`
BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ LÝ
NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH MÔ HÌNH VẬN ĐỘNG VIÊN
THỂ DỤC DỤNG CỤ NỮ CẤP CAO VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC
2
TP. HỒ CHÍ MINH, 2018
BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ LÝ
NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH MÔ HÌNH VẬN ĐỘNG VIÊN
THỂ DỤC DỤNG CỤ NỮ CẤP CAO VIỆT NAM
Ngành: Giáo dục học
Mã số: 9140101
LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC
2
`
Cán bộ hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Kim Lan
TS. Nguyễn Thành Ngọc
TP.HỒ CHÍ MINH, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Lý
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
TỪ VIẾT TẮT
THUẬT NGỮ TIẾNG VIỆT
HL
Huấn luyện
HLV
Huấn luyện viên
LVĐ
Lượng vận động
TDDC
Thể dục dụng cụ
TĐTL
Trình độ tập luyện
TDTT
Thể dục thể thao
TTTT
Thành tích thể thao
VĐV
Vận động viên
VN
Việt Nam
DANH MỤC CÁC BẢNG
BẢNG
NỘI DUNG
Bảng 2.1
Tiêu chuẩn chấm điểm vân da tổng hợp của VĐV
Bảng 3.1
Bảng tổng hợp các chỉ số và các chỉ số về hình thái
Bảng 3.2
Bảng tổng hợp các test về thể lực và kỹ thuật
Bảng 3.3
Bảng tổng hợp các test về chức năng
Bảng 3.4
Bảng tổng hợp các test về tâm lý
Bảng 3.5
Mức độ quan trọng của các nội dung cấu thành thành tích thể thao.
Bảng 3.6
Bảng 3.7
Bảng 3.8
Bảng 3.9
Bảng 3.10
Bảng 3.11
Bảng 3.12
Bảng 3.13
Bảng 3.14
Mức độ quan trọng của các chỉ số hình thái, các test kiểm tra thể lực, kỹ
thuật, chức năng, tâm lý của VĐV TDDC cấp cao.(n=8)
Kết quả phỏng vấn lựa chọn các chỉ số hình thái xác định mô hình VĐV
về hình thái của VĐV TDDC nữ cấp cao VN (n=24)
Kết quả phỏng vấn lựa chọn test đánh giá thể lực cho VĐV TDDC nữ (n
= 24)
Kết quả phỏng vấn lựa chọn test đánh giá kỹ thuật cho nữ VĐV TDDC
(n = 24)
Kết quả phỏng vấn lựa chọn test kiểm tra đánh giá chức năng cho VĐV
TDDC nữ (n =24)
Kết quả phỏng vấn lựa chọn test kiểm tra tâm lý cho VĐV TDDC nữ cấp
cao (n = 24)
Tỉ lệ lượng cơ và lượng mỡ giữa 2 chi trên, dưới và thân của VĐV
TDDC nữ cấp caoVN.
Chiều cao, cân nặng và chỉ số khối BMI của VĐV cấp cao VN và thế
giới
So sánh các chỉ số hình thái của VĐV TDDC nữ cấp cao VN và Trung
Quốc
Bảng 3.15
Cấu trúc somatotype của VĐV cấp cao VN và thế giới
Bảng 3.16
Bảng so sánh lượng mỡ giữa VĐV TDDC nữ cấp cao VN và các nước
trên thế giới
TRANG
Bảng 3.17
Kết quả tổng hợp sinh trắc vân da của VĐV TDDC nữ cấp cao VN
Bảng 3.18
Kết quả kiểm tra thể lực của nữ VĐV TDDC cấp cao VN
Bảng 3.19
Bảng 3.20
So sánh kết quả kiểm tra thể lực giữa VĐV TDDC nữ VN với mô hình
HL thể lực VĐV TDDC nữ tham dự Olympic của Nga
Kết quả đánh giá lực cơ gập-duỗi gối của VĐV TDDC nữ cấp cao VN
trên hệ thống Biodex
Bảng 3.21
Kết quả kiểm tra kỹ thuật của VĐV TDDC nữ cấp cao VN
Bảng 3.22
Giai đoạn chạy đà
Bảng 3.23
Giai đoạn giậm nhẩy
Bảng 3.24
Giai đoạn bay trên không
Bảng 3.25
Giai đoạn tiếp đất
Bảng 3.26
Chỉ số VO2max và Mạch tối đa của VĐV TDDC nữ
Bảng 3.27
Bảng 3.28
Bảng 3.29
Công suất yếm khí (Anaerobic Wingate test) của VĐV TDDC nữ cấp cao
VN
Kết quả kiểm tra tâm lý VĐV thể dục dụng cụ VN qua các test phản xạ
(ms)
Kết quả kiểm tra loại hình thần kinh của nữ VĐV TDDC cấp cao VN theo
biểu 808
Bảng 3.30
Phân loại loại hình thần kinh theo Phùng Vĩ Quyền
Bảng 3.31
Tỉ lệ lượng cơ và lượng mỡ giữa 2 chi trên, dưới và thân của VĐV
TDDC nữ cấp cao VN
DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH, BIỂU ĐỒ
HÌNH ẢNH
BIỂU ĐỒ
NỘI DUNG
Hình 1.1
Quá trình huấn luyện động tác TDDC
Hình 1.2
Các dạng (chủng) vân tay
Hình 1.3
(a) Vân hình cung (vân sóng), (b) Vân hình sao ki (vân móc)
Hình 1.4
Vân xoáy
Hình 1.5
Cách đếm số đường chỉ tay
Hình 1.6
Đại ngư tế và Tiểu ngư tế
Hình 1.7
Khu vực giữa các ngón tay
Hình 1.8
Tam giác tay
Hình 1.9
Góc atd
Hình 1.10
Nếp gấp bàn tay
Hình 1.11
Một số dạng biến dị của nếp gấp bàn tay (thông quán)
Hình 3.1
Mạng lưới mở rộng Heath-Carter
TRANG
Hình 3.2
Hình thể somatotype của nữ VĐV TDDC cấp cao VN
Hình 3.3
Hình ảnh góc atd của VĐV TDDC nữ cấp cao VN
Hình 3.4
(a) Vân móc hai đầu; (b) Vân hình cung (hình sóng)
Hình 3.5
Vân10 đầu ngón tay của nữ VĐV cấp cao VN
Hình 3.6
Minh họa nếp gấp bàn tay bình thường
Hình 3.7
Khu vực Đại ngư tế
Hình 3.8
Khu vực Tiểu ngư tế
Hình 3.9
Hình ảnh 3 nếp gấp bàn tay bình thường
Hình 3.10
Tam giác tay
Hình 3.11
Hình 3.12
Cấu trúc hình thể Somatotype trung bình của VĐV một số môn
thể thao
Thành phần cơ thể và chuyển hóa cơ bản của VĐV TDDC nữ
cấp cao VN
Hình 3.13
động tác Urchenko
Hình 3.14
Quy trình huấn luyện đồng bộ
Biểu đồ 3.1
Tỷ lệ % các chuyên gia được khảo sát
9
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thể dục thể thao (TDTT ) là một bộ phận của nền văn hoá xã hội,
trong đó thể thao thành tích cao là nhân tố cấu thành nền TDTT xã hội.
Mục đích của thể thao thành tích cao là vươn tới những kỷ lục. Quá trình
phát triển TDTT song hành cùng sự tiến triển của con người và xã hội. Thể
thao thành tích cao là môi trường thể thao chuyên nghiệp mang tính cạnh
tranh lớn. Kỷ lục mà các vận động viên (VĐV) đạt được qua các kỳ thi đấu
đỉnh cao (các cuộc thi vô địch thế giới, Olympic v.v..) gần như đạt tới giới
hạn thể chất của con người, vì vậy VĐV cấp cao là những nhân tài của đất
nước. Cùng môi trường tập luyện, điều kiện thi đấu nhưng chỉ có những
VĐV có thể chất thật tốt mới đạt được thành tích vượt trội. Tính cạnh
tranh khốc liệt vì thành tích sẽ đào thải những VĐV không thích hợp với
môi trường thể thao thành tích cao, chọn lọc những VĐV với những đặc
điểm hình thái, chức năng, thể lực...mang tính nổi trội phù hợp từng môn
thể thao.
Thể dục dụng cụ (TDDC) là môn thi đấu Olympic. TDDC cũng là môn
thể thao nằm trong hệ thống giáo dục thể chất của nền giáo dục Việt Nam
(VN). TDDC có vị trí và vai trò quan trọng rất đặc biệt, nó đảm bảo cho con
người sự phát triển toàn diện về mặt thể chất, củng cố và nâng cao sức khoẻ,
năng động trong cuộc sống, học tâp và bảo vệ tổ quốc với hiệu quả cao.
TDDC có một bề dày về lịch sử phát triển trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
TDDC đỉnh cao vừa mang tính thi đấu và biểu diễn. Năm 1954 dưới sự giúp
đỡ của Trung Quốc và Liên Xô (cũ) TDDC mang tính thi đấu chính thức có
mặt ở Việt Nam. Năm 1963 đội tuyển TDDC Việt Nam đã tham dự cuộc thi
đấu quốc tế tại Ganefo (Indonexia). Tại cuộc thi này, tuy còn non trẻ song các
10
VĐV Việt Nam đã thi đấu xuất sắc, đạt hạng 3 và 4 cá nhân, huy chương
đồng đội nam và nữ, chỉ xếp sau Trung Quốc và Triều Tiên. Trải qua chặng
đường phát triển theo sự thăng trầm của đất nước TDDC luôn là lá cờ đầu
trong phong trào tập luyện thể thao với các VĐV tên tuổi như: Trần Đức Tài,
Nguyễn Đức Lâm, Nguyễn Thị Kiều Khanh, Nguyễn Thị Bích v.v…và đặc
biệt VĐV Lê Thuý Liễu vinh dự được biểu diễn cho Bác Hồ xem nhân dịp
Bác đến thăm trung tâm huấn luyện quốc gia tại Nhổn.
Trong chiến lược phát triển TDTT VN đã được Thủ tướng ban hành
theo quyết định số 2198/QĐTTG. Nội dung quan trọng của quyết định trên là
nâng tầm mục tiêu của thể thao Việt Nam trên đấu trường quốc tế, phát triển
thể thao thành tích cao, thể thao chuyên nghiệp theo hướng bền vững và phù
hợp với tầm vóc, hình thể và trình độ phát triển của kinh tế xã hội, con
người Việt Nam, nâng cao thành tích thể thao trong các kỳ đại hội thể thao
Châu Á, hướng tới giành được huy chương trên đấu trường Olympic. Trong
quyết định này TDDC là môn thể thao trọng điểm được ưu tiên đầu tư và phát
triển. Đây là một vinh dự , là niềm tự hào, nhưng cũng đầy trọng trách của
những người làm công tác đào tạo và huấn luyện (HL) thể thao thành tích cao
môn TDDC.
Thành tích vang dội của các VĐV đội tuyển TDDC quốc gia với các tên
tuổi hiện nay như Ngân Thương, Hà Thanh, Vân Anh, Thu Huyền, Phước
Hưng, Thanh Tùng v.v…đã khẳng định vị thế của môn TDDC Việt Nam trên
đấu trường quốc tế, ở những giải thi đấu lớn. Chúng ta có VĐV đạt chuẩn
cấp cao thế giới như Phan Thị Hà Thanh, Phạm Phước Hưng đã 2 lần đạt
chuẩn tham dự Olympic 2012, 2016 và đã giành được rất nhiều thành tích cao
ở các giải thi đấu khác (nổi bật nhất là huy chương vàng (HCV) môn nhẩy
chống ở cúp thế giới 2011 của Phan Thị Hà Thanh). Đây là những hình mẫu
11
đại diện của môn TDDC. Tuy nhiên số lượng VĐV cấp cao như Phan Thị Hà
Thanh còn quá ít. Hơn nữa mục tiêu lớn của chúng ta là phải có được tấm huy
chương trên đấu trường Olympic. Do đó vấn đề đặt ra là dựa trên các khuôn
mẫu điển hình này xác định được mô hình VĐV TDDC nữ cấp cao VN của
môn TDDC nói riêng và thể thao VN nói chung.
Tác giả Nguyễn Xuân Sinh và cs [28] cho rằng: việc xem xét thành tích
thi đấu của những VĐV đoạt vị trí cao trong giải vô địch thế giới và Olympic
là mốc phân tích kết quả tổng hợp của các cuộc thi lớn nhất, để có thể xác
định chiều hướng phát triển của thể dục, dự đoán thành tích trong thời gian
tới. Trên cơ sở những số liệu đó có thể xây dựng “mẫu người tập thể dục
tương lai”. Các ngưỡng thành tích hiện tại có tác dụng quan trọng đến việc
chuẩn bị đào tạo VĐV thể dục cấp thấp. Như vậy, có thể xem thành tích của
VĐV nổi tiếng thế giới, các bài tập của họ cũng như các chỉ số khác biểu thị
trình độ thể lực, trạng thái chức năng, tâm lý…là tiêu chuẩn để xác định mẫu
VĐV thể dục
Xác định mô hình trình độ VĐV đẳng cấp cao để định hướng trong
công tác tuyển chọn, HL đã được nhiều chuyên gia trên thế giới và Việt
Nam nghiên cứu như: Colovieva E.B (1985) [66], Zorin I., Ganhiukin A.
(1986) [56] Gaverdovxki IU.K. [50], Phạm Ngọc Viễn (1990)[40], Lê
Nguyệt Nga (2003) [22], Huỳnh Thúc Phong (2016) [26].
Xác định mô hình VĐV TDDC nữ cấp cao thông qua các thông số về
hình thái, chức năng, thể lực, kỹ thuật, tâm lý giúp định hướng công tác
tuyển chọn các cấp độ, điều chỉnh kế hoạch HL nhất là với VĐV đang có
thành tích là việc làm vô cùng cần thiết. Tuy nhiên hiện nay chưa có đề tài
nào nghiên cứu vấn đề này. Với những lý do nêu trên, để tránh lãng phí hay
12
bỏ sót nhân tài của đất nước tôi chọn đề tài: "Nghiên cứu xác định mô hình
vận động viên thể dục dụng cụ nữ cấp cao Việt Nam".
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu xác định mô hình VĐV TDDC nữ cấp cao qua các giá trị
sinh học về hình thái, thể lực, kỹ thuật, chức năng, tâm lý làm cơ sở khoa
học phục vụ công tác tuyển chọn, HL và đào tạoVĐV TDDC nữ cấp cao
đạt được thành tích tốt hơn.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên luận án xác định các mục tiêu
nghiên cứu sau:
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu 1: Nghiên cứu xác định nội dung mô hình VĐV
TDDC nữ cấp cao Việt Nam
Mục tiêu cụ thể:
1.1. Tổng hợp các chỉ số, các test xác định nội dung mô hình VĐV
TDDC nữ cấp cao
1.2. Phỏng vấn các chuyên gia lựa chọn các test
1.3. Lựa chọn các chỉ số, các test xác định mô hình VĐV nữ cấp
cao.
Mục tiêu nghiên cứu 2: Xác định mô hình VĐV TDDC nữ cấp cao VN
Mục tiêu cụ thể:
1. Hình thái
2. Thể lực
3. Kỹ thuật
4. Chức năng,
5. Tâm lý
6. Mô hình tổng hợp VĐV TDDC nữ cấp cao Việt Nam.
13
Giả thuyết khoa học của đề tài
Giả thiết khoa học của đề tài là: Xác định được mô hình VĐV TDDC
nữ cấp cao VN (về hình thái, chức năng, thể lực, kỹ thuật, tâm lý) giúp cho
công tác tuyển chọn đào tạo thể thao thành tích cao hiệu quả hơn, hợp lý
hơn. Dựa trên cơ sở đó giúp cho các nhà chuyên môn, các huấn luyện viên
(HLV) trong công tác tuyển chọn, HL, đào tạo, dự báo chính xác tiềm năng
phát triển thành tích của các VĐV.
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.
Khái lược về lịch sử phát triển môn TDDC
1.1.1.
Lịch sử phát triển môn thể dục và môn TDDC trên thế
giới
Lịch sử phát triển môn TDDC song hành cùng sự phát triển của loài
người từ xa xưa. Ở các quốc gia cổ đại khu vực Châu Á như: Trung Quốc,
Ấn Độ, Ai Cập... Các dân tộc da đỏ ở Châu Mỹ, các dân tộc vùng Trung Á
sử dụng các bài tập nhào lộn như những phương tiện bổ trợ cho dạy võ và
vật. Ở Ấn Độ từ xa xưa đã biết luyện khí công. Ở Trung Quốc hình thành
hệ thống thể dục chữa bệnh. Ở Ai Cập có loại thể dục gắn liền với các
nghi lễ của đạo Hồi. Lần đầu tiên thuật ngữ "Thể dục" xuất hiện ở Hy
lạp vào thế kỷ VIII trước công nguyên vào giai đoạn hưng thịnh của nền
văn hoá cổ Hy Lạp. Thời kỳ này có các trường chuyên để dạy giờ học thể
dục gọi là trường thể dục. Sau Hy Lạp cổ đại người La Mã đã sử dụng
rộng rãi các bài tập nhào lộn khác nhau. Ngay từ thời kỳ này đã hình thành
những nét đặc trưng của thể dục hiện đại. Như vậy thời kỳ cổ đại các
14
phương tiện của thể dục đã khá phong phú và đa dạng, được sử dụng với
nhiều mục đích khác nhau.
Đến giữa thế kỷ XIX đã hình thành ba hệ thống thể dục khác nhau:
hệ thống Thể dục Đức (thể dục thể hình hay thể dục lực sỹ) là phương
tiện để phát triển các tố chất vận động, gồm nhiều các bài tập thể dục
phức tạp, trong đó có các bài tập trên dụng cụ thể dục. Nhà sư phạm có
công sáng lập trường phái Đức là F. Lan (17781852) đã khẳng định các bài
tập thể dục trên dụng cụ có tác dụng tốt hơn so với các bài tập tay không
và với dụng cụ. Hệ thống Thể dục Thuỵ Điển (thể dục vệ sinh) như là
phương hướng và phương tiện quan trọng để củng cố sức khoẻ và phát
triển năng lực thể chất của con người. Phương pháp tập luyện của trường
phái Thể dục Thuỵ Điển dựa trên cơ sở dấu hiệu về mặt giải phẫu học và
hình thái học, có nghĩa các bài tập được soạn thảo để phát triển từng bộ
phận riêng biệt của cơ thể, ví dụ các nhóm cơ riêng biệt: tay, chân, lưng,
bụng... Trường phái Thể dục Pháp là Thể dục thực dụng, là phương tiện
để dạy người người lính biết khắc phục các chướng ngại vật khác nhau,
thường gặp trong chiến đấu.
Theo các tác giả Gaverdovxki IU.K.[54]; Nguyễn Xuân Sinh và cs
[27]: vào những năm 60 của thế kỷ XIX ở Châu âu còn hình thành một hệ
thống thể dục có tầm quan trọng và mang ý nghĩa giáo dục xã hội và phát
triển nền thể dục thao thế giới là hệ thống Thể dục "Chim ưng" của Tiệp
Khắc. Đặc điểm chính của hệ thống thể dục này: các bài tập thể dục tự do
hay thể dục dụng cụ phải chú ý đến vẻ đẹp hình thể khi tạo hình động tác,
các ngón tay, mũi chân phải được duỗi thẳng, các động tác nhẩy, các bài
liên hợp thể dục tự do và thể dục dụng cụ phải được thực hiện chính xác
và đẹp. Trong hệ thống thể dục "Chim ưng" lần đầu tiên xuất hiện thể
15
dục đồng diễn quần chúng và các cuộc thi đấu về thể dục. Cuối thế kỷ
XIX hệ thống Thể dục dựa trên các luận điểm khoa học lần đầu tiên xuất
hiện. Ở nước Nga có hệ thống Thể dục P. Létgap, ở Pháp có hệ thống Thể
dục của G. Đêmenhi. Năm 1881, Liên Đoàn Thể Dục Thế Giới (gọi tắt là
FIG) đã ra đời để tổ chức và lãnh đạo các cuộc thi đấu quốc tế. Thể dục đã
được đưa vào chương trình thi đấu ngay từ Đại hội Olympic Quốc tế lần
thứ nhất ở Aten (Hy lạp). Thể dục được chính thức công nhận là một trong
nhiều môn thi đấu chính của Đại hội Olympic Mùa Hè.
Sự ra đời của Liên Đoàn Thể Dục Thế Giới đã đóng vai trò quan
trọng trong việc phát triển thể dục nói chung và môn thể dục dụng cụ nói
riêng. Cuộc thi vô địch đầu tiên của môn TDDC diễn ra tại Bỉ vào năm
1903. Thời kỳ đó các cuộc thi chỉ dành cho nam giới, cứ 2 năm một lần, cho
đến lúc Đại chiến thế giới lần thứ nhất bùng nổ (19141918). Từ năm 1922
các cuộc thi vô địch thế giới được quy định lại cứ 4 năm một lần xen giữa
các kỳ thi đấu Olympic. Lần đầu tiên các VĐV nữ môn TDDC được tham
gia thi đấu trên đấu trường Olympic vào năm 1928 và cuộc thi vô địch thế
giới vào năm 1938. Các VĐV nữ thi các môn giống như VĐV nam với các
dụng cụ như xà đơn thấp, vòng treo động, thể dục tự do đồng đội với dụng
cụ. Năm 1952 tại Olympic mùa hè diễn ra ở Hanxinhki (Phần Lan) cuộc thi
TDDC chỉ dành cho các VĐV TDDC nam. Năm 1958 tại giải thi đấu quán
quân thế giới chương trình thi đấu gồm 6 môn cho nam (thể dục tự do,
ngựa vòng, vòng treo, nhẩy chống, xà kép và xà đơn) và 4 môn cho nữ (thể
dục tự do, nhẩy chống, xà lệch và cầu thăng bằng), đây cũng là năm thành
tích được xác định ở vòng chung kết đơn môn của nam và nữ. Năm 1972 bổ
sung thêm chung kết xác định vô địch toàn năng các môn hỗn hợp. Tại các
cuộc thi đấu lớn thành tích luôn thuộc về VĐV các nước khu vực châu
16
Âu( Liên xô, Tiệp khắc, Đức…). Sau những năm 1990 VĐV các nước như
Trung quốc, Rumani, Mỹ… là những đối thủ ngang tài, ngang sức.
Từ đó đến nay dưới sự lãnh đạo của Liên đoàn Thể dục thế giới,
môn Thể dục nói chung và TDDC nói riêng liên tục đi lên, phát triển bền
vững và rộng khắp các châu lục, nhất là các nước như Liên Xô (cũ), Đức,
Rumani, Nhật Bản, Pháp, Ý, Mỹ… Với các tên tuổi như Khorkina Svetlana,
Turiseva Ludmila, Susunova Elena, Nemov Aleksei, Takashi, Ohno, Akinori
Nakayama,... Ngân Thương, Trương Minh Sang, Hà Thanh, Phạm Phước
Hưng, Lê Thanh Tùng là những tên tuổi của VĐV TDDC VN được xướng
lên với niềm tự hào dân tộc trên đấu trường quốc tế. Năm 2016 VĐV Phạm
Phước Hưng vinh dự có động tác mang tên mình.
1.1.2. Lịch sử phát triển môn TDDC tại Việt Nam
Trước thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, các bài tập thể dục
được phát triển trong khuôn khổ các hoạt động thể thao dân tộc truyền
thống, chưa trở thành môn tập luyện và thi đấu độc lập. Thực dân Pháp
trong thời kỳ cai trị nước ta có đưa vào một số môn như đội hình, đội ngũ,
xà đơn, xà kép, nhưng cũng chỉ phục vụ cho chính quyền Pháp, không có
một cuộc thi đấu chính thức nào. Sau Cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục. Sau thập kỷ 60 thể dục đồng
diễn với quy mô khác nhau được đưa vào chương trình hoạt động các ngày
lễ lớn, các đại hội thể dục thể thao. So với các môn thể dục khác thì
TDDC phát triển nhanh và rộng hơn cả. Theo tác giả Nguyễn Xuân Sinh và
cộng sự [27] có thể phân chia thành bốn giai đoạn phát triển sau:
Giai đoạn I từ năm 1955 đến năm 1970: Giai đoạn này bắt đầu hình
thành phong trào tập luyện môn TDDC tại một số thành phố, tỉnh thành lớn
như: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Nhờ sự giúp đỡ về mọi mặt của các
17
chuyên gia Liên Xô các HLV, giáo viên, cán bộ và lực lượng VĐV nòng cốt
đã được đào tạo bài bản. Cuộc thi đấu đầu tiên về thể dục đã được tổ
chức vào năm 1967 tại Hà Nội. Từ đó đội tuyển quốc gia về TDDC ra đời
đã tham gia tập huấn và thi đấu ở nhiều giải nước ngoài như ở Đại hội
TDTT thế giới tại Inđônêxia năm 1963, năm 1966 tại Campuchia. TDDC
thời kỳ này tuy còn rất non trẻ song cũng xuất hiện nhiều gương mặt VĐV
điển hình như Trần Đức Tài, Lê Thuý Liễu, Nguyễn Thị Kiều Khanh…
Lớp VĐV kế tiếp như : Phan Thanh Lan , Phan Thanh Liên, Phạm Thuý
Lan, Ngô Thanh Hảo v.v...
Giai đoạn II từ năm 1970 đến 1979: Chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ, phong trào tập luyện TDTT chuyển hướng sang phục vụ cho sản
xuất và chiến đấu. Các cán bộ và VĐV được đưa đi Trung quốc tập huấn
để chuẩn bị cho thời kỳ sau chiến tranh. Sau khi tổ quốc thống nhất các
thành phố lớn đã khôi phục lại và củng cố mạnh mẽ phong trào tập luyện
TDTT, bộ môn Thể dục của Tổng Cục TDTT tổ chức thường xuyên các
cuộc thi các cấp độ khác nhau làm tiền đề cho các giải vô địch sau này.
Giai đoạn III từ năm 1979 đến năm 1994: Giai đoạn này sự kiện
quan trọng nhất là thể dục Việt Nam gia nhập Liên đoàn Thể dục Thế
giới, đồng thời trở thành thành viên của phong trào Olympic Quốc tế. Năm
1987 Việt Nam đã áp dụng luật thi đấu và bài thi theo quy định của quốc tế,
đánh dấu một sự trưởng thành về chất khẳng định trình độ đẳng cấp của
các VĐV Việt Nam trên đấu trường quốc tế. Giai đoạn này thiên hướng
chủ yếu đào tạo các VĐV TDDC nữ (Nguyễn Kim Lan , Kim Xuân, Thanh
Xuân…) VĐV TDDC nam phát triển chậm và chưa rộng khắp cả nước.
Năm 1988 TDDC tham gia Đại hội TDTT Đông Nam Á (SEA Games) và
Đại hội Thể thao Châu Á.
18
Giai đoạn IV từ 1995 đến nay: TDDC đã có những bước tiến mạnh,
vững chắc và toàn diện ở cả nam và nữ, đã xuất hiện nhiều tên tuổi nổi
bật trong các cuộc thi đấu quốc tế như Hoàng Tố Lynh, Trương Minh
Sang, đặc biệt VĐV Phan Thị Hà Thanh, Phạm Phước Hưng, Lê Thanh
Tùng đã ghi tên trong bảng vàng danh dự của môn TDDC không chỉ ở Việt
Nam, rạng danh trên đấu trường quốc tế. Hà Thanh đã giành được huy
chương đồng vô địch thế giới ở môn nhảy chống, giành xuất tham dự
Olympic 2012, 2016.
1.2. Một số đặc điểm môn TDDC
1.2.1. Đặc điểm môn TDDC
TDDC là một trong các môn thi đấu Olympic có từ rất sớm trong
lịch sử phát triển thể thao thế giới. Trải qua hơn trăm năm FIG không
ngừng lớn mạnh và phát triển đến bây giờ. TDDC cùng với sự phát triển
của xã hội từng bước chinh phục các đỉnh cao, hoàn thiện trong mọi lĩnh
vực giáo dục và huấn luyện, cơ sở vật chất, nghiên cứu khoa học... Chiều
dài lịch sử đó gắn liền với sự thay đổi mạnh mẽ về độ khó của động tác,
chất lượng và cường độ tập luyện. Kỹ thuật động tác, các cấu trúc tổ hợp
động tác phong phú khác nhau làm nền cho sự bảo toàn và phát triển môn
TDDC. Đặc điểm kỹ thuật và các chuyển động tương phản là nét đặc
trưng môn TDDC hiện đại.
Tác giả Gaverdovxki IU.K. và cs [50] cho rằng: so sánh với các môn
thể thao khác, các chuyển động của TDDC có tính chất đơn giản, chỉ là các
chuyển động gập duỗi các khớp như khớp bả vai, khớp hông...Chuyển
động gập duỗi hết biên độ dao động. Tuy nhiên các chuyển động đơn giản
này phải đảm bảo độ chính xác tuyệt đối trong mối liên hệ giữa không gian
19
và thời gian. Các chuyển động này phải thực hiện ở các tư thế phức tạp
khác nhau ở một thời điểm nhất định.
Theo tác giả Bùi Nguyệt Nga và cs [21]: phần lớn các chuyển động
trong môn TDDC thực hiện ở điều kiện phức tạp, đòi hỏi khắt khe về thời
gian và sự chuyển đổi hướng liên tục. Mỗi động tác chuẩn phải đảm bảo
tính kỹ thuật điêu luyện, phân định được cảm giác không gian thời gian và
các chỉ số sức mạnh, nghệ thuật cao và tính nhịp điệu. Để làm được điều
này đòi hỏi sự đáp ứng của cơ thể VĐV về mặt thể lực, các xung động
thần kinh cơ tối đa, công suất phát lực cực đại, sự khéo léo và cảm giác
thăng bằng chuẩn. TDDC hiện đại rất đa dạng và phong phú về cấu trúc,
năng lượng sinh cơ học, VĐV cấp cao cần có trình độ về kỹ thuật, thể lực,
chức năng cơ thể và tâm sinh lý phù hợp, lòng say mê để đáp ứng được yêu
cầu, mục đích của mỗi cuộc thi.
Theo tác giả Arcaeb L.IA.,Xutrin H.G. [49]: khi thực hiện các động
tác trong TDDC không phải là sức mạnh tuyệt đối mà là sức mạnh tương
đối do đó phải tính toán đến từng kg cân nặng của VĐV. Cùng với sự phát
triển nhanh về độ phức tạp của động tác trong TDDC hiện đại đòi hỏi
VĐV phải đáp ứng được tố chất đặc trưng quan trọng về thể lực là sức
mạnh tốc độ. Sự phát triển và hoàn thiện các nhóm cơ lưng bụng có liên
quan mật thiết tới chất lượng thực hiện các động tác .
Đặc trưng cơ bản của TDDC là các bài tập trên dụng cụ: xà đơn, xà
kép, ngựa vòng, vòng treo đối với nam, xà lệch, cầu thăng bằng, nhẩy
chống, tự do đối với nữ. Trải qua nhiều năm phát triển, dụng cụ tập luyện
môn TDDC có nhiều thay đổi để đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất
lượng động tác, ví dụ: xà lệch, lúc đầu cả nam và nữ đều sử dụng xà giống
nhau, sau đó cải tiến cho phù hợp với nữ theo tiêu chuẩn của FIG quy định.
20
Dụng cụ tập luyện phải đảm bảo tính đàn hồi tốt nhằm mục đích bảo toàn
năng lượng cho động tác và tránh nguy hiểm cho người tập.
Theo tác giả Nguyễn Xuân Sinh và cs [27]: khi thực hiện toàn bộ nội
dung thi đấu, ở mỗi một dụng cụ các động tác mang nét đặc trưng riêng về
tư thế vận động. Ở ngựa vòng và cầu thăng bằng chủ yếu các tư thế có
điểm tỳ và điểm tựa, ở xà lệch và xà kép gồm các tư thế treo, điểm tựa.
Nhẩy chống, tự do là các tư thế chống, tỳ.
Các tác giả Arcaeb L.IA., Xutrilin H.G.[49] cho rằng; về góc độ sinh
lý hoạt động chuyển động của các động tác trong TDDC liên quan đến
công suất phát lực ở mức độ vừa và lớn. Phần lớn các động tác thực hiện
trong điều kiện yếm khí hoặc trong điều kiện ưa yếm khí, việc nín thở
khi làm động tác xảy ra thường xuyên. Năng lượng đảm bảo cho quá trình
sinh lực của cơ xảy ra trong cơ thể VĐV TDDC hình thành không bằng con
đường hấp thu oxy của phổi từ môi trường xung quanh và dự trữ trong cơ
khi thực hiện động tác, mà bằng con đường từ các phản ứng hoá học trong
cơ thể, các phản ứng này xảy ra ở cơ. Vì vậy chế độ sinh lực của các hoạt
động này về hình thức có thể coi là hoạt động yếm khí.
Tác giả Catraev V.I. [60] trong nghiên cứu của mình đã cho thấy: tần
số mạch đập hay tần số co bóp của tim trong quá trình tập luyện ở các
VĐV đẳng cấp cao môn TDDC dao động từ 120200 lần/phút. Độ khó bài
thi ngày càng được nâng cao cùng với lượng vận động (LVĐ) tăng lên để
hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo vận động. Ở một số nước có nền TDDC phát
triển VĐV phải tập 3 lần/ngày, phần lớn LVĐ trong tập luyện và thi đấu
thực hiện trong điều kiện yếm khí. Ngay sau khi kết thúc bài tự do, mạch
đo được 200 lần/phút, quãng nghỉ giữa các lần di chuyển dụng cụ mạch đo
được 120 lần/phút. Trước mỗi bài thi ở dụng cụ mạch đo được ở VĐV
21
đẳng cấp cao dao động 138156 lần/phút. Mạch đo được cao nhất ở thời
điểm trước khi bắt đầu thi nội dung xà kép là lớn nhất, ở nhẩy chống là
thấp nhất 137 lần/phút, ngựa vòng 154 lần/phút, tự do 156 lần/phút, xà lệch
152 lần/phút, vòng treo 148 lần/phút. Ngay sau khi kết thúc bài thi tự do
mạch đo được là 201 lần/phút, xà lệch 194 lần/phút, ngựa vòng 193
lần/phút, vòng treo 189 lần/phút, mạch ở nhẩy ngựa là thấp nhất 168
lần/phút.
Một điều cần thiết không thể thiếu trong việc lập kế hoạch HL cho
VĐV cấp cao là việc hoạch định kế hoạch kiểm tra sức khoẻ, trình độ tập
luyện, dinh dưỡng và hồi phục... để từ đó có việc điều chỉnh cho phù hợp.
Với đặc trưng thể lực là sức mạnh và sức mạnh tốc độ khi thực hiện các
bài tập TDDC do đó vấn đề chiều cao, cân nặng của VĐV phải được kiểm
soát chặt chẽ.
Theo tác giả Xmolevxki V.M. [50]: chiều cao vừa phải, nhẹ cân
nhưng sức mạnh cơ bắp tốt là điều mà ban HL luôn hướng tới để đào tạo
ra những VĐV có thành tích cao. Chiều cao từ 160170 cm, cân nặng 5670
kg đối với VĐV nam, chiều cao 150160 cm, cân nặng 3850 kg đối với
VĐV nữ. Tuy nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ như VĐV Jani Tanskanen
người Phần Lan cao 182 cm, VĐV nữ Marcy Beriholtts người Canada cao
173 cm tham dự giải vô địch thế giới năm 2005 tại Melbourne .
Kết quả nghiên cứu của tác giả Rosin E.IU. [65]: hình thái của VĐV
là yếu tố quan trọng trong công tác tuyển chọn và HL: cơ bắp, vai rộng vừa
phải ở nam, rộng vai ở nữ, hông nhỏ, tay dài, tỷ lệ chân dài, thân ngắn. Tác
giả có đưa ra các chỉ số trung bình về chiều cao, cân nặng của nam và nữ
phục vụ công tác tuyển chọn ban đầu và tuyển chọn giai đoạn chuyên môn
hoá sâu.
22
Theo Nguyễn Xuân Sinh và cs [27]: tỷ lệ phần trăm chiều cao, cân
nặng so với cơ thể của VĐV đẳng cấp cao: Chiều dài tay chiếm 4247% so
với chiều cao đứng, chiều dài chân chiếm 5256% chiều dài cơ thể.
Theo tác các tác giả Gaverdobxki IU.K., Xmolevxki V.M [50]. Theo di
truyền học, chiều cao, tỷ lệ cơ thể và các chỉ số nhân trắc học cơ bản khác
của con người do gen quy định hay nói cách khác có sẵn từ lúc mới sinh ra
đời. Dưới tác động của các hoạt động thể chất có ảnh hưởng đến các chỉ
số trên ở một mức độ nào đó.
TDDC là môn thể thao hỗn hợp, phức tạp, bất kỳ một động tác nào
khi thực hiện đều phải đảm bảo tuân thủ các yêu cầu về độ cao, độ xa, biên
độ rộng và tốc độ tương đồng. Chính vì thế lực tác dụng bao gồm cả nội
lực và ngoại lực phải được huy động hợp lý, đầy đủ và đúng thời điểm để
hình thành quỹ đạo trọng tâm chuyển động trong không gian đạt được tối
ưu.
Các tác giả Goxtev Z.V.(55), Gaverdovxki IU.K.(54) đều cho rằng:
trong TDDC có thể phân ra thành 2 nhóm động tác chính, đó là nhóm động
tác tĩnh và dùng sức và nhóm các động tác dùng đà lăng. Nhóm động tác tĩnh
hay còn gọi là trạng thái cân bằng gồm có 3 dạng: Cân bằng bền, cân bằng
không bền và cân bằng động. Trạng thái cân bằng bền chủ yếu ở tư thế
treo, chống. Tổng trọng tâm cơ thể nằm trên đường chiếu tổng hợp lực của
những điểm treo, chống và luôn thấp hơn so với điểm treo, chống. Trạng
thái cân bằng không bền xảy ra khi thực hiện các động tác tổng trọng tâm
cao hơn điểm chống tỳ. Trạng thái cân bằng động xảy ra trong những động
tác có tổng trọng tâm cơ thể dao động thường xuyên, có lúc vượt ra khỏi
hình chiếu diện tích chân đế.
1.2.2. Đặc điểm VĐV TDDC nữ
23
1.2.2.1 Đặc điểm VĐV TDDC nữ
Dựa vào các đặc điểm giới tính cho nên các bài tập TDDC dành cho
nữ giới cũng mang nét riêng phù hợp với hình thái, chức năng, tâm sinh lý
của nữ giới.
Các chuyên gia Gaverdobxki IU.K.và cs[54], Nguyễn Xuân Sinh và
cs[28] đều cho rằng: hình thái nhỏ gọn, chiều cao của các VĐV TDDC nữ
thấp hơn VĐV nam cùng độ tuổi, lượng mỡ của nữ nhiều hơn. VĐV
TDDC trình độ cao có kết cấu ngoại hình cơ thể thích hợp như sau: ở nam
cấu trúc cơ thể có đặc điểm hai vai rộng vừa phải, tay dài, ở nữ hai vai
rộng. Mặc dù có sự khác nhau về độ lớn tuyệt đối của vóc dáng và trọng
lượng, tỷ lệ về sự cân đối cơ thể của nam và nữ tương đối giống nhau. Số
lượng môn ít hơn (4 dụng cụ của nữ, 6 dụng cụ nam) nên những đòi hỏi
đối với nữ VĐV TDDC về phát triển các tố chất thể lực và kỹ năng vận
động cũng khác với VĐV TDDC nam, các tố chất thể lực phải phù hợp với
đặc điểm cơ thể của nữ. Ví dụ: tố chất mềm dẻo của nữ tốt hơn nam , tuy
nhiên tố chất sức mạnh lại kém hơn nam. Chu kỳ kinh nguyệt cũng là một
khó khăn trong sinh hoạt cũng như ảnh hưởng tới thời kỳ HL, thi đấu của
VĐV TDDC nữ: trạng thái cơ thể mệt mỏi do mất một lượng máu lớn, sự
thay đổi nội tiết tố trong cơ thể dẫn đến tâm sinh lý không ổn định dễ bị
tác động bởi môi trường xung quanh.
Về nghệ thuật: các động tác của nữ mang tính thẩm mỹ cao, mềm
mại, uyển chuyển, đặc biệt bài thi trên thảm tự do cùng với nhạc đệm,
ngoài yếu tố hoàn thiện kỹ năng kỹ sảo vận động, các VĐV nữ còn phải
phô diễn được cái đẹp của động tác, diễn cảm được nội dung chủ đề của
cấu trúc bài thi, đòi hỏi năng khiếu cảm thụ âm nhạc của VĐV.
1.2.2.2. Đặc điểm HL VĐV TDDC nữ
24
Các tác giả Nguyễn Xuân Sinh, Lê Văn Lẫm, Trần Phúc Phong,
Trương Anh Tuấn [27]: mỗi một dụng cụ của nữ đều mang tính đặc trưng
riêng về tố chất thể lực. Ở môn nhẩy chống: động tác phải vượt qua
chướng ngại, lại có định hướng phức tạp, thực hiện với thời gian chớp
nhoáng, sử dụng lực tối đa và cần phải có lòng dũng cảm. Ở môn xà lệch:
đòi hỏi phải có tố chất nhanh mạnh, có năng lực phối hợp tốt để thực
hiện các bài tập khó và phức tạp. Ở cầu thăng bằng: phải biết giữ thăng
bằng trên bề mặt chống hẹp khi thực hiện các bài tập khác nhau (bao gồm
cả các động tác nhào lộn kết hợp với quay theo các trục cơ thể). Ở thể dục
tự do: đây là môn tiêu biểu của VĐV TDDC nữ. Môn này đòi hỏi VĐV phải
có sức bền chuyên môn tốt, giỏi về nhào lộn và vũ đạo
Theo các tác giả Arcaev L.IA [47]., Xutrilin X.G., Ucran M. [70]: trong
TDDC luôn có sự hỗ trợ, ảnh hưởng qua lại giữa các dụng cụ khác nhau,
tố chất thể lực và kỹ năng thực hiện môn này có thể giúp môn khác hoàn
thiện tốt hơn, tuy nhiên cũng không hoàn toàn như vậy vì một số môn mang
tính chuyên biệt khác hẳn, ví dụ ở môn nhẩy chống và nhào lộn trên thảm
tự do đều cần có sức bật, nhưng sức bật ở mỗi môn có đặc thù khác nhau
về mặt kỹ thuật. Phẩm chất ý chí, dũng cảm ở mỗi môn cũng khác nhau.
Trong HL VĐV TDDC nữ, môn thể dục tự do và môn cầu thăng bằng
chiếm nhiều thời gian hơn cả. Để hoàn thiện tốt các động tác trên cầu
thăng bằng đòi hỏi độ chính xác cao vì thế số lần lên dụng cụ là nhiều nhất
so với các dụng cụ khác. Môn xà lệch và nhẩy chống yêu cầu thời gian hồi
phục dài nên số lần tiếp cận dụng cụ ít hơn.
Trong tập luyện VĐV nữ không những phải đảm bảo LVĐ lớn về
cường độ và khối lượng, số lượng các bài liên kết... động tác còn phải có
tính kỹ thuật điêu luyện cao, có trình độ diễn xuất phong phú, đậm chất
25
nghệ sỹ biểu diễn, đồng thời vẫn phải đảm bảo độ ổn định cần thiết trong
mỗi bài thi. Các bài tập của nữ cũng được phối hợp với những bài tập
mang đặc điểm khác nhau, đòi hỏi phải có trình độ thể lực toàn diện.
Tóm lại do sự khác biệt về mặt cấu trúc cơ thể nên ở VĐV TDDC nữ,
chỉ có kết hợp LVĐ lớn với chất lượng cao và một sự nỗ lực tập luyện rất
lớn mới đảm bảo cho TTTT đạt được trình độ tột đỉnh.
1.2.3. Luật thi đấu TDDC
Thể dục thể thao nói chung và TDDC nói riêng đều phải dựa vào đề
cương cũng như luật lệ để đề ra phương hướng phát triển và tổ chức các
cuộc thi đấu. Luật thi đấu do tiểu ban kỹ thuật môn TDDC của FIG soạn
thảo và quy định. Luật luôn đổi mới và không ngừng hoàn thiện. Chương
trình thi đấu đầu tiên năm 1862 tại Tiệp Khắc bao gồm các môn hỗn hợp
của thể dục và điền kinh. Năm 1871 thứ tự thi đấu được xác định bằng rút
thăm. Trong đó người thứ nhất thực hiện bất kỳ bài thi nào, tất cả những
người còn lại sẽ lặp lại theo thứ tự đúng như vậy. Giá trị điểm theo hệ
thống điểm 5. Bài thi chỉ thực hiện một lần. Lần thứ hai được phép thực
hiện lại chỉ khi bài thi bị hỏng và được sự cho phép của trọng tài. Người
chiến thắng là người có điểm trung bình lớn nhất từ tổng số điểm chung.
Tại đại hội Olympic lần thứ V (1912), hệ thống điểm 12 được áp
dụng. Mỗi dụng cụ có 3 trọng tài. Giá trị điểm được cộng lại chia trung
bình.Từ giữa những năm 40 của thế kỷ XX đề cương thi đấu của nữ bao
gồm các môn như của nam, sau dần loại bỏ một số môn không phù hợp để
thay bằng các môn mới của TDDC hiện đại ngày nay. Luật thi đấu ở thời
kỳ này chưa ổn định, cách tính điểm được soạn cho từng cuộc thi đấu.
Năm 1948, xuất hiện bảng phân loại theo độ khó động tác và liên kết động
tác cho từng môn hỗn hợp. Năm 1949 Hội nghị Thể dục Quốc tế đã soạn