đến ổn định chính trị và sự phát
triển bền vững ở Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Thông
qua việc nghiên cứu đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số hiện nay, có thể
rút ra những điểm sau:
Thứ nhất, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh Quảng Bình, Quảng
Trị và Thừa Thiên Huế là vùng có những đặc điểm địa lý tự nhiên,
dân cư, văn hóa, lịch sử tộc người và phương thức sản xuất khác biệt
so với những vùng dân tộc thiểu số khác trên cả nước. Vì thế chính
sách phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh nêu trên cần
phải có những nét đặc thù, sáng tạo để phù hợp với thực tiễn trên cơ
sở những nguyên tắc và định hướng chung trong chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc.
Thứ hai, chính sách đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh
Quảng Bình, Quảng Trị cần gắn với quá trình đẩy mạnh cộng nghiệp
hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Chính quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn sẽ đưa ra những yêu cầu khách
quan về số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Phát triển đội ngũ cán bộ DTTS phải đáp ứng được yêu cầu đó và

góp phần thực hiện thắng lợi quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên Huế.
Thứ ba, trách nhiệm phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế là trách nhiệm
chung của toàn xã hội, của hệ thống chính trị các cấp trong đó đứng
đầu là tổ chức Đảng. Tổ chức Đảng cần phải thể hiện vai trò lãnh đạo
của mình ở tất cả các khâu của quá trình chính sách cán bộ dân tộc
thiểu số như: hoạch định chính sách; thể chế hóa chính sách; tổ chức


22
các hình thức cơ cấu để thực hiện chính sách; chỉ đạo thực hiện chính
sách; kiểm tra điều chỉnh và tổng kết chính sách.
Thứ tư, phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trên cơ sở
phát huy năng lực nội tại, ý thức tự giác của các tộc người ở Quảng
Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Để làm được điều này cần phải
thay đổi nhận thức của đồng bào DTTS các tỉnh trên về tầm quan
trọng của việc phát triển đội ngũ cán bộ DTTS; khắc phục tâm lý tự
ti, ỷ lại trong một bộ phận cán bộ DTTS; phát huy vai trò của đồng
bào DTTS trong đào tạo và tự đạo nhằm tạo ra sự đồng thuận xã hội
trong chính sách cán bộ ở vùng dân tộc thiểu số các tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
Thứ năm, phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế cần phải thực hiện đồng
bộ và hiệu quả các nhóm giải pháp trên các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội: nhóm giải pháp thống nhất và nâng cao nhận thức về
tầm quan trọng của phát triển đội ngũ cán bộ DTTS; nhóm giải pháp
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng DTTS; nhóm giải pháp về
xây dựng quy hoạch và thực hiện quy hoạch tạo nguồn cán bộ người

DTTS; nhóm giải pháp về giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ DTTS; nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách
phát triển đội ngũ cán bộ DTTS. Mỗi nhóm giải pháp đều có vị trí và
vai trò nhất định. Vì thế, quá đề cao và xem nhẹ một vài nhóm giải
pháp nào đó có thể sẽ ảnh hưởng nghịch chiều đến quá trình phát
triển đội ngũ cán bộ DTTS các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên Huế.
KIẾN NGHỊ
Đối với Trung ƣơng:
Thứ nhất, cần xây dựng Luật dân tộc làm cơ sở pháp lý cho
các chính sách dân tộc trong đó có chính sách phát triển đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số. Hiện nay chưa có một văn bản quy phạm pháp
luật nào ở tầm luật thể chế một cách đầy đủ, toàn diện, thống nhất các
chủ trương của Đảng và các quy định của Hiến pháp về lĩnh vực dân
tộc, công tác dân tộc trong đó có phát triển đội ngũ cán bộ DTTS. Do
đó, việc xây dựng và ban hành Luật Dân tộc sẽ đáp ứng đòi hỏi trên,
tạo cơ sở pháp lý cho đồng bào các DTTS thực hiện đầy đủ quyền và
nghĩa vụ của mình. Đây cũng chính là cơ sở pháp lý để các cấp chính
quyền ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế thực
hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ DTTS.


23
Thứ hai, cần sớm giải quyết vấn đề tộc danh của người Pa Kô
và người Bru -Vân Kiều. Đây là vấn đề thực tiễn quan trọng trong
công tác dân tộc ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên
Huế. Mặc dù đã có kiến nghị Quốc hội đưa tên tộc người Pa Kô vào
danh mục các thành phần dân tộc ở Việt Nam nhưng đến nay vấn đề
này vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng. Với người Bru -Vân Kiều
cũng có những tranh luận về tộc danh khi một bộ phận đồng bào

mong muốn tách biệt rõ ràng tên gọi người Bru và Vân Kiều. Những
tranh luận về tộc danh tác động đến đồng thuận xã hội và ảnh hưởng
tiêu cực đến công tác thống kê, nghiên cứu ở vùng dân tộc thiểu số.
Vì vậy, cần nhanh chóng giải quyết vấn đề này để ổn định tâm lý của
đồng bào DTTS, làm cơ sở cho việc thực hiện công tác dân tộc ở các
tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
Thứ ba, cần có quy định rõ ràng, thống nhất về dữ liệu thống
kê đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trên toàn quốc. Dữ liệu thống kê
về đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là cơ sở thực tiễn quan trọng cho
việc thực hiện những nghiên cứu khoa học nhằm đề xuất, hoạch
định chính sách phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Tuy
nhiên, hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất trong thống kê về đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh thể hiện ở việc nhiều cơ quan
tiến hành thống kê: Sở Nội vụ, Ban Dân tộc, Ban tổ chức tỉnh ủy,
Ủy ban nhân dân các tỉnh…nhiều lúc cách thức thống kê, số liệu
thống kê không thống nhất. Vì vậy, cần có quy định rõ ràng, thống
nhất về công tác thống kê đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong đó
có việc công bố số liệu thống kê làm cơ sở cho việc nghiên cứu,
hoạch định chính sách và thực hiện dân chủ trong công tác phát
triển đội ngũ cán bộ DTTS.
Đối với các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế
Thứ nhất, cần có kế hoạch thực hiện Quyết định phê duyệt Đề
án “Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc
thiểu số trong thời kỳ mới” của Thủ tướng Chính phủ. Quyết định
trên là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện chính sách phát triển đội
ngũ cán bộ DTTS ở các tỉnh hiện nay. Quyết định đã chỉ rõ mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ DTTS. Bên cạnh đó,
Quyết định cũng quy định rất rõ ràng, cụ thể về tỷ lệ đội ngũ cán bộ
DTTS ở các cấp chính quyền từ cấp tỉnh, cấp huyện đến cấp xã,
phường, thị trấn, trong các cơ quan dân tộc và lộ trình bắt buộc phải

đạt được tỷ lệ đã nêu chậm nhất là đến năm 2020. Với thực trạng đội


×