1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản Luận án là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
tài liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học của Luận án chưa từng được ai công bố ở bất kỳ công trình nào
khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Đỗ Quốc Việt
2
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Nguyễn Đình Đỗ;
PGS.TS. Đỗ Minh Thành người hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn
tác giả trong suốt quá trình thực hiện Luận án.
Tác giả xin bày tỏ sự cảm ơn tới Học viện Tài Chính, Khoa đào tạo Sau
đại học Học viện Tài chính đã giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu Luận án.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình và quý báu trong quá
trình thu thập số liệu, phiếu điều tra của các nhà quản lý tại các doanh nghiệp
thuộc Tổng công ty Sông Đà, các thành viên Ban Kiểm soát nội bộ, các cán bộ
các Ban: Tài chính Kế toán, Tổ chức nhân sự, Kinh tế, Quản trị rủi ro… tại
Công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên thuộc Tổng công ty Sông Đà.
Cuối cùng, tác giả muốn bày tỏ sự cảm ơn tới những người thân trong gia
đình đã động viên, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu Luận án.
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BBKT
BCKT
BCKS
BCTC
BKS
COSO
CTCP
DNNN
HĐQT
HĐTV
HTKSNB
IFAC
IIA
KQKD
KSCL
KSNB
KSVNB
KTĐL
KTNB
KTNN
KTVNB
KHKT
NĐD
OECD
QLDA
QTKD
QTRR
SDC
SOX
SXKD
TCT
TGĐ
TNHH MTV
Biên bản kiểm toán
Báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm soát
Báo cáo tài chính
Ban kiểm soát
Ủy ban chống gian lận BCTC Hội đồng quốc gia Hoa
Kỳ
Công ty cổ phần
Doanh nghiệp nhà nước
Hội đồng quản trị
Hội đồng thành viên
Hệ thống kiểm soát nội bộ
Liên đoàn Kế toán quốc tế
Viện Kiểm toán nội bộ
Kết quả kinh doanh
Kiểm soát chất lượng
Kiểm soát nội bộ
Kiểm soát viên nội bộ
Kiểm toán độc lập
Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nhà nước
Kiểm toán viên nội bộ
Kế hoạch kiểm toán
Người đại diện
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
Quản lý dự án
Quản trị kinh doanh
Quản trị rủi ro
Tổng công ty Sông Đà
Luật Sarbanes Oxley
Sản xuất kinh doanh
Tổng công ty
Tổng giám đốc
Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
4
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trên con đường đổi mới và phát triển kinh tế, vì vậy nhu
cầu xây dựng cơ sở hạ tầng của nền kinh tế cũng như đầu tư cơ sở vật chất
kỹ thuật khác là rất lớn. TCT Sông Đà là một trong những đơn vị đầu tiên
được thành lập để thực hiện một trong những nhiệm vụ đó, với truyền thống
hơn 50 năm xây dựng và phát triển, là đơn vị đi tiên phong trong lĩnh vực xây
lắp, đã và đang thi công nhiều công trình trọng điểm phục vụ phát triển kinh
tế, xã hội của đất nước như: Thủy điện Thác Bà, Hòa Bình, Yali, Sê San, Sơn
La, Lai Châu; Đường dây truyền tải điện 500KV Bắc Nam; Đường Hồ Chí
Minh... và sắp tới đây là nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam tại
Ninh Thuận. Trải qua quá trình phát triển, cùng với những thành tích đã đạt
được thì trong cơ cấu tổ chức, mô hình quản trị tại TCT Sông Đà còn bộc lộ
một số điểm chưa bắt kịp với sự phát triển của kinh tế thị trường; một số dự
án do TCT làm chủ đầu tư chưa phát huy được hiệu quả; hoạt động kiểm tra,
kiểm soát tại Công ty mẹ và Công ty con còn hạn chế.
Hiện tại, TCT đang trong quá trình triển khai thực hiện đề án tái cơ cấu
với mục tiêu: Xây dựng một Tổng công ty có cơ cấu hợp lý, tập trung vào
ngành nghề kinh doanh chính với quy trình quản lý, quản trị công ty theo
thông lệ tốt nhất; nâng cao sức cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ
sở hữu của Tổng công ty. Để thực hiện được các mục tiêu đó một trong
những giải pháp TCT Sông Đà cần phải thực hiện đó là hoàn thiện bộ máy
quản lý, thiết lập một hệ thống KSNB hoạt động hiệu quả, phát huy tối đa
hiệu quả trong việc huy động và sử dụng tối ưu các nguồn lực. Hệ thống
KSNB chỉ phát huy được hiệu quả khi được thiết kế phù hợp với những đặc
thù của doanh nghiệp và phải được đánh giá thường xuyên nhằm phát hiện
những điểm yếu để khắc phục. Vì vậy, trong cơ cấu tổ chức của TCT Sông
Đà cần phải có một bộ phận thực hiện chức năng đánh giá hiệu quả hệ
thống KSNB và đánh giá tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực c ủa t ất cả các hoạt
động nhằm đưa ra ý kiến tư vấn cho các cấp lãnh đạo trong quá trình ra quyết
định. Bộ phận đảm nhận trách nhiệm này chính là KTNB.
Có thể thấy sự cần thiết phải hoàn thiện tổ chức KTNB tại TCT Sông
Đà theo hai khía cạnh cơ bản như sau:
a. Sự cần thiết khách quan phải hoàn thiện tổ chức KTNB tại Tổng công
ty Sông Đà
Quá trình hội nhập kinh tế thế giới cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
nhiều thành phần kinh tế đã đặt các doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh
khốc liệt. Để giữ vững được sức cạnh tranh thì các doanh nghiệp cần phải
duy trì hệ thống KSNB tốt nhằm phòng ngừa rủi ro đồng thời phát huy tối đa
6
hiệu quả sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, để các nhà
quản trị có thông tin tin cậy phục vụ việc ra quyết định thì các thông tin này
phải được đánh giá đầy đủ theo nhiều khía cạnh khác nhau. Tất cả những yêu
cầu này sẽ được đáp ứng nếu doanh nghiệp thành lập một bộ phận KTNB
hoạt động có hiệu quả. Có thể thấy sự cần thiết phải thành lập bộ phận
KTNB được thể hiện qua các yếu tố sau:
Thứ nhất, KTNB cung cấp thông tin kịp thời, quan trọng phục vụ nhà
quản lý trong việc ra quyết định
Trong khi kiểm toán độc lập thường chỉ thực hiện kiểm toán tài chính và
hậu kiểm thì KTNB hiện đại lại hướng đến kiểm toán hoạt động và tiền
kiểm, kiểm toán hiện hành để phục vụ nhu cầu quản lý. Với chuyên môn cao
và phương pháp thích hợp, KTNB thực hiện tiền kiểm đánh giá về tính kinh
tế, hiệu quả, hiệu lực của các chương trình, dự án hay bất kỳ hoạt động nào
của doanh nghiệp sẽ đưa ra thông tin tư vấn cho nhà quản trị cấp cao quyết
định có tiến hành chương trình, dự án đó hay không, lợi ích kinh tế mà nó có
thể mang lại hoặc chấm dứt thực hiện ngay khi chương trình, dự án chưa
được bắt đầu. Bên cạnh đó, KTNB còn thể hiện được tính kịp thời khi thực
hiện kiểm toán hiện hành, kết quả kiểm toán sẽ giúp nhà quản trị có được
thông tin về những gian lận, sai sót ngay khi nó vừa xảy ra, quyết định sửa
chữa, khắc phục, giảm thiểu ảnh hưởng do chậm trễ về mặt thời gian.
Thứ hai, KTNB là công cụ phát hiện và cải tiến những yếu điểm trong
hệ thống KSNB của doanh nghiệp, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Mục tiêu cơ bản trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp đó là: bảo
toàn và phát triển được vốn chủ sở hữu, tức là doanh nghiệp phải phát triển
một cách bền vững. Biện pháp để thực hiện điều đó là cân bằng giữa tăng
trưởng, hiệu quả và kiểm soát. Để tăng trưởng tốt cần có chiến lược phát
triển khả thi; để đảm bảo hiệu quả cần sử dụng tối ưu các nguồn lực hiện
có hoặc huy động và để kiểm soát tốt, doanh nghiệp cần có một hệ thống
KSNB đủ mạnh. Không có bất cứ doanh nghiệp nào sở hữu một HTKSNB
nào hoàn hảo, ít nhất thì HTKSNB luôn tồn tại những hạn chế vốn có của nó
và phát sinh thêm yếu điểm trong quá trình vận hành. KTNB là một yếu tố
cấu thành HTKSNB nhưng giữ chức năng kiểm soát của kiểm soát, tức là
chức năng đánh giá, phát hiện và khắc phục những tồn tại, hạn chế của
HTKSNB; duy trì một HTKSNB đủ mạnh để giảm thiểu những gian lận, sai
sót trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, việc hoàn thiện
KTNB không chỉ giúp SDC hoàn thiện HTKSNB của mình mà còn đảm bảo
sự phát triển bền vững theo cả ba khía cạnh như đã nêu trên.
Thứ ba, xuất phát từ nhiệm vụ tái cơ cấu quản trị doanh nghiệp theo
hướng hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế
Quyết định số 929/QĐTTg ngày 17/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ
7
phê duyệt “Đề án tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công
ty nhà nước giai đoạn 20112015” đã đưa ra nhiệm vụ tái cơ cấu quản trị
doanh nghiệp:
Áp dụng các nguyên tắc quản trị theo thông lệ quản trị doanh nghiệp
quốc tế; hoàn thiện cơ chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ, chú trọng kiểm soát
rủi ro tài chính để kịp thời có biện pháp phòng ngừa, hạn chế, khắc phục và
điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp; tăng cường năng lực,
quyền hạn của ban kiểm soát, kiểm soát viên và kiểm toán nội bộ;
Quyết định số 50/QĐBXD ngày 151/2/103 của Bộ Xây dựng về phê
duyệt Đề án “Tái cấu trúc Tổng công ty Sông Đà giai đoạn 20122015, tầm
nhìn đến 2020” đã nêu rõ nhiệm vụ tái cấu trúc quản trị doanh nghiệp tập
trung vào nội dung: Áp dụng nguyên tắc quản trị doanh nghiệp theo thông lệ
quốc tế hiện đại; tăng cường công tác kiểm soát nội bộ; quản trị sự thay đổi;
quản trị rủi ro, tài chính, nhân sự, chiến lược, thương hiệu...”
Như vậy, việc tái cơ cấu quản trị doanh nghiệp là một trong những nội
dung bắt buộc TCT phải thực hiện trong quá trình tái cơ cấu. Một trong
những thông lệ tốt trong quản trị doanh nghiệp tại các quốc gia thuộc OECD
đó là thành lập bộ phận KTNB hoạt động hiệu quả, báo cáo trực tiếp với
HĐQT hoặc tương đương. Riêng đối với Việt Nam, OECD cũng đã đưa ra
khuyến cáo: Doanh nghiệp nhà nước cần xây dựng quy trình KTNB hiệu quả
và thiết lập chức năng kiểm toán nội bộ dưới sự giám sát và báo cáo trực
tiếp cho HĐQT và Ủy ban Kiểm toán hay bộ phận tương đương [24, tr18,45].
Qua các nội dung nêu trên có thể thấy, việc thành lập, vận hành bộ phận
KTNB tại TCT Sông Đà là tương đối phù hợp với thông lệ quản trị doanh
nghiệp quốc tế và nhiệm vụ tái cơ cấu quản trị doanh nghiệp đã được giao.
b. Sự cần thiết phải hoàn thiện tổ chức KTNB xuất phát từ nhu cầu nâng
cao hiệu quả quản trị của TCT Sông Đà
Thứ nhất, Xuất phát từ tình hình thực tế tại TCT Sông Đà.
Trong những năm qua, tình hình SXKD của TCT Sông Đà gặp nhiều khó
khăn, một số khoản đầu tư lớn không mang lại hiệu quả như kỳ vọng đã làm
cho tình hình tài chính của TCT rất xấu. Một số chỉ tiêu tài chính cơ bản của
TCT Sông Đà giai đoạn 20112014:
Bảng 1: Tình hình tài chính SDC giai đoạn 20122014
Đơn vị tính: tỷ đồng
STT
1
2
Chỉ tiêu
Nợ phải trả
Nợ ngắn hạn
Năm
2012
38.134
17.938
2013
39.080
17.783
2014
38.244
16.682
8
STT
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Chỉ tiêu
Tiền và các khoản ĐTTC
Tiền và các khoản tương đương tiền
VLĐ ròng
Nguồn VCSH
Hệ số nợ trên vốn CSH
Lãi tiền vay
Khả năng thanh toán hiện thời
Khả năng thanh toán nhanh
Khả năng thanh toán tức thời
Lợi nhuận trước thuế
Năm
2012
1.969
1.605
5.199
8.753
4,35
1.845
0,71
0,11
0,09
95
2013
2,668
2.417
4.009
7.821
4,99
2.235
0,77
0,15
0,14
95
2014
1.970
1.664
3.849
7.447
5,14
2.100
0,78
0,14
0,12
156
(Nguồn: Tác giả tính toán, tổng hợp từ BCTC hợp nhất đã kiểm toán
của TCT Sông Đà)
Có thể thấy, Hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu đã vượ t ngưỡng an toàn
(là 3 theo quy định của Bộ Tài chính); tiền và các khoản tương đươ ng tiền,
tiền và các khoản đầu tư tài chính không bù đắp đượ c nợ ngắn hạn; khả
năng thanh toán rất thấp, tình trạng mất cân đối dòng tiền trả nợ diễn ra
trong nhiều năm và đặc biệt TCT Sông Đà đang mất cân bằng tài chính
nghiêm trọng khi vốn lưu động ròng âm 3.849 tỷ đồng, tiềm ẩn nguy cơ
phá sản. Lợi nhuận, tỷ su ất l ợi nhu ận trên vốn chủ sở hữu (ROE) rất thấp;
nguồn vốn chủ sở hữu đang có xu hướ ng giảm, một số dự án đượ c đầu tư
vốn lớn nhưng hoạt động không hiệu quả, không thu xếp đượ c vốn trả nợ
làm xếp hạng tín dụng ảnh hưởng đến uy tín của TCT và Chính phủ Việt
Nam (Dự án Xi măng Hạ Long do Chính phủ bảo lãnh, hoạt động SXKD
không hiệu quả, không có khả năng trả nợ gốc và lãi vay; Dự án đầu tư trụ
sở HH4 chậm tiến độ, không phát huy hiệu quả như phương án ban đầu...).
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình tài chính yếu kém như
phân tích đó là công tác quản lý chi phí chưa chặt chẽ; công tác đầu tư chưa
mang lại hiệu quả tương ứng với nguồn lực bỏ ra; hiệu quả sử dụng vốn
không cao: các đơn vị xây lắp có tỷ lệ lợi nhuận thấp không đủ bù đắp lỗ lũy
kế của Xi măng Hạ Long, vòng quay vốn dài (đặc thù xây lắp) nên thường
phải bù đắp bằng vốn tín dụng với chi phí cao.
Với những tồn tại trước mắt như vậy, việc xây dựng bộ phận KTNB
hoạt động thực sự hiệu quả sẽ giúp TCT Sông Đà giải quyết được một số
vấn đề:
Quản lý chi phí một cách chặt chẽ: trên cơ sở thực hiện các biện pháp
nghiệp vụ, KTNB sẽ đánh giá đúng thực trạng và đưa ra những biện pháp tiết
giảm chi phí trong quá trình thi công xây lắp, mua sắm vật tư, thiết bị; nâng
9
cao hiệu quả sử dụng tài sản...;
Đối với các dự án đầu tư: Với việc thực hiện tiền kiểm và kiểm toán
hoạt động, KTNB sẽ có đánh giá chính xác về tính khả thi của dự án. KTNB
sẽ đưa ra biện pháp tối ưu trong việc sử dụng các nguồn lực hiện có và huy
động các nguồn tài trợ với chi phí thấp nhất. Giúp nhà quản lý có biện pháp
phát huy hết tất cả tiềm lực của TCT từ con người, máy móc thiết bị, tài
chính đến các nguồn lực huy động từ bên ngoài.
Thứ hai, Các ngành, nghề sản xuất kinh doanh chính của TCT đều tiềm
ẩn rất nhiều rủi ro.
Theo kế hoạch SXKD giai đoạn 20162020 của TCT Sông Đà thì ngành,
nghề sản xuất kinh doanh chính là: (1) Tổng thầu xây dựng và tổng thầu
EPC; (2) Đầu tư, sản xuất và kinh doanh điện; (3) Phát triển nhà ở và đô thị.
Với ba lĩnh vực này rủi ro có thể đến từ rất nhiều yếu tố như: chính trị, pháp
luật, vốn, nhân sự, tiến độ, trượt giá, thiên tai... mà mỗi yếu tố đều ảnh
hưởng rất lớn đến kết quả SXKD của TCT.
Hiện tại, Công ty mẹ và các đơn vị thành viên đã thành lập Phòng/Ban
QTRR tuy nhiên, theo nguyên tắc Ba vòng bảo vệ trong doanh nghiệp thì bộ
phận này vẫn đang ở cấp độ bảo vệ thứ hai: giám sát rủi ro, vẫn cần triển
khai cấp bảo vệ thứ ba: Bảo đảm độc lập. Với chức năng đưa ra những đánh
giá độc lập đối với tất cả các hoạt động của doanh nghiệp, KTNB sẽ đánh
giá tính hiệu quả, nhất quán của mô hình QTRR và hệ thống KSNB, quản trị
doanh nghiệp một cách độc lập.
Thứ ba, Tăng cường độ tin cậy của thông tin đối với các nhà đầu tư, cổ
đông trong và sau quá trình cổ phần hoá
Theo kế hoạch, TCT Sông Đà sẽ tiến hành cổ phần hoá trong năm 2016,
tuy nhiên với thực trạng tài chính như đã trình bày ở trên, nếu TCT không có
các biện pháp cải thiện hoặc nâng cao lòng tin của nhà đầu tư đối với các
thông tin tài chính thì nhiều khả năng quá trình IPO của TCT sẽ khó đạt được
kết quả mong muốn. Các nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy: doanh nghiệp
có bộ phận KTNB thường cung cấp thông tin, BCTC đúng hạn và có mức độ
minh bạch, chính xác cao, khả năng gian lận thấp và trên hết là hoạt động
SXKD đạt hiệu quả cao hơn so với các doanh nghiệp không có phòng KTNB.
Vì vậy, việc tổ chức bộ phận KTNB hoạt động có hiệu quả không những sẽ
mang lại lợi ích cao cho TCT Sông Đà trong bối cảnh tình hình tài chính gặp
nhiều khó khăn mà còn giúp TCT tìm kiếm được nhiều nhà đầu tư chiến lược
có thể hỗ trợ về vốn, về kinh nghiệm và hoàn thành mục tiêu IPO đã được
nhà nước giao.
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt với sự xuất hiện ngày
càng nhiều các Tập đoàn xây dựng lớn trong và ngoài nước thì việc tăng cường
kiểm soát, phát huy tối đa hiệu quả sử dụng các nguồn lực để tăng tính cạnh
10
tranh là biện pháp vô cùng quan trọng, mang tính sống còn đối với TCT Sông Đà,
đồng thời hoàn thành nhiệm vụ được nhà nước giao. Vì vậy, việc xây dựng và
vận hành có hiệu quả bộ phận KTNB tại TCT Sông Đà là một yêu cầu cấp thiết
trong quá trình tái cơ cấu và hội nhập. Nhận thức được vấn đề đó, nghiên cứu
sinh (NCS) chọn đề tài “Hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ trong Tổng
công ty Sông Đà” để nghiên cứu luận án Tiến sĩ.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án
Trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu về KTNB theo các khía cạnh và mục tiêu khác nhau, có thể
khái quát các công trình nghiên cứu như sau:
2.1. Về tổ chức bộ máy KTNB
Đặt nền móng đầu tiên cho lý luận về KTNB hiện đại phải kể đến cuốn
sách “Kiểm toán nội bộ hiện đại Đánh giá các hoạt động và hệ thống kiểm
soát” của hai tác giả Victor Z. Brink và Herbert Witt xuất bản lần đầu năm
1941, bản dịch tiếng Việt do Nhà xuất bản Tài chính phát hành năm 2000.
Cuốn sách đã làm rõ những vấn đề cơ bản về KTNB như: khái niệm, chức
năng, nhiệm vụ, mối quan hệ với các bộ phận trong doanh nghiệp, bố trí nhân
viên và huấn luyện… Ngoài ra, cũng đã đề cập đến vị trí của KTNB trong
doanh nghiệp đó là: chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Uỷ ban kiểm toán trực
thuộc Ban giám đốc. Cùng quan điểm trên với Victor Z. Brink và Herbert Witt
về vị trí của KTNB trong doanh nghiệp, tác giả Đặng Văn Thanh, Lê Thị Hoà
trong cuốn sách “Kiểm toán nội bộ Lý luận và hướng dẫn nghiệp vụ” (Nhà
xuất bản Tài chính, 1998) cũng đã nêu: Bộ phận KTNB được tổ chức độc lập
với các bộ phận quản lý và điều hành kinh doanh trong doanh nghiệp (kể cả
phòng kế toán tài chính); chịu sự chỉ đạo và lãnh đạo trực tiếp của (Tổng)
Giám đốc doanh nghiệp”.
Ngoài ra, có thể kể đến các nghiên cứu tương tự như: Tác giả Ann Neale
(1991) về "Hệ thống kiểm toán: Lý thuyết và thực hành"; Tác giả John A.
Edds (1980) về "Kiểm toán quản trị: Khái niệm và thực hiện"; Tác giả J.C.
Shaw (1980) về "Kiểm toán nội bộ Một yếu tố cần thiết cho hoạt động
quản lý hiệu quả"; Tác giả Lawrence B. Sawyer, Mortimer Dittenhofe, James
H. Scheiner (2003) về "Thực hành kiểm toán nội bộ hiện đại"; Tác giả Robert
Moeller (2005) về "Kiểm toán nội bộ hiện đại theo quan điểm của Brink"...
Về cơ bản, những nghiên cứu này chưa đưa đề cập đến các mô hình tổ chức
bộ máy KTNB, xác định vị trí có thể có của KTNB trong cấu trúc doanh
nghiệp từ đó đánh giá ưu nhược điểm, tính độc lập, khách quan trong hoạt
động tương ứng với từng mô hình và chưa có phương án xác định số lượng
nhân sự KTNB.
Tuy nhiên, cũng đã có một số nghiên cứu nêu tương đối đầy đủ về vấn
đề tổ chức bộ máy KTNB như: Sách chuyên khảo: “Kiểm toán nội bộ” (tác
11
giả Thịnh Văn Vinh và Phạm Tiến Hưng, NXB Tài chính, 2012); Luận án tiến
sĩ kinh tế của các tác giả: Phan Trung Kiên (2008) với đề tài “Hoàn thiện tổ
chức KTNB trong các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam”, Nguyễn Thị Hồng
Thuý (2010) với đề tài “Tổ chức KTNB trong các Tập đoàn kinh tế Việt Nam”,
Lê Thị Thu Hà (2011) với đề tài “Tổ chức KTNB tại các công ty tài chính”; Vũ
Thuý Hà (2017) với đề tài “Hoàn thiện KTNB tại các TCT thuộc Tập đoàn
Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam”… xét theo khía cạnh tổ chức bộ
máy KTNB, nội dung các công trình nghiên cứu trên đã tập trung vào các nội
dung:
Nghiên cứu khái quát, hệ thống hoá và phát triển lý luận về KTNB, xác
định rõ nội dung cơ bản của tổ chức KTNB trong doanh nghiệp gồm tổ chức
bộ máy và tổ chức hoạt động, đưa ra một số điểm mới về vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của KTNB trong đó chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả công tác
quản trị rủi ro, hướng KTNB đến kiểm toán hoạt động, kiểm toán liên kết
(luận án của tác giả Phan Trung Kiên);
Khái quát các mô hình tổ chức KTNB phổ biến hiện nay, phân tích ưu
nhược điểm và sự ảnh hưởng của mô hình tổ chức đến hoạt động KTNB…
đồng thời kiến nghị xây dựng mô hình KTNB;
Đưa ra các yêu cầu cơ bản cần có khi thành lập bộ phận KTNB: tính
độc lập khách quan, yêu cầu đối với các KTVNB, mối quan hệ giữa bộ phận
KTNB với các bộ phận, đơn vị khác trong và ngoài doanh nghiệp;
Bên cạnh đó, đối với nhóm các luận án tiến sỹ, các tác giả đã đưa ra các
kiến nghị, đề xuất về tổ chức bộ máy KTNB trong các doanh nghiệp để các
đơn vị này có thể triển khai ứng dụng ngay.
2.2. Về tổ chức hoạt động KTNB
Phần lớn các công trình nghiên cứu trên thế giới cũng như tại Việt Nam
tập trung chủ yếu vào việc hoàn thiện quy trình, phương pháp kiểm toán cũng
như định hướng phát triển nội dung, phương pháp tiếp cận và loại hình
KTNB.
Đối với phương pháp tiếp cận KTNB, cuốn sách “Kiểm toán nội bộ trên
cơ sở rủi ro” của tác giả Phil Griffiiths (2005) đã nêu rõ sự cần thiết cũng
như cơ sở lý luận cho việc tiếp cận KTNB trên cơ sở phân tích, đánh giá rủi
ro. Tác giả chi cách thức tiếp cận KTNB theo bốn giai đoạn gồm: (1) Truyền
thống; (2) Tiếp cận hệ thống; (3) Định hướng rủi ro và (4) Hướng tới tương
lai. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng đã xây dựng quy trình thực hiện KTNB theo
phương pháp tiếp cận trên cơ sở phân tích rủi ro (lập KHKT và thực hiện
kiểm toán) và hướng dẫn kiểm soát rủi ro trong quá trình kiểm toán. Cùng
quan điểm tiếp cận KTNB trên cơ sở phân tích rủi ro, luận án tiến sĩ của tác
giả Lê Thị Thu Hà (2011) với đề tài “Tổ chức KTNB tại các công ty tài chính”
12
đã nêu: “Phương pháp tiếp cận theo định hướng rủi ro có thể được áp dụng
trong toàn bộ quá trình kiểm toán, không chỉ đối với việc lập kế hoạch kiểm
toán hàng năm, mà còn trong toàn bộ quy trình kiểm toán” kèm theo đó là
những nội dung hướng dẫn tương đối cụ thể, chi tiết. Tác giả cũng đã có
những định hướng, hướng dẫn cơ bản về đánh giá, phân loại rủi ro và công
tác quản lý chất lượng hoạt động kiểm toán.
Cuốn sách “Kiểm toán nội bộ hiện đại Đánh giá các hoạt động và hệ
thống kiểm soát” của hai tác giả Victor Z. Brink và Herbert Witt đã đưa ra
những hướng dẫn cụ thể trong quá trình thực hiện kiểm toán đối với từng lĩnh
vực hoạt động mà KTNB quan tâm (sản xuất, kinh doanh, hành chính sự
nghiệp) như: kiểm toán quá trình mua hàng vận chuyển nhận hàng lưu kho
và phế liệu; hoạt động sản xuất bảo dưỡng; kiểm soát chất lượng kỹ
thuật… Ngoài ra, cuốn sách còn đề cập đến KTNB trong các cơ quan chính
phủ và các tổ chức phi lợi nhuận. Mặc dù tác phẩm đã khẳng định tầm quan
trọng của KTNB trong việc hỗ trợ công tác quản lý, tuy nhiên cũng mới chỉ tập
trung vào khía cạnh tài chính.
Cuốn sách “Sổ tay Kiểm toán nội bộ” của tác giả Martin Grimwood (bản
dịch của Đặng Kim Cương NXB Giao thông vận tải 2007) đã đưa ra hướng
dẫn xác định chỉ số rủi ro: “Kiểm toán viên phải kết hợp các thành tố với
trọng số của chúng trong một công thức có thể sử dụng để tính toán chỉ số rủi
ro. Trong việc chọn trọng số, KTV phải tránh đưa xu hướng không công bằng
vào công thức. Một ví dụ về công thức có thể sử dụng là:
Chỉ số rủi ro = Aa + Bb + Cc + Dd + Ee + Ff
AF: là những thành tố
af: là trọng số”.
Luận án tiến sĩ kinh tế của các tác giả: Phan Trung Kiên (2008) với đề tài
“Hoàn thiện tổ chức KTNB trong các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam”,
Nguyễn Thị Hồng Thuý (2010) với đề tài “Tổ chức KTNB trong các Tập đoàn
kinh tế Việt Nam”, Vũ Thuỳ Linh (2014) với đề tài “Hoàn thiện quá trình và tổ
chức bộ máy KTNB trong các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam”:
Mặc dù các tác giả đã hướng KTNB tiếp cận trên cơ sở phân tích rủi ro tuy
nhiên trong nội dung nghiên cứu vẫn mang nhiều đặc điểm của phương pháp
tiếp cận hệ thống, chú trọng vào kiểm toán tài chính và chưa đưa ra mô hình
đánh giá, phân tích, xếp loại rủi ro.
Và nhiều công trình nghiên cứu khác tập trung vào các khía cạnh khác
nhau của tổ chức hoạt động KTNB trong doanh nghiệp.
2.3. Đánh giá kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến
luận án
2.3.1. Những kết quả đã đạt được
13
Có thể thấy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới nói
chung và tại Việt Nam nói riêng. Xét một cách toàn diện, các công trình
nghiên cứu có nội dung phong phú, đa dạng bao gồm cả các nghiên cứu toàn
diện về lý luận như: “Kiểm toán nội bộ hiện đại Đánh giá các hoạt động và
hệ thống kiểm soát” của hai tác giả Victor Z. Brink và Herbert Witt, “Sổ tay
Kiểm toán nội bộ” của tác giả Martin Grimwood, “Kiểm toán nội bộ trên cơ
sở rủi ro” của tác giả Phil Griffiiths... cũng có những nghiên cứu về một khía
cạnh của KTNB như: “Nghiên cứu xây dựng nội dung KTNB doanh nghiệp
vận tải ô tô” của tác giả Lê Thu Hằng (2007); “Hoàn thiện nội dung, quy
trình, phương pháp KTNB trong các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hiện
nay” của TS. Giang Thị Xuyến và các cộng sự (2010); “Kiểm toán môi
trường và quy tắc kiểm toán” của Nhóm làm việc thuộc INTOSAI... và các
công trình nghiên cứu ứng dụng đối với một nhóm ngành, lĩnh vực kinh doanh
cụ thể như: Xây lắp, tài chính ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước... Các kết
quả đã đạt được có thể đánh giá theo các mặt như sau:
* Về Tổ chức bộ máy KTNB
Các nghiên cứu đưa ra những yếu tố cơ bản của tổ chức bộ máy KTNB
gồm: Mô hình tổ chức và tổ chức nhân sự KTNB, cụ thể:
Đã thực hiện nghiên cứu các mô hình, cơ cấu tổ chức của bộ phận
KTNB phổ biến trên thế giới, phù hợp với lý thuyết KTNB hiện đại. Đồng
thời đã phân tích những ảnh hưởng mang tính quyết định của mô hình tổ chức
đến hoạt động KTNB từ đó rút ra ưu, nhược điểm của từng mô hình và đề
xuất khả năng áp dụng trong thực tế đối với các tổ chức, doanh nghiệp;
Xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ của KTNB
với các bộ phận khác. Đặt ra những yêu cầu cơ bản về tính độc lập khách
quan trong việc thực hiện nhiệm vụ của KTNB.
Đưa ra những yêu cầu cơ bản về yêu cầu đối với các KTVNB như:
trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm và nguồn bổ sung nhân sự cho bộ phận
KTNB.
* Về tổ chức hoạt động KTNB
Các nghiên cứu đã đạt được những kết quả cụ thể như sau:
Đã nghiên cứu và đề xuất phương pháp tiếp cận KTNB trên cơ sở phân
tích rủi ro áp dụng đối với toàn bộ quy trình kiểm toán; định hướng phát triển
loại hình kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ;
Xác định cụ thể quy trình kiểm toán gồm các bước: Chuẩn bị kiểm
toán, thực hiện kiểm toán, lập biên bản kiểm toán và kiểm tra thực hiện kiến
nghị kiểm toán;
Bước đầu đã có những hướng dẫn đánh giá, phân tích và xếp loại rủi ro
làm cơ sở lập KHKT năm, đánh giá rủi ro khi thiết kế và thực hiện các thủ
14
tục kiểm toán;
Đặt ra yêu cầu đối với việc kiểm soát chất lượng kiểm toán trong tất
cả các giai đoạn thực hiện kiểm toán: trong đó nêu rõ trách nhiệm của người
đứng đầu, trách nhiệm của các bộ phận có liên quan đến việc kiểm soát chất
lượng kiểm toán.
2.3.2. Xác định khoảng trống nghiên cứu
Ngoài các kết quả như đã nêu trên, các công trình nghiên cứu vẫn còn
một số vấn đề chưa được nghiên cứu, bao gồm:
Nghiên cứu về tổ chức KTNB trong TCT Sông Đà, là doanh nghiệp có
mô hình tổ chức nhiều cấp (bao gồm các công ty cấp I, II, III), hoạt động
trong lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro và kết quả nghiên cứu hướng đến tính
ứng dụng thực tiễn cao.
Nghiên cứu việc xác định số lượng KTVNB là bộ phận có đặc thù hoàn
toàn khác so với các bộ phận khác trong doanh nghiệp trên cơ sở phương pháp
tính định biên một cách khoa học, hợp lý.
Hướng dẫn cụ thể việc xây dựng bảng mô tả công việc, tiêu chuẩn chức
danh đối với từng chức danh KTNB.
Hướng dẫn xây dựng mô hình đánh giá, phân tích rủi ro để lựa chọn đơn
vị, hoạt động (nhóm hoạt động) được kiểm toán áp dụng đối với một đơn vị
cụ thể để nâng cao tính ứng dụng thực tế.
Phân tích, hướng dẫn cụ thể về xác định, lựa chọn chủ đề kiểm toán
hoạt động đối với các cuộc kiểm toán của KTNB, đồng thời hướng dẫn xây
dựng bộ tiêu chí đánh giá kiểm toán hoạt động.
Hướng dẫn hoàn thiện Sổ tay KTNB để hướng dẫn về nghiệp vụ, đồng
thời làm cơ sở nâng cao hiệu quả hoạt động KTNB; hoàn thiện hệ thống hồ
sơ mẫu biểu và kiểm soát chất lượng kiểm toán nhằm nâng cao tính chuyên
nghiệp của bộ phận KTNB.
2.3.3. Câu hỏi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của luận án nhằm trả lời cho các câu hỏi sau:
Các lý luận cơ bản về KTNB trong doanh nghiệp là gì, tổ chức KTNB
trong doanh nghiệp gồm những nội dung gì?
Các phương pháp tiếp cận KTNB, ưu điểm của phương pháp tiếp cận
trên cơ sở phân tích rủi ro so với các phương pháp khác?
Hoạt động sản xuất kinh doanh của TCT Sông Đà có những đặc thù gì,
có những loại rủi ro nào và ảnh hưởng của nó đến tổ chức KTNB?
Thực trạng, ưu nhược điểm, nguyên nhân của những nhược điểm về
tổ chức KTNB trong TCT Sông Đà?
Để hoàn thiện tổ chức KTNB trong TCT Sông Đà cần các giải pháp gì?
15
2.3.4. Những vấn đề luận án cần tập trung nghiên cứu
Để trả lời những câu hỏi nghiên cứu đã nêu trên, luận án tiếp tục nghiên
cứu, kế thừa, phát triển những mặt đã làm được cả về lý luận và thực tiễn
của các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, luận án tập
trung nghiên cứu, phát triển một số vấn đề như sau:
Nghiên cứu, phân tích, lựa chọn mô hình tổ chức KTNB tối ưu, phù hợp
với đặc thù sở hữu vốn của các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp có vốn
nhà nước chi phối nói riêng tại Việt Nam và thực tế tại TCT Sông Đà. Nghiên
cứu, đề xuất một số nội dung liên quan đến công tác tuyển dụng, bổ nhiệm
cũng như mối quan hệ của KTNB với các bộ phận khác nhằm tăng cường
tính độc lập, khách quan của bộ phận này;
Nghiên cứu phương pháp xác định định biên lao động, xây dựng mô hình
tính định biên lao động áp dụng cho bộ phận KTNB tại TCT Sông Đà;
Định hướng xây dựng và xây dựng mẫu bảng mô tả công việc, tiêu
chuẩn chức danh của một số KTVNB;
Nghiên cứu, xây dựng mô hình đánh giá, phân tích, xếp loại rủi ro hướng
đến hai nhóm hoạt động chính: (1) Đánh giá rủi ro trong quá trình lập KHKT
năm nhằm lựa chọn chủ đề, đơn vị, nhóm hoạt động được kiểm toán; (2)
Đánh giá rủi ro trong quá trình lập KHKT chi tiết nhằm lựa chọn cụ thể hoạt
động được kiểm toán đồng thời thiết kế chương trình kiểm toán, xây dựng
tiêu chí đánh giá kiểm toán hoạt động;
Nghiên cứu, đề xuất định hướng xây dựng Sổ tay KTNB; xây dựng hệ
thống hồ sơ, mẫu biểu áp dụng cho các cuộc KTNB;
Nghiên cứu lý thuyết, đề xuất phương án hoàn thiện tổ chức kiểm soát
chất lượng kiểm toán từ khâu lập kế hoạch đến khâu kiểm tra thực hiện kiến
nghị kiểm toán.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu, hệ thống hóa những vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn về
tổ chức KTNB, góp phần làm sáng tỏ hơn căn cứ, cơ sở khoa học và thực tiễn
về tổ chức KTNB trong các doanh nghiệp;
Nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức KTNB trên thế giới và rút ra các bài
học kinh nghiệm khi áp dụng để phù hợp với điều kiện của Việt Nam;
Nghiên cứu và phát triển các vấn đề lý luận của KTNB, đặc biệt là
phương pháp tiếp cận KTNB trên cơ sở phân tích rủi ro.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Nghiên cứu các đặc trưng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
TCT Sông Đà ảnh hưởng đến tổ chức KTNB, trong đó đi sâu vào nhóm các
16
đặc trưng tiềm ẩn rủi ro cao, khác biệt với các doanh nghiệp khác.
Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức KTNB; nhận diện, đánh giá thực
trạng việc thực hiện chức năng KTNB (hoạt động KSNB, thanh, kiểm tra), so
sánh, đối chiếu với lý thuyết KTNB để thấy được: Những đặc điểm của
KTNB trong hoạt động KSNB, kiểm tra, kiểm soát; những điểm còn hạn chế
trong công tác kiểm tra, kiểm soát của TCT khi không thành lập bộ phận
KTNB.
Từ những nghiên cứu về thực trạng hoạt động KTNB, KSNB, thanh
kiểm tra, luận án chỉ rõ sự cần thiết phải thành lập bộ phận KTNB tại TCT
Sông Đà, đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt
động KTNB phù hợp với đặc thù tổ chức sản xuất kinh doanh và tổ chức
quản lý của TCT Sông Đà. Trong đó chú trọng đến việc định hướng hoạt
động KTNB dựa trên cơ sở phương pháp tiếp cận, đánh giá rủi ro thông qua
việc xây dựng mô hình đánh giá rủi ro trong quá trình lập KHKT năm, lập
KHKT chi tiết và tập trung chủ yếu vào loại hình kiểm toán hoạt động.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các lý luận cơ bản về KTNB và tổ chức KTNB trong
doanh nghiệp. Trong phạm vi luận án này, thuật ngữ “Tổ chức” được hiểu là
bao gồm hai nội dung: tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động.
Đối tượng nghiên cứu cụ thể tại Công ty mẹ TCT Sông Đà và các đơn vị
thành viên:
+ Tại Công ty mẹ: Nghiên cứu, đánh giá tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt
động của Ban KSNB, các hoạt động thanh kiểm tra của các ban chuyên môn;
+ Tại các Công ty con: (1) Đối với đơn vị đã thành lập bộ phận KTNB:
Nghiên cứu, đánh giá tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động KTNB; (2) Đối với
các đơn vị chưa thành lập bộ phận KTNB: Nghiên cứu, đánh giá tổ chức bộ máy
và tổ chức hoạt động của Ban KSNB, các hoạt động thanh kiểm tra của các bộ
phận chuyên trách hoặc kiêm nhiệm.
Nghiên cứu kết quả, kinh nghiệm về tổ chức KTNB theo thông lệ quốc
tế và một số tập đoàn lớn trên thế giới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài đi sâu nghiên cứu tổ chức bộ máy và quy trình
KTNB và tại Công ty mẹ và các công ty con của TCT Sông Đà; nhận diện,
đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt động thực hiện chức năng KTNB (KSNB,
thanh, kiểm tra) trong TCT Sông Đà, thông qua khảo sát thực tế tại Công ty
mẹ và 14 Công ty con theo Đề án tái cơ cấu đã được Bộ Xây dựng phê duyệt
tại Quyết định số 50/QĐBXD ngày 15/1/2013. Đối với việc thực hiện quy
trình KTNB, KSNB, thanh, kiểm tra: luận án chỉ đánh giá việc xây dựng, ban
17
hành và tình hình thực hiện quy trình mà không đề cập đến những phát hiện,
đánh giá, nhận xét, kết luận, kiến nghị của các cuộc KTNB, KSNB, thanh
kiểm tra.
Về thời gian: Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu khảo sát thực trạng
tổ chức KTNB, KSNB, thanh kiểm tra của các đơn vị nêu trên trong giai đoạn
2012 2015, có cập nhật tình hình cổ phần hoá đến hết 31/12/2018 và các nội
dung liên quan đến Nghị định số 05/2019/NĐCP ngày 22/01/2019 của Chính
phủ về Kiểm toán nội bộ.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận chung
Đề tài dựa vào cơ sở của phương pháp duy vật biện chứng, phương
pháp duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề một cách có hệ thống, toàn
diện và đảm bảo tính logic.
Kết hợp với phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, đồng thời sử dụng
các phương pháp tổng hợp, phân loại, phân tích, so sánh... để hệ thống hóa,
tổng kết các vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng KTNB trong mối quan hệ
biện chứng giữa các sự vật hiện tượng và tính lịch sử cụ thể.
5.2. Phương pháp cụ thể
Luận án sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu để thu thập thông
tin phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Cụ thể:
a. Phương pháp thu thập dữ liệu
* Đối với tài liệu sơ cấp: Để có thể đưa ra các kết luận một cách khách
quan và mang tính điển hình về KTNB tại Công ty mẹ và các đơn vị thành
viên tại TCT Sông Đà, tác giả tiến hành phát phiếu điều tra thông qua hệ
thống bảng hỏi được thiết kế sẵn đối với 11 Ban tại Công ty mẹ (10 Ban trực
thuộc Ban Tổng Giám đốc, 01 Ban trực thuộc HĐTV) và 14 Công ty con đồng
thời tiến hành phỏng vấn trực tiếp đối với một số lãnh đạo, cán bộ một số
Ban tại Công ty mẹ như: Ban KSNB, Ban QTRR, Ban TCKT, Ban Kinh t ế…;
tại một số đơn vị thành viên như: CTCP Sông Đà 11, Sông Đà 2, Sông Đà 5,
Sông Đà 9... Những mẫu lựa chọn theo định hướng tái cơ cấu SDC không
những mang đến những đánh giá tổng quát về hoạt động kiểm tra, kiểm soát,
tư vấn... tại SDC mà còn là cơ sở để đưa ra những định hướng xây dựng, vận
hành hoạt động của KTNB tại SDC cho giai đoạn tiếp theo.
Hoạt động khảo sát nhằm thu thập những thông tin về hoạt động KTNB,
KSNB, thanh kiểm tra tại Công ty mẹ và các Công ty con thuộc TCT Sông Đà
theo khía cạnh tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động.
Tại công ty mẹ: Câu hỏi phỏng vấn đượ c thiết kế hướng đến nội
dung thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát, đánh giá và tư vấn của các
Ban để có cơ sở nhận diện, đánh giá các hoạt động mang tính chất KTNB.
18
Chi tiết bảng câu hỏi điều tra tại Công ty mẹ và bảng tổng hợp đượ c trình
bày tại Phụ lục số 02.
Tại công ty con: Với các câu hỏi điều tra về nội dung tổ chức bộ máy và
tổ chức hoạt động KTNB. Bảng khảo sát được gửi trực tiếp tới những người
giữ chức vụ quan trọng trong các đơn vị như Thành viên HĐQT/HĐTV, Phó
TGĐ, Kế toán trưởng, Trưởng Ban kiểm soát/Kiểm soát viên đến các chuyên
viên tác nghiệp trong doanh nghiệp như chuyên viên kế toán tài chính, quản
trị rủi ro, tổ chức hành chính, kinh tế kế hoạch, dự án. Nội dung câu hỏi
khảo sát được chia thành 2 phần:
Phần 1: Thông tin chung về hoạt động của doanh nghiệp và đối tượng khảo
sát.
Phần 2: Câu hỏi khảo sát chia làm 05 nhóm chính:
Nhóm câu hỏi về KTNB (áp dụng đối với các đơn vị đã thành lập bộ
phận KTNB): các câu hỏi được chia thành Tổ chức bộ máy KTNB (15 câu) và
Tổ chức hoạt động KTNB (40 câu);
Nhóm câu hỏi về KSNB (áp dụng đối với các đơn vị chưa thành lập bộ
phận KTNB nhưng đã có Ban KSNB): các câu hỏi được chia thành Tổ chức
bộ máy KSNB (16 câu) và Tổ chức hoạt động KSNB (41 câu);
Nhóm câu hỏi về bộ phận thanh, kiểm tra chuyên trách (áp dụng đối
với các đơn vị chưa thành lập bộ phận KTNB, KSNB nhưng đã thành lập bộ
phận thanh, kiểm tra chuyên trách): các câu hỏi được chia thành Tổ chức bộ
máy thanh, kiểm tra (17 câu) và Tổ chức hoạt động thanh, kiểm tra (42 câu);
Nhóm câu hỏi về hoạt động thanh, kiểm tra (10 câu, áp dụng đối với
các đơn vị chưa thành lập KTNB, KSNB và không có bộ phận thanh, kiểm
tra chuyên trách);
Nhóm câu hỏi về quan điểm đối với hoạt động KTNB 05 câu.
Chi tiết bảng câu hỏi điều tra tại các đơn vị thành viên và bảng tổng hợp
kết quả điều tra được trình bày tại Phụ lục số 03.
Các câu hỏi trong phiếu khảo sát bao gồm hai loại mở và đóng, câu hỏi
tại các công ty con được thiết kế căn cứ vào tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt
động KTNB. Phần trả lời các câu hỏi là có, không, không áp dụng, kết hợp
với phỏng vấn, quan sát để đánh giá mức độ phù hợp trong tổ chức KTNB,
KSNB, thanh kiểm tra so với lý thuyết KTNB. Trên cơ sở tổng hợp tình hình
chung và kết quả thu được của 14 phiếu điều tra tại các công ty con của SDC,
Tác giả, đưa ra một số nhận định, đánh giá về thực trạng hoạt động KTNB,
KSNB, thanh kiểm tra trong các đơn vị được điều tra. Tiêu chí để đánh giá:
bám sát lý luận về KTNB so sánh, đối chiếu với việc thực hiện trong thực tế
tại SDC.
* Đối với các tài liệu thứ cấp: các tài liệu thứ cấp như các Thông tư,
Nghị định của Chính phủ, hệ thống quy trình quy chế quy định nội bộ của
19
Công ty mẹ và một số công ty thành viên, các kết quả kiểm tra, giám sát của
các đoàn kiểm tra trong và ngoài TCT tại các đơn vị, các báo cáo phân tích,
tổng hợp của Ban KSNB, các công trình nghiên cứu, các bài báo, các website
của các đơn vị thành viên TCT, vì vậy đảm bảo độ tin cậy cao. Tác giả sử
dụng phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp để hệ thống hóa thông tin
phục vụ cho mục đích nghiên cứu của Luận án. Các tài liệu thứ cấp được sử
dụng để tham khảo trong Luận án được trích dẫn rõ ràng theo đúng quy định
và trình bày tại phần Tài liệu tham khảo của Luận án.
b. Phương pháp xử lý, tổng hợp dữ liệu
Đối với các kết quả từ điều tra khảo sát thông qua hệ thống bảng câu
hỏi được thiết kế sẵn, tác giả đã sử dụng phần mềm Excel để tổng hợp số
liệu. Trên cơ sở nhận diện, phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức KTNB tại
Công ty mẹ TCT Sông Đà và các công ty thành viên, tác giả sử dụng phương
pháp chuyên gia, tổng hợp và phân tích, tư duy độc lập trong việc vận dụng các
quan điểm, định hướng chiến lược phát triển của TCT Sông Đà, tiếp cận các
kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, vận dụng các kiến
thức có được trong công tác kiểm toán tại Kiểm toán nhà nước cũng như trong
quá trình khảo sát thực tế các Tập đoàn kinh tế trong và ngoài nước để đề xuất
các giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức KTNB trong TCT Sông Đà.
6. Những đóng góp mới của luận án
Những đóng góp của Luận án thể hiện ở cả hai mặt lý luận và thực tiễn:
6.1. Về lý luận
Luận án đã cụ thể hóa để làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về KTNB
trong doanh nghiệp. Phân tích các quan điểm khác nhau về KTNB, từ đưa ra
các ưu, nhược điểm của từng mô hình tổ chức KTNB khác nhau; vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của KTNB.
Luận án đã phân tích được các nhân tố ảnh hưởng đến việc thiết kế và
vận hành KTNB trong các doanh nghiệp bao gồm: hành lang pháp lý, sự phát
triển của hội nghề nghiệp; quan điểm của nhà quản trị; đặc điểm tổ chức,
hoạt động (địa vị pháp lý, cơ cấu tổ chức, quy mô và phạm vi hoạt động,
ngành nghề lĩnh vực kinh doanh, chế độ sở hữu).
Luận án đã đi sâu nghiên cứu tổ chức KTNB theo thông lệ quản trị quốc
tế và cụ thể tại hai tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới là General Motor và
Poste Italiane. Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói
chung và TCT Sông Đà nói riêng.
6.2. Về thực tiễn
Luận án đã khảo sát, nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt
động KTNB và các hoạt động thực hiện chức năng KTNB tại TCT Sông Đà.
Kết quả đánh giá chỉ ra những mặt đạt được, đặc biệt là những tồn tại và
20
nguyên nhân của những tồn tại, từ đó đề xuất phương án hoàn thiện tổ chức
KTNB tại TCT Sông Đà trên các khía cạnh:
Về tổ chức bộ máy KTNB: Tác giả đề xuất thành lập bộ phận KTNB
trực thuộc HĐTV tại Công ty mẹ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban kiểm
toán; bộ phận KTNB trực thuộc HĐQT tại các đơn vị thành viên dưới sự chỉ
đạo trực tiếp của Ủy ban kiểm toán (hoặc thành viên HĐQT độc lập). Đồng
thời, tác giả cũng đưa ra định hướng hoàn thiện quy chế KTNB với các nội
dung về: chức năng; nhiệm vụ; quyền hạn; tính độc lập khách quan, quy tắc
đạo đức, ứng xử và mối quan hệ của KTNB. Xây dựng mô hình tính định biên
lao động của bộ phận KTNB; xây dựng mẫu bản mô tả công việc, tiêu chuẩn
chức danh đối với một số vị trí của bộ phận KTNB....
Về tổ chức hoạt động KTNB: xây dựng giải pháp tiếp cận KTNB trên
cơ sở phân tích rủi ro và tập trung vào thực hiện kiểm toán hoạt động. Tác
giả đã xây dựng mô hình đánh giá rủi ro trong quá trình lập KHKT năm (xác
định đơn vị được kiểm toán) và KHKT chi tiết (xác định nội dung kiểm toán).
Trên cơ sở đó, thiết kế chương trình kiểm toán với các phương pháp, thủ tục
kiểm toán cụ thể. Đồng thời, để hướng KTNB tập trung vào kiểm toán hoạt
động, tác giả đã đưa ra những định hướng trong việc lựa chọn chủ đề; xác định
mục tiêu, nội dung; xây dựng bộ tiêu chí đánh giá và các phương pháp kiểm toán
cơ bản của kiểm toán hoạt động. Đưa ra định hướng hoàn thiện Sổ tay KTNB
theo hướng chi tiết, dễ tiếp cận đối với tất cả các KTVNB.
Về kiểm soát chất lượng kiểm toán: tác giả đưa ra phương án tổ chức
và định hướng một số hoạt động KSCL kiểm toán từ giai đoạn chuẩn bị kiểm
toán, thực hiện kiểm toán đến giai đoạn kết thúc kiểm toán. Cùng với đó,
luận án cũng đã thiết kế, hoàn thiện hệ thống hồ sơ mẫu biểu để hướng đến
tính nhất quán, chuyên nghiệp trong hoạt động của bộ phận KTNB.
Các kiến nghị đối với các cơ quan chức năng hoàn thiện hành lang pháp
lý tạo điều kiện cho sự phát triển của KTNB trong doanh nghiệp nói chung và
KTNB tại TCT Sông Đà nói riêng.
Kết quả nghiên cứu này rất hữu ích đối với:
TCT Sông Đà: với giải pháp hoàn thiện tổ chức KTNB tại Công ty mẹ
và các đơn vị thành viên.
Đối với Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước: hoàn thiện hệ
thống các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động KTNB tại các doanh nghiệp
nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các công trình của tác giả đã công bố liên
quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính
của luận án được kết cấu thành 3 chương:
21
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tổ chức kiểm toán nội bộ trong doanh
nghiệp.
Chương 2: Thực trạng tổ chức kiểm toán nội bộ trong Tổng công ty Sông
Đà
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ trong Tổng
công ty Sông Đà.
22
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ
TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về KTNB.
1.1.1. Sự hình thành và phát triển lý thuyết KTNB.
a. Giai đoạn sơ khai của KTNB
Theo các tài liệu nghiên cứu về kiểm toán thì từ thời Ai Cập, La Mã và
Hy Lạp cổ đại đã có những hoạt động KTNB đơn giản; tại Trung Quốc, các
nhà nghiên cứu cũng cho rằng KTNB sơ khai đã hình thành từ hàng nghìn năm
trước Công nguyên. Lúc này, hoạt động kiểm tra được các vị Vua giao cho
một cận thần trung thực, tin cậy tiến hành kiểm tra toàn bộ các khoản thu, chi
của ngân khố trong năm để báo cáo cho Nhà Vua biết. Như vậy, chức năng
kiểm tra việc quản lý và sử dụng ngân khố đã được giao cho một người độc
lập (không phải là người sở hữu ngân khố Nhà Vua; không phải là người
trực tiếp quản lý ngân khố Quan coi giữ ngân khố) trung thực tiến hành
kiểm tra. Hình thái sơ khai của kiểm toán đã xuất hiện và chủ thể kiểm toán
chính là các Quan do Nhà Vua bổ nhiệm để thực hiện kiểm toán việc quản lý
và sử dụng ngân khố. Đây là hình thái kiểm tra đầu tiên mang những đặc tính
của kiểm toán. Hình thái sơ khai của KTNB này tiếp tục tồn tại hàng nghìn
năm trong các triều đình phong kiến với những hình thức, tên gọi cụ thế có
thể khác nhau.
b. Giai đoạn KTNB tách riêng thành hoạt động độc lập
Mặc dù hình thái sơ khai của KTNB xuất hiện từ rất lâu, tuy nhiên sự
phát triển đầy đủ của nó lại chỉ thể hiện rõ khi nền sản xuất xã hội đã tạo
nên những chuyển biến lớn trong việc hình thành và phát triển hệ thống công
cụ quản lý kinh tế. Các hoạt động quản lý ngày càng nhiều và phức tạp,
“người chủ sở hữu và các nhà quản lý cấp cao không dễ dàng tiếp xúc với
từng nghiệp vụ để kiểm tra hiệu quả mọi hoạt động của đơn vị, để khẳng
định những vấn đề cụ thể, trực tiếp như: Những quy tắc đã định ra có được
tuân thủ không? Công nhân viên là việc có thực sự hiệu năng và phục vụ lợi
ích của đơn vị? Tài sản của đơn vị có được đảm bảo an toàn?... [34, tr11].
Không thể có đủ thời gian, sức lực cũng như khả năng chuyên môn để trả lời
tất cả các câu hỏi này, người chủ sở hữu và các nhà quản lý cần có một bộ
phận thực hiện việc kiểm tra, đánh giá các hoạt động và báo cáo kết quả. Cuộc
Cách mạng công nghiệp ở Châu Âu vào thế kỷ 18 đánh dấu sự ra đời của các
công ty cổ phần, các tập đoàn kinh tế đa quốc gia. Những người đứng đầu các
công ty này cần có một bộ phận thực hiện công việc kiểm tra, giám sát bao
gồm: kết quả hoạt động, tình hình tài chính, các mục tiêu, chính sách kinh
23
doanh, hiệu lực công việc, tình hình thực thi các quyết định… sau đó báo cáo
kết quả trực tiếp cho họ. Hoạt động này không chỉ tập trung ở công ty mẹ mà
còn được thực hiện ở các công ty con, các chi nhánh đặt trên toàn thế giới. Bộ
phận thực hiện công việc kiểm tra, giám sát đó chính là bộ phận KTNB và các
cá nhân thuộc bộ phận đó là các KTVNB.
Trong giai đoạn này, cuộc đại suy thoái kinh tế 19291933 đã làm hoạt
động sản xuất kinh doanh trên toàn cầu bị ảnh hưởng nghiêm trọng, việc
phục hồi sản xuất sau khủng hoảng cũng đặt ra yêu cầu cho các nhà quản lý
như: kiểm tra, giám sát, đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của các hoạt động,
tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực… Một trong những phương án được
các nhà quản lý lựa chọn là tăng cường các hoạt động nội kiểm, tuy nhiên đây
chỉ là hoạt động tự phát bên trong các doanh nghiệp mà chưa có cơ sở lý luận,
các quy tắc nghề nghiệp chưa được ban hành cũng như chưa có một hiệp hội
nghề nghiệp.
Năm 1941, sự ra đời của IIA và cuốn sách: “KTNB hiện đại” đã đánh dấu
KTNB đã chính thức có hệ thống cơ sở lý luận đầu tiên và được công nhận
như một nghề nghiệp.
Giai đoạn này, hoạt động KTNB được chi phối bởi các nguyên tắc nghề
nghiệp do IIA soạn thảo và công bố năm 1941. Sự mở rộng phạm vi hoạt
động của IIA thể hiện tính chuyên nghiệp ngày càng tăng của KTNB. Theo
đó, năm 1952, Hiệp hội KTVNB ở Úc được thành lập tại Sydney. Để tiêu
chuẩn hóa, vào năm 1972 IIA bắt đầu thực hiện việc kiểm tra và cấp chứng
chỉ KTVNB (CIA).
c. Giai đoạn KTNB phát triển mạnh mẽ
Tuy đã có lịch sử hình thành và hệ thống lý luận từ những năm 40 của thế
kỷ 20, nhưng KTNB chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ từ sau các vụ gian lận tài
chính ở các công ty lớn tại Mỹ (Công ty Worldcom và Enron) vào những năm
2000 2001 và sự sụp đổ của Tập đoàn bách hoá Hà Lan Royal Ahold vào năm
2003.
Đạo Luật Sarbanes Oxley ra đời tại Mỹ ngày 30/7/2002 được coi là cải
cách quan trọng nhất trong luật pháp về chứng khoán Mỹ kể từ sau chương
trình kinh tế New Deal do Tổng thống Franklin D. Roosevelt khởi xướng
những năm 1930 với quy định: các Công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán Mỹ phải báo cáo về hiệu quả của hệ thống KSNB trong công ty. Theo
đó, KTNB đã được coi trọng và trở thành một bộ phận độc lập chịu sự điều
hành trực tiếp của lãnh đạo cấp cao nhất trong doanh nghiệp, góp phần quan
trọng trong hoạt động kiểm tra, giám sát, đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả
việc sử dụng các nguồn lực, hoạt động cũng như việc tuân thủ luật pháp, các
24
quy định của Nhà nước, quy chế nội bộ của đơn vị, làm tăng sự tin tưởng đối
với các đối tượng bên ngoài sử dụng các thông tin như: Ngân hàng, chủ đầu
tư, nhà cung cấp, đối tác liên doanh.
Trong giai đoạn này, KTNB đã được xem xét dưới một góc độ chuyên
nghiệp hơn bằng sự lớn mạnh về quy mô của các Hiệp hội KTVNB. Để phù
hợp với điều kiện thực tế, IIA đã ban hành bộ chuẩn mực KTNB mới có hiệu
lực từ ngày 01/01/2002 thay thế bộ chuẩn mực ban hành tháng 6 năm 1978. Bộ
chuẩn mực mới đã phác họa các quy tắc cơ bản trong thực hành nghiệp vụ
KTNB, cung cấp một khuôn khổ cho việc thực hiện các hoạt động kiểm toán
cũng như tạo lập những cơ sở để đánh giá chất lượng kiểm toán và thúc đẩy
việc cải tiến quá trình vận hành của tổ chức. So với hệ thống chuẩn mực
cũ, điểm khác biệt quan trọng, cơ bản của chu ẩn m ực mới là sự khẳng định
KTNB không chỉ là một hoạt động kiểm tra mà còn là một hoạt động tư
vấn. Đặc biệt Chuẩn mực mới đã nhấn mạnh rằng KTNB chính là một hoạt
động góp phần làm tăng giá trị doanh nghiệp.
Đến giai đoạn này, KTNB đã đạt đến những tầm cao mới với đội ngũ
KTV giỏi hơn, được tổ chức ở trình độ cao hơn, có vị trí độc lập hơn.
1.1.2. Khái niệm và phân loại KTNB
1.1.2.1. Khái niệm KTNB
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, đã có những khái niệm khác nhau về
KTNB. Năm 1941, IIA được thành lập đánh dấu bước phát triển của hoạt
động KTNB, đây được coi là sự xác lập chính thức hoạt động KTNB. Tuy
nhiên tại thời điểm đó IIA chưa đưa ra định nghĩa về KTNB làm cơ sở phát
triển hoạt động KTNB. Đến tháng 6 năm 1978, Chuẩn mực thực hành kiểm
toán chuyên nghiệp cho KTNB (Standards for professional practice of internal
auditing) mới được IIA ban hành, chuẩn mực này đưa ra định nghĩa về KTNB:
“KTNB là một chức năng thẩm định độc lập được thiết lập bên trong một tổ
chức để kiểm tra và đánh giá các hoạt động của tổ chức đó, với tư cách là
một sự trợ giúp đối với tổ chức đó. Đó là một loại hình kiểm soát được thực
hiện bằng cách kiểm tra và đánh giá sự đầy đủ và tính hiệu lực của các loại
hình kiểm soát khác. Mục tiêu của KTNB là giúp đỡ cho các thành viên của tổ
chức thực hiện một cách có hiệu quả nhiệm vụ; để đạt được mục tiêu này,
KTNB cung cấp cho các thành viên của tổ chức các phân tích, thẩm định, kiến
nghị, tư vấn và các thông tin liên quan tới các hoạt động đang được xem xét,
mục tiêu kiểm toán bao gồm việc đề xuất khung kiểm soát hiệu quả ở mức
chi phí hợp lý” [58, tr6]. Từ định nghĩa này có thể đưa ra 04 điểm chủ yếu:
Thứ nhất, KTNB là quá trình đánh giá một cách có hệ thống và khách quan các
hoạt động và các thủ tục kiểm soát trong tổ chức; Thứ hai, hoạt động của
KTNB là độc lập; Thứ ba, hoạt động của KTNB là hoạt động phục vụ cho tổ
25
chức với mục tiêu giúp đỡ các thành viên của tổ chức hoàn thành nhiệm vụ
hiệu quả; Thứ tư, đề xuất các thủ tục kiểm soát hiệu quả ở mức chi phí hợp
lý.
Như vậy, có thể thấy rằng IIA đã đưa ra một khái niệm khá đầy đủ về
chức năng, nhiệm vụ của KTNB, phù hợp với sự phát triển của KTNB tại
thời điểm đó. Theo đó, KTNB không chỉ đơn thuần là việc kiểm tra độ tin cậy
của các thông tin tài chính và hỗ trợ cho các KTV bên ngoài mà đã trở thành
một công cụ của các nhà quản lý. Bên cạnh đó, định nghĩa của IIA đã phần
nào chỉ ra ba chức năng cơ bản của KTNB đó là: kiểm tra, đánh giá và đề
xuất.
Theo Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) thì: “KTNB là một hoạt động
đánh giá được lập ra trong doanh nghiệp như là một dịch vụ cho doanh
nghiệp đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát tính phù hợp và hiệu
quả của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ” [51, tr20]. Quan điểm này có
thể được xem xét trên ba khía cạnh: Thứ nhất, KTNB có chức năng đánh giá,
kiểm tra, kiểm soát; Thứ hai, KTNB có vai trò như một dịch vụ trợ giúp cho
doanh nghiệp; Thứ ba, đối tượng của KTNB là tính phù hợp và hiệu quả của
hệ thống kế toán, KSNB.
Năm 1992, trong bản báo cáo của COSO về gian lận tài chính thì phạm vi
của KTNB không chỉ bao gồm kiểm toán kế toán truyền thống mà còn bao
gồm những vấn đề như năng lực của các nhân viên, các nhà quản lý, những
mục tiêu của doanh nghiệp đã đạt được ở mức độ nào và các rủi ro phát sinh
được giám sát như thế nào. Kết quả là các KTVNB bắt đầu trở thành đối tác
của các nhà quản lý nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu của tổ chức.
Với sự phát triển không ngừng của hoạt động kiểm toán nói chung và
KTNB nói riêng và yêu cầu quản lý trong môi trường kinh doanh luôn thay
đổi, tháng 6 năm 1999, IIA đã đưa ra một định nghĩa toàn diện hơn về KTNB
được sử dụng phổ biến trong các tài liệu của IIA cho tới hiện nay: “KTNB là
hoạt động đánh giá tư vấn độc lập trong nội bộ tổ chức, được thiết kế nhằm
cải tiến và làm tăng giá trị cho các hoạt động của tổ chức đó. KTNB giúp tổ
chức đạt được các mục tiêu bằng việc đánh giá một cách có hệ thống và cải
tiến tính hiệu lực của quy trình quản trị, kiểm soát và quản lý rủi ro” [52,
tr1]. Có thể xem xét định nghĩa này trên các khía cạnh sau: Thứ nhất, KTNB
hoạt động với ba chức năng đánh giá, tư vấn và kiến nghị (là những đề xuất
cải tiến tính hiệu lực của quy trình quản trị, kiểm soát và quản lý rủi ro); Thứ
hai, KTNB là hoạt động nội kiểm nhưng phải đảm bảo tính độc lập; Thứ ba,
mục tiêu của KTNB là cải tiến và làm tăng giá trị cho các hoạt động của tổ
chức đó; Thứ tư, phương pháp thực hiện KTNB là đánh giá hoạt động và kiến
nghị nhằm cải thiện tính hiệu lực của hoạt động quản trị, kiểm soát rủi ro.