Tải bản đầy đủ (.pdf) (209 trang)

Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ trong Tổng công ty Sông Đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 209 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản Luận án là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các  
tài liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực. Những kết luận 
khoa học của Luận án chưa từng được ai công bố   ở  bất kỳ  công trình nào  
khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Đỗ Quốc Việt


2

LỜI CẢM ƠN
Tác giả  xin bày tỏ  sự  biết  ơn sâu sắc tới GS.TS. Nguyễn  Đình  Đỗ; 
PGS.TS. Đỗ Minh Thành ­ người hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn 
tác giả trong suốt quá trình thực hiện Luận án.
Tác giả xin bày tỏ sự cảm ơn tới Học viện Tài Chính, Khoa đào tạo Sau 
đại học Học viện Tài chính đã giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập và  
nghiên cứu Luận án.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình và quý báu trong quá 
trình thu thập số liệu, phiếu điều tra của các nhà quản lý tại các doanh nghiệp  
thuộc Tổng công ty Sông Đà, các thành viên Ban Kiểm soát nội bộ, các cán bộ 
các Ban: Tài chính ­ Kế toán, Tổ chức nhân sự, Kinh tế, Quản trị rủi ro… tại  
Công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên thuộc Tổng công ty Sông Đà.
Cuối cùng, tác giả muốn bày tỏ sự cảm ơn tới những người thân trong gia 
đình đã động viên, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu Luận án.



3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BBKT
BCKT
BCKS
BCTC
BKS
COSO
CTCP
DNNN
HĐQT
HĐTV
HTKSNB
IFAC
IIA
KQKD
KSCL
KSNB
KSVNB
KTĐL
KTNB
KTNN
KTVNB
KHKT
NĐD
OECD
QLDA
QTKD
QTRR

SDC
SOX
SXKD
TCT
TGĐ
TNHH MTV

Biên bản kiểm toán
Báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm soát
Báo cáo tài chính
Ban kiểm soát
Ủy ban chống gian lận BCTC ­ Hội đồng quốc gia Hoa 
Kỳ
Công ty cổ phần
Doanh nghiệp nhà nước
Hội đồng quản trị
Hội đồng thành viên
Hệ thống kiểm soát nội bộ
Liên đoàn Kế toán quốc tế
Viện Kiểm toán nội bộ
Kết quả kinh doanh
Kiểm soát chất lượng
Kiểm soát nội bộ
Kiểm soát viên nội bộ
Kiểm toán độc lập
Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nhà nước
Kiểm toán viên nội bộ
Kế hoạch kiểm toán

Người đại diện
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
Quản lý dự án
Quản trị kinh doanh
Quản trị rủi ro
Tổng công ty Sông Đà
Luật Sarbanes ­ Oxley
Sản xuất kinh doanh
Tổng công ty
Tổng giám đốc
Trách nhiệm hữu hạn một thành viên


4

 


5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trên con đường đổi mới và phát triển kinh tế, vì vậy nhu 
cầu xây dựng cơ sở hạ tầng của nền kinh tế cũng như đầu tư cơ sở vật chất  
kỹ  thuật khác là rất lớn. TCT Sông Đà là một trong những đơn vị  đầu tiên 
được thành lập để thực hiện một trong những nhiệm vụ đó, với truyền thống 
hơn 50 năm xây dựng và phát triển, là đơn vị đi tiên phong trong lĩnh vực xây 
lắp, đã và đang thi công nhiều công trình trọng điểm phục vụ phát triển kinh  
tế, xã hội của đất nước như: Thủy điện Thác Bà, Hòa Bình, Yali, Sê San, Sơn  
La, Lai Châu; Đường dây truyền tải điện 500KV Bắc Nam; Đường Hồ  Chí 

Minh... và sắp tới đây là nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam tại 
Ninh Thuận. Trải qua quá trình phát triển, cùng với những thành tích đã đạt 
được thì trong cơ cấu tổ chức, mô hình quản trị tại TCT Sông Đà còn bộc lộ 
một số điểm chưa bắt kịp với sự phát triển của kinh tế thị trường; một số dự 
án do TCT làm chủ đầu tư chưa phát huy được hiệu quả; hoạt động kiểm tra,  
kiểm soát tại Công ty mẹ và Công ty con còn hạn chế.
Hiện tại, TCT đang trong quá trình triển khai thực hiện đề  án tái cơ cấu 
với mục tiêu:  Xây dựng một Tổng công ty có cơ  cấu hợp lý, tập trung vào  
ngành nghề  kinh doanh chính với quy trình quản lý, quản trị  công ty theo  
thông lệ tốt nhất; nâng cao sức cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ  
sở  hữu của Tổng công ty.  Để  thực hiện được các mục tiêu đó một trong 
những giải pháp TCT Sông Đà cần phải thực hiện đó là hoàn thiện bộ  máy 
quản lý, thiết lập một hệ thống KSNB hoạt động hiệu quả, phát huy tối đa  
hiệu quả  trong việc huy động và sử  dụng tối  ưu các nguồn lực. Hệ  thống  
KSNB chỉ phát huy được hiệu quả khi được thiết kế phù hợp với những đặc 
thù của doanh nghiệp và phải được đánh giá thường xuyên nhằm phát hiện 
những điểm yếu để khắc phục. Vì vậy, trong cơ cấu tổ chức của TCT Sông 
Đà cần phải có một bộ  phận thực hiện chức năng đánh giá hiệu quả  hệ 
thống KSNB và đánh giá tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực c ủa t ất  cả các hoạt 
động nhằm đưa ra ý kiến tư vấn cho các cấp lãnh đạo trong quá trình ra quyết  
định. Bộ phận đảm nhận trách nhiệm này chính là KTNB.
Có thể  thấy sự  cần thiết phải hoàn thiện tổ  chức KTNB tại TCT Sông  
Đà theo hai khía cạnh cơ bản như sau:
a. Sự cần thiết khách quan phải hoàn thiện tổ chức KTNB tại Tổng công  
ty Sông Đà
Quá trình hội nhập kinh tế thế giới cùng với sự phát triển mạnh mẽ của 
nhiều thành phần kinh tế đã đặt các doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh  
khốc liệt. Để  giữ  vững được sức cạnh tranh thì các doanh nghiệp cần phải 
duy trì hệ thống KSNB tốt nhằm phòng ngừa rủi ro đồng thời phát huy tối đa  



6

hiệu quả sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, để  các nhà 
quản trị  có thông tin tin cậy phục vụ việc ra quyết định thì các thông tin này 
phải được đánh giá đầy đủ theo nhiều khía cạnh khác nhau. Tất cả những yêu  
cầu này sẽ  được đáp  ứng nếu doanh nghiệp thành lập một bộ  phận KTNB  
hoạt động có hiệu quả. Có thể  thấy sự  cần thiết phải thành lập bộ  phận  
KTNB được thể hiện qua các yếu tố sau:
Thứ  nhất, KTNB cung cấp thông tin kịp thời, quan trọng phục vụ  nhà  
quản lý trong việc ra quyết định
Trong khi kiểm toán độc lập thường chỉ thực hiện kiểm toán tài chính và 
hậu kiểm  thì KTNB hiện đại lại hướng đến kiểm toán hoạt động và  tiền 
kiểm, kiểm toán hiện hành để phục vụ nhu cầu quản lý. Với chuyên môn cao  
và phương pháp thích hợp, KTNB thực hiện tiền kiểm đánh giá về tính kinh 
tế, hiệu quả, hiệu lực của các chương trình, dự án hay bất kỳ hoạt động nào  
của doanh nghiệp sẽ  đưa ra thông tin tư  vấn cho nhà quản trị  cấp cao quyết 
định có tiến hành chương trình, dự  án đó hay không, lợi ích kinh tế mà nó có 
thể  mang lại hoặc chấm dứt thực hiện ngay khi chương trình, dự  án chưa 
được bắt đầu. Bên cạnh đó, KTNB còn thể  hiện được tính kịp thời khi thực  
hiện kiểm toán hiện hành, kết quả  kiểm toán sẽ  giúp nhà quản trị  có được 
thông tin về  những gian lận, sai sót ngay khi nó vừa xảy ra, quyết định sửa  
chữa, khắc phục, giảm thiểu ảnh hưởng do chậm trễ về mặt thời gian.
Thứ  hai, KTNB là công cụ  phát hiện và cải tiến những yếu điểm trong  
hệ thống KSNB của doanh nghiệp, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Mục tiêu cơ  bản trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp đó là: bảo 
toàn và phát triển được vốn chủ  sở  hữu, tức là doanh nghiệp phải phát triển  
một cách bền vững. Biện pháp để  thực hiện điều đó là cân bằng giữa tăng  
trưởng, hiệu quả  và kiểm soát. Để  tăng trưởng tốt cần có chiến lược phát  
triển khả thi; để  đảm bảo hiệu quả  cần sử  dụng tối  ưu các nguồn lực hiện 

có hoặc huy động và để  kiểm soát tốt, doanh nghiệp cần có một hệ  thống  
KSNB đủ  mạnh. Không có bất cứ  doanh nghiệp nào sở  hữu một HTKSNB 
nào hoàn hảo, ít nhất thì HTKSNB luôn tồn tại những hạn chế vốn có của nó 
và phát sinh thêm yếu điểm trong quá trình vận hành. KTNB là một yếu tố 
cấu thành HTKSNB nhưng giữ  chức năng kiểm soát của kiểm soát, tức là  
chức năng đánh giá, phát hiện và khắc phục những tồn tại, hạn chế  của  
HTKSNB; duy trì một HTKSNB đủ mạnh để giảm thiểu những gian lận, sai  
sót  trong quá trình hoạt   động của doanh nghiệp. Vì  vậy, việc hoàn thiện 
KTNB không chỉ  giúp SDC hoàn thiện HTKSNB của mình mà còn đảm bảo 
sự phát triển bền vững theo cả ba khía cạnh như đã nêu trên.
Thứ  ba, xuất phát từ  nhiệm vụ  tái cơ  cấu quản trị  doanh nghiệp theo  
hướng hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế
Quyết định số  929/QĐ­TTg ngày 17/7/2012 của Thủ  tướng Chính phủ 


7

phê duyệt “Đề án tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công 
ty nhà nước giai đoạn 2011­2015” đã đưa ra nhiệm vụ  tái cơ  cấu quản trị 
doanh nghiệp: 
Áp dụng các nguyên tắc quản trị  theo thông lệ  quản trị  doanh nghiệp  
quốc tế; hoàn thiện cơ chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ, chú trọng kiểm soát  
rủi ro tài chính để kịp thời có biện pháp phòng ngừa, hạn chế, khắc phục và  
điều chỉnh kế  hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp; tăng cường năng lực,  
quyền hạn của ban kiểm soát, kiểm soát viên và kiểm toán nội bộ;
Quyết định số  50/QĐ­BXD ngày 151/2/103 của Bộ  Xây dựng về  phê 
duyệt Đề  án “Tái cấu trúc Tổng công ty Sông Đà giai đoạn 2012­2015, tầm  
nhìn đến 2020” đã nêu rõ nhiệm vụ  tái cấu trúc quản trị  doanh nghiệp tập 
trung vào nội dung: Áp dụng nguyên tắc quản trị doanh nghiệp theo thông lệ  
quốc tế hiện đại; tăng cường công tác kiểm soát nội bộ; quản trị sự thay đổi;  

quản trị rủi ro, tài chính, nhân sự, chiến lược, thương hiệu...”
Như vậy, việc tái cơ  cấu quản trị doanh nghiệp là một trong những nội  
dung bắt buộc TCT phải thực hiện trong quá trình tái cơ  cấu. Một trong  
những thông lệ tốt trong quản trị doanh nghiệp tại các quốc gia thuộc OECD  
đó là thành lập bộ  phận KTNB hoạt động hiệu quả, báo cáo trực tiếp với  
HĐQT hoặc tương đương. Riêng đối với Việt Nam, OECD cũng đã đưa ra  
khuyến cáo: Doanh nghiệp nhà nước cần xây dựng quy trình KTNB hiệu quả  
và thiết lập chức năng kiểm toán nội bộ  dưới sự  giám sát  và báo cáo trực  
tiếp cho HĐQT và Ủy ban Kiểm toán hay bộ phận tương đương [24, tr18,45].
Qua các nội dung nêu trên có thể thấy, việc thành lập, vận hành bộ phận 
KTNB tại TCT Sông Đà là tương đối phù hợp với thông lệ  quản trị  doanh 
nghiệp quốc tế và nhiệm vụ tái cơ cấu quản trị doanh nghiệp đã được giao.
b. Sự cần thiết phải hoàn thiện tổ chức KTNB xuất phát từ nhu cầu nâng  
cao hiệu quả quản trị của TCT Sông Đà
Thứ nhất, Xuất phát từ tình hình thực tế tại TCT Sông Đà.
Trong những năm qua, tình hình SXKD của TCT Sông Đà gặp nhiều khó 
khăn, một số khoản đầu tư lớn không mang lại hiệu quả như kỳ vọng đã làm  
cho tình hình tài chính của TCT rất xấu. Một số chỉ tiêu tài chính cơ bản của 
TCT Sông Đà giai đoạn 2011­2014:
Bảng 1: Tình hình tài chính SDC giai đoạn 2012­2014
Đơn vị tính: tỷ đồng

STT 
1
2

Chỉ tiêu

Nợ phải trả 
Nợ ngắn hạn 


Năm
2012
38.134
17.938

2013
39.080
17.783

2014
38.244
16.682


8

STT 
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Chỉ tiêu


Tiền và các khoản ĐTTC 
Tiền và các khoản tương đương tiền 
VLĐ ròng
Nguồn VCSH 
Hệ số nợ trên vốn CSH
Lãi tiền vay 
Khả năng thanh toán hiện thời 
Khả năng thanh toán nhanh
Khả năng thanh toán tức thời
Lợi nhuận trước thuế

Năm
2012
1.969
1.605
­5.199
8.753
4,35 
1.845
0,71 
0,11 
0,09 
95

2013
2,668 
2.417
­4.009
7.821

4,99 
2.235
0,77 
0,15 
0,14 
95

2014
1.970
1.664
­3.849
7.447
5,14
2.100
0,78
0,14
0,12
156

  (Nguồn: Tác giả  tính toán, tổng hợp từ  BCTC hợp nhất đã kiểm toán  
của TCT Sông Đà)
Có thể  thấy, Hệ  số  nợ  trên vốn chủ  sở  hữu đã  vượ t ngưỡng an toàn 
(là 3 theo quy định của Bộ Tài chính); tiền và các khoản tương đươ ng tiền, 
tiền và các khoản đầu tư  tài chính không bù đắp đượ c nợ  ngắn hạn; khả 
năng thanh toán rất thấp, tình trạng mất cân đối dòng tiền trả  nợ  diễn ra  
trong nhiều năm và đặc biệt TCT Sông Đà đang mất cân bằng tài chính 
nghiêm trọng khi vốn lưu động  ròng âm  3.849 tỷ  đồng, tiềm  ẩn nguy cơ 
phá sản. Lợi nhuận, tỷ su ất l ợi nhu ận trên vốn chủ sở hữu (ROE) rất thấp;  
nguồn vốn chủ sở hữu đang có xu hướ ng giảm, một số dự án đượ c đầu tư 
vốn lớn nhưng hoạt động không hiệu quả, không thu xếp đượ c vốn trả  nợ 

làm xếp hạng tín dụng  ảnh hưởng đến uy tín của TCT và Chính phủ  Việt 
Nam (Dự  án Xi măng Hạ  Long do Chính phủ  bảo lãnh, hoạt động SXKD 
không hiệu quả, không có khả năng trả nợ gốc và  lãi vay; Dự án đầu tư trụ 
sở HH4 chậm tiến độ, không phát huy hiệu quả như phương án ban đầu...).
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình tài chính yếu kém như 
phân tích đó là công tác quản lý chi phí chưa chặt chẽ; công tác đầu tư  chưa  
mang lại hiệu quả  tương  ứng với nguồn lực bỏ  ra; hiệu quả  sử  dụng vốn  
không cao: các đơn vị xây lắp có tỷ lệ  lợi nhuận thấp không đủ bù đắp lỗ lũy 
kế của Xi măng Hạ  Long, vòng quay vốn dài (đặc thù xây lắp) nên thường 
phải bù đắp bằng vốn tín dụng với chi phí cao.
Với những tồn tại trước mắt như  vậy, việc xây dựng bộ  phận KTNB 
hoạt động thực sự  hiệu quả  sẽ  giúp TCT Sông Đà giải quyết được một số 
vấn đề:
­ Quản lý chi phí một cách chặt chẽ: trên cơ sở  thực hiện các biện pháp  
nghiệp vụ, KTNB sẽ đánh giá đúng thực trạng và đưa ra những biện pháp tiết 
giảm chi phí trong quá trình thi công xây lắp, mua sắm vật tư, thiết bị; nâng  


9

cao hiệu quả sử dụng tài sản...;
­ Đối với các dự  án đầu tư: Với việc thực hiện  tiền kiểm và kiểm toán 
hoạt động, KTNB sẽ có đánh giá chính xác về tính khả thi của dự án. KTNB  
sẽ đưa ra biện pháp tối ưu trong việc sử dụng các nguồn lực hiện có và huy  
động các nguồn tài trợ  với chi phí thấp nhất. Giúp nhà quản lý có biện pháp  
phát huy hết tất cả  tiềm lực của TCT từ  con người, máy móc thiết bị, tài 
chính đến các nguồn lực huy động từ bên ngoài.
Thứ  hai, Các ngành, nghề sản xuất kinh doanh chính của TCT đều tiềm  
ẩn rất nhiều rủi ro.
Theo kế hoạch SXKD giai đoạn 2016­2020 của TCT Sông Đà thì ngành,  

nghề  sản xuất kinh doanh chính là: (1) Tổng thầu xây dựng và tổng thầu 
EPC; (2) Đầu tư, sản xuất và kinh doanh điện; (3) Phát triển nhà ở  và đô thị.  
Với ba lĩnh vực này rủi ro có thể đến từ rất nhiều yếu tố như: chính trị, pháp 
luật, vốn, nhân sự, tiến độ, trượt giá, thiên tai... mà mỗi yếu tố  đều  ảnh 
hưởng rất lớn đến kết quả SXKD của TCT. 
Hiện tại, Công ty mẹ  và các đơn vị  thành viên đã thành lập Phòng/Ban  
QTRR tuy nhiên, theo nguyên tắc Ba vòng bảo vệ  trong doanh nghiệp thì bộ 
phận này vẫn đang  ở  cấp độ  bảo vệ  thứ  hai: giám sát rủi ro, vẫn cần triển  
khai cấp bảo vệ thứ ba: Bảo đảm độc lập. Với chức năng đưa ra những đánh 
giá độc lập đối với tất cả  các hoạt động của doanh nghiệp, KTNB sẽ  đánh 
giá tính hiệu quả, nhất quán của mô hình QTRR và hệ thống KSNB, quản trị 
doanh nghiệp một cách độc lập.
Thứ ba, Tăng cường độ tin cậy của thông tin đối với các nhà đầu tư, cổ  
đông trong và sau quá trình cổ phần hoá
Theo kế hoạch, TCT Sông Đà sẽ tiến hành cổ phần hoá trong năm 2016,  
tuy nhiên với thực trạng tài chính như  đã trình bày ở  trên, nếu TCT không có 
các biện pháp cải thiện hoặc nâng cao lòng tin của nhà đầu tư  đối với các 
thông tin tài chính thì nhiều khả năng quá trình IPO của TCT sẽ  khó đạt được 
kết quả mong muốn. Các nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy: doanh nghiệp 
có bộ phận KTNB thường cung cấp thông tin, BCTC đúng hạn và có mức độ 
minh bạch, chính xác cao, khả  năng gian lận thấp và trên hết là hoạt động  
SXKD đạt hiệu quả cao hơn so với các doanh nghiệp không có phòng KTNB. 
Vì vậy, việc tổ chức bộ phận KTNB hoạt động có hiệu quả không những sẽ 
mang lại lợi ích cao cho TCT Sông Đà trong bối cảnh tình hình tài chính gặp  
nhiều khó khăn mà còn giúp TCT tìm kiếm được nhiều nhà đầu tư chiến lược 
có thể  hỗ  trợ  về  vốn, về  kinh nghiệm và hoàn thành mục tiêu IPO đã được  
nhà nước giao.
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt với sự  xuất hiện ngày 
càng nhiều các Tập đoàn xây dựng lớn trong và ngoài nước thì việc tăng cường 
kiểm soát, phát huy tối đa hiệu quả sử dụng các nguồn lực để  tăng tính cạnh 



10

tranh là biện pháp vô cùng quan trọng, mang tính sống còn đối với TCT Sông Đà, 
đồng thời hoàn thành nhiệm vụ được nhà nước giao. Vì vậy, việc xây dựng và 
vận hành có hiệu quả bộ phận KTNB tại TCT Sông Đà là một yêu cầu cấp thiết 
trong quá trình tái cơ cấu và hội nhập. Nhận thức được vấn đề đó, nghiên cứu 
sinh (NCS) chọn đề tài “Hoàn thiện tổ  chức kiểm toán nội bộ trong Tổng 
công ty Sông Đà” để nghiên cứu luận án Tiến sĩ.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án
Trên thế  giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng đã có rất nhiều công  
trình nghiên cứu về  KTNB theo các khía cạnh và mục tiêu khác nhau, có thể 
khái quát các công trình nghiên cứu như sau:
2.1. Về tổ chức bộ máy KTNB
Đặt nền móng đầu tiên cho lý luận về KTNB hiện đại phải kể đến cuốn 
sách “Kiểm toán nội bộ hiện đại ­ Đánh giá các hoạt động và hệ thống kiểm  
soát”  của hai tác giả  Victor Z. Brink và Herbert Witt xuất bản lần đầu năm 
1941, bản dịch tiếng Việt do Nhà xuất bản Tài chính phát hành năm 2000.  
Cuốn sách đã làm rõ những vấn đề  cơ  bản về  KTNB như: khái niệm, chức  
năng, nhiệm vụ, mối quan hệ với các bộ phận trong doanh nghiệp, bố trí nhân 
viên và huấn luyện… Ngoài ra, cũng đã đề  cập đến vị  trí của KTNB trong  
doanh nghiệp đó là: chịu sự  chỉ  đạo trực tiếp của Uỷ  ban kiểm toán trực  
thuộc Ban giám đốc. Cùng quan điểm trên với Victor Z. Brink và Herbert Witt 
về vị trí của KTNB trong doanh nghiệp, tác giả Đặng Văn Thanh, Lê Thị Hoà 
trong cuốn sách “Kiểm toán nội bộ ­ Lý luận và hướng dẫn nghiệp vụ” (Nhà 
xuất bản Tài chính, 1998) cũng đã nêu: Bộ phận KTNB được tổ chức độc lập  
với các bộ phận quản lý và điều hành kinh doanh trong doanh nghiệp (kể  cả  
phòng kế  toán ­ tài chính); chịu sự  chỉ  đạo và lãnh đạo trực tiếp của (Tổng)  
Giám đốc doanh nghiệp”.

Ngoài ra, có thể kể đến các nghiên cứu tương tự như: Tác giả Ann Neale 
(1991) về  "Hệ  thống kiểm toán: Lý thuyết và thực hành";  Tác giả  John A. 
Edds (1980) về  "Kiểm toán quản trị: Khái niệm và thực hiện"; Tác giả  J.C. 
Shaw (1980) về  "Kiểm toán nội bộ  ­ Một yếu tố  cần thiết cho hoạt  động  
quản lý hiệu quả"; Tác giả  Lawrence B. Sawyer, Mortimer Dittenhofe, James  
H. Scheiner (2003) về "Thực hành kiểm toán nội bộ hiện đại"; Tác giả Robert 
Moeller (2005) về  "Kiểm toán nội bộ  hiện đại theo quan điểm của Brink"... 
Về cơ bản, những nghiên cứu này chưa đưa đề cập đến các mô hình tổ chức 
bộ  máy KTNB, xác định vị  trí có thể  có  của KTNB trong cấu trúc doanh  
nghiệp từ  đó đánh giá  ưu nhược điểm, tính độc lập, khách quan trong hoạt  
động tương  ứng với từng mô hình và chưa có phương án xác định số  lượng 
nhân sự KTNB.
Tuy nhiên, cũng đã có một số nghiên cứu nêu tương đối đầy đủ  về  vấn  
đề  tổ  chức bộ  máy KTNB như: Sách chuyên khảo: “Kiểm toán nội bộ” (tác 


11

giả Thịnh Văn Vinh và Phạm Tiến Hưng, NXB Tài chính, 2012); Luận án tiến  
sĩ kinh tế  của các tác giả: Phan Trung Kiên (2008) với đề  tài “Hoàn thiện tổ  
chức KTNB trong các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam”, Nguyễn Thị  Hồng 
Thuý (2010) với đề tài “Tổ chức KTNB trong các Tập đoàn kinh tế Việt Nam”,  
Lê Thị Thu Hà (2011) với đề tài “Tổ chức KTNB tại các công ty tài chính”; Vũ  
Thuý Hà (2017) với đề  tài “Hoàn thiện KTNB tại các TCT thuộc Tập đoàn  
Công nghiệp Than ­ Khoáng sản Việt Nam”… xét theo khía cạnh tổ  chức bộ 
máy KTNB, nội dung các công trình nghiên cứu trên đã tập trung vào các nội 
dung:
­ Nghiên cứu khái quát, hệ thống hoá và phát triển lý luận về KTNB, xác 
định rõ nội dung cơ bản của tổ chức KTNB trong doanh nghiệp gồm tổ chức 
bộ máy và tổ chức hoạt động, đưa ra một số điểm mới về vai trò, chức năng,  

nhiệm vụ của KTNB trong đó chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả công tác 
quản trị  rủi ro, hướng KTNB đến kiểm toán hoạt động, kiểm toán liên kết 
(luận án của tác giả Phan Trung Kiên);
­ Khái quát các mô hình tổ  chức KTNB phổ  biến hiện nay, phân tích  ưu 
nhược điểm và sự   ảnh hưởng của mô hình tổ  chức đến hoạt động KTNB…  
đồng thời kiến nghị xây dựng mô hình KTNB;
­ Đưa ra các yêu cầu cơ  bản cần có khi thành lập bộ  phận KTNB: tính  
độc lập khách quan, yêu cầu đối với các KTVNB, mối quan hệ giữa bộ phận  
KTNB với các bộ phận, đơn vị khác trong và ngoài doanh nghiệp;
­ Bên cạnh đó, đối với nhóm các luận án tiến sỹ, các tác giả đã đưa ra các  
kiến nghị, đề  xuất về  tổ  chức bộ  máy KTNB trong các doanh nghiệp để  các 
đơn vị này có thể triển khai ứng dụng ngay.
2.2. Về tổ chức hoạt động KTNB
Phần lớn các công trình nghiên cứu trên thế giới cũng như tại Việt Nam 
tập trung chủ yếu vào việc hoàn thiện quy trình, phương pháp kiểm toán cũng  
như   định   hướng   phát   triển   nội   dung,   phương   pháp   tiếp   cận   và   loại   hình 
KTNB.
Đối với phương pháp tiếp cận KTNB, cuốn sách “Kiểm toán nội bộ trên  
cơ  sở  rủi ro”  của tác giả  Phil Griffiiths (2005) đã nêu rõ sự  cần thiết cũng  
như cơ sở lý luận cho việc tiếp cận KTNB trên cơ  sở phân tích, đánh giá rủi  
ro. Tác giả chi cách thức tiếp cận KTNB theo bốn giai đoạn gồm: (1) Truyền  
thống; (2) Tiếp cận hệ thống; (3) Định hướng rủi ro và (4) Hướng tới tương 
lai. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng đã xây dựng quy trình thực hiện KTNB theo 
phương pháp tiếp cận trên cơ  sở  phân tích rủi ro (lập KHKT và thực hiện 
kiểm toán) và hướng dẫn kiểm soát rủi ro trong quá trình kiểm toán. Cùng 
quan điểm tiếp cận KTNB trên cơ sở phân tích rủi ro, luận án tiến sĩ của tác  
giả Lê Thị Thu Hà (2011) với đề tài “Tổ chức KTNB tại các công ty tài chính”  


12


đã nêu: “Phương pháp tiếp cận theo định hướng rủi ro có thể được áp dụng  
trong toàn bộ quá trình kiểm toán, không chỉ đối với việc lập kế hoạch kiểm  
toán hàng năm, mà còn trong toàn bộ  quy trình kiểm toán”  kèm theo đó là 
những nội dung hướng dẫn tương đối cụ  thể, chi tiết. Tác giả  cũng đã có 
những định hướng, hướng dẫn cơ  bản về đánh giá, phân loại rủi ro và công  
tác quản lý chất lượng hoạt động kiểm toán. 
Cuốn sách “Kiểm toán nội bộ  hiện đại ­ Đánh giá các hoạt động và hệ  
thống kiểm soát”  của hai tác giả  Victor Z. Brink và Herbert Witt đã  đưa ra 
những hướng dẫn cụ thể trong quá trình thực hiện kiểm toán đối với từng lĩnh 
vực   hoạt   động   mà   KTNB   quan   tâm   (sản   xuất,   kinh   doanh,   hành   chính   sự 
nghiệp) như: kiểm toán quá trình mua hàng ­ vận chuyển ­ nhận hàng ­ lưu kho 
và phế  liệu; hoạt động sản xuất ­ bảo dưỡng; kiểm soát chất lượng ­ kỹ 
thuật… Ngoài ra, cuốn sách còn đề  cập đến KTNB trong các cơ  quan chính 
phủ  và các tổ  chức phi lợi nhuận. Mặc dù tác phẩm đã khẳng định tầm quan 
trọng của KTNB trong việc hỗ trợ công tác quản lý, tuy nhiên cũng mới chỉ tập  
trung vào khía cạnh tài chính.
Cuốn sách “Sổ tay Kiểm toán nội bộ” của tác giả Martin Grimwood (bản 
dịch của Đặng Kim Cương ­ NXB Giao thông vận tải ­ 2007) đã đưa ra hướng 
dẫn xác định chỉ  số  rủi ro:  “Kiểm toán viên phải kết hợp các thành tố  với  
trọng số của chúng trong một công thức có thể sử dụng để tính toán chỉ số rủi  
ro. Trong việc chọn trọng số, KTV phải tránh đưa xu hướng không công bằng  
vào công thức. Một ví dụ về công thức có thể sử dụng là:
Chỉ số rủi ro = Aa + Bb + Cc + Dd + Ee + Ff
A­F: là những thành tố
a­f: là trọng số”.
Luận án tiến sĩ kinh tế của các tác giả: Phan Trung Kiên (2008) với đề tài 
“Hoàn thiện tổ  chức KTNB trong các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam”, 
Nguyễn Thị Hồng Thuý (2010) với đề tài “Tổ chức KTNB trong các Tập đoàn  
kinh tế Việt Nam”, Vũ Thuỳ Linh (2014) với đề tài “Hoàn thiện quá trình và tổ  

chức bộ  máy KTNB trong các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam”: 
Mặc dù các tác giả  đã hướng KTNB tiếp cận trên cơ  sở  phân tích rủi ro tuy 
nhiên trong nội dung nghiên cứu vẫn mang nhiều đặc điểm của phương pháp 
tiếp cận hệ thống, chú trọng vào kiểm toán tài chính và chưa đưa ra mô hình 
đánh giá, phân tích, xếp loại rủi ro.
Và nhiều công trình nghiên cứu khác tập trung vào các khía cạnh khác 
nhau của tổ chức hoạt động KTNB trong doanh nghiệp.
2.3. Đánh giá kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến  
luận án
2.3.1. Những kết quả đã đạt được


13

Có thể  thấy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trên thế  giới nói  
chung  và  tại   Việt   Nam  nói   riêng.   Xét  một  cách   toàn  diện,  các  công   trình  
nghiên cứu có nội dung phong phú, đa dạng bao gồm cả  các nghiên cứu toàn 
diện về lý luận như: “Kiểm toán nội bộ hiện đại ­ Đánh giá các hoạt động và  
hệ thống kiểm soát” của hai tác giả  Victor Z. Brink và Herbert Witt, “Sổ  tay  
Kiểm toán nội bộ” của tác giả  Martin Grimwood, “Kiểm toán nội bộ trên cơ  
sở rủi ro” của tác giả Phil Griffiiths... cũng có những nghiên cứu về một khía 
cạnh của KTNB như:  “Nghiên cứu xây dựng nội dung KTNB doanh nghiệp  
vận tải ô tô”  của tác giả  Lê Thu Hằng (2007);  “Hoàn thiện nội dung, quy  
trình, phương pháp KTNB trong các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hiện  
nay”  của   TS.   Giang   Thị   Xuyến   và   các   cộng   sự   (2010);   “Kiểm   toán   môi  
trường và quy tắc kiểm toán”  của Nhóm làm việc thuộc INTOSAI... và các 
công trình nghiên cứu ứng dụng đối với một nhóm ngành, lĩnh vực kinh doanh  
cụ  thể  như: Xây lắp, tài chính ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước... Các kết 
quả đã đạt được có thể đánh giá theo các mặt như sau:
* Về Tổ chức bộ máy KTNB

Các nghiên cứu đưa ra những yếu tố cơ bản của tổ chức bộ máy KTNB 
gồm: Mô hình tổ chức và tổ chức nhân sự KTNB, cụ thể:
­ Đã thực hiện nghiên cứu các mô hình, cơ  cấu tổ  chức của bộ  phận  
KTNB phổ  biến trên thế  giới, phù hợp với lý thuyết KTNB hiện đại. Đồng 
thời đã phân tích những ảnh hưởng mang tính quyết định của mô hình tổ chức 
đến hoạt động KTNB từ  đó rút ra  ưu, nhược điểm của từng mô hình và đề 
xuất khả năng áp dụng trong thực tế đối với các tổ chức, doanh nghiệp;
­ Xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ của KTNB  
với các bộ  phận khác. Đặt ra những yêu cầu cơ  bản về  tính độc lập khách 
quan trong việc thực hiện nhiệm vụ của KTNB.
­ Đưa ra những yêu cầu cơ  bản về  yêu cầu đối với các KTVNB như: 
trình   độ,   kỹ   năng,   kinh   nghiệm   và   nguồn   bổ   sung   nhân   sự   cho   bộ   phận 
KTNB.
* Về tổ chức hoạt động KTNB
Các nghiên cứu đã đạt được những kết quả cụ thể như sau:
­ Đã nghiên cứu và đề xuất phương pháp tiếp cận KTNB trên cơ sở phân 
tích rủi ro áp dụng đối với toàn bộ quy trình kiểm toán; định hướng phát triển  
loại hình kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ;
­ Xác định cụ  thể  quy trình kiểm toán gồm các bước:   Chuẩn bị  kiểm 
toán, thực hiện kiểm toán, lập biên bản kiểm toán và kiểm tra thực hiện kiến  
nghị kiểm toán;
­ Bước đầu đã có những hướng dẫn đánh giá, phân tích và xếp loại rủi ro 
làm cơ  sở  lập KHKT năm, đánh giá rủi ro khi thiết kế  và thực hiện các thủ 


14

tục kiểm toán;
­ Đặt ra yêu cầu đối với việc kiểm soát chất lượng kiểm toán trong tất 
cả các giai đoạn thực hiện kiểm toán: trong đó nêu rõ trách nhiệm của người  

đứng đầu, trách nhiệm của các bộ phận có liên quan đến việc kiểm soát chất 
lượng kiểm toán.
2.3.2. Xác định khoảng trống nghiên cứu
Ngoài các kết quả  như  đã nêu trên, các công trình nghiên cứu vẫn còn  
một số vấn đề chưa được nghiên cứu, bao gồm:
Nghiên cứu về  tổ  chức KTNB trong TCT Sông Đà, là doanh nghiệp có 
mô hình tổ  chức nhiều cấp (bao gồm các công ty cấp I, II, III), hoạt động 
trong lĩnh vực tiềm  ẩn nhiều rủi ro và kết quả  nghiên cứu hướng đến tính  
ứng dụng thực tiễn cao.
Nghiên cứu việc xác định số lượng KTVNB ­ là bộ phận có đặc thù hoàn 
toàn khác so với các bộ phận khác trong doanh nghiệp trên cơ sở phương pháp 
tính định biên một cách khoa học, hợp lý.
Hướng dẫn cụ thể việc xây dựng bảng mô tả công việc, tiêu chuẩn chức 
danh đối với từng chức danh KTNB.
Hướng dẫn xây dựng mô hình đánh giá, phân tích rủi ro để lựa chọn đơn 
vị, hoạt động (nhóm hoạt động) được kiểm toán áp dụng đối với một đơn vị 
cụ thể để nâng cao tính ứng dụng thực tế.
Phân tích, hướng dẫn cụ  thể  về  xác định, lựa chọn chủ  đề  kiểm toán 
hoạt động đối với các cuộc kiểm toán của KTNB, đồng thời hướng dẫn xây 
dựng bộ tiêu chí đánh giá kiểm toán hoạt động.
Hướng dẫn hoàn thiện Sổ tay KTNB để hướng dẫn về nghiệp vụ, đồng 
thời làm cơ  sở nâng cao hiệu quả hoạt động KTNB; hoàn thiện hệ thống hồ 
sơ  mẫu biểu và kiểm soát chất lượng kiểm toán nhằm nâng cao tính chuyên 
nghiệp của bộ phận KTNB.
2.3.3. Câu hỏi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của luận án nhằm trả lời cho các câu hỏi sau:
­ Các lý luận cơ bản về KTNB trong doanh nghiệp là gì, tổ chức KTNB  
trong doanh nghiệp gồm những nội dung gì?
­ Các phương pháp tiếp cận KTNB,  ưu điểm của phương pháp tiếp cận  
trên cơ sở phân tích rủi ro so với các phương pháp khác?

­ Hoạt động sản xuất kinh doanh của TCT Sông Đà có những đặc thù gì, 
có những loại rủi ro nào và ảnh hưởng của nó đến tổ chức KTNB?
­ Thực trạng,  ưu nhược điểm, nguyên nhân của những nhược điểm về 
tổ chức KTNB trong TCT Sông Đà?
­ Để hoàn thiện tổ chức KTNB trong TCT Sông Đà cần các giải pháp gì?


15

2.3.4. Những vấn đề luận án cần tập trung nghiên cứu
Để trả lời những câu hỏi nghiên cứu đã nêu trên, luận án tiếp tục nghiên  
cứu, kế  thừa, phát triển những mặt đã làm được cả  về  lý luận và thực tiễn 
của các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, luận án tập  
trung nghiên cứu, phát triển một số vấn đề như sau:
Nghiên cứu, phân tích, lựa chọn mô hình tổ chức KTNB tối  ưu, phù hợp  
với đặc thù sở hữu vốn của các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp có vốn 
nhà nước chi phối nói riêng tại Việt Nam và thực tế tại TCT Sông Đà. Nghiên 
cứu, đề  xuất một số  nội dung liên quan đến công tác tuyển dụng, bổ  nhiệm 
cũng như  mối quan hệ  của KTNB với các bộ  phận khác nhằm tăng cường 
tính độc lập, khách quan của bộ phận này;
Nghiên cứu phương pháp xác định định biên lao động, xây dựng mô hình 
tính định biên lao động áp dụng cho bộ phận KTNB tại TCT Sông Đà;
Định hướng xây dựng và xây dựng  mẫu bảng  mô  tả  công việc, tiêu 
chuẩn chức danh của một số KTVNB;
Nghiên cứu, xây dựng mô hình đánh giá, phân tích, xếp loại rủi ro hướng 
đến hai nhóm hoạt động chính: (1) Đánh giá rủi ro trong quá trình lập KHKT  
năm nhằm lựa chọn chủ  đề, đơn vị, nhóm hoạt động được kiểm toán; (2)  
Đánh giá rủi ro trong quá trình lập KHKT chi tiết nhằm lựa chọn cụ thể hoạt  
động được kiểm toán đồng thời thiết kế  chương trình kiểm toán, xây dựng 
tiêu chí đánh giá kiểm toán hoạt động;

Nghiên cứu, đề  xuất định hướng xây dựng Sổ  tay KTNB; xây dựng hệ 
thống hồ sơ, mẫu biểu áp dụng cho các cuộc KTNB;
Nghiên cứu lý thuyết, đề  xuất phương án hoàn thiện tổ  chức kiểm soát 
chất lượng kiểm toán từ khâu lập kế hoạch đến khâu kiểm tra thực hiện kiến  
nghị kiểm toán.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
­ Nghiên cứu, hệ thống hóa những vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn về 
tổ chức KTNB, góp phần làm sáng tỏ hơn căn cứ, cơ sở khoa học và thực tiễn 
về tổ chức KTNB trong các doanh nghiệp;
­ Nghiên cứu kinh nghiệm tổ  chức KTNB trên thế  giới và rút ra các bài 
học kinh nghiệm khi áp dụng để phù hợp với điều kiện của Việt Nam;
­ Nghiên cứu và phát triển các vấn đề  lý luận của KTNB, đặc biệt là  
phương pháp tiếp cận KTNB trên cơ sở phân tích rủi ro.
3.2. Mục tiêu cụ thể
­ Nghiên cứu các đặc trưng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của  
TCT Sông Đà  ảnh hưởng đến tổ  chức KTNB, trong đó đi sâu vào nhóm các 


16

đặc trưng tiềm ẩn rủi ro cao, khác biệt với các doanh nghiệp khác.
­ Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức KTNB; nhận diện, đánh giá thực 
trạng việc thực hiện chức năng KTNB (hoạt động KSNB, thanh, kiểm tra), so  
sánh, đối chiếu với lý thuyết KTNB để  thấy được: Những đặc điểm của 
KTNB trong hoạt động KSNB, kiểm tra, kiểm soát; những điểm còn hạn chế 
trong công tác kiểm tra, kiểm soát của TCT khi không thành lập bộ  phận  
KTNB.
­ Từ  những nghiên cứu về  thực trạng hoạt động KTNB, KSNB, thanh 
kiểm tra, luận án chỉ  rõ sự  cần thiết phải thành lập bộ  phận KTNB tại TCT  

Sông Đà, đề  xuất các giải pháp hoàn thiện tổ  chức bộ  máy và tổ  chức hoạt  
động KTNB phù hợp với đặc thù tổ  chức sản xuất kinh doanh và tổ  chức 
quản lý của TCT Sông Đà. Trong đó chú trọng đến việc định hướng hoạt  
động KTNB dựa trên cơ  sở  phương pháp tiếp cận, đánh giá rủi ro thông qua 
việc xây dựng mô hình đánh giá rủi ro trong quá trình lập KHKT năm, lập  
KHKT chi tiết và tập trung chủ yếu vào loại hình kiểm toán hoạt động.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
­ Đề tài nghiên cứu các lý luận cơ bản về KTNB và tổ chức KTNB trong 
doanh nghiệp. Trong phạm vi luận án này, thuật ngữ  “Tổ  chức” được hiểu là 
bao gồm hai nội dung: tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động.
­ Đối tượng nghiên cứu cụ thể tại Công ty mẹ ­ TCT Sông Đà và các đơn vị 
thành viên:
+ Tại Công ty mẹ: Nghiên cứu, đánh giá tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt  
động của Ban KSNB, các hoạt động thanh kiểm tra của các ban chuyên môn;
+ Tại các Công ty con: (1) Đối với đơn vị  đã thành lập bộ  phận KTNB:  
Nghiên cứu, đánh giá tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động KTNB; (2) Đối với  
các đơn vị chưa thành lập bộ phận KTNB: Nghiên cứu, đánh giá tổ chức bộ máy 
và tổ chức hoạt động của Ban KSNB, các hoạt động thanh kiểm tra của các bộ 
phận chuyên trách hoặc kiêm nhiệm.
­ Nghiên cứu kết quả, kinh nghiệm về tổ chức KTNB theo thông lệ quốc 
tế và một số tập đoàn lớn trên thế giới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
­ Về  không gian: Đề  tài đi sâu nghiên cứu tổ  chức bộ  máy và quy trình 
KTNB và tại Công ty mẹ  và các công ty con của TCT Sông Đà; nhận diện, 
đánh giá thực trạng tổ  chức, hoạt động thực hiện chức năng KTNB (KSNB,  
thanh, kiểm tra) trong TCT Sông Đà, thông qua khảo sát thực tế  tại Công ty  
mẹ và 14 Công ty con theo Đề án tái cơ cấu đã được Bộ Xây dựng phê duyệt 
tại Quyết định số  50/QĐ­BXD ngày 15/1/2013. Đối với việc thực hiện quy 
trình KTNB, KSNB, thanh, kiểm tra: luận án chỉ đánh giá việc xây dựng, ban 



17

hành và tình hình thực hiện quy trình mà không đề  cập đến những phát hiện,  
đánh giá, nhận xét, kết luận, kiến nghị  của các cuộc KTNB, KSNB, thanh  
kiểm tra.
­ Về thời gian: Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu khảo sát thực trạng 
tổ chức KTNB, KSNB, thanh kiểm tra của các đơn vị nêu trên trong giai đoạn 
2012 ­ 2015, có cập nhật tình hình cổ phần hoá đến hết 31/12/2018 và các nội 
dung liên quan đến Nghị  định số  05/2019/NĐ­CP ngày 22/01/2019 của Chính 
phủ về Kiểm toán nội bộ.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận chung
Đề  tài dựa vào cơ  sở  của phương pháp duy vật biện chứng, phương 
pháp duy vật lịch sử  để  nghiên cứu các vấn đề  một cách có hệ  thống, toàn  
diện và đảm bảo tính logic.
Kết hợp với phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, đồng thời sử dụng 
các phương pháp tổng hợp, phân loại, phân tích, so sánh... để  hệ  thống hóa, 
tổng kết các vấn đề  lý luận, đánh giá thực trạng KTNB trong mối quan hệ 
biện chứng giữa các sự vật hiện tượng và tính lịch sử cụ thể.
5.2. Phương pháp cụ thể
Luận án sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu để thu thập thông 
tin phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Cụ thể:
a. Phương pháp thu thập dữ liệu
* Đối với tài liệu sơ cấp: Để có thể đưa ra các kết luận một cách khách 
quan và mang tính điển hình về  KTNB tại Công ty mẹ  và các đơn vị  thành 
viên tại TCT Sông Đà, tác giả  tiến hành phát phiếu điều tra thông qua hệ 
thống bảng hỏi được thiết kế sẵn đối với 11 Ban tại Công ty mẹ (10 Ban trực  
thuộc Ban Tổng Giám đốc, 01 Ban trực thuộc HĐTV) và 14 Công ty con đồng 

thời tiến hành phỏng vấn trực tiếp đối với một số  lãnh đạo, cán bộ  một số 
Ban tại Công ty mẹ như: Ban KSNB, Ban QTRR, Ban TCKT, Ban Kinh t ế…;  
tại một số  đơn vị  thành viên như: CTCP Sông Đà 11, Sông Đà 2, Sông Đà 5, 
Sông Đà 9... Những mẫu lựa chọn theo định hướng tái cơ  cấu SDC không 
những mang đến những đánh giá tổng quát về hoạt động kiểm tra, kiểm soát,  
tư vấn... tại SDC mà còn là cơ sở để đưa ra những định hướng xây dựng, vận 
hành hoạt động của KTNB tại SDC cho giai đoạn tiếp theo.
Hoạt động khảo sát nhằm thu thập những thông tin về hoạt động KTNB, 
KSNB, thanh kiểm tra tại Công ty mẹ và các Công ty con thuộc TCT Sông Đà 
theo khía cạnh tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động.
Tại  công ty mẹ:   Câu hỏi phỏng vấn  đượ c thiết kế  hướng  đến nội 
dung thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát, đánh giá và tư  vấn của các 
Ban để  có cơ  sở  nhận diện, đánh giá các hoạt động mang tính chất KTNB. 


18

Chi tiết bảng câu hỏi điều tra tại Công ty mẹ và bảng tổng hợp đượ c trình 
bày tại Phụ lục số 02.
Tại công ty con: Với các câu hỏi điều tra về nội dung tổ chức bộ máy và 
tổ chức hoạt động KTNB. Bảng khảo sát được gửi trực tiếp tới những người  
giữ  chức vụ  quan trọng trong các đơn vị  như  Thành viên HĐQT/HĐTV, Phó 
TGĐ, Kế toán trưởng, Trưởng Ban kiểm soát/Kiểm soát viên đến các chuyên 
viên tác nghiệp trong doanh nghiệp như chuyên viên kế toán ­ tài chính, quản 
trị  rủi ro, tổ  chức ­ hành chính, kinh tế  ­ kế  hoạch, dự  án. Nội dung câu hỏi 
khảo sát được chia thành 2 phần:
Phần 1: Thông tin chung về hoạt động của doanh nghiệp và đối tượng khảo 
sát.
Phần 2: Câu hỏi khảo sát chia làm 05 nhóm chính: 
­ Nhóm câu hỏi về KTNB (áp dụng đối với các đơn vị  đã thành lập bộ 

phận KTNB): các câu hỏi được chia thành Tổ chức bộ máy KTNB (15 câu) và  
Tổ chức hoạt động KTNB (40 câu);
­ Nhóm câu hỏi về KSNB (áp dụng đối với các đơn vị chưa thành lập bộ 
phận KTNB nhưng đã có Ban KSNB): các câu hỏi được chia thành Tổ  chức 
bộ máy KSNB (16 câu) và Tổ chức hoạt động KSNB (41 câu);
­ Nhóm câu hỏi về  bộ  phận thanh, kiểm tra chuyên trách (áp dụng đối  
với các đơn vị chưa thành lập bộ phận KTNB, KSNB nhưng đã thành lập bộ 
phận thanh, kiểm tra chuyên trách): các câu hỏi được chia thành Tổ  chức bộ 
máy thanh, kiểm tra (17 câu) và Tổ chức hoạt động thanh, kiểm tra (42 câu);
­ Nhóm câu hỏi về hoạt động thanh, kiểm tra (10 câu, áp dụng đối với  
các đơn vị  chưa thành lập KTNB, KSNB và không có bộ  phận thanh, kiểm  
tra chuyên trách);
­ Nhóm câu hỏi về quan điểm đối với hoạt động KTNB 05 câu.
Chi tiết bảng câu hỏi điều tra tại các đơn vị thành viên và bảng tổng hợp 
kết quả điều tra được trình bày tại Phụ lục số 03.
Các câu hỏi trong phiếu khảo sát bao gồm hai loại mở và đóng, câu hỏi 
tại các công ty con được thiết kế căn cứ vào tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt  
động KTNB. Phần trả  lời các câu hỏi là có, không, không áp dụng, kết hợp 
với phỏng vấn, quan sát để  đánh giá mức độ  phù hợp trong tổ  chức KTNB,  
KSNB, thanh kiểm tra so với lý thuyết KTNB. Trên cơ  sở tổng hợp tình hình 
chung và kết quả thu được của 14 phiếu điều tra tại các công ty con của SDC,  
Tác giả, đưa ra một số nhận định, đánh giá về  thực trạng hoạt động KTNB,  
KSNB, thanh kiểm tra trong các đơn vị  được điều tra. Tiêu chí để  đánh giá: 
bám sát lý luận về KTNB so sánh, đối chiếu với việc thực hiện trong thực tế 
tại SDC.
* Đối với các tài liệu thứ  cấp: các tài liệu thứ  cấp như  các Thông tư, 
Nghị  định của Chính phủ, hệ  thống quy trình quy chế  quy định nội bộ  của  


19


Công ty mẹ và một số công ty thành viên, các kết quả kiểm tra, giám sát của  
các đoàn kiểm tra trong và ngoài TCT tại các đơn vị, các báo cáo phân tích, 
tổng hợp của Ban KSNB, các công trình nghiên cứu, các bài báo, các  website 
của các đơn vị  thành viên TCT, vì vậy đảm bảo độ  tin cậy cao. Tác giả  sử 
dụng phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp để hệ thống hóa thông tin 
phục vụ cho mục đích nghiên cứu của Luận án. Các tài liệu thứ cấp được sử 
dụng để tham khảo trong Luận án được trích dẫn rõ ràng theo đúng quy định 
và trình bày tại phần Tài liệu tham khảo của Luận án.
b. Phương pháp xử lý, tổng hợp dữ liệu
Đối với các kết quả  từ  điều tra khảo sát thông qua hệ  thống bảng câu 
hỏi được thiết kế  sẵn, tác giả  đã sử  dụng phần mềm Excel để  tổng hợp số 
liệu. Trên cơ  sở  nhận diện, phân tích, đánh giá thực trạng tổ  chức KTNB tại  
Công ty mẹ  TCT Sông Đà và các công ty thành viên, tác giả sử dụng phương  
pháp chuyên gia, tổng hợp và phân tích, tư duy độc lập trong việc vận dụng các 
quan điểm, định hướng chiến lược phát triển của TCT Sông Đà, tiếp cận các 
kết quả  nghiên cứu của các tác giả  trong và ngoài nước, vận dụng các kiến  
thức có được trong công tác kiểm toán tại Kiểm toán nhà nước cũng như trong  
quá trình khảo sát thực tế các Tập đoàn kinh tế trong và ngoài nước để đề xuất 
các giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức KTNB trong TCT Sông Đà.
6. Những đóng góp mới của luận án
Những đóng góp của Luận án thể hiện ở cả hai mặt lý luận và thực tiễn:
6.1. Về lý luận
Luận án đã cụ  thể  hóa để  làm rõ các vấn đề  lý luận cơ  bản về  KTNB 
trong doanh nghiệp. Phân tích các quan điểm khác nhau về  KTNB, từ  đưa ra 
các ưu, nhược điểm của từng mô hình tổ chức KTNB khác nhau; vai trò, chức 
năng, nhiệm vụ của KTNB.
Luận án đã phân tích được các nhân tố  ảnh hưởng đến việc thiết kế  và 
vận hành KTNB trong các doanh nghiệp bao gồm: hành lang pháp lý, sự  phát  
triển của hội nghề  nghiệp; quan điểm của nhà quản trị; đặc điểm tổ  chức,  

hoạt động (địa vị  pháp lý, cơ  cấu tổ  chức, quy mô và phạm vi hoạt động, 
ngành nghề lĩnh vực kinh doanh, chế độ sở hữu).
Luận án đã đi sâu nghiên cứu tổ chức KTNB theo thông lệ quản trị quốc  
tế  và cụ  thể  tại hai tập đoàn kinh tế  lớn trên thế  giới là General Motor và  
Poste Italiane. Từ  đó, rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói 
chung và TCT Sông Đà nói riêng.
6.2. Về thực tiễn
Luận án đã khảo sát, nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt 
động KTNB và các hoạt động thực hiện chức năng KTNB tại TCT Sông Đà. 
Kết quả  đánh giá chỉ  ra những  mặt đạt  được, đặc biệt là những tồn tại và 


20

nguyên nhân của những tồn tại, từ đó đề xuất phương án hoàn thiện tổ chức 
KTNB tại TCT Sông Đà trên các khía cạnh:
­ Về tổ chức bộ máy KTNB: Tác giả  đề  xuất thành lập bộ phận KTNB 
trực thuộc HĐTV tại Công ty mẹ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban kiểm  
toán; bộ phận KTNB trực thuộc HĐQT tại các đơn vị  thành viên dưới sự chỉ 
đạo trực tiếp của  Ủy ban kiểm toán (hoặc thành viên HĐQT độc lập). Đồng 
thời, tác giả  cũng đưa ra định hướng hoàn thiện quy chế  KTNB với các nội 
dung về: chức năng; nhiệm vụ; quyền hạn; tính độc lập khách quan, quy tắc 
đạo đức, ứng xử và mối quan hệ của KTNB. Xây dựng mô hình  tính định biên 
lao động của bộ phận KTNB; xây dựng mẫu bản mô tả công việc, tiêu chuẩn 
chức danh đối với một số vị trí của bộ phận KTNB....
­ Về tổ chức hoạt động KTNB: xây dựng giải pháp tiếp cận KTNB trên  
cơ  sở  phân tích rủi ro và tập trung vào thực hiện kiểm toán hoạt động. Tác  
giả  đã xây dựng mô hình đánh giá rủi ro trong quá trình lập KHKT  năm (xác 
định đơn vị được kiểm toán) và KHKT chi tiết (xác định nội dung kiểm toán). 
Trên cơ  sở  đó, thiết kế  chương trình kiểm toán với các phương pháp, thủ  tục  

kiểm toán cụ  thể. Đồng thời, để  hướng KTNB tập trung vào kiểm toán hoạt 
động, tác giả đã đưa ra những định hướng trong việc lựa chọn chủ đề; xác định  
mục tiêu, nội dung; xây dựng bộ tiêu chí đánh giá và các phương pháp kiểm toán 
cơ bản của kiểm toán hoạt động. Đưa ra định hướng hoàn thiện Sổ tay KTNB  
theo hướng chi tiết, dễ tiếp cận đối với tất cả các KTVNB.
­ Về kiểm soát chất lượng kiểm toán: tác giả đưa ra phương án tổ chức  
và định hướng một số hoạt động KSCL kiểm toán từ giai đoạn chuẩn bị kiểm 
toán, thực hiện kiểm toán đến giai đoạn kết thúc kiểm toán. Cùng với đó,  
luận án cũng đã thiết kế, hoàn thiện hệ thống hồ sơ  mẫu biểu để hướng đến 
tính nhất quán, chuyên nghiệp trong hoạt động của bộ phận KTNB.
­ Các kiến nghị đối với các cơ quan chức năng hoàn thiện hành lang pháp  
lý tạo điều kiện cho sự phát triển của KTNB trong doanh nghiệp nói chung và 
KTNB tại TCT Sông Đà nói riêng. 
Kết quả nghiên cứu này rất hữu ích đối với:
­ TCT Sông Đà: với giải pháp hoàn thiện tổ chức KTNB tại Công ty mẹ 
và các đơn vị thành viên.
­ Đối với Chính phủ  và các cơ  quan quản lý nhà nước: hoàn thiện hệ 
thống các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động KTNB tại các doanh nghiệp 
nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các công trình của tác giả đã công bố liên 
quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ  lục, nội dung chính 
của luận án được kết cấu thành 3 chương:


21

Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tổ chức kiểm toán nội bộ trong doanh  
nghiệp.
Chương 2: Thực trạng tổ chức kiểm toán nội bộ  trong Tổng công ty Sông 

Đà 
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện tổ  chức kiểm toán nội bộ   trong Tổng 
công ty Sông Đà.


22

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ 
TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về KTNB. 
1.1.1. Sự hình thành và phát triển lý thuyết KTNB. 
a. Giai đoạn sơ khai của KTNB
Theo các tài liệu nghiên cứu về  kiểm toán thì từ  thời Ai Cập, La Mã và  
Hy Lạp cổ đại đã có những hoạt động KTNB đơn giản; tại Trung Quốc, các 
nhà nghiên cứu cũng cho rằng KTNB sơ khai đã hình thành từ hàng nghìn năm 
trước Công nguyên. Lúc này, hoạt động kiểm tra được các vị  Vua giao cho  
một cận thần trung thực, tin cậy tiến hành kiểm tra toàn bộ các khoản thu, chi 
của ngân khố  trong năm để  báo cáo cho Nhà Vua biết. Như  vậy, chức năng 
kiểm tra việc quản lý và sử dụng ngân khố đã được giao cho một người độc  
lập (không phải là người sở  hữu ngân khố  ­ Nhà Vua; không phải là người 
trực tiếp quản lý ngân khố  ­ Quan coi giữ  ngân khố) trung thực tiến hành  
kiểm tra. Hình thái sơ  khai của kiểm toán đã xuất hiện và chủ thể kiểm toán 
chính là các Quan do Nhà Vua bổ nhiệm để thực hiện kiểm toán việc quản lý 
và sử dụng ngân khố. Đây là hình thái kiểm tra đầu tiên mang những đặc tính 
của kiểm toán. Hình thái sơ  khai của KTNB này tiếp tục tồn tại hàng nghìn  
năm trong các triều đình phong kiến với những hình thức, tên gọi cụ  thế  có 
thể khác nhau.
b. Giai đoạn KTNB tách riêng thành hoạt động độc lập
Mặc dù hình thái sơ  khai của KTNB xuất hiện từ  rất lâu, tuy nhiên sự 

phát triển đầy đủ  của nó lại chỉ  thể  hiện rõ khi nền sản xuất xã hội đã tạo 
nên những chuyển biến lớn trong việc hình thành và phát triển hệ thống công 
cụ  quản lý kinh tế. Các hoạt động quản lý ngày càng nhiều và phức tạp, 
“người chủ  sở  hữu và các nhà quản lý cấp cao không dễ  dàng tiếp xúc với  
từng nghiệp vụ  để  kiểm tra hiệu quả  mọi hoạt động của đơn vị, để  khẳng  
định những vấn đề  cụ thể, trực tiếp như: Những quy tắc đã định ra có được  
tuân thủ không? Công nhân viên là việc có thực sự hiệu năng và phục vụ lợi  
ích của đơn  vị? Tài sản của đơn vị  có được đảm bảo an toàn?...  [34,  tr11]. 
Không thể có đủ thời gian, sức lực cũng như khả năng chuyên môn để trả lời  
tất cả  các câu hỏi này, người chủ  sở  hữu và các nhà quản lý cần có một bộ 
phận thực hiện việc kiểm tra, đánh giá các hoạt động và báo cáo kết quả. Cuộc 
Cách mạng công nghiệp ở Châu Âu vào thế kỷ 18 đánh dấu sự ra đời của các  
công ty cổ phần, các tập đoàn kinh tế đa quốc gia. Những người đứng đầu các 
công ty này cần có một bộ  phận thực hiện công việc kiểm tra, giám sát bao 
gồm: kết quả  hoạt động, tình hình tài chính, các mục tiêu, chính sách kinh 


23

doanh, hiệu lực công việc, tình hình thực thi các quyết định… sau đó báo cáo 
kết quả trực tiếp cho họ. Hoạt động này không chỉ tập trung ở công ty mẹ mà  
còn được thực hiện ở các công ty con, các chi nhánh đặt trên toàn thế giới. Bộ 
phận thực hiện công việc kiểm tra, giám sát đó chính là bộ phận KTNB và các 
cá nhân thuộc bộ phận đó là các KTVNB.
Trong giai đoạn này, cuộc đại suy thoái kinh tế  1929­1933 đã làm hoạt 
động sản xuất kinh doanh trên toàn cầu bị   ảnh hưởng nghiêm trọng, việc 
phục hồi sản xuất sau khủng hoảng cũng đặt ra yêu cầu cho các nhà quản lý  
như: kiểm tra, giám sát, đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả  của các hoạt động,  
tối  ưu hóa việc sử  dụng các nguồn lực… Một trong những phương án được 
các nhà quản lý lựa chọn là tăng cường các hoạt động nội kiểm, tuy nhiên đây 

chỉ là hoạt động tự phát bên trong các doanh nghiệp mà chưa có cơ sở lý luận,  
các quy tắc nghề nghiệp chưa được ban hành cũng như chưa có một hiệp hội 
nghề nghiệp. 
Năm 1941, sự ra đời của IIA và cuốn sách: “KTNB hiện đại” đã đánh dấu 
KTNB đã chính thức có hệ  thống cơ  sở  lý luận đầu tiên và được công nhận  
như một nghề nghiệp.
Giai đoạn này, hoạt động KTNB được chi phối bởi các nguyên tắc nghề 
nghiệp do IIA soạn thảo và công bố  năm 1941. Sự  mở  rộng phạm vi hoạt  
động của IIA thể  hiện tính chuyên nghiệp ngày càng tăng của KTNB. Theo 
đó, năm 1952, Hiệp hội KTVNB  ở  Úc được thành lập tại Sydney. Để  tiêu 
chuẩn hóa, vào năm 1972 IIA bắt đầu thực hiện việc kiểm tra và cấp chứng 
chỉ KTVNB (CIA). 
c. Giai đoạn KTNB phát triển mạnh mẽ
Tuy đã có lịch sử hình thành và hệ thống lý luận từ những năm 40 của thế 
kỷ 20, nhưng KTNB chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ từ sau các vụ gian lận tài  
chính ở  các công ty lớn tại Mỹ (Công ty Worldcom và Enron) vào những năm 
2000 ­ 2001 và sự sụp đổ của Tập đoàn bách hoá Hà Lan Royal Ahold vào năm 
2003.
Đạo Luật Sarbanes ­ Oxley ra đời tại Mỹ ngày 30/7/2002 được coi là cải 
cách quan trọng nhất trong luật pháp về  chứng khoán Mỹ  kể  từ  sau chương 
trình  kinh tế   New  Deal  do  Tổng  thống  Franklin  D. Roosevelt  khởi  xướng  
những năm 1930 với quy định:  các Công ty niêm yết trên thị  trường chứng  
khoán Mỹ phải báo cáo về hiệu quả của hệ thống KSNB trong công ty. Theo 
đó, KTNB đã được coi trọng và trở  thành một bộ  phận độc lập chịu sự  điều 
hành trực tiếp của lãnh đạo cấp cao nhất trong doanh nghiệp, góp phần quan  
trọng trong hoạt động kiểm tra, giám sát, đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả 
việc sử dụng các nguồn lực, hoạt động cũng như việc tuân thủ luật pháp, các  


24


quy định của Nhà nước, quy chế nội bộ của đơn vị, làm tăng sự tin tưởng đối 
với các đối tượng bên ngoài sử  dụng các thông tin như: Ngân hàng, chủ  đầu  
tư, nhà cung cấp, đối tác liên doanh.
Trong giai đoạn này, KTNB đã được xem xét dưới một góc độ  chuyên 
nghiệp hơn bằng sự lớn mạnh về quy mô của các Hiệp hội KTVNB. Để phù 
hợp với điều kiện thực tế, IIA đã ban hành bộ chuẩn mực KTNB mới có hiệu 
lực từ ngày 01/01/2002 thay thế bộ chuẩn mực ban hành tháng 6 năm 1978. Bộ 
chuẩn mực mới đã phác họa các quy tắc cơ  bản trong thực hành nghiệp vụ 
KTNB, cung cấp một khuôn khổ cho việc thực hiện các hoạt động kiểm toán  
cũng như tạo lập những cơ sở để đánh giá chất lượng kiểm toán và thúc đẩy  
việc cải tiến quá trình vận hành của tổ  chức. So với hệ  thống chuẩn mực  
cũ, điểm khác biệt quan trọng, cơ bản của chu ẩn m ực mới là sự  khẳng định 
KTNB không chỉ  là một hoạt động kiểm tra mà còn là một hoạt động tư 
vấn. Đặc biệt Chuẩn mực mới đã nhấn mạnh rằng KTNB chính là một hoạt  
động góp phần làm tăng giá trị doanh nghiệp.
Đến giai đoạn này, KTNB đã đạt đến những tầm cao mới với đội ngũ 
KTV giỏi hơn, được tổ chức ở trình độ cao hơn, có vị trí độc lập hơn.
1.1.2. Khái niệm và phân loại KTNB
1.1.2.1. Khái niệm KTNB
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, đã có những khái niệm khác nhau về 
KTNB. Năm 1941, IIA được thành lập đánh dấu bước phát triển của hoạt 
động KTNB, đây được coi là sự  xác lập chính thức hoạt động KTNB. Tuy 
nhiên tại thời điểm đó IIA chưa đưa ra định nghĩa về  KTNB làm cơ  sở  phát 
triển hoạt động KTNB. Đến tháng 6 năm 1978, Chuẩn mực thực hành kiểm 
toán chuyên nghiệp cho KTNB (Standards for professional practice of internal 
auditing) mới được IIA ban hành, chuẩn mực này đưa ra định nghĩa về KTNB:  
“KTNB là một chức năng thẩm định độc lập được thiết lập bên trong một tổ  
chức để  kiểm tra và đánh giá các hoạt động của tổ  chức đó, với tư  cách là  
một sự trợ giúp đối với tổ chức đó. Đó là một loại hình kiểm soát được thực  

hiện bằng cách kiểm tra và đánh giá sự đầy đủ và tính hiệu lực của các loại  
hình kiểm soát khác. Mục tiêu của KTNB là giúp đỡ cho các thành viên của tổ  
chức thực hiện một cách có hiệu quả  nhiệm vụ; để  đạt được mục tiêu này,  
KTNB cung cấp cho các thành viên của tổ chức các phân tích, thẩm định, kiến  
nghị, tư vấn và các thông tin liên quan tới các hoạt động đang được xem xét,  
mục tiêu kiểm toán bao gồm việc đề  xuất khung kiểm soát hiệu quả   ở  mức  
chi phí hợp lý” [58, tr6]. Từ  định nghĩa này có thể  đưa ra 04 điểm chủ  yếu:  
Thứ nhất, KTNB là quá trình đánh giá một cách có hệ thống và khách quan các 
hoạt động và các thủ  tục kiểm soát trong tổ  chức;  Thứ  hai,  hoạt động của 
KTNB là độc lập; Thứ ba, hoạt động của KTNB là hoạt động phục vụ cho tổ 


25

chức với mục tiêu giúp đỡ  các thành viên của tổ  chức hoàn thành nhiệm vụ 
hiệu quả; Thứ tư, đề xuất các thủ tục kiểm soát hiệu quả ở mức chi phí hợp  
lý. 
Như vậy, có thể thấy rằng IIA đã đưa ra một khái niệm khá đầy đủ  về 
chức năng, nhiệm vụ  của KTNB, phù hợp với sự  phát triển của KTNB tại 
thời điểm đó. Theo đó, KTNB không chỉ đơn thuần là việc kiểm tra độ tin cậy  
của các thông tin tài chính và hỗ  trợ  cho các KTV bên ngoài mà đã trở  thành 
một công cụ  của các nhà quản lý. Bên cạnh đó, định nghĩa của IIA đã phần 
nào chỉ  ra ba chức năng cơ  bản của KTNB đó là: kiểm tra, đánh giá và đề 
xuất. 
Theo Liên đoàn kế  toán quốc tế  (IFAC) thì:  “KTNB là một hoạt động  
đánh giá  được lập ra trong doanh nghiệp như  là một dịch vụ  cho doanh  
nghiệp đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát tính phù hợp và hiệu  
quả của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ” [51, tr20]. Quan điểm này có 
thể được xem xét trên ba khía cạnh: Thứ nhất, KTNB có chức năng đánh giá, 
kiểm tra, kiểm soát; Thứ hai, KTNB có vai trò như  một dịch vụ trợ giúp cho 

doanh nghiệp; Thứ ba, đối tượng của KTNB là tính phù hợp và hiệu quả của  
hệ thống kế toán, KSNB. 
Năm 1992, trong bản báo cáo của COSO về gian lận tài chính thì phạm vi 
của KTNB không chỉ  bao gồm kiểm toán kế  toán truyền thống mà còn bao  
gồm những vấn đề  như  năng lực của các nhân viên, các nhà quản lý, những 
mục tiêu của doanh nghiệp đã đạt được ở mức độ nào và các rủi ro phát sinh  
được giám sát như thế nào. Kết quả là các KTVNB bắt đầu trở thành đối tác 
của các nhà quản lý nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu của tổ chức. 
Với sự  phát triển không ngừng của hoạt động kiểm toán nói chung và 
KTNB nói riêng và yêu cầu quản lý trong môi trường kinh doanh luôn thay 
đổi, tháng 6 năm 1999, IIA đã đưa ra một định nghĩa toàn diện hơn về KTNB  
được sử dụng phổ biến trong các tài liệu của IIA cho tới hiện nay:  “KTNB là 
hoạt động đánh giá tư vấn độc lập trong nội bộ tổ chức, được thiết kế nhằm  
cải tiến và làm tăng giá trị cho các hoạt động của tổ  chức đó. KTNB giúp tổ  
chức đạt được các mục tiêu bằng việc đánh giá một cách có hệ thống và cải  
tiến tính hiệu lực của quy trình quản trị, kiểm soát và quản lý rủi ro”   [52, 
tr1]. Có thể  xem xét định nghĩa này trên các khía cạnh sau: Thứ  nhất, KTNB 
hoạt động với ba chức năng đánh giá, tư  vấn và kiến nghị  (là những đề xuất  
cải tiến tính hiệu lực của quy trình quản trị, kiểm soát và quản lý rủi ro); Thứ 
hai, KTNB là hoạt động nội kiểm nhưng phải đảm bảo tính độc lập; Thứ ba, 
mục tiêu của KTNB là cải tiến và làm tăng giá trị  cho các hoạt động của tổ 
chức đó; Thứ tư, phương pháp thực hiện KTNB là đánh giá hoạt động và kiến 
nghị nhằm cải thiện tính hiệu lực của hoạt động quản trị, kiểm soát rủi ro. 


×