Tải bản đầy đủ (.pdf) (218 trang)

Luận án tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu xác định mô hình vận động viên thể dục dụng cụ nữ cấp cao Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.87 MB, 218 trang )

`

BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH 

 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP HỒ CHÍ MINH
 ­­­­­  ­­­­­ 

NGUYỄN THỊ LÝ

NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH MÔ HÌNH VẬN ĐỘNG VIÊN 
THỂ DỤC DỤNG CỤ NỮ CẤP CAO VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC


2

TP. HỒ CHÍ MINH, 2018
BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH 

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP HỒ CHÍ MINH
­­­­­  ­­­­­ 

NGUYỄN THỊ LÝ

NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH MÔ HÌNH VẬN ĐỘNG VIÊN 
THỂ DỤC DỤNG CỤ NỮ CẤP CAO VIỆT NAM



Ngành: Giáo dục học
Mã số: 9140101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC

2


`

Cán bộ hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Kim Lan
TS. Nguyễn Thành Ngọc

TP.HỒ CHÍ MINH, 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các số  liệu,  
kết quả  trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố 
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Lý


MỤC LỤC



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
TỪ VIẾT TẮT

THUẬT NGỮ TIẾNG VIỆT

HL

Huấn luyện

HLV

Huấn luyện viên

LVĐ

Lượng vận động

TDDC

Thể dục dụng cụ

TĐTL

Trình độ tập luyện

TDTT

Thể dục thể thao


TTTT

Thành tích thể thao

VĐV

Vận động viên

VN

Việt Nam

DANH MỤC CÁC BẢNG
BẢNG

NỘI DUNG

Bảng 2.1

Tiêu chuẩn chấm điểm vân da tổng hợp của VĐV

Bảng 3.1

Bảng tổng hợp các chỉ số và các chỉ số về hình thái

Bảng 3.2

Bảng tổng hợp các test về thể lực và kỹ thuật

Bảng 3.3


Bảng tổng hợp các test về chức năng

Bảng 3.4

Bảng tổng hợp các test về tâm lý

Bảng 3.5

Mức độ quan trọng của các nội dung cấu thành thành tích thể thao.

Bảng 3.6
Bảng 3.7
Bảng 3.8
Bảng 3.9
Bảng 3.10
Bảng 3.11
Bảng 3.12
Bảng 3.13
Bảng 3.14

Mức độ quan trọng của các chỉ số hình thái, các test kiểm tra thể lực, kỹ
thuật, chức năng, tâm lý của VĐV TDDC cấp cao.(n=8)
Kết quả phỏng vấn lựa chọn các chỉ số hình thái xác định mô hình VĐV
về hình thái của VĐV TDDC nữ cấp cao VN (n=24)
Kết quả phỏng vấn lựa chọn test đánh giá thể lực cho VĐV TDDC nữ (n
= 24)
Kết quả phỏng vấn lựa chọn test đánh giá kỹ thuật cho nữ VĐV TDDC
(n = 24)
Kết quả phỏng vấn lựa chọn test kiểm tra đánh giá chức năng cho VĐV

TDDC nữ (n =24)
Kết quả phỏng vấn lựa chọn test kiểm tra tâm lý cho VĐV TDDC nữ cấp
cao (n = 24)
Tỉ lệ lượng cơ và lượng mỡ giữa 2 chi trên, dưới và thân của VĐV
TDDC nữ cấp caoVN.
Chiều cao, cân nặng và chỉ số khối BMI của VĐV cấp cao VN và thế
giới
So sánh các chỉ số hình thái của VĐV TDDC nữ cấp cao VN và Trung
Quốc

Bảng 3.15

Cấu trúc somatotype của VĐV cấp cao VN và thế giới

Bảng 3.16

Bảng so sánh lượng mỡ giữa VĐV TDDC nữ cấp cao VN và các nước
trên thế giới

TRANG


Bảng 3.17

Kết quả tổng hợp sinh trắc vân da của VĐV TDDC nữ cấp cao VN

Bảng 3.18

Kết quả kiểm tra thể lực của nữ VĐV TDDC cấp cao VN


Bảng 3.19
Bảng 3.20

So sánh kết quả kiểm tra thể lực giữa VĐV TDDC nữ VN với mô hình
HL thể lực VĐV TDDC nữ tham dự Olympic của Nga
Kết quả đánh giá lực cơ gập-duỗi gối của VĐV TDDC nữ cấp cao VN
trên hệ thống Biodex

Bảng 3.21

Kết quả kiểm tra kỹ thuật của VĐV TDDC nữ cấp cao VN

Bảng 3.22

Giai đoạn chạy đà

Bảng 3.23

Giai đoạn giậm nhẩy

Bảng 3.24

Giai đoạn bay trên không

Bảng 3.25

Giai đoạn tiếp đất

Bảng 3.26


Chỉ số VO2max và Mạch tối đa của VĐV TDDC nữ

Bảng 3.27
Bảng 3.28
Bảng 3.29

Công suất yếm khí (Anaerobic Wingate test) của VĐV TDDC nữ cấp cao
VN
Kết quả kiểm tra tâm lý VĐV thể dục dụng cụ VN qua các test phản xạ
(ms)
Kết quả kiểm tra loại hình thần kinh của nữ VĐV TDDC cấp cao VN theo
biểu 808

Bảng 3.30

Phân loại loại hình thần kinh theo Phùng Vĩ Quyền

Bảng 3.31

Tỉ lệ lượng cơ và lượng mỡ giữa 2 chi trên, dưới và thân của VĐV
TDDC nữ cấp cao VN

DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH, BIỂU ĐỒ
HÌNH ẢNH
BIỂU ĐỒ

NỘI DUNG

Hình 1.1


Quá trình huấn luyện động tác TDDC

Hình 1.2

Các dạng (chủng) vân tay

Hình 1.3

(a) Vân hình cung (vân sóng), (b) Vân hình sao ki (vân móc)

Hình 1.4

Vân xoáy

Hình 1.5

Cách đếm số đường chỉ tay

Hình 1.6

Đại ngư tế và Tiểu ngư tế

Hình 1.7

Khu vực giữa các ngón tay

Hình 1.8

Tam giác tay


Hình 1.9

Góc atd

Hình 1.10

Nếp gấp bàn tay

Hình 1.11

Một số dạng biến dị của nếp gấp bàn tay (thông quán)

Hình 3.1

Mạng lưới mở rộng Heath-Carter

TRANG


Hình 3.2

Hình thể somatotype của nữ VĐV TDDC cấp cao VN

Hình 3.3

Hình ảnh góc atd của VĐV TDDC nữ cấp cao VN

Hình 3.4

(a) Vân móc hai đầu; (b) Vân hình cung (hình sóng)


Hình 3.5

Vân10 đầu ngón tay của nữ VĐV cấp cao VN

Hình 3.6

Minh họa nếp gấp bàn tay bình thường

Hình 3.7

Khu vực Đại ngư tế

Hình 3.8

Khu vực Tiểu ngư tế

Hình 3.9

Hình ảnh 3 nếp gấp bàn tay bình thường

Hình 3.10

Tam giác tay

Hình 3.11
Hình 3.12

Cấu trúc hình thể Somatotype trung bình của VĐV một số môn
thể thao

Thành phần cơ thể và chuyển hóa cơ bản của VĐV TDDC nữ
cấp cao VN

Hình 3.13

động tác Urchenko

Hình 3.14

Quy trình huấn luyện đồng bộ

Biểu đồ 3.1

Tỷ lệ % các chuyên gia được khảo sát


9

ĐẶT VẤN ĐỀ

Thể  dục thể  thao (TDTT ) là một bộ  phận của nền văn hoá xã hội, 
trong đó thể  thao thành tích cao là nhân tố  cấu thành nền TDTT xã hội. 
Mục đích của thể  thao thành tích cao là vươn tới những kỷ  lục. Quá trình  
phát triển TDTT song hành cùng sự tiến triển của con người và xã hội. Thể 
thao thành tích cao là môi trường thể  thao chuyên nghiệp mang tính cạnh  
tranh lớn. Kỷ lục mà các vận động viên (VĐV) đạt được qua các kỳ thi đấu 
đỉnh cao (các cuộc thi vô địch thế giới, Olympic v.v..) gần như đạt tới giới 
hạn thể chất của con người, vì vậy VĐV cấp cao là những nhân tài của đất 
nước. Cùng môi trường tập luyện, điều kiện thi đấu nhưng chỉ  có những  
VĐV có thể  chất thật tốt mới đạt được thành tích vượt trội. Tính cạnh 

tranh khốc liệt vì thành tích sẽ  đào thải những VĐV không thích hợp với 
môi trường thể  thao thành tích cao, chọn lọc những VĐV với những đặc  
điểm hình thái, chức năng, thể  lực...mang tính nổi trội phù hợp từng môn  
thể thao.
Thể dục dụng cụ (TDDC) là môn thi đấu Olympic. TDDC cũng là môn  
thể thao nằm trong hệ thống giáo dục thể chất của nền giáo dục Việt Nam  
(VN). TDDC có vị trí và vai trò quan trọng rất đặc biệt, nó đảm bảo cho con  
người sự phát triển toàn diện về mặt thể chất, củng cố và nâng cao sức khoẻ, 
năng động trong cuộc sống, học tâp và bảo vệ  tổ  quốc với hiệu quả  cao.  
TDDC có một bề dày về lịch sử phát triển trên thế giới cũng như ở Việt Nam.  
TDDC đỉnh cao vừa mang tính thi đấu và biểu diễn. Năm 1954 dưới sự giúp 
đỡ  của Trung Quốc và Liên Xô (cũ) TDDC mang tính thi đấu chính thức có 
mặt ở Việt Nam. Năm 1963 đội tuyển TDDC Việt Nam đã tham dự cuộc thi 
đấu quốc tế tại Ganefo (Indonexia). Tại cuộc thi này, tuy còn non trẻ song các 


10

VĐV Việt Nam đã thi đấu xuất sắc, đạt hạng 3 và 4 cá nhân, huy chương  
đồng đội nam và nữ, chỉ xếp sau Trung Quốc và Triều Tiên. Trải qua chặng  
đường phát triển theo sự  thăng trầm của đất nước TDDC luôn là lá cờ  đầu  
trong phong trào tập luyện thể thao với các VĐV tên tuổi như: Trần Đức Tài, 
Nguyễn Đức Lâm, Nguyễn Thị  Kiều Khanh, Nguyễn Thị  Bích v.v…và đặc 
biệt VĐV Lê Thuý Liễu vinh dự  được biểu diễn cho Bác Hồ  xem nhân dịp 
Bác đến thăm trung tâm huấn luyện quốc gia tại Nhổn.
Trong chiến lược phát triển TDTT VN đã được Thủ  tướng ban hành 
theo quyết định số 2198/QĐTTG. Nội dung quan trọng của quyết định trên là 
nâng tầm mục tiêu của thể thao Việt Nam trên đấu trường quốc tế, phát triển  
thể thao thành tích cao, thể thao chuyên nghiệp theo hướng bền vững và phù  
hợp với tầm vóc, hình thể  và trình độ  phát triển của kinh tế  ­ xã hội, con  

người Việt Nam, nâng cao thành tích thể  thao trong các kỳ  đại hội thể  thao 
Châu Á, hướng tới giành được huy chương trên đấu trường Olympic. Trong 
quyết định này TDDC là môn thể thao trọng điểm được ưu tiên đầu tư và phát 
triển. Đây là một vinh dự , là niềm tự  hào, nhưng cũng đầy trọng trách của  
những người làm công tác đào tạo và huấn luyện (HL) thể thao thành tích cao  
môn TDDC.
Thành tích vang dội của các VĐV đội tuyển TDDC quốc gia với các tên 
tuổi hiện nay như  Ngân Thương, Hà Thanh, Vân Anh, Thu Huyền, Phước 
Hưng, Thanh Tùng v.v…đã khẳng định vị thế của môn TDDC Việt Nam trên 
đấu trường quốc tế,  ở những giải thi đấu lớn. Chúng ta có VĐV đạt chuẩn 
cấp cao thế  giới như  Phan Thị  Hà Thanh, Phạm Phước Hưng đã 2 lần đạt  
chuẩn tham dự Olympic 2012, 2016 và đã giành được rất nhiều thành tích cao 
ở  các giải thi đấu khác (nổi bật nhất là huy chương vàng (HCV) môn nhẩy  
chống ở cúp thế giới 2011 của Phan Thị Hà Thanh). Đây là những hình mẫu 


11

đại diện của môn TDDC. Tuy nhiên số lượng VĐV cấp cao như Phan Thị Hà 
Thanh còn quá ít. Hơn nữa mục tiêu lớn của chúng ta là phải có được tấm huy 
chương trên đấu trường Olympic. Do đó vấn đề đặt ra là dựa trên các khuôn 
mẫu điển hình này xác định được mô hình VĐV TDDC nữ  cấp cao VN của  
môn TDDC nói riêng và thể thao VN nói chung.
Tác giả Nguyễn Xuân Sinh và cs [28] cho rằng: việc xem xét thành tích  
thi đấu của những VĐV đoạt vị trí cao trong giải vô địch thế giới và Olympic 
là mốc phân tích kết quả tổng hợp của các cuộc thi lớn nhất, để có thể  xác  
định chiều hướng phát triển của thể  dục, dự đoán thành tích trong thời gian 
tới. Trên cơ  sở  những số liệu đó có thể  xây dựng “mẫu người tập thể  dục  
tương lai”. Các ngưỡng thành tích hiện tại có tác dụng quan trọng đến việc 
chuẩn bị đào tạo VĐV thể dục cấp thấp. Như vậy, có thể xem thành tích của  

VĐV nổi tiếng thế giới, các bài tập của họ cũng như các chỉ số khác biểu thị 
trình độ thể lực, trạng thái chức năng, tâm lý…là tiêu chuẩn để xác định mẫu 
VĐV thể dục 
 Xác định mô hình trình độ  VĐV đẳng cấp cao để  định hướng trong  
công tác tuyển chọn, HL đã được nhiều chuyên gia trên thế  giới và Việt 
Nam nghiên cứu như: Colovieva E.B (1985) [66], Zorin I., Ganhiukin A.  
(1986)     [56]   Gaverdovxki   IU.K.   [50],   Phạm   Ngọc   Viễn   (1990)[40],   Lê 
Nguyệt Nga (2003) [22], Huỳnh Thúc Phong (2016) [26].
Xác định mô hình VĐV TDDC nữ cấp cao thông qua các thông số về 
hình thái, chức năng, thể  lực, kỹ  thuật, tâm lý giúp định hướng công tác  
tuyển chọn các cấp độ, điều chỉnh kế hoạch HL nhất là với VĐV đang có 
thành tích là việc làm vô cùng cần thiết. Tuy nhiên hiện nay chưa có đề tài 
nào nghiên cứu vấn đề này. Với những lý do nêu trên, để tránh lãng phí hay  


12

bỏ sót nhân tài của đất nước tôi chọn đề tài: "Nghiên cứu xác định mô hình 
vận động viên thể dục dụng cụ nữ cấp cao Việt Nam".
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu xác định mô hình VĐV TDDC nữ cấp cao qua các giá trị 
sinh học về hình thái, thể lực, kỹ thuật, chức năng, tâm lý làm cơ  sở  khoa  
học phục vụ  công tác tuyển chọn, HL và đào tạoVĐV TDDC nữ  cấp cao  
đạt được thành tích tốt hơn.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên luận án xác định các mục tiêu 
nghiên cứu sau:
Mục tiêu nghiên cứu
  

Mục tiêu nghiên cứu 1: Nghiên cứu xác định nội dung mô hình VĐV 


TDDC nữ cấp cao Việt Nam
 Mục tiêu cụ thể:
             1.1. Tổng hợp các chỉ số, các test xác định nội dung mô hình VĐV 
TDDC nữ cấp cao  
             1.2. Phỏng vấn các chuyên gia lựa chọn các test
             1.3. Lựa chọn các chỉ  số, các test xác định mô hình VĐV nữ  cấp 
cao.
        Mục tiêu nghiên cứu 2: Xác định mô hình VĐV TDDC nữ cấp cao VN
Mục tiêu cụ thể:
          1. Hình thái
2. Thể lực 
3. Kỹ thuật
4. Chức năng, 
5. Tâm lý  
6. Mô hình tổng hợp VĐV TDDC nữ cấp cao Việt Nam.


13

Giả thuyết khoa học của đề tài
Giả thiết khoa học của đề tài là: Xác định được mô hình VĐV TDDC  
nữ cấp cao VN (về hình thái, chức năng, thể lực, kỹ thuật, tâm lý) giúp cho  
công tác tuyển chọn đào tạo thể  thao thành tích cao hiệu quả  hơn, hợp lý 
hơn. Dựa trên cơ  sở  đó giúp cho các nhà chuyên môn, các huấn luyện viên 
(HLV) trong công tác tuyển chọn, HL, đào tạo, dự báo chính xác tiềm năng  
phát triển thành tích của các VĐV.
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.


Khái lược về lịch sử phát triển môn TDDC
1.1.1.

Lịch sử  phát triển môn thể  dục và môn TDDC trên thế 

giới
Lịch sử  phát triển môn TDDC song hành cùng sự  phát triển của loài 
người từ xa xưa. Ở các quốc gia cổ đại khu vực Châu Á như: Trung Quốc, 
Ấn Độ, Ai Cập... Các dân tộc da đỏ ở Châu Mỹ, các dân tộc vùng Trung Á  
sử dụng các bài tập nhào lộn như những phương tiện bổ trợ cho dạy võ và 
vật. Ở Ấn Độ từ xa xưa đã biết luyện khí công. Ở Trung Quốc hình thành 
hệ  thống thể  dục chữa bệnh.  Ở Ai Cập có loại thể  dục gắn liền với các  
nghi lễ  của đạo Hồi. Lần đầu tiên thuật ngữ  "Thể  dục" xuất hiện  ở  Hy  
lạp vào thế  kỷ  VIII trước công nguyên vào giai đoạn hưng thịnh của nền 
văn hoá cổ Hy Lạp. Thời kỳ này có các trường chuyên để dạy giờ học thể 
dục gọi là trường thể  dục. Sau Hy Lạp cổ  đại người La Mã đã sử  dụng  
rộng rãi các bài tập nhào lộn khác nhau. Ngay từ thời kỳ này đã hình thành 
những nét đặc trưng của thể  dục hiện đại. Như  vậy thời kỳ  cổ  đại các 


14

phương tiện của thể dục đã khá phong phú và đa dạng, được sử  dụng với  
nhiều mục đích khác nhau. 
Đến giữa thế kỷ XIX đã hình thành ba hệ  thống thể dục khác nhau:  
hệ  thống Thể  dục Đức (thể  dục thể  hình hay thể  dục lực sỹ) là phương  
tiện để  phát triển các tố  chất vận động, gồm nhiều các bài tập thể  dục 
phức tạp, trong đó có các bài tập trên dụng cụ  thể  dục. Nhà sư  phạm có  
công sáng lập trường phái Đức là F. Lan (1778­1852) đã khẳng định các bài 

tập thể dục trên dụng cụ  có tác dụng tốt hơn so với các bài tập tay không 
và với dụng cụ. Hệ  thống Thể  dục Thuỵ  Điển (thể  dục vệ  sinh) như  là 
phương hướng và phương tiện quan trọng để  củng cố  sức khoẻ  và phát  
triển năng lực thể chất của con người. Phương pháp tập luyện của trường  
phái Thể dục Thuỵ Điển dựa trên cơ sở dấu hiệu về mặt giải phẫu học và  
hình thái học, có nghĩa các bài tập được soạn thảo để  phát triển từng bộ 
phận riêng biệt của cơ  thể, ví dụ  các nhóm cơ  riêng biệt: tay, chân, lưng,  
bụng... Trường phái Thể  dục Pháp là Thể  dục thực dụng, là phương tiện 
để  dạy người người lính biết khắc phục các chướng ngại vật khác nhau,  
thường gặp trong chiến đấu. 
Theo các tác giả  Gaverdovxki IU.K.[54]; Nguyễn Xuân Sinh và cs 
[27]: vào những năm 60 của thế kỷ XIX  ở Châu âu còn hình thành một hệ 
thống thể  dục có tầm quan trọng và mang ý nghĩa giáo dục xã hội và phát 
triển nền thể dục thao thế giới là hệ thống Thể dục "Chim ưng" của Tiệp  
Khắc. Đặc điểm chính của hệ thống thể dục này: các bài tập thể dục tự do 
hay thể dục dụng cụ phải chú ý đến vẻ đẹp hình thể khi tạo hình động tác,  
các ngón tay, mũi chân phải được duỗi thẳng, các động tác nhẩy, các bài  
liên hợp thể dục tự do và thể dục dụng cụ phải được thực hiện chính xác 
và đẹp. Trong hệ  thống thể  dục "Chim  ưng" lần đầu tiên xuất hiện thể 


15

dục đồng diễn quần chúng và các cuộc thi đấu về  thể  dục. Cuối thế  kỷ 
XIX hệ thống Thể dục dựa trên các luận điểm khoa học lần đầu tiên xuất  
hiện. Ở nước Nga có hệ thống Thể dục P. Létgap, ở Pháp có hệ thống Thể 
dục của G. Đêmenhi. Năm 1881, Liên Đoàn Thể  Dục Thế  Giới (gọi tắt là 
FIG) đã ra đời để tổ chức và lãnh đạo các cuộc thi đấu quốc tế. Thể dục đã 
được đưa vào chương trình thi đấu ngay từ  Đại hội Olympic Quốc tế  lần 
thứ nhất ở Aten (Hy lạp). Thể dục được chính thức công nhận là một trong 

nhiều môn thi đấu chính của Đại hội Olympic Mùa Hè.
Sự  ra đời của Liên Đoàn Thể  Dục Thế  Giới đã đóng vai trò quan 
trọng trong việc phát triển thể dục nói chung và môn thể  dục dụng cụ  nói 
riêng. Cuộc thi vô địch đầu tiên của môn TDDC diễn ra tại Bỉ  vào năm  
1903. Thời kỳ đó các cuộc thi chỉ dành cho nam giới, cứ 2 năm một lần, cho  
đến lúc Đại chiến thế giới lần thứ nhất bùng nổ (1914­1918). Từ năm 1922 
các cuộc thi vô địch thế giới được quy định lại cứ 4 năm một lần xen giữa 
các kỳ thi đấu Olympic. Lần đầu tiên các VĐV nữ  môn TDDC được tham  
gia thi đấu trên đấu trường Olympic vào năm 1928 và cuộc thi vô địch thế 
giới vào năm 1938. Các VĐV nữ thi các môn giống như  VĐV nam với các  
dụng cụ như xà đơn thấp, vòng treo động, thể dục tự do đồng đội với dụng 
cụ. Năm 1952 tại Olympic mùa hè diễn ra ở Hanxinhki (Phần Lan) cuộc thi  
TDDC chỉ  dành cho các VĐV TDDC nam. Năm 1958 tại giải thi đấu quán 
quân thế  giới chương trình thi đấu   gồm 6 môn cho nam (thể  dục tự  do, 
ngựa vòng, vòng treo, nhẩy chống, xà kép và xà đơn) và 4 môn cho nữ (thể 
dục tự do, nhẩy chống, xà lệch và cầu thăng bằng), đây cũng là năm thành 
tích được xác định ở vòng chung kết đơn môn của nam và nữ. Năm 1972 bổ 
sung thêm chung kết xác định vô địch toàn năng các môn hỗn hợp. Tại các 
cuộc thi đấu lớn thành tích luôn thuộc về  VĐV các nước khu vực châu 


16

Âu( Liên xô, Tiệp khắc, Đức…). Sau những năm 1990 VĐV các nước như 
Trung quốc, Rumani, Mỹ… là những đối thủ ngang tài, ngang sức.
Từ  đó đến nay dưới sự  lãnh đạo của Liên đoàn Thể  dục thế  giới, 
môn Thể  dục nói chung và TDDC nói riêng liên tục đi lên, phát triển bền  
vững và rộng khắp các châu lục, nhất là các nước như  Liên Xô (cũ), Đức, 
Rumani, Nhật Bản, Pháp, Ý, Mỹ… Với các tên tuổi như Khorkina Svetlana, 
Turiseva Ludmila, Susunova Elena, Nemov Aleksei, Takashi, Ohno, Akinori 

Nakayama,... Ngân Thương, Trương Minh Sang, Hà Thanh, Phạm Phước 
Hưng, Lê Thanh Tùng là những tên tuổi của VĐV TDDC VN được xướng  
lên với niềm tự hào dân tộc trên đấu trường quốc tế. Năm 2016 VĐV Phạm 
Phước Hưng vinh dự có động tác mang tên mình. 
1.1.2. Lịch sử phát triển môn TDDC tại Việt Nam

Trước thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, các bài tập thể  dục 
được phát triển trong khuôn khổ  các hoạt động thể  thao dân tộc truyền 
thống, chưa trở  thành môn tập luyện và thi đấu độc lập. Thực dân Pháp 
trong thời kỳ cai trị nước ta có đưa vào một số môn như đội hình, đội ngũ, 
xà đơn, xà kép, nhưng cũng chỉ  phục vụ  cho chính quyền Pháp, không có 
một cuộc thi đấu chính thức nào. Sau Cách mạng tháng Tám, Chủ  tịch Hồ 
Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục. Sau thập kỷ 60 thể dục đồng 
diễn với quy mô khác nhau được đưa vào chương trình hoạt động các ngày 
lễ  lớn, các đại hội thể  dục thể  thao. So với các môn thể  dục khác thì 
TDDC phát triển nhanh và rộng hơn cả. Theo tác giả Nguyễn Xuân Sinh và  
cộng sự [27] có thể phân chia thành bốn giai đoạn phát triển sau: 
­ Giai đoạn I từ năm 1955 đến năm 1970: Giai đoạn này bắt đầu hình 
thành phong trào tập luyện môn TDDC tại một số thành phố, tỉnh thành lớn  
như: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Nhờ  sự  giúp đỡ  về  mọi mặt của các 


17

chuyên gia Liên Xô các HLV, giáo viên, cán bộ và lực lượng VĐV nòng cốt  
đã được đào tạo bài bản. Cuộc thi đấu đầu tiên về  thể  dục đã được tổ 
chức vào năm 1967 tại Hà Nội. Từ đó đội tuyển quốc gia về TDDC ra đời 
đã tham gia tập huấn và thi đấu  ở  nhiều giải nước ngoài như   ở  Đại hội  
TDTT thế  giới tại Inđônêxia năm 1963, năm 1966 tại Campuchia. TDDC 
thời kỳ này tuy còn rất non trẻ song cũng xuất hiện nhiều gương mặt VĐV 

điển hình như  Trần Đức Tài, Lê Thuý Liễu, Nguyễn Thị  Kiều Khanh…
Lớp VĐV kế  tiếp như  : Phan Thanh Lan , Phan Thanh Liên, Phạm Thuý  
Lan, Ngô Thanh Hảo v.v...
­ Giai đoạn II từ  năm 1970 đến 1979: Chiến tranh phá hoại của đế 
quốc Mỹ, phong trào tập luyện TDTT chuyển hướng sang phục vụ cho sản  
xuất và chiến đấu. Các cán bộ  và VĐV được đưa đi Trung quốc tập huấn  
để  chuẩn bị  cho thời kỳ  sau chiến tranh. Sau khi tổ  quốc thống nhất các 
thành phố lớn đã khôi phục lại và củng cố mạnh mẽ phong trào tập luyện  
TDTT, bộ  môn Thể  dục của Tổng Cục TDTT tổ  chức thường xuyên các  
cuộc thi các cấp độ khác nhau làm tiền đề cho các giải vô địch sau này.
­ Giai đoạn III từ  năm 1979 đến năm 1994: Giai đoạn này sự  kiện  
quan trọng nhất là thể  dục Việt Nam gia nhập Liên đoàn Thể  dục Thế 
giới, đồng thời trở thành thành viên của phong trào Olympic Quốc tế. Năm 
1987 Việt Nam đã áp dụng luật thi đấu và bài thi theo quy định của quốc tế, 
đánh dấu một sự  trưởng thành về  chất khẳng định trình độ  đẳng cấp của  
các VĐV Việt Nam trên đấu trường quốc tế. Giai đoạn này thiên hướng 
chủ yếu đào tạo các VĐV TDDC nữ (Nguyễn Kim Lan , Kim Xuân, Thanh 
Xuân…) VĐV TDDC nam phát triển chậm và chưa rộng khắp cả  nước.  
Năm 1988 TDDC tham gia Đại hội TDTT Đông Nam Á (SEA Games) và 
Đại hội Thể thao Châu Á.  


18

­ Giai đoạn IV từ 1995 đến nay: TDDC đã có những bước tiến mạnh, 
vững chắc và toàn diện  ở  cả  nam và nữ, đã xuất hiện nhiều tên tuổi nổi  
bật trong các cuộc thi đấu quốc tế  như  Hoàng Tố  Lynh, Trương Minh  
Sang, đặc biệt VĐV Phan Thị  Hà Thanh, Phạm Phước Hưng, Lê Thanh 
Tùng đã ghi tên trong bảng vàng danh dự của môn TDDC không chỉ ở Việt  
Nam, rạng danh trên đấu trường quốc tế. Hà Thanh đã giành được huy 

chương  đồng vô  địch thế  giới  ở  môn nhảy chống, giành xuất tham dự 
Olympic 2012, 2016. 
1.2. Một số đặc điểm môn TDDC
1.2.1. Đặc điểm môn TDDC 

TDDC ­ là một trong các môn thi đấu Olympic có từ  rất sớm trong 
lịch sử  phát triển thể  thao thế  giới. Trải qua hơn trăm năm FIG không 
ngừng lớn mạnh và phát triển đến bây giờ. TDDC ­ cùng với sự phát triển 
của xã hội từng bước chinh phục các đỉnh cao, hoàn thiện trong mọi lĩnh 
vực giáo dục và huấn luyện, cơ sở vật chất, nghiên cứu khoa học... Chiều 
dài lịch sử đó gắn liền với sự thay đổi mạnh mẽ  về  độ  khó của động tác,  
chất lượng và cường độ tập luyện. Kỹ thuật động tác, các cấu trúc tổ hợp 
động tác phong phú khác nhau làm nền cho sự  bảo toàn và phát triển môn 
TDDC. Đặc điểm kỹ  thuật và các chuyển động tương phản là nét đặc 
trưng môn TDDC hiện đại.
 Tác giả Gaverdovxki IU.K. và cs [50] cho rằng: so sánh với các môn  
thể thao khác, các chuyển động của TDDC có tính chất đơn giản, chỉ là các 
chuyển động gập duỗi các khớp như  khớp bả  vai, khớp hông...Chuyển 
động gập duỗi hết biên độ dao động. Tuy nhiên các chuyển động đơn giản  
này phải đảm bảo độ chính xác tuyệt đối trong mối liên hệ giữa không gian  


19

và thời gian. Các chuyển động này phải thực hiện  ở  các tư  thế  phức tạp  
khác nhau ở một thời điểm nhất định. 
Theo tác giả  Bùi Nguyệt Nga và cs [21]: phần lớn các chuyển động 
trong môn TDDC thực hiện ở điều kiện phức tạp, đòi hỏi khắt khe về thời  
gian và sự chuyển đổi hướng liên tục. Mỗi động tác chuẩn phải đảm bảo  
tính kỹ thuật điêu luyện, phân định được cảm giác không gian ­ thời gian và  

các chỉ số  sức mạnh, nghệ thuật cao và tính nhịp điệu. Để  làm được điều  
này đòi hỏi sự  đáp  ứng của cơ  thể  VĐV về  mặt thể  lực, các xung động 
thần kinh cơ  tối đa, công suất phát lực cực đại, sự  khéo léo và cảm giác  
thăng bằng chuẩn. TDDC hiện đại rất đa dạng và phong phú về  cấu trúc, 
năng lượng sinh cơ học, VĐV cấp cao cần có trình độ về kỹ thuật, thể lực,  
chức năng cơ thể và tâm sinh lý phù hợp, lòng say mê để đáp ứng được yêu 
cầu, mục đích của mỗi cuộc thi.
Theo tác giả  Arcaeb L.IA.,Xutrin H.G. [49]: khi thực hiện các động 
tác trong TDDC không phải là sức mạnh tuyệt đối mà là sức mạnh tương 
đối do đó phải tính toán đến từng kg cân nặng của VĐV. Cùng với sự phát  
triển nhanh về  độ  phức tạp của động tác trong TDDC hiện đại đòi hỏi 
VĐV phải đáp  ứng được tố  chất đặc trưng quan trọng về  thể  lực là sức 
mạnh tốc độ. Sự  phát triển và hoàn thiện các nhóm cơ  lưng bụng có liên 
quan mật thiết tới chất lượng thực hiện các động tác .
Đặc trưng cơ bản của TDDC là các bài tập trên dụng cụ: xà đơn, xà 
kép, ngựa vòng, vòng treo  đối với nam, xà lệch, cầu thăng bằng, nhẩy 
chống, tự do đối với nữ. Trải qua nhiều năm phát triển, dụng cụ tập luyện  
môn TDDC có nhiều thay đổi để  đáp  ứng được yêu cầu nâng cao chất  
lượng động tác, ví dụ: xà lệch, lúc đầu cả nam và nữ đều sử dụng xà giống 
nhau, sau đó cải tiến cho phù hợp với nữ theo tiêu chuẩn của FIG quy định.  


20

Dụng cụ tập luyện phải đảm bảo tính đàn hồi tốt nhằm mục đích bảo toàn 
năng lượng cho động tác và tránh nguy hiểm cho người tập. 
Theo tác giả Nguyễn Xuân Sinh và cs [27]: khi thực hiện toàn bộ nội 
dung thi đấu, ở mỗi một dụng cụ các động tác mang nét đặc trưng riêng về 
tư  thế  vận động.  Ở  ngựa vòng và cầu thăng bằng chủ  yếu các tư  thế  có 
điểm tỳ  và điểm tựa,  ở  xà lệch và xà kép gồm các tư  thế  treo, điểm tựa. 

Nhẩy chống, tự do là các tư thế chống, tỳ.
Các tác giả Arcaeb L.IA., Xutrilin H.G.[49] cho rằng; về góc độ  sinh 
lý hoạt động chuyển động của các động tác trong TDDC liên quan đến 
công suất phát lực  ở mức độ  vừa và lớn. Phần lớn các động tác thực hiện 
trong điều kiện yếm khí hoặc trong điều kiện  ưa ­ yếm khí, việc nín thở 
khi làm động tác xảy ra thường xuyên. Năng lượng đảm bảo cho quá trình 
sinh lực của cơ xảy ra trong cơ thể VĐV TDDC hình thành không bằng con  
đường hấp thu oxy của phổi từ môi trường xung quanh và dự  trữ trong cơ 
khi thực hiện động tác, mà bằng con đường từ các phản ứng hoá học trong 
cơ thể, các phản ứng này xảy ra ở cơ. Vì vậy chế độ sinh lực của các hoạt  
động này về hình thức có thể coi là hoạt động yếm khí. 
Tác giả Catraev V.I. [60] trong nghiên cứu của mình đã cho thấy: tần  
số  mạch đập hay tần số  co bóp của tim trong quá trình tập luyện  ở  các 
VĐV đẳng cấp cao môn TDDC dao động từ  120­200 lần/phút. Độ  khó bài 
thi ngày càng được nâng cao cùng với lượng vận động (LVĐ) tăng lên để 
hoàn thiện kỹ năng, kỹ  xảo vận động. Ở một số  nước có nền TDDC phát 
triển VĐV phải tập 3 lần/ngày, phần lớn LVĐ trong tập luyện và thi đấu 
thực hiện trong điều kiện yếm khí. Ngay sau khi kết thúc bài tự  do, mạch  
đo được 200 lần/phút, quãng nghỉ giữa các lần di chuyển dụng cụ mạch đo 
được 120 lần/phút. Trước mỗi bài thi  ở  dụng cụ  mạch đo được  ở  VĐV 


21

đẳng cấp cao dao động 138­156 lần/phút. Mạch đo được cao nhất  ở  thời  
điểm trước khi bắt đầu thi nội dung xà kép là lớn nhất,  ở  nhẩy chống là 
thấp nhất 137 lần/phút, ngựa vòng 154 lần/phút, tự do 156 lần/phút, xà lệch 
152 lần/phút, vòng treo 148 lần/phút. Ngay sau khi kết thúc bài thi tự  do 
mạch   đo   được   là   201   lần/phút,   xà   lệch   194   lần/phút,   ngựa   vòng   193 
lần/phút,   vòng   treo   189   lần/phút,   mạch   ở   nhẩy   ngựa   là   thấp   nhất   168 

lần/phút.
Một điều cần thiết không thể thiếu trong việc lập kế hoạch HL cho  
VĐV cấp cao là việc hoạch định kế hoạch kiểm tra sức khoẻ, trình độ tập 
luyện, dinh dưỡng và hồi phục... để từ đó có việc điều chỉnh cho phù hợp.  
Với đặc trưng thể lực là sức mạnh và sức mạnh tốc độ  khi thực hiện các 
bài tập TDDC do đó vấn đề chiều cao, cân nặng của VĐV phải được kiểm  
soát chặt chẽ. 
Theo   tác   giả   Xmolevxki   V.M.   [50]:   chiều   cao   vừa   phải,   nhẹ   cân 
nhưng sức mạnh cơ bắp tốt là điều mà ban HL luôn hướng tới để  đào tạo 
ra những VĐV có thành tích cao. Chiều cao từ 160­170 cm, cân nặng 56­70  
kg đối với VĐV nam, chiều cao 150­160 cm, cân nặng 38­50 kg đối với  
VĐV nữ. Tuy nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ như VĐV  Jani Tanskanen 
người Phần Lan cao 182 cm, VĐV nữ  Marcy Beriholtts người Canada cao 
173 cm tham dự giải vô địch thế giới năm 2005 tại Melbourne .
Kết quả nghiên cứu của tác giả Rosin E.IU. [65]: hình thái của VĐV 
là yếu tố quan trọng trong công tác tuyển chọn và HL: cơ bắp, vai rộng vừa  
phải ở nam, rộng vai ở nữ, hông nhỏ, tay dài, tỷ lệ chân dài, thân ngắn. Tác  
giả có đưa ra các chỉ  số  trung bình về chiều cao, cân nặng của nam và nữ 
phục vụ công tác tuyển chọn ban đầu và tuyển chọn giai đoạn chuyên môn 
hoá sâu.


22

Theo Nguyễn Xuân Sinh và cs [27]: tỷ  lệ  phần trăm chiều cao, cân 
nặng so với cơ thể của VĐV đẳng cấp cao: Chiều dài tay chiếm 42­47% so  
với chiều cao đứng, chiều dài chân chiếm 52­56% chiều dài cơ thể.
Theo tác các tác giả Gaverdobxki IU.K., Xmolevxki V.M [50]. Theo di 
truyền học, chiều cao, tỷ lệ cơ thể và các chỉ số nhân trắc học cơ bản khác 
của con người do gen quy định hay nói cách khác có sẵn từ lúc mới sinh ra 

đời. Dưới tác động của các hoạt động thể  chất có ảnh hưởng đến các chỉ 
số trên ở một mức độ nào đó. 
TDDC là môn thể thao hỗn hợp, phức tạp, bất kỳ một động tác nào 
khi thực hiện đều phải đảm bảo tuân thủ các yêu cầu về độ cao, độ xa, biên 
độ rộng và tốc độ tương đồng. Chính vì thế lực tác dụng bao gồm cả nội 
lực và ngoại lực phải được huy động hợp lý, đầy đủ và đúng thời điểm để 
hình  thành  quỹ đạo  trọng  tâm  chuyển động  trong  không  gian đạt được  tối 
ưu. 
            Các tác giả  Goxtev Z.V.(55), Gaverdovxki IU.K.(54) đều cho rằng:  
trong TDDC có thể phân ra thành 2 nhóm động tác chính, đó là nhóm động 
tác tĩnh và dùng sức và nhóm các động tác dùng đà lăng. Nhóm động tác tĩnh 
hay còn gọi là trạng thái cân bằng gồm có 3 dạng: Cân bằng bền, cân bằng 
không  bền  và  cân  bằng  động.  Trạng  thái  cân  bằng  bền  chủ  yếu  ở  tư  thế 
treo, chống. Tổng trọng tâm cơ thể nằm trên đường chiếu tổng hợp lực của 
những  điểm  treo,  chống  và  luôn  thấp  hơn  so  với  điểm  treo,  chống.  Trạng 
thái cân bằng không bền xảy ra khi thực hiện các động tác tổng trọng tâm 
cao hơn điểm chống tỳ. Trạng thái cân bằng động xảy ra trong những động 
tác  có  tổng  trọng  tâm  cơ  thể  dao động  thường  xuyên, có  lúc  vượt  ra  khỏi 
hình chiếu diện tích chân đế.
1.2.2. Đặc điểm VĐV TDDC nữ


23

1.2.2.1 Đặc điểm VĐV TDDC nữ 
Dựa vào các đặc điểm giới tính cho nên các bài tập TDDC dành cho 
nữ giới cũng mang nét riêng phù hợp với hình thái, chức năng, tâm sinh lý 
của nữ giới.
  Các chuyên gia Gaverdobxki IU.K.và cs[54], Nguyễn Xuân Sinh và 
cs[28] đều cho rằng: hình thái nhỏ gọn, chiều cao của các VĐV TDDC nữ 

thấp  hơn  VĐV   nam   cùng  độ   tuổi,  lượng  mỡ   của   nữ   nhiều   hơn.   VĐV  
TDDC trình độ cao có kết cấu ngoại hình cơ thể thích hợp như sau: ở nam 
cấu trúc cơ  thể  có đặc điểm­ hai vai rộng vừa phải, tay dài, ở  nữ­ hai vai  
rộng. Mặc dù có sự  khác nhau về  độ  lớn tuyệt đối của vóc dáng và trọng  
lượng, tỷ lệ về sự cân đối cơ thể của nam và nữ tương đối giống nhau. Số 
lượng môn ít hơn (4 dụng cụ  của nữ, 6 dụng cụ  nam)  nên những đòi hỏi 
đối với nữ VĐV TDDC về phát triển các tố chất thể lực và kỹ năng vận 
động cũng khác với VĐV TDDC nam, các tố chất thể lực phải phù hợp với 
đặc điểm cơ thể của nữ. Ví dụ: tố chất mềm dẻo của nữ tốt hơn nam , tuy 
nhiên tố chất sức mạnh lại kém hơn nam. Chu kỳ kinh nguyệt cũng là một 
khó khăn trong sinh hoạt cũng như ảnh hưởng tới thời kỳ HL, thi đấu của 
VĐV TDDC nữ: trạng thái cơ thể mệt mỏi do mất một lượng máu lớn, sự 
thay đổi nội tiết tố  trong cơ  thể dẫn đến tâm sinh lý không ổn định dễ  bị 
tác động bởi môi trường xung quanh.
 Về  nghệ  thuật: các động tác của nữ  mang tính thẩm mỹ  cao, mềm 
mại, uyển chuyển, đặc biệt bài thi trên thảm tự  do cùng với nhạc đệm, 
ngoài yếu tố  hoàn thiện kỹ  năng kỹ  sảo vận động, các VĐV nữ  còn phải  
phô diễn được cái đẹp của động tác, diễn cảm được nội dung chủ đề  của 
cấu trúc bài thi, đòi hỏi năng khiếu cảm thụ âm nhạc của VĐV. 
1.2.2.2. Đặc điểm HL VĐV TDDC nữ


24

Các   tác   giả   Nguyễn   Xuân   Sinh,   Lê   Văn   Lẫm,   Trần   Phúc   Phong, 
Trương Anh Tuấn [27]: mỗi một dụng cụ của nữ đều mang tính đặc trưng  
riêng về  tố  chất  thể  lực.  Ở  môn nhẩy chống: động tác phải vượt qua 
chướng ngại, lại có định hướng phức tạp, thực hiện với thời gian chớp  
nhoáng, sử dụng lực tối đa và cần phải có lòng dũng cảm. Ở môn xà lệch:  
đòi hỏi phải có tố  chất nhanh­ mạnh, có năng lực phối hợp tốt để  thực 

hiện các bài tập khó và phức tạp.  Ở  cầu thăng bằng: phải biết giữ  thăng 
bằng trên bề mặt chống hẹp khi thực hiện các bài tập khác nhau (bao gồm 
cả các động tác nhào lộn kết hợp với quay theo các trục cơ thể). Ở thể dục 
tự do: đây là môn tiêu biểu của VĐV TDDC nữ. Môn này đòi hỏi VĐV phải 
có sức bền chuyên môn tốt, giỏi về nhào lộn và vũ đạo
        Theo các tác giả Arcaev L.IA [47]., Xutrilin X.G., Ucran M. [70]: trong  
TDDC luôn có sự  hỗ  trợ,  ảnh hưởng qua lại giữa các dụng cụ  khác nhau, 
tố  chất thể lực và kỹ  năng thực hiện môn này có thể  giúp môn khác hoàn 
thiện tốt hơn, tuy nhiên cũng không hoàn toàn như vậy vì một số môn mang  
tính chuyên biệt khác hẳn, ví dụ ở môn nhẩy chống  và nhào lộn trên thảm 
tự do đều cần có sức bật, nhưng sức bật  ở mỗi môn có đặc thù khác nhau  
về  mặt kỹ  thuật. Phẩm chất ý chí, dũng cảm  ở  mỗi môn cũng khác nhau.  
Trong HL   VĐV TDDC nữ, môn thể  dục tự  do và môn cầu thăng bằng 
chiếm nhiều thời gian hơn cả. Để  hoàn thiện tốt các động tác trên cầu  
thăng bằng đòi hỏi độ chính xác cao vì thế số lần lên dụng cụ là nhiều nhất 
so với các dụng cụ khác. Môn xà lệch và nhẩy chống yêu cầu thời gian hồi 
phục dài nên số lần tiếp cận dụng cụ ít hơn. 
           Trong tập luyện VĐV nữ  không những phải đảm bảo LVĐ lớn về 
cường độ  và khối lượng, số  lượng các bài liên kết... động tác còn phải có 
tính kỹ  thuật điêu luyện cao, có trình độ  diễn xuất phong phú, đậm chất 


25

nghệ sỹ biểu diễn, đồng thời vẫn phải đảm bảo độ ổn định cần thiết trong  
mỗi bài thi. Các bài tập của nữ  cũng được phối hợp với những bài tập  
mang đặc điểm khác nhau, đòi hỏi phải có trình độ thể lực toàn diện.
      Tóm lại do sự khác biệt về mặt cấu trúc cơ thể nên ở VĐV TDDC nữ, 
chỉ có kết hợp LVĐ lớn với chất lượng cao và một sự nỗ lực tập luyện rất  
lớn mới đảm bảo cho TTTT đạt được trình độ tột đỉnh.

1.2.3. Luật thi đấu TDDC
Thể dục thể thao nói chung và TDDC nói riêng đều phải dựa vào đề 
cương cũng như  luật lệ để  đề  ra phương hướng phát triển và tổ  chức các  
cuộc thi đấu. Luật thi đấu do tiểu ban kỹ thuật môn TDDC của FIG soạn 
thảo và quy định. Luật luôn đổi mới và không ngừng hoàn thiện. Chương 
trình thi đấu đầu tiên năm 1862 tại Tiệp Khắc bao gồm các môn hỗn hợp 
của thể dục và điền kinh. Năm 1871 thứ tự thi đấu được xác định bằng rút 
thăm. Trong đó người thứ nhất thực hiện bất kỳ bài thi nào, tất cả  những  
người còn lại sẽ  lặp lại theo thứ  tự  đúng như  vậy. Giá trị  điểm theo hệ 
thống điểm 5. Bài thi chỉ  thực hiện một lần. Lần thứ  hai được phép thực 
hiện lại chỉ  khi bài thi bị  hỏng và được sự  cho phép của trọng tài. Người  
chiến thắng là người có điểm trung bình lớn nhất từ tổng số điểm chung.
Tại đại hội Olympic lần thứ  V (1912), hệ  thống điểm 12 được áp 
dụng. Mỗi dụng cụ  có 3 trọng tài. Giá trị  điểm được cộng lại chia trung  
bình.Từ  giữa những năm 40 của thế  kỷ  XX đề  cương thi đấu của nữ  bao 
gồm các môn như của nam, sau dần loại bỏ một số môn không phù hợp để 
thay bằng các môn mới của TDDC hiện đại ngày nay. Luật thi đấu ở  thời  
kỳ  này chưa  ổn định, cách tính điểm được soạn cho từng cuộc thi đấu. 
Năm 1948, xuất hiện bảng phân loại theo độ khó động tác và liên kết động 
tác cho từng môn hỗn hợp. Năm 1949 Hội nghị  Thể  dục Quốc tế đã soạn  


×