Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Triết học: Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.04 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THU THỦY

PHÁT HUY GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG
TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA
Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08

HÀ NỘI - 2018


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. Đỗ Thị Thạch
2. TS. Nghiêm Sĩ Liêm

Phản biện 1:.........................................................
.........................................................

Phản biện 2:.........................................................
.........................................................

Phản biện 3:.........................................................
.........................................................



Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 20......

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là một xã hội thu nhỏ, trong đó hiện diện
đầy đủ các quan hệ xã hội như quan hệ kinh tế, quan hệ giáo dục, quan hệ văn
hóa, quan hệ tổ chức... Gia đình chính là cơ sở kiến tạo nên một xã hội rộng
lớn. Do đó, sự trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào sự
tồn tại và trình độ phát triển của mỗi gia đình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “...
Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội
tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”.
Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để
đạt được mục tiêu trên, Đảng, Nhà nước yêu cầu các cấp, ngành, cộng đồng và
nhân dân phải thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, trong đó chú trọng xây
dựng “Gia đình văn hóa” (GĐVH) là nhiệm vụ hết sức cơ bản. Trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến
bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan
trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách...con người và nền
văn hóa Việt Nam”.

Quán triệt quan điểm của Đảng, ngày 04 tháng 5 năm 2001, Thủ tướng
Chỉnh phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Quyết định
số 72/2001/QĐ-TTg lấy ngày 28 tháng 6 hằng năm là Ngày gia đình Việt Nam.
Ngày 29 tháng 5 năm 2012, Thủ tướng Chỉnh phủ đã ký Quyết định số
629/QĐ-TTg “phê duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn 2030”, trong đó đã chỉ ra việc xây dựng GĐVH ở Việt Nam
hiện nay không thể không kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống
đã được hình thành, chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bởi vì,
văn hóa của một dân tộc nói chung, văn hóa gia đình nói riêng là một dòng
chảy lịch sử, xuyên suốt từ truyền thống đến hiện đại.
Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) là một trong những cái nôi văn hóa của
Việt Nam, là nơi cư trú và sinh sống của nhiều gia đình tryền thống (GĐTT).
Trong giai đoạn hiện nay, ĐBSH có tiềm năng to lớn về kinh tế, chính trị, văn


2

hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên, truyền thống văn hóa... tạo ra lợi thế phát triển
cao hơn so với nhiều vùng khác trong cả nước. Theo đó, việc phát huy những
giá trị của GĐTT trong xây dựng GĐVH cũng có những thuận lợi đáng kể: tăng
trưởng kinh tế cao, trình độ dân trí tốt, nhận thức xã hội của người dân khá cao,
vị trí địa lý thuận lợi cho giao lưu văn hóa...
Tuy nhiên, trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH cũng có nhiều vấn đề
đang đặt ra cần phải được nghiên cứu làm sáng tỏ. Nổi bật như chưa có sự
thống nhất, tường minh trong nhận thức về giá trị GĐTT; chưa được cụ thể
hóa đầy đủ các giá trị của GĐTT thành các tiêu chuẩn, tiêu chí của danh hiệu
GĐVH; hoạt động của các chủ thể phát huy, nhất là các cơ quan quản lý Nhà
nước chưa đủ mạnh; nhận thức của người dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của
việc phát huy các giá trị GĐTT chưa đầy đủ, sâu sắc... Những hạn chế này dẫn
đến tình trạng một bộ phận gia đình, người dân trong vùng chưa phân biệt rõ

những giá trị nào của GĐTT cần phát huy, những nội dung nào không còn giá
trị, không phù hợp với yêu cầu mới hiện nay, phát huy những giá trị của
GĐTT bằng cách nào, v.v...
Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng và những bất cập nêu trên, tác giả
chọn đề tài: “Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình
văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay” làm luận án tiến sĩ với mong
muốn góp phần tìm ra những giải pháp khả thi để phát huy các giá trị tốt đẹp
của GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH trong bối cảnh mới hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực trạng phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng
GĐVH ở vùng ĐBSH, luận án đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH đáp ứng
yêu cầu đổi mới hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài liên quan đến luận án.
- Khái quát cơ sở lý luận phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH
ở vùng ĐBSH.
- Làm rõ thực trạng phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng
ĐBSH và vấn đề đặt ra hiện nay.


3

- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp phát huy giá trị GĐTT trong xây
dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu giá trị GĐTT và phát huy giá trị GĐTT trong xây
dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Về nội dung
Luận án nghiên cứu phát huy giá trị GĐTT Việt Nam, trong đó chủ yếu
là giá trị văn hoá truyền thống của gia đình trong xây dựng GĐVH ở vùng
ĐBSH hiện nay, bao gồm giá trị đạo đức, giá trị giáo dục, giá trị tâm lý, tình
cảm và giá trị ý thức cộng đồng của GĐTT.
3.2.2. Về không gian
Luận án nghiên cứu việc phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH
ở vùng ĐBSH thông qua nghiên cứu thực trạng ở một số tỉnh có tính chất đại
diện cho vùng như: Hà Nội - trung tâm vùng, thủ đô của cả nước; Vĩnh Phúc,
Bắc Ninh, Hưng Yên - phía Bắc vùng ĐBSH; Thái Bình, Nam Định - phía
Nam vùng ĐBSH.
3.2.3. Về thời gian
Luận án nghiên cứu việc phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH
ở vùng ĐBSH thời kỳ đổi mới, đặc biệt là từ khi có Nghị quyết Trung ương
5, khoá VIII (1998) về xây dựng văn hoá, GĐVH đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
- Luận án thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về vấn đề gia đình và xây dựng GĐVH ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án cũng kế thừa tài liệu, công trình của các nhà nghiên cứu, các
hoạt động thực tiễn ở Việt Nam và thế giới liên quan đến vấn đề gia đình và
xây dựng GĐVH.
- Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các
phương pháp cụ thể để giải quyết nhiệm vụ, mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.


4


4.2. Phương pháp cụ thể
Luận án sử dụng nhiều phương pháp trong nghiên cứu chuyên ngành triết
học - chính trị xã hội như: lôgic - lịch sử, phân tích, thống kê, so sánh, tổng
hợp… Ngoài ra luận án đã sử dụng phương pháp thu thập thông tin, gồm:
Thông tin thứ cấp: thu thập tư liệu, tài liệu, các văn bản, chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, báo cáo, thống kê của các cơ quan chức năng có thẩm quyền
và kết quả của các công trình nghiên cứu đã công bố về vấn đề gia đình, giá trị
GĐTT và xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH, ở Việt Nam hiện nay.
Luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học thông qua phiếu hỏi bao
gồm một số chỉ tiêu đánh giá như: thực trạng nội dung, cách thức tuyên truyền, giáo
dục và chủ thể phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện
nay… Đối tượng hỏi là những người đã qua giáo dục phổ thông, đủ điều kiện nhìn
nhận, đánh giá quá trình nhận thức những giá trị GĐTT của bản thân từ khi sinh ra
đến tuổi trưởng thành ở vùng ĐBSH. Tổng số 900 phiếu chia đều cho 6 tỉnh, mỗi
tỉnh 150 phiếu hỏi. Thời gian thực hiện từ tháng 4 đến tháng tháng 8 năm 2016.
5. Đóng góp mới của luận án
- Góp phần làm rõ thực trạng phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng
GĐVH ở vùng ĐBSH và những vấn đề đang đặt ra hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu, khả thi nhằm thực hiện tốt phát huy
giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH trong giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Góp phần cung cấp một số luận cứ lý luận, thực tiễn cho việc hoạch
định các chính sách về xây dựng GĐVH ở Việt Nam nói chung và vùng
ĐBSH nói riêng.
- Làm tư liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy
những chuyên đề liên quan đến vấn đề gia đình, xây dựng GĐVH ở Việt
Nam trong chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học và các chuyên ngành
liên quan như: xã hội học, chính trị học, văn hoá học, phụ nữ học…
7. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án được kết cấu thành 4 chương, 9 tiết.


5

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
1. World Revolution and Family Patterns (Cách mạng thế giới và các
dạng thức gia đình) của William J.Goode; 2. Family structure in nineteeth
century Lancashir (Hình thái gia đình người Lancashir thế kỷ 19) của tác giả
Michael Anderson; 3. The future of marriage (Tương lai của hôn nhân) của
Jessie Bernard; 4. Family obligations and social change (Gia đình và đời sống
gia đình) của Janet Finch; 5. The futures of the Family (Tương lai của gia đình)
của Charles L.Jones, Lorne Tepperman, Susannach J.Wilson - Bản dịch tiếng
Việt do TS. Vũ Quang Hà biên dịch và Trần Thị Kim Xuyến hiệu đính; 6. The
Family in Global Prespective - A Gendered Journey (Gia đình theo quan điểm
toàn cầu - Hành trình giới tính) của Elaine Leeder.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước

1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về gia đình và giá trị gia đình
truyền thống
Một số công trình nghiên cứu chung về gia đình tiêu biểu như: 1. Xã hội
học gia đình của Mai Huy Bích (2003); 2. Tìm hiểu tác phẩm: Nguồn gốc gia
đình của chế độ tư hữu và của nhà nước, của Lê Trọng Ân (2004); 3. Gia đình
học của tác giả Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý (2007); 4. Quản lý nhà nước về

gia đình: lý luận và thực tiễn của tác giả Lê Thị Quý (2010)…
Nghiên cứu về giá trị gia đình truyền thống có các công trình: 1. Những
tình huống ứng xử trong gia đình của Lê Minh (1994); 2. Đất lề quê thói
(phong tục Việt Nam) của tác giả Vũ Văn Khiếu (2001); 3. Lễ tục trong gia
đình người Việt Nam của Bùi Xuân Mỹ (2001); 4. Chương trình KX- 07- 02:
“Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay” do GS Phan Huy Lê
và GS Vũ Minh Giang chủ trì; 5. Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam của
GS Trần Văn Giàu (1998); 6. Gia đình Việt Nam - các giá trị truyền thống của
Phạm Xuân Nam (2001); 7. Giá trị truyền thống trước thách thức của toàn cầu
hóa, của Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên đồng chủ biên (2002); 8.
Gia đình, trẻ em và sự kế thừa các giá trị truyền thống của Đặng Cảnh Khanh
(2003); 9. Gia đình Việt Nam những giá trị truyền thống và các vấn đề tâm -


6

bệnh lý xã hội của Đặng Phương Kiệt chủ biên (2007); 10. Gia đình - Những
giá trị truyền thống của Nguyễn Thế Long (2012)…
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng và xu hướng biến đổi
của gia đình Việt Nam hiện nay
Đây là hướng nghiên cứu thu hút được rất nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm, tìm hiểu vì thế nên số lượng các công trình nghiên cứu liên quan đến phần
này rất phong phú và đa dạng. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu sau: 1. Gia đình Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập từ cách tiếp cận so sánh của Nguyễn Hữu Minh chủ biên (2014); 2.
Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới của GS. Lê Thi (2002); 3.
Gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay của
tác giả Dương Thị Minh (2004); 4. Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam
của Lê Ngọc Văn (2011); 5. Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ
ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, của Nghiêm Sĩ Liêm (2001); 6.

Đạo đức gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Luận án
Tiến sĩ Triết học của Nguyễn Thị Thọ (2010); 7. Sự biến đổi của văn hóa gia
đình Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học của Lê Văn Hùng (2015)…
1.1.2.3. Các công trình nghiên cứu về gia đình văn hóa và xây dựng gia
đình văn hóa ở Việt Nam
Ở hướng nghiên cứu này, chúng ta có thể kể đến một số cuốn sách, luận
án tiến sĩ và một số bài báo đăng trên các tạp chí lý luận, chuyên ngành cụ thể
như: 1. Xây dựng Gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới của Trần Hữu
Tòng - Trương Thìn (1997); 2. Để có một gia đình văn hóa của Hoàng Bích
Nga (2005); 3. Văn hoá gia đình Việt Nam, của Vũ Ngọc Khánh (2007); 4. Về
xây dựng Gia đình văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng Đại hội XI của Đảng
đăng trên Tạp chí Cộng sản số 56, tháng 8 năm 2011 của PGS.TS. Đỗ Thị
Thạch (2011); 5. Giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá dân tộc trong xây dựng
văn hoá gia đình Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học của An Thị
Ngọc Trinh (2014)...

1.1.2.4. Các công trình nghiên cứu về gia đình vùng Đồng bằng Sông Hồng
Công trình nghiên cứu về gia đình vùng ĐBSH tiêu biểu như: 1. Đặc điểm
gia đình đồng bằng sông Hồng của Mai Huy Bích (1993); 2. Gia đình truyền
thống - Một số tư liệu nghiên cứu xã hội học, của Khuất Thu Hồng (1996); 3. Sự
biến đổi của làng - xã Việt Nam hiện nay (ở Đồng bằng sông Hồng), của Tô Duy
Hợp (2000); 4. Ứng xử của người dân vùng Đồng bằng sông Hồng trong gia
đình của Lê Thị Thanh Hương chủ biên (2009); 5. Đời sống văn hóa của cư dân


7

Hà Nội, của Nguyễn Hữu Minh chủ biên (2014); 6. Sự biến đổi của văn hóa gia
đình đô thị ở Hà Nội từ 1986 đến nay, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, của Vũ Thị
Huệ (2010); 7. Sự biến đổi của chức năng gia đình ở vùng Đồng bằng sông

Hồng trong bối cảnh hiện nay, Đề tài cấp cơ sở Viện Chủ nghĩa Xã hội Khoa
học, của PGS. TS. Nguyễn Thị Ngân (2013); 8. Các tỉnh ủy ở đồng bằng sông
Hồng lãnh đạo phát triển văn hóa - xã hội trong giai đoạn hiện nay, Luận án
Tiến sĩ Khoa học chính trị của Lê Văn Thư (2015)...
Như vậy, có thể thấy, qua thu thập tài liệu tổng quan nghiên cứu và theo
hiểu biết của cá nhân, Tác giả nhận thấy chưa có đề tài nào nghiên cứu trực tiếp
việc phát huy giá trị GĐTT trong việc xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng
bằng sông Hồng nói riêng và Việt Nam nói chung hiện nay.
1.2. GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC TỔNG QUAN VÀ
VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN

1.2.1. Giá trị của các công trình nghiên cứu luận án cần tham khảo
Thứ nhất, các tác giả ở nước ngoài đã làm rõ được cơ sở lý luận chung về
gia đình và những vấn đề liên quan đến hôn nhân gia đình, GĐTT. Kết quả của
các công trình nghiên cứu này sẽ là những cơ sở lý luận chỉ dẫn cho tác giả luận
án nghiên cứu về vấn đề liên quan đến gia đình trên thực tiễn tốt hơn.
Thứ hai, các công trình trong nước đã đưa ra một cách tổng thể, khách
quan về bức tranh gia đình Việt Nam hiện nay. Đây là những tài liệu quan trọng
để luận án tham khảo đi sâu phân tích thực trạng phát huy giá trị GĐTT trong
xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.
Thứ ba, các tác giả đã làm cho bức tranh về GĐVH và xây dựng
GĐVH ở Việt Nam hiện nay dần sáng hơn cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Nghiên cứu tài liệu theo hướng này, giúp cho luận án có cơ sở để đưa ra
đề xuất, kiến nghị, giải pháp có tính khoa học và có thể thực thi trên thực
tế nhằm phát huy tốt giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH
hiện nay.
Thứ tư, một số công trình ở ĐBSH về cơ bản đã khái quát được đặc điểm
cấu trúc, chức năng gia đình ĐBSH; phân tích được sự biến đổi của văn hóa
làng, văn hóa gia đình, dòng họ và nghiên cứu ứng xử của cư dân đồng bằng
sông Hồng nói chung, ứng xử văn hóa của cư dân Hà Nội nói riêng… Đây

chính là tài liệu tham khảo trực tiếp giúp tác giả có những căn cứ thực tiễn để
phân tích về gia đình, khảo sát, đánh giá thực trạng phát huy giá trị GĐTT trong
xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.


8

1.2.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo đặt ra cho luận án
Một là, hệ thống hoá cơ sở lý luận, thực tiễn về việc phát huy những giá
trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay, bao gồm: khái quát
về gia đình, GĐTT, giá trị GĐTT, GĐVH; làm rõ sự cần thiết phải phát huy giá
trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH; chỉ ra những nội dung,
phương thức, chủ thể phát huy cũng như phân tích các yếu tố tác động đến phát
huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.
Hai là, phân tích, làm rõ thực trạng phát huy giá GĐTT trong xây dựng
GĐVH ở vùng ĐBSH từ đó chỉ ra vấn đề cần phải giải quyết đặt ra hiện nay.
Ba là, trên cơ sở lý luận, thực tiễn nghiên cứu và phân tích thực trạng phát
huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH cùng những vấn đề đặt
ra đòi hỏi phải giải quyết, tác giả luận án đề xuất các quan điểm, giải pháp chủ
yếu có tính khả thi nhằm phát huy có hiệu quả những giá trị GĐTT trong xây
dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT HUY GIÁ TRỊ
GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH
VĂN HÓA Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

2.1.1. Quan niệm, đặc trưng và giá trị gia đình truyền thống
2.1.1.1. Gia đình truyền thống
Trên cơ sở phân tích quan niệm và cách tiếp cận của một số nhà nghiên

cứu về GĐTT, tác giả luận án quan niệm GĐTT là sản phẩm của xã hội nông
nghiệp cổ truyền, tồn tại, phát triển cả ở thành thị, nông thôn, có thể theo tư
tưởng Nho gia hoặc ít ảnh hưởng của Nho gia, trong đó chứa đựng nhiều yếu
tố tương đối ổn định, bền vững phản ánh văn hóa bản địa được truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác tạo nên nét đặc sắc của văn hóa dân tộc.
2.1.1.2. Đặc trưng của gia đình truyền thống
Một là, GĐTT là sản phẩn của xã hội nông nghiệp cổ truyền, gắn với nền
kinh tế tự nhiên, sản xuất tự cung, tự cấp là chính và ít biến đổi trong biến thiên
của lịch sử.
Hai là, gia đình thường đông con, kết hôn sớm.
Ba là, gia đình có kết cấu bền chặt, quy mô lớn.
Bốn là, tư tưởng, giá trị chuẩn mực gia đình và giáo dục trong gia đình
chủ yếu theo tư tưởng của Nho giáo.


9

Năm là, tính cố kết cộng đồng, yêu thương và có trách nhiệm cao đối với
các thành viên trong gia đình thậm chí mở rộng ra dòng họ, làng, xã và quê
hương, đất nước.
2.1.1.3. Giá trị của gia đình truyền thống Việt Nam
Trên cơ sở luận bàn về giá trị, truyền thống và vai trò của giá trị truyền
thống, tác giả hiểu Giá trị GĐTT là những yếu tố, những mặt, những quy tắc,
chuẩn mực đúng đắn, tốt đẹp, tích cực về đạo đức, giáo dục, tâm lý tình cảm
và ý thức cộng đồng được nảy sinh, hình thành, tồn tại, phát triển trong
GĐTT, được cộng đồng xã hội cũng như từng GĐTT thừa nhận, hướng tới, áp
dụng, lưu giữ và truyền lại cho các thế hệ sau. Nó là cái tương đối ổn định,
được lưu truyền trong mỗi gia đình, giúp cho các thành viên trong gia đình noi
theo, xác định được mục tiêu, phương hướng cho hoạt động của mình.Giá trị
của GĐTT đã góp phần chủ yếu tạo ra sự êm ấm, hạnh phúc của gia đình, là tế

bào lành mạnh để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và góp phần hình thành nên
truyền thống của dân tộc, hình thành nên nền văn hóa đậm đà bản sắc của dân
tộc Việt Nam.
2.1.2. Quan niệm và đặc trưng của gia đình văn hóa
Qua nghiên cứu, kế thừa các công trình đi trước, tác giả hiểu: GĐVH là
một kiểu gia đình mới được hình thành trên cơ sở giữ gìn, kế thừa, phát huy
những giá trị tốt đẹp của GĐTT, của văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu có
chọn lọc những giá trị tiến bộ, nhân văn của nhân loại trong thời đại mới. Gia
đình đó phải tạo ra được môi trường tốt để các thành viên trong gia đình có
điều kiện phát triển toàn diện, hài hòa cả vật chất lẫn tinh thần và để gia đình
thực sự là tế bào mạnh khỏe, thúc đẩy phát triển xã hội.
Từ quan niệm và các tiêu chí công nhận về GĐVH, tác giả cho rằng
GĐVH bao gồm 05 đặc trưng cơ bản sau: là sản phẩm của xã hội mới khi nước
Việt Nam giành được độc lập và lựa chọn phát triển đất nước theo con đường
định hướng xã hội chủ nghĩa; thường là gia đình có quy mô nhỏ (gia đình hạt
nhân, gia đình hai thế hệ), ít con và kết hôn theo quy định của pháp luật; gương
mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, quy định của địa phương, nơi cư trú và tích cực tham gia các phong trào
thi đua; là sự kết hợp giữa những giá trị tốt đẹp của GĐTT với những yếu tố
tiến bộ, nhân văn của thời đại; là gia đình no ấm, dân chủ, bình đẳng, tiến bộ và
hạnh phúc, bền vững.


10
2.2. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC, CHỦ THỂ VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHÁT HUY GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG TRONG XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

2.2.1. Nội dung, phương thức, chủ thể phát huy giá trị gia đình
truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông

Hồng hiện nay
2.2.1.1. Nội dung những giá trị gia đình truyền thống cần phát huy
trong xây dựng gia đình văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng
Thứ nhất, phát huy giá trị đạo đức của GĐTT thể hiện qua các mối quan
hệ giữa các thành viên trong gia đình: vợ - chồng (sống yêu thương, tình nghĩa,
thủy chung, hòa thuận); cha mẹ - con cái (cha mẹ hiền từ, sẵn sàng hy sinh,
chăm sóc cho con, con cái có hiếu với cha mẹ); ông bà - con cháu (ông bà
gương mẫu, hòa thuận, con cháu hiếu thảo, hiền lành, chăm ngoan); anh/chị em (anh, chị, em hòa thuận, thương yêu, gắn bó, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau).
Thứ hai, phát huy giá trị giáo dục của GĐTT, gồm: giáo dục các chuẩn
mực đạo đức trong gia đình, ứng xử bên ngoài xã hội; giáo dục học tập văn
hóa; giáo dục lao động, rèn luyện tính tự lập và giáo dục giới tính cho con trẻ.
Thứ ba, phát huy giá trị tâm lý, tình cảm của GĐTT, gồm: phát huy sự
yêu thương, quan tâm, chăm sóc, đùm bọc, sẻ chia và tạo điều kiện để mỗi
thành viên trong gia đình có tâm lý, tinh thần tốt; có điều kiện để phát triển
toàn diện.
Thứ tư, phát huy giá trị ý thức cộng đồng của GĐTT, gồm: tình yêu nước,
thương nòi, đoàn kết, chịu thương, chịu khó, hiếu học, nhân ái…của dân tộc
Việt Nam.
2.2.1.2. Phương thức phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây
dựng gia đình văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng
Trên cơ sở luận bàn về khái niệm phương thức, hình thức, phát huy, tác
giả đưa ra các phương pháp thực hiện trong việc phát huy giá trị GĐTT trong
xây dựng GĐVH ở Việt Nam nói chung và ở ĐBSH nói riêng hiện nay bao
gồm: tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, sử dụng phương pháp ám thị, nêu
gương trong gia đình, nhà trường và xã hội…
2.2.1.3. Chủ thể phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng
gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả nghiên cứu, xem xét
chủ thể phát huy từ ba góc độ: gia đình, cộng đồng xã hội, nhà trường ở
vùng ĐBSH.



11

2.2.2. Sự cần thiết phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây
dựng gia đình văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
Phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay là
tất yếu khách quan vì:
Thứ nhất, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Thứ hai, những biến đổi phức tạp của giá trị GĐTT hiện nay đặt ra yêu
cầu khách quan cần phải kế thừa, phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH
ở vùng ĐBSH hiện nay.
2.3. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT HUY GIÁ TRỊ GIA
ĐÌNH TRUYỀN THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

2.3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội của vùng đồng bằng
sông Hồng
ĐBSH có lịch sử phát triển lâu đời nhất Việt Nam, được coi là cái nôi của
nền văn hóa dân tộc, nằm trong vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên dồi
dào, phong phú, đang dạng, lại có Thủ đô Hà Nội nên đây là vùng phát triển
kinh tế, văn hóa xã hội năng động nhất cả nước. Phát huy lợi thế của vùng, các
gia đình vùng ĐBSH có điều kiện thuận lợi để phát huy tốt các giá trị của
GĐTT, đồng thời cũng học hỏi, tiếp thu các giá trị mới để xây dựng gia đình
thành GĐVH - ấm no, tiến bộ, hạnh phúc.
Bên cạnh những mặt thuận lợi, đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội
vùng BĐSH cũng tồn tại một số hạn chế như: thường xuyên chịu ảnh hưởng
của thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh làm cho tâm lý và đời sống của các gia
đình bị ảnh hưởng nghiêm trọng; tư tưởng gia trưởng, trọng nam khinh nữ gây
bất bình đẳng giới, mất dân chủ; tư tưởng văn hóa làng, cộng đồng, quen suy

nghĩ theo thói quen đám đông, triệt tiêu tính sáng tạo của mỗi cá nhân khi điều
kiện kinh tế, xã hội thay đổi; các hủ tục, mê tín, dị đoan vẫn tồn tại… làm thổi
bùng những mặt hạn chế, những phong tục, tập quán lạc hậu gây tác động xấu
đến xây dựng GĐVH nói riêng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng
ĐBSH nói chung.
2.3.2. Đặc trưng gia đình truyền thống vùng đồng bằng sông Hồng
Gia đình vùng ĐBSH ngoài những đặc điểm chung giống GĐTT Việt
Nam, còn có những đặc trưng riêng như: sống tập trung, đông đúc - đề cao tính
cộng đồng và gắn bó sâu nặng với văn hóa làng xã; vẫn còn nặng tư tưởng


12

trọng nam hơn nữ; có đời sống văn hóa tinh thần đa dạng, phong phú và coi
trọng giáo dục, đào tạo.
Sống tập trung, đề cao tính cộng đồng, có đời sống tinh thần đa dạng,
phong phú và coi trọng giáo dục, đào tạo đây chính là những đặc trưng tạo điều
kiện thuận lợi giúp các gia đình tiếp tục phát huy tốt giá trị giáo dục của GĐTT
trong xây dựng GĐVH vùng ĐBSH hiện nay.
Tuy nhiên, trong quá trình phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH
cũng cần xóa bỏ những hạn chế nảy sinh từ đặc trưng của gia đình vùng ĐBSH
như: tư tưởng cục bộ, bè phái, tư duy theo thói quen đám đông, tư tưởng gia
trưởng, trọng nam khinh nữ...
2.3.3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở vùng đồng
bằng sông Hồng
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở vùng ĐBSH trong
những năm qua phát triển đi đầu so với các vùng khác trong cả nước, đã tạo ra
môi trường giúp cho nhiều gia đình năng động, nhạy bén với thời cuộc có cơ
hội làm giàu, có điều kiện để chăm sóc con cái, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau và
phụng dưỡng, báo hiếu ông bà, cha mẹ. Đây chính là điều kiện tốt để các gia

đình giao lưu, học hỏi lẫn nhau và phát huy tốt giá trị của GĐTT trong xây
dựng GĐVH, làm cho gia đình ngày càng no ấm, hạnh phúc. Tuy nhiên, mặt
trái của kinh tế thị trường đã tạo ra lối sống thực dụng, tôn thờ đồng tiền, nhiều
giá trị đạo đức, nền nếp, phép tắc trong gia đình bị phá vỡ, tác động xấu đến gia
đình, xã hội, cản trở phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH, làm cho
quan hệ hôn nhân, gia đình đối mặt với nguy cơ lỏng lẻo, kém bền vững...
2.3.4. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hóa vùng đồng bằng
sông Hồng
Với lợi thế là vùng kinh tế động lực, năng động nhất cả nước, các tỉnh
ĐBSH đang diễn ra quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa nhanh
và mạnh so với các vùng khác. Đây là điều kiện giúp các gia đình học hỏi áp
dụng thành tựu của khoa học công nghệ vào trong quá trình sản xuất làm tăng
năng suất lao động, tăng thu nhập cho gia đình, tạo cơ sở vật chất giúp gia đình
có điều kiện để chăm sóc, quan tâm lẫn nhau, có điều kiện để đầu tư cho con cái
học hành, nâng cao dân trí, tiếp thu cái mới, cái sáng tạo… Tuy nhiên, quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa trong những năm qua ở ĐBSH
cũng tạo ra những hiện tượng phức tạp, tiêu cực như tình trạng thất nghiệp, tình
trạng ô nhiễm môi trường, các tệ nạn xã hội… làm ảnh hưởng xấu đến môi
trường sản xuất, kinh doanh, giáo dục, sức khỏe và chất lượng cuộc sống của
mỗi gia đình.


13

2.3.5. Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ở vùng ĐBSH đã tạo ra cơ hội giúp các
gia đình giao lưu, học hỏi những kiến thức mới, giá trị mới từ văn hóa của cả
nước, văn hóa khu vực, trên thế giới đồng thời xóa bỏ những hủ tục, lạc hậu còn
tồn tại trong mỗi gia đình. Qua giao lưu, hội nhập các gia đình cũng quảng bá
văn hóa gia đình, văn hóa vùng đến bạn bè trong nước và quốc tế. Đây chính là

cơ hội tốt để phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH vùng ĐBSH. Bên
cạnh đó, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ở vùng ĐBSH trong giai đoạn hiện nay,
cũng đặt ra rất nhiều vấn đề mang tính tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến công tác
xây dựng gia đình nói riêng, các mặt của đời sống xã hội nói chung như: xuất
hiện hiện tượng lấy vợ, lấy chồng nước ngoài; các tệ nạn xuyên quốc gia như
buôn bán phụ nữ, trẻ em, môi giới hôn nhân... nguy cơ bị đồng hóa, phá vỡ,
biến đổi giá trị của GĐTT, của văn hóa vùng. Tất cả những mặt trái nêu trên trở
thành lực cản cho việc phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH cũng như
phát triển kinh tế, xã hội của vùng ĐBSH.
Chương 3
THỰC TRẠNG PHÁT HUY GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG
TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG
SÔNG HỒNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY
3.1. THỰC TRẠNG PHÁT HUY GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH TRUYỀN
THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG
SÔNG HỒNG HIỆN NAY

3.1.1. Thực trạng nội dung, phương thức, chủ thể phát huy giá trị
đạo đức của gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa ở vùng
đồng bằng sông Hồng
Trong những năm qua, các gia đình vùng ĐBSH đã phát huy tốt nội dung
giá trị đạo đức của GĐTT trong xây dựng GĐVH. Các mối quan hệ trong gia
đình không ngừng được củng cố và phát huy: vợ chồng quan tâm, yêu thương,
hòa thuận, thủy chung; cha mẹ yêu thương, chăm sóc, sẵn sàng hy sinh bản thân
để lo cho con cái, con cái vì thế hiếu thảo, vâng lời cha mẹ; ông bà sống gương
mẫu, hòa thuận, cùng cha mẹ bảo ban con cháu nên con cháu kính trọng, chăm
ngoan, yêu thương, chăm sóc ông bà; anh chị em đoàn kết, hòa thuận, yêu


14


thương, bảo ban, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Kết quả, phát huy giá trị đạo
đức của GĐTT trong xây dựng GĐVH vùng ĐBSH, góp phần tạo nên gia đình
êm ấm, hòa thuận, hạnh phúc. Tỷ lệ các gia đình đạt danh hiệu GĐVH trong
vùng thường từ 80% trở lên, năm sau cao hơn năm trước.
Có được kết quả nêu trên, trước hết, xuất phát từ chính nhận thức và hành
động cụ thể của mỗi thành viên trong gia đình. Bằng việc sử dụng phương pháp
nêu gương, bằng lời nói, hành động cụ thể, các gia đình đã phát huy tốt các giá
trị, chuẩn mực đạo đức của GĐTT. Song hành với gia đình, các tỉnh ĐBSH
thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, tập huấn, phát tờ rơi, sân khấu hóa và tổ
chức các cuộc thi về chủ đề gia đình, xây dựng các mô hình, câu lạc bộ: “Gia
đình hạnh phúc”, “Gia đình thủy chung”, “Gia đình hòa thuận”, “Cha là tấm
gương sáng cho con”, “Người cha tốt của con”, “Ông bà mẫu mực, con cháu
thảo hiền”...
Bên cạnh những mặt tích cực như trên, phát huy giá trị đạo của GĐTT
trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH vẫn còn nhiều hạn chế bất cập. Nhiều giá
trị, chuẩn mực đạo đức trong mối quan hệ của gia đình đứng trước nguy cơ bị
xâm hại, mai một, còn nhiều gia đình ly hôn, ly thân, bạo lực gia đình, con cái
bất hiếu với ông bà, cha mẹ, anh chị em mất đoàn kết...
3.1.2. Thực trạng nội dung, phương thức, chủ thể hát huy giá trị giáo
dục của gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa vùng đồng
bằng sông Hồng
Phát huy truyền thống hiếu học, các gia đình vùng ĐBSH đã thực hiện tốt
giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình, ứng xử ngoài xã hội, định hướng giáo
dục học tập văn hóa, kỹ năng lao động, rèn luyện tính tự lập và giáo dục giới
tính cho con trẻ.
Cha mẹ, ông bà, người lớn trong gia đình vùng ĐBSH bằng kỹ năng, bằng
sự hiểu biết của bản thân, phấn đấu làm tấm gương tốt cho con cái noi theo. Gia
đình tạo mọi điều kiện để con cái được học tập, phát triển, hoàn thiện nhân cách.
Các dòng họ, mở rộng ra cộng đồng làng xã giáo dục con cháu bằng phương

pháp tuyên truyền, nêu gương những người tài, người học giỏi, có địa vị cao
trong xã hội và bằng hình thức lập quỹ khuyến học, khuyến tài. Các cấp ủy,
chính quyền, đoàn thể ban hành các văn bản, đề án và tuyên truyền, tập huấn, nói
chuyện chuyên đề, phát tờ rơi... hỗ trợ các gia đình trong giáo dục đạo đức, lối
sống và giáo dục giới tính cho con em mình. Sở Giáo dục và Đào tạo các tỉnh


15

vùng ĐBSH chỉ đạo các trường, ngoài nhiệm vụ giáo dục kiến thức văn hóa,
chuyên môn tích cực tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình,
giáo dục giới tính đến người học. Nhờ sự cố gắng, nỗ lực của hệ thống chính trị
và các gia đình nên vùng ĐBSH hiện nay vẫn giữ vững vị trí đứng đầu cả nước
về trình độ phát triển dân trí, giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và
bồi dưỡng nhân tài.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, phát huy giá trị giáo dục của GĐTT
trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay còn có những hạn chế như:
công tác tuyên truyền, phát triển giáo dục chưa tương xứng với vùng; một số
cha mẹ còn lúng túng trong việc lựa chọn nội dung giáo dục cho con; lựa chọn
sai phương pháp giáo dục hoặc cha mẹ mải lo kiếm tiền mà buông lỏng quản
lý, không có thời gian chăm sóc, giáo dục con cái dẫn đến nảy sinh nhiều tệ
nạn xã hội...
3.1.3. Thực trạng nội dung, phương thức, chủ thể phát huy giá trị
tâm lý, tình cảm của gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn
hóa vùng đồng bằng sông Hồng
Giá trị tâm lý, tình cảm vẫn được các gia đình vùng ĐBSH quan tâm, coi
trọng, phát huy trong xây dựng GĐVH. Có 89,9% số người được hỏi cho rằng
giá trị tâm lý, tình cảm có ý nghĩa rất quan trọng đối với gia đình họ và có
84,5% cho rằng cần phát huy giá trị tâm lý, tình cảm của GĐTT.
Trong thời gian qua, các gia đình vùng ĐBSH không ngừng chăm lo, vun

đắp, xây dựng các mối quan hệ trong gia đình và quan tâm, chăm sóc lẫn nhau
để gia đình hạnh phúc, trở thành mái ấm yêu thương đối với mỗi thành viên
trong gia đình.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân thực hiện tốt công
tác lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền và thực hiện chính sách liên quan đến gia
đình; thực hiện tốt công tác hòa giải, tư vấn tháo gỡ những mâu thuẫn, rắc rối
xảy ra trong gia đình đồng thời thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ gia đình phát
triển hạnh phúc, bền vững, chính sách kế hoạch hóa gia đình, chăm lo, phụng
dưỡng người có công, người cao tuổi, chính sách xóa đói, giảm nghèo.
Bên cạnh những kết quả đạt được như trên, ở khu vực ĐBSH hiện nay
vẫn còn nhiều gia đình chưa thực hiện tốt chức năng tâm lý, tình cảm trong gia
đình, làm cho gia đình chưa thực sự là tổ ấm, thậm chí còn trở thành gánh nặng
gây ra các tệ nạn, bức xúc cho gia đình và xã hội.


16

3.1.4. Thực trạng nội dung, phương thức, chủ thể phát huy giá trị ý
thức cộng đồng của gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa
vùng đồng bằng sông Hồng
Kế thừa, phát huy những nét đẹp, giá trị ý thức cộng đồng trong GĐTT,
các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể và toàn thể nhân dân các
tỉnh thuộc khu vực ĐBSH đã: làm tốt các công tác tuyên truyền, đưa phát huy ý
thức cộng đồng vào thành tiêu chí xét danh hiệu GĐVH, thôn văn hóa, xóm văn
hóa, làng văn hóa, tổ văn hóa... đưa vào trong hương ước, quy ước làng xã; đẩy
mạnh phong trào thi đua “toàn dân toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, phát động các phong trào thi như: người tốt, việc tốt, phong trào các gia
đình giúp nhau nuôi dạy con tốt, giúp nhau cùng xây dựng, phát triển kinh tế
giỏi, phong trào giúp nhau xóa đói giảm nghèo, phong trào chung một tấm lòng,
xây dựng Quỹ vì người nghèo, phong trào đền ơn đáp nghĩa... Thông qua các

phong trào thi đua, giúp các gia đình ngày càng đoàn kết, gắn bó với nhau và
thêm yêu làng, yêu quê hương, đất nước.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, việc phát huy giá trị ý thức cộng đồng
trong gia đình của khu vực ĐBSH vần còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Công
tác lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nội dung này ở một số nơi, một số chỗ còn thiếu
nghiêm túc, thiếu sự quan tâm và đôi khi còn mang tính hình thức; Trong nhiều
gia đình, dòng họ, cộng đồng làng xã do việc duy trì và đề cao thái quá tính
cộng đồng cũng dẫn đến những mặt hạn chế, tiêu cực như: trọng nam khinh nữ;
phủ định vai trò của cá nhân, san bằng cá tính dẫn đến chủ nghĩa bình quân;
triệt tiêu tính sáng tạo, tư duy theo thói quen đám đông; tính địa phương, cục
bộ, tư tưởng bè phái, vây cánh; tư tưởng trọng danh hão, coi trọng địa vị gia
đình, dòng họ của một số dòng họ lớn hoặc gia đình có chức sắc, có quyền lực
trong cộng đồng mà coi thường gia đình, dòng họ nhỏ hơn...
3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ VIỆC PHÁT HUY GIÁ TRỊ GIA
ĐÌNH TRUYỀN THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

3.2.1. Mâu thuẫn giữa sự cần thiết phát huy giá trị gia đình truyền
thống trong xây dựng gia đình văn hóa với hạn chế trong nhận thức về giá
trị và phát huy giá trị gia đình truyền thống của người dân ở vùng đồng
bằng sông Hồng hiện nay
Thứ nhất, nhận thức về giá trị GĐTT hiện nay chưa thật sự thống nhất,
còn “xơ cứng”, chưa theo kịp với sự biến đổi dạng thức của nó trong xã hội
hiện đại.


17

Thứ hai, nhận thức về sự cần thiết phải kế thừa phát huy giá trị GĐTT
trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Qua

nghiên cứu, tác giả nhận thấy vẫn còn tồn tại nhận thức theo hai xu hướng
đối lập nhau, cụ thể: có 13,2% số người được hỏi cho rằng không cần thiết
phải phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH hiện nay. Và đối lập nó,
còn có một số gia đình cho rằng phải kiên quyết giữ giá trị của GĐTT. Cả hai
xu hướng trên đều nhận thức sai lệch, mang tính chất cực đoan, tuyệt đối hóa
một chiều.
3.2.2. Mâu thuẫn giữa tầm quan trọng của việc phát huy giá trị gia
đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa với hạn chế trong
phương thức triển khai thực hiện
Công tác tuyên truyền có nơi, có lúc chưa đủ mạnh, có bề rộng nhưng
thiếu chiều sâu, nội dung chưa sâu sắc, phương thức chưa đa dạng, phong phú,
chưa thật phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Việc sử dụng các
phương thức, hình thức tuyên truyền mặc dù nhiều nhưng thiếu tính đồng bộ,
rập khuôn, xơ cứng, máy móc và hình thức.
Công tác tuyên truyền chưa khai thác được tiềm năng, lợi thế của các địa
phương trong vùng.
Việc tuyên truyền giáo dục còn có biểu hiện phiến diện, một chiều, đề cao
thái quá một phương thức, nội dung theo ý chủ quan.
3.2.3. Mâu thuẫn giữa sự cần thiết phát huy giá trị gia đình truyền
thống trong xây dựng gia đình văn hóa với bất cập trong hệ thống tổ chức
bộ máy, đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về xây dựng nếp sống văn hóa và
gia đình ở vùng đồng bằng sông Hồng
Thứ nhất, cơ cấu tổ chức và cán bộ làm công tác gia đình ở cấp huyện, xã
còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ và thiếu về số lượng. Phần lớn các huyện chưa
có bộ phận chuyên sâu và cấp xã chưa có cán bộ chuyên trách về xây dựng nếp
sống văn hóa và gia đình riêng biệt. Nhất là ở cấp xã, phường, các cán bộ làm
công tác này thường phải kiêm nhiệm rất nhiều việc.
Thứ hai, năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng nếp sống
văn hóa và gia đình nhất là cấp xã, phường còn yếu do trình độ hạn chế hoặc
làm kiêm nhiệm không đúng chuyên môn...



18

3.2.4. Mâu thuẫn giữa sự thiếu hụt các thiết chế về công tác gia đình
với phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa
Một là, qua nghiên cứu cho thấy Việt Nam chưa có Luật bảo tồn các giá
trị gia đình truyền thống, nên các quy định liên quan đến việc giữ gìn, phát huy
giá trị GĐTT trong việc xây dựng GĐVH trong hệ thống pháp luật còn mờ
nhạt, lại phân tán trong nhiều văn bản pháp luật.
Hai là, vùng ĐBSH chưa xây dựng được chiến lược phát triển về văn
hóa, gia đình của vùng.
Ba là, chưa có chính sách, thù lao cho cán bộ làm công tác gia đình dưới
cơ sở (thôn, xóm, tổ dân phố). Hiện nay, họ đang làm công tác gia đình bằng
lòng nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm.
Bốn là, hiện nay chưa có cơ chế giao ban vùng trong hoạt động xây dựng
nếp sống văn hóa và gia đình để cùng nhau đánh giá, thảo luận, trao đổi kinh
nghiệm phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH giữa các tỉnh trong vùng.
3.2.5. Mâu thuẫn giữa sự cần thiết phát huy giá trị gia đình truyền
thống trong xây dựng gia đình văn hóa với hạn chế về các điều kiện để
phát huy ở vùng đồng bằng sông Hồng
Cơ sở vật chất, kinh tế, kỹ thuật (các thiết chế văn hoá như: nhà văn hoá,
trung tâm văn hóa, thư viện; các trang thiết bị như bàn ghế, máy tính, loa đài
truyền thông, kinh phí hoạt động…) một số nơi còn ít, nghèo nàn, lạc hậu,
không đảm bảo cho công tác tuyên truyền, giáo dục. Việc triển khai xây dựng
các thiết chế văn hóa, nhất là cấp xã, phường, thôn, tổ vẫn gặp khó khăn hoặc
sử dụng nhà văn hóa có nơi chưa hiệu quả… Kinh phí đầu tư cho công tác
tuyên truyền còn hạn chế, chưa thỏa đáng.
3.2.6. Mâu thuẫn giữa sự cần thiết phải phát huy giá trị gia đình
truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa với hạn chế về vai trò và

năng lực, mối quan hệ của các chủ thể phát huy, nhất là giữa gia đình và
xã hội ở vùng đồng bằng sông Hồng
Vai trò và năng lực của các chủ thể phát huy là gia đình và hệ thống chính
trị còn nhiều hạn chế bất cập như: nhiều gia đình nhận thức về việc phát huy giá
trị GĐTT trong xây dựng GĐVH chưa đầy đủ; thiếu bản lĩnh, kỹ năng, trình độ
độ xử lý, giải quyết vấn đề, giải quyết tình huống xuất hiện trong gia đình trước
tác động của sự biến đổi kinh tế, văn hóa, xã hội hiện nay; chưa có sự gắn kết
mật thiết giữa gia đình và hệ thống chính trị trong thực hiện công tác này.


19

Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY
GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA
ĐÌNH VĂN HÓA Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY
4.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN PHÁT HUY GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH
TRUYỀN THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VÙNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

4.1.1. Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình
văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng phải gắn với chiến lược phát triển
kinh tế, xã hội ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
Phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH vùng ĐBSH góp phần:
hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách; bảo tồn, phát huy văn hóa
truyền thống tốt đẹp; chống lại các tệ nạn xã hội; tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao để phát triển kinh tế, xã hội của vùng. Ngược lại, phát triển kinh tế, xã hội
sẽ định hướng và tạo ra cơ sở, môi trường tốt để phát huy giá trị của GĐTT
trong xây dựng GĐVH vùng ĐBSH có hiệu quả, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân, làm cho mỗi gia đình ở vùng ĐBSH có điều kiện phát

triển toàn diện, ấm no, dân chủ, tiến bộ, hạnh phúc.
4.1.2. Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình
văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay phải gắn với chiến lược phát
triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030
Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030
xác định mục tiêu chung “xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội”. Để đạt
được mục tiêu đề ra, một trong những nhiệm vụ tất yếu trong xây dựng GĐVH
hiện nay ở vùng ĐBSH nói riêng, cả nước nói chung phải kế thừa, phát huy giá
trị của GĐTT.
4.1.3. Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình
văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng phải gắn với chiến lược xây dựng
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xây dựng con người mới
Việt Nam hiện nay
Vùng ĐBSH là một phần của đất nước, lại có thủ đô Hà Nội là trung tâm,
nên đây là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội,


20

an ninh, quốc phòng và đối ngoại của cả nước. Vì vậy, phát huy giá trị GĐTT
trong xây dựng GĐVH ngoài gắn với đặc thù vùng còn phải gắn với chiến lược
xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xây dựng con người
mới Việt Nam hiện nay.
4.1.4. Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình
văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng phải gắn với chiến lược giáo dục và
đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay
Phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH vùng ĐBSH hiện nay, mà
cơ bản, chủ yếu là giáo dục, xây dựng con người - thành viên của mỗi gia đình
thành con người Việt Nam mới không thể không lấy mục tiêu của chiến lược

giáo dục con người Việt Nam để phấn đấu.
4.1.5. Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình
văn hóa là trách nhiệm của hệ thống chính trị và các gia đình vùng đồng
bằng sông Hồng
Để phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH vùng ĐBSH hiện nay
có hiệu quả, đạt được mục tiêu mà các chiến lược đã đề ra, đòi hỏi có sự cố
gắng, nỗ lực của cả hệ thống chính trị và các gia đình.
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT HUY GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH
TRUYỀN THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VÙNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

4.2.1. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của các giá trị gia đình
truyền thống và sự cần thiết phải phát huy giá trị gia đình truyền thống
cho các chủ thể trên cơ sở đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tuyên truyền các
giá trị của gia đình truyền thống ở vùng đồng bằng Sông Hồng
- Nghiên cứu đầy đủ, thành công về văn hóa gia đình Việt Nam truyền
thống, trong đó có giá trị GĐTT là cơ sở cho việc xác định rõ các tiêu chuẩn,
tiêu chí của danh hiệu GĐVH hiện nay đảm bảo vừa phát huy được các giá trị
GĐTT, vừa tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới. Kết quả nghiên cứu
cũng là cơ sở cho quá trình nghiên cứu các nội dung, biện pháp giáo dục gia
đình phù hợp với các đối tượng, các nhóm dân cư và vùng địa lý.
Các chủ thể nghiên cứu cần: thường xuyên bổ sung chương trình, kế
hoạch nghiên cứu của mình cho phù hợp; bám sát sự vận động của thực tiễn để
có sự nhận diện chính xác cũng như bổ sung, phát triển nội hàm của những giá
trị gia đình truyền thống sao cho phù hợp với yêu cầu, đỏi hỏi của sự nghiệp
xây dựng GĐVH trong giai đoạn hiện nay.


21


- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và vận động quần chúng tham gia
phát huy các giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa
Một là, tiếp tục củng cố, kiện toàn và phát triển mạng lưới báo cáo viên
và cộng tác viên dư luận xã hội.
Hai là, nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền miệng.
Ba là, tăng cường các hình thức tuyên truyền bằng sân khấu hóa, các hình
thức trao đổi, diễn đàn và tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích cho các gia đình cũng
như những thành viên trong gia đình.
Bốn là, đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa hoạt động tuyên truyền trên báo
chí (báo viết, báo điện tử), mạng Internet, bản tin, pano, áp phích, tranh cổ
động, các ấn phẩm và phương tiện thông tin đại chúng khác. Đặc biệt, phải tận
dụng triệt để hệ thống thông tin truyền thông được trang bị cơ bản đầy đủ ở các
xã phường, thôn, bản, cụm dân cư để tiến hành tuyên truyền nhằm nâng cao
nhận thức, giác ngộ đối với quần chúng nhân dân.
Năm là, tăng cường công tác giáo dục lý luận chính trị, tiếp tục đổi mới
việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân.
4.2.2. Kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản
lý về công tác gia đình nhằm phát huy có hiệu quả giá trị gia đình
truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa vùng đồng bằng sông
Hồng hiện nay
Cấp Trung ương và cấp tỉnh giữ cơ cấu tổ chức như hiện nay.
Cấp huyện: Tổ chức bộ phận - Tổ chuyên trách làm công tác xây dựng
nếp sống văn hóa và gia đình trong Phòng văn hóa - thông tin cấp huyện.
Cấp xã: Mỗi xã, phường cần bố trí một cán bộ chuyên trách về văn hóa,
gia đình. Cán bộ văn hóa, gia đình cấp xã, ngoài trình độ tốt nghiệp Cao đẳng
văn hóa trở lên, còn phải có kinh nghiệm công tác, nhất là khả năng tổ chức,
tuyên truyền, vận động, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nếp sống văn hóa,
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư và xây dựng gia đình văn hóa - gia
đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.
Để thực hiện được giải pháp này, các cơ quan quản lý văn hóa và gia đình

cấp huyện (bao gồm cả thành phố, thị xã thuộc tỉnh) cần tiến hành một số biện
pháp như: rà soát, sắp xếp lại biên chế theo hướng tinh giản, kiêm nhiệm thêm
những việc phụ, việc gần gũi ngành nghề đào tạo...để dành biên chế thỏa đáng cho
bộ phận xây dựng nếp sống văn hóa và gia đình như đề xuất ở trên; tăng cường


22

đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, nhân
viên làm công tác xây dựng nếp sống văn hóa và gia đình...
4.2.3. Hoàn thiện thiết chế về công tác gia đình nhằm phát huy hiệu
quả giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn hóa vùng
đồng bằng sông Hồng hiện nay
Tác giả mạnh dạn đề xuất với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chính
phủ, Quốc hội: Cần sớm có Luật bảo tồn các giá trị gia đình truyền thống
Việt Nam.
Ngoài đề xuất trên, đặc biệt với các tỉnh thuộc vùng ĐBSH tác giả đề
nghị: sớm xây dựng Chiến lược phát triển văn hóa và gia đình vùng ĐBSH; mở
rộng cơ chế Giao ban vùng ĐBSH sang cả lĩnh vực gia đình để hàng năm cùng
nhau đánh giá, thảo luận, trao đổi kinh nghiệm việc xây dựng nếp sống văn hóa,
GĐVH và phát huy các giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở các tỉnh thuộc
vùng ĐBSH, coi đây là một trong những chỉ tiêu thi đua giữa các tỉnh trong
vùng và cần có chế độ bồi dưỡng cho những người tham gia công tác văn hóa
và gia đình ở thôn, xóm, tổ dân phố (cấp dưới cơ sở)... để động viên họ nâng
cao tinh thần trách nhiệm, làm tốt những công việc được giao.
4.2.4. Nâng cao vai trò và năng lực của các chủ thể phát huy nhằm
thực hiện tốt phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia
đình văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
Các chủ thể thuộc hệ thống chính trị cần phát huy vai trò và nâng cao
năng lực làm việc cho đội ngũ cán bộ của mình bằng cách: tăng cường đào

tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ, hệ thống chính
trị; nâng cao năng lực tổ chức, tuyên truyền, vận động, nâng cao khả năng xử
lý tình huống và giải quyết các mâu thuẫn phát sinh trong thực tiễn đời sống
xã hội.
Nâng cao năng lực nhận thức và hành động của gia đình và các thành
viên trong gia đình.
Các chủ thể phát huy vùng ĐBSH cần: xây dựng gia đình văn hóa phải gắn
kết với các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; phát triển
kinh tế, tiếp tục triển khai hiệu quả và bền vững các chương trình mục tiêu quốc gia
về kinh tế và an sinh xã hội; phát triển hệ thống dịch vụ hỗ trợ gia đình.


23

KẾT LUẬN
1. Với đề tài “Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia
đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay”, tác giả đã hệ thống hóa
và trình bày rõ cơ sở lý luận phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH
vùng ĐBSH hiện nay gồm: quan niệm, đặc trưng của GĐTT, GĐVH và các giá
trị của GĐTT. Trên cơ sở kế thừa thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước,
tác giả đã xây dựng được cơ sở lý luận vững chắc cho nghiên cứu của mình,
đồng thời tập trung phân tích, đánh giá các vấn đề đã được nêu ra. Nghiên cứu
phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH vùng ĐBSH hiện nay, tác giả
xác định phát huy 04 nội dung: giá trị đạo đức; giá trị giáo dục; giá trị tâm lý,
tình cảm và giá trị ý thức cộng đồng của GĐTT.
2. Tác giả tập trung phân tích, làm rõ nội dung giá trị GĐTT cần phát huy
trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay, bao gồm: giá trị đạo đức (thể
hiện trong các mối quan hệ: vợ - chồng, cha mẹ - con cái, ông bà – các cháu và
anh chị em với nhau); giá trị giáo dục (chuẩn mực đạo đức, học tập văn hóa, lao
động, rèn luyện tính tự lập và giáo dục giới tính cho con trẻ); giá trị tâm lý, tình

cảm (sự quan tâm, chăm sóc, đùm bọc, sẻ chia...); giá trị ý thức cộng đồng (đoàn
kết, yêu nước, thương nòi, tương thân, tương ái...) đồng thời, chỉ ra những hạn
chế cần lưu ý xóa bỏ trong quá trình phát huy như tư tưởng gia trưởng, trọng
nam khinh nữ, bè phái, cục bộ... Trên cơ sở nghiên cứu, tác giả cũng khẳng định
phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH là tất yếu khách
quan nhằm: đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng, đáp ứng sự
biến đổi phức tạp của các giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH và nhằm giữ gìn,
khôi phục sự phát triển liên tục của văn hóa vùng.
Để có cơ sở vững chắc nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng phát huy giá
trị GĐTT trong xây dựng GĐVH vùng ĐBSH hiện nay, tác giả đã đề cập đến
các phương thức có thể sử dụng và chủ thể phát huy cũng như các yếu tố tác
động đến quá trình phát huy. Mỗi yếu tố tác động đưa ra đều được tác giả phân
tích, xem xét ở hai chiều hướng (tác động tích cực, tác động tiêu cực) đến phát
huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH.
3. Trên cơ sở kết quả khảo sát, nghiên cứu thực tế và kế thừa những công
trình nghiên cứu, những tài liệu, báo cáo đã công bố liên quan đến đề tài, tác giả
phân tích, đánh giá về thực trạng phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH
ở vùng ĐBSH hiện nay. Về cơ bản, vùng ĐBSH đã triển khai, thực hiện tốt
phát huy giá trị GĐTT trong xây dựng GĐVH. Nhiều giá trị truyền thống của
gia đình được giữ gìn, phát huy. Kết quả thực hiện đã góp phần tích cực vào


×