Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Tìm hiểu khả năng xác định hiện tượng chuyển loại từ của học sinh lớp 5 (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.47 KB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
----------

NGUYỄN LỆ HẰNG

TÌM HIỂU KHẢ NĂNG XÁC ĐỊNH
HIỆN TƯỢNG CHUYỂN LOẠI TỪ
CỦA HỌC SINH LỚP 5
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Tiếng Việt

Người hướng dẫn khoa học:

Th.s Lê Bá Miên

Hà Nội - 2017


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trường
ĐHSPHà Nội 2, các thầy cô giáo khoa Giáo dục Tiểu học đã tạo điều kiện
giúp đỡ em trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo – Ths. Lê Bá
Miên, người đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành đề tài này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến tập thể giáo viên và các em học sinh
của trường Tiểu học Hùng Vương (Thị xã Phúc Yên - Vĩnh Phúc) và trường
Tiểu học Tiền Phong B (xã Tiền Phong - Mê Linh - Hà Nội) đã tạo điều kiện
cho em điều tra thống kê kết quả nghiên cứu đề tài này. Cảm ơn gia đình, bạn
bè, những người luôn bên cạnh, động viên em hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên
Nguyễn Lệ Hằng


LỜI CAM ĐOAN

Với thái độ và tinh thần làm việc nhiệt tình, nghiêm túc, đặc biệt là sự
hướng dẫn tận tình của thầy giáo – Ths. Lê Bá Miên, chúng tôi đã hoàn thành
đề tài: Tìm hiểu khả năng xác định hiện tượng chuyển loại từ của học sinh
lớp 5. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, hoàn toàn
không trùng với các tác giả khác.
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên
Nguyễn Lệ Hằng


KÝ HIỆU VIẾT TẮT
DT

:

danh từ

ĐT

:

động từ


HS

:

học sinh

Nxb

:

nhà xuất bản

Sgk

:

sách giáo khoa

TT

:

tính từ


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3

5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
6. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 4
7. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 4
8. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 4
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM HIỂU
KHẢ NĂNG XÁC ĐỊNH HIỆN TƯỢNG CHUYỂN LOẠI TỪ CỦA
HỌC SINH TIỂU HỌC .................................................................................. 5
1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................... 5
1.1.1. Từ loại ..................................................................................................... 5
1.1.2. Hiện tượng chuyển loại của từ ................................................................ 7
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................... Error! Bookmark not defined.
1.2.1. Đặc điểm tâm lý học sinh tiểu học........................................................ 10
1.2.2. Nội dung từ loạitrong sgk Tiếng Việt ................................................... 13
1.2.3. Chương trình từ loại trong sgk Tiếng Việt............................................ 15
1.2.4. Việc dạy từ loại ở tiểu học .................................................................... 18
CHƯƠNG 2. KHẢ NĂNG XÁC ĐỊNH HIỆN TƯỢNG CHUYỂN LOẠI
TỪ CỦA HỌC SINH LỚP 5 VÀ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH XÁC
ĐỊNH HIỆN TƯỢNG CHUYỂN LOẠI TỪ............................................... 20
2.1. Khả năng xác định hiện tượng chuyển loại từ của học sinh lớp 5........... 21
2.1.1. Chuyển loạitừ động từ sang danh từ ..................................................... 21


2.1.2. Chuyển loại tính từ sang danh từ .......................................................... 26
2.1.3. Chuyển loại từ tính từ sang động từ...................................................... 30
2.1.4. Chuyển loại từ danh từ sang đại từ ....................................................... 33
2.1.5. Nhận xét, đánh giá chung...................................................................... 36
2.2. Biện pháp nâng cao khả năng xác định hiện tượng chuyển loại từ của học
sinh lớp 5 ......................................................................................................... 37
PHẦN KẾT LUẬN........................................................................................ 45

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 47
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển như vũ bão của thế giới, Việt Nam đang bước
vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nền kinh tế hiện nay
đang có những bước chuyển biến mới mang tính bước ngoặt. Vì thế, yêu cầu
về nguồn nhân lực tất yếu phải chuyển biến nhanh chóng để đáp ứng yêu cầu
mới của sự phát triển xã hội. Công cuộc đổi mới này đòi hỏi nền giáo dục
nước ta phải đào tạo ra những con người lao động tự chủ, sáng tạo, có năng lực
giải quyết những vấn đề thực tế trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh và hợp
tác.
Để thực hiện mục tiêu đó, nền giáo dục nói chung và bậc tiểu học nói
riêng đã có sự thay đổi mạnh mẽ từ nội dung đến phương pháp dạy và học
sao cho phù hợp với những yêu cầu mới mang tính thời đại. Bởi Giáo dục
tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Vì vậy, nó
quyết định sự hình thành cơ sở ban đầu về năng lực và nhân cách của người
công dân tương lai.
Cùng với các môn học khác, Tiếng Việt là một trong những môn học
trọng tâm, có vai trò quan trọng giúp học sinh hình thành và phát triển kĩ năng
sử dụng ngôn ngữ. Môn Tiếng Việt tập chung thể hiện bốn kĩ năng (nghe, nói,
đọc, viết) để học sinh học tập và giao tiếp trong môi trường của lứa tuổi và
hình thành những phẩm chất quan trọng.
Trong môn Tiếng Việt ở tiểu học, phân môn Luyện từ và câu giữ vai
trò quan trọng trong việc cung cấp cho học sinh các kiến thức về từ ngữ và
ngữ pháp. Dạy học từ loại là một hoạt động không thể thiếu trong chương
trình Tiếng Việt ở tiểu học nói riêng và chương trình Tiếng Việt ở phổ thông
nói chung. Học sinh nắm vững kiến thức về từ loại sẽ là cơ sở định hướng cho

các em nói, viết tiếng Việt đúng chuẩn ngữ pháp và hình thành ở các em năng
lực hoạt động ngôn ngữ.
1


Từ loại tiếng Việt rất phong phú, có thể sắp xếp thành hai nhóm chính:
nhóm thực từ và nhóm hư từ. Trong thực từ có: danh từ, động từ, tính từ, đại
từ, số từ. Trong hư từ có: phụ từ, kết từ, tiểu từ. Tuy nhiên, giữa chúng lại có
hiện tượng chuyển di từ loại - một phương thức tạo từ mới của ngôn ngữ. Ở
tiểu học, học sinh bắt đầu được học về khái niệm từ loại ở lớp 4 và kết thúc
mảng kiến thức này ở kì I của lớp 5. Song thực tế cho thấy khả năng xác định
hiện tượng chuyển loại từ ở học sinh là không giống nhau. Vì vậy, tôi chọn đề
tài “Tìm hiểu khả năng xác định hiện tượng chuyển loại từ của học sinh
lớp 5” với mong muốn mang đến một công cụ thiết thực trong công việc
giảng dạy của bản thân sau này, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng dạy
học từ loại nói riêng và Tiếng Việt ở Tiểu học nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề hiện tượng chuyển loại từ, về phương diện lý thuyết, đã xuất
hiện trong nhiều công trình bài viết từ trước tới nay. Tiêu biểu là các bài
nghiên cứu:
Trương Văn Trình, Nguyễn Hiến Lê, đã bàn về từ chuyển loại và vai
trò của ngữ cảnh để phân biệt từ loại của từ, đồng thời cũng chỉ rõ rằng đừng
lẫn với tiếng đồng âm không chỉ có nghĩa khác nhau mà ý cũng khác nhau [8;
Tr 161 - 163]. Ví dụ: cuốc (con cuốc), quốc (Quốc gia), (cái cuốc, cuốc đất).
Nguyễn Văn Tu đã phân biệt hai cách chuyển loại như sau: cách thứ
nhất là dùng cách ghép một từ với một từ làm chứng cho nó chuyển loại ví dụ
như từ hóa kết hợp với quân sự thành quân sự hóa và cách thứ hai là một từ
đơn hoặc một từ ghép nào đó có thể chuyển từ loại mà không thay đổi hình
thức ví dụ như danh từ thịt chuyển thành động từ thịt… [9; Tr 86 - 92].
Bùi Minh Toán bàn về hướng chuyển hóa của từ trong hoạt động giao

tiếp ở các bình diện ngữ âm và hình thức cấu tạo, bình diện ngữ pháp, bình
diện chức năng của từ, bình diện phong cách [7; Tr 89 - 121].


Nguyễn Kim Thản có bàn về các hướng chuyển loại, việc nhận diện
cách thức một nhóm từ có thể chuyển hóa sang từ loại khác [10; Tr 81 - 97, Tr
325 - 326].
Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung trong Ngữ pháp tiếng Việt cũng
có đề cập đến hiện tượng chuyển di từ loại, trong đó có nhắc đến một số
trường hợp chuyển loại của từ [4; Tr 176 - 180].
Hoàng Văn Hành bàn luận khá chi tiết, đồng thời đề cập đến một số
cách lí giải hiện tượng này cũng như khẳng định rằng chuyển loại là phương
thức cấu tạo từ có quan hệ chặt chẽ với học thuyết về từ loại [3; Tr 143 - 184].
Trên đây là một số công trình bàn về hiện tượng chuyển loại. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu, tìm hiểu về khả năng xác định hiện
tượng chuyển loại từ của học sinh lớp 5. Vì vậy chúng tôi lựa chọn đề tài Tìm
hiểu khả năng xác định hiện tượng chuyển loại từ của học sinh lớp 5 và
những công trình trên sẽ là nền tảng, là cơ sở về mặt lý thuyết để chúng tôi kế
thừa và hoàn thiện công trình nghiên cứu của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng khả năng xác định hiện tượng chuyển
loại từ của học sinh lớp 5, đề tài của chúng tôi hướng tới mục đích:
Thấy được sự giàu đẹp của tiếng Việt.
Rèn tư duy biện chứng cho học sinh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu của chúng tôi có ba nhiệm vụ:
4.1. Tìm hiểu cơ sở lý thuyết về từ loại và hiện tượng chuyển loại của
từ loại cơ bản.
4.2. Trên cơ sở lý thuyết, tiến hành khảo sát khả năng xác định hiện
tượng chuyển loại từ ở học sinh lớp 5.

4.3. Đề xuất biện pháp giải quyết thực trạng.


5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp đọc và nghiên cứu tài liệu
Phương pháp điều tra, khảo sát
Phương pháp thống kê
Phương pháp thực nghiệm
6. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là khả năng xác định hiện tượng
chuyển loại của từ về mặt ngữ pháp.
7. Phạm vi nghiên cứu
Như chúng tôi đã trình bày trước đó, tìm hiểu về hiện tượng chuyển
loại là một đề tài rộng. Vì vậy, trong khuôn khổ khóa luận này, chúng tôi chỉ
nghiên cứu một khía cạnh nhỏ là: Tìm hiểu khả năng xác định hiện tượng
chuyển loại trong nội bộ thực từ của học sinh lớp 5. Từ đó đề xuất một số
biện pháp giúp học sinh xác định hiện tượng chuyển loại từ.
8. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khóa luận của chúng tôi gồm các chương
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Khả năng xác định hiện tượng chuyển loại từ và biện pháp giúp
học sinh xác định hiện tượng chuyển loại từ.


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM HIỂU
KHẢ NĂNG XÁC ĐỊNH HIỆN TƯỢNG CHUYỂN LOẠI TỪ

CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Từ loại
a. Khái niệm
Từ loại là kết quả nghiên cứu vốn từ trên bình diện ngữ pháp. Đó là
những lớp từ có chung bản chất ngữ pháp, được biểu hiện trong các đặc trưng
thống nhất dùng làm tiêu chuẩn tập hợp và quy loại (Diệp Quang Ban và
Hoàng Văn Thung - Ngữ pháp tiếng Việt, tập 1).
b. Vấn đề phân định từ loại trong tiếng Việt
b.1. Phủ nhận sự tồn tại của từ loại, tác giả Hồ Hữu Tùng cho rằng:
tiếng Việt có cơ cấu khác hẳn so với ngôn ngữ phương Tây (không có sự biến
đổi hình thái ) do đó không có từ loại mà tùy thuộc vào vị trí trong câu mà có
tính chất nhất định, một từ có thể có nhiều thuộc tính khác nhau.
b.2. Thừa nhận sự tồn tại của phạm trù từ loại. Tuy nhiên trong nhóm
này có sự khác biệt trong việc phân định, phân loại:
Thuần túy ý nghĩa khái quát (Trần Trọng Kim, Bùi Đức Tịnh) chủ
trương phân định từ loại tiếng Việt dựa vào tiêu chuẩn ý nghĩa.
Phan Khôi (1954) cho rằng phải “tùy vào vị trí và chức vụ của từng từ
mà quy nhập nó vào từ loại nào”, tức là lấy chức vụ cú pháp làm tiêu chuẩn
duy nhất để phân định từ loại.


Lê Văn Lý (1948) chủ trương dựa vào khả năng kết hợp, cụ thể là sự có
mặt hay vắng mặt của các “từ chứng” làm tiêu chi phân định từ loại tiếng
Việt. Nguyễn Tài Cẩn (1960,1975) và sau đó là Nguyễn Phú Phong (1973),
Lưu Văn Lăng (1988) đã tiếp thu và phát triển thành nguyên tắc phân định từ
loại theo kết cấu đoản ngữ.
Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu của các tác giả như: Nguyễn
Kim Thản với “Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt”, Diệp Quang Ban, Hoàng
Văn Thung với “Ngữ pháp tiếng Việt”…đã tiến hành phân định từ loại tiếng

Việt trên cả hai tiêu chí nội dung và hình thức.
c. Tiêu chí phân định từ loại
Trong tiếng Việt, người ta dựa vào các tiêu chí sau đây để phân chia
các từ thành từ loại:
c.1. Ý nghĩa khái quát
Ý nghĩa khái quát là ý nghĩa phạm trù có tính chất khái quát hóa cao, nó
là kết quả của quá trình trừu tượng hóa nghĩa của hàng loạt cái cụ thể: danh từ
chỉ sự vật; động từ chỉ hoạt động, trạng thái; tính từ chỉ đặc điểm, tính chất…
c.2. Khả năng kết hợp
Khả năng kết hợp của một từ là năng lực tiềm tàng của từ đó xuất hiện
trong một tổ hợp từ có nghĩa với tư cách một yếu tố thường trực trong tổ hợp
từ đó.
- Danh từ có khả năng kết hợp với những, tất cả, các, mọi,... này, kia,
đó,.. .(Ví dụ: nhà kia, thắng lợi này, việc nọ…)
- Động từ có khả năng kết hợp với hãy, đừng, chớ…(Ví dụ: hãy bình
tĩnh, đừng hỏi…)
-Tính từ có khả năng kết hợp với hơi, rất, lắm, quá,… (Ví dụ: rất đẹp,
hơi mệt…)
c.3. Khả năng đảm nhận các chức vụ cú pháp


Khả năng giữ chức vụ cú pháp trong câu thường được sử dụng như
một tiêu chuẩn hỗ trợ. Các từ thuộc một lớp nào đó có thể đảm đương không
phải một mà một số chức vụ cú pháp ở trong câu. Trong số các chức vụ cú
pháp đó thường có một hoặc một vài chức vụ nổi lên rõ hơn có tính chất tiêu
biểu cho lớp từ đó.
- Danh từ thường làm chủ ngữ. Khi đóng vai trò vị ngữ, danh từ thường
phải kết hợp với từ “là”
- Động từ thường làm vị ngữ. Khi đóng vai trò chủ ngữ, động từ mất
khả năng kết hợp với đã, sẽ, đang, cũng, vẫn, chứ, hãy, đừng, chớ…

-Tính từ thường làm vị ngữ. Khi đóng vai trò là chủ ngữ, tính từ mất
khả năng kết hợp với đã, đang, sẽ, cũng, vẫn, cứ, rất, lắm, quá…
d. Kết quả phân loại
Hệ thống từ loại tiếng Việt có thể sắp xếp thành hai nhóm, bao gồm
những từ loại sau đây:
Nhóm 1: danh từ, động từ, tính từ; số từ; đại từ
Nhóm 2: phụ từ (định từ, phó từ); kết từ; tiểu từ (trợ từ, tình thái từ)
1.1.2. Hiện tượng chuyển loại của từ
a. Khái niệm
Chuyển di từ loại - chuyển loại - là hiện tượng một từ khi thì được dùng
với ý nghĩa và đặc điểm ngữ pháp của từ loại này, khi thì được dùng với ý
nghĩa và đặc điểm ngữ pháp của từ loại khác.
Hiện tượng chuyển loại có cơ sở là sự chuyển biến ý nghĩa của từ - một
phương thức tạo từ mới của ngôn ngữ. Nhưng không phải hiện tượng chuyển
nghĩa nào cũng tạo ra từ mới. Chỉ trường hợp chuyển nghĩa nào làm cho từ có
đặc điểm và chức năng ngữ pháp của từ loại khác mới được coi là hiện tượng
chuyển loại. (Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung - Ngữ pháp tiếng Việt,
tập 1).
b. Một số hiện tượng chuyển loại của từ


b.1. Chuyển loại trong nội bộ thực từ
- Chuyển loại giữa danh từ và động từ:
Một số danh từ chuyển thành động từ như danh từ chỉ công cụ, phương
tiện chuyển thành động từ chỉ hoạt động. Danh từ chỉ khái niệm, danh từ gọi
tên sự vật, đối tượng, hiện tượng v.v… cũng có khả năng chuyển thành động
từ.
Ví dụ:
Cái địu, cái cưa, cái bừa, cái đục v.v…  đang địu, đã bừa, đã cưa,
đã đục

Ý thức, nhận thức  ý thức được vấn đề, nhận thức được vấn đề
Chiếc bình gốm có gợn Bầu trời không gợn lấy một tí mây.
Cũng có nhiều trường hợp động từ chuyển loại thành danh từ như: động từ chỉ
hành động: cuộn, bó, nắm… chuyển thành đơn vị chỉ sự vật tương ứng: (một)
cuộn, (một) bó, (một) nắm… Động từ biểu thị hoạt động chính trị - xã hội: bổ
nhiệm, cảnh cáo, cạnh tranh, huấn luyện, đăng kí, kiến nghị, đề nghị…cũng
có khả năng chuyển thành danh từ. Động từ chỉ hoạt động cảm nghĩ, nói năng:
suy nghĩ, đắn đo, lo ngại… chuyển thành khái niệm hay sự vật trừu tượng:
(những) suy nghĩ, (những) đắn đo, (những) lo ngại…
- Chuyển loại giữa danh từ và tính từ:
Một số tính từ (từ chỉ tính chất đa tiết) thường chuyển thành danh từ chỉ
sự vật trìu tượng: khó khăn, gian khổ, sung sướng v.v… thành (mọi) khó khăn,
(mọi) gian khổ, (mọi) sung sướng v.v…
Một số danh từ (dùng để gọi tên một sự vật cụ thể nào đó) cũng có thể
chuyển loại thành tính từ: hòn đá tính nết đá lắm; thủ đô Hà Nội
một
người rất Hà Nội; hạnh phúc của tôi  tôi rất hạnh
phúc.
- Chuyển loại giữa động từ và tính từ:
Động từ biểu thị hoạt động chuyển thành tính từ biểu thị thuộc tính,
phẩm chất.


Ví dụ: bỏ chạy bán rất chạy;đồng hồ đang đong đưa gõ nhịp  con người
ấy đong đưa lắm.
Tính từ chuyển thành động từ:
Ví dụ: Bao nhiêu các phép tiên ban
Dạy cho họ Thạch chu toàn tinh thông.
Chu toàn trong câu trên là tính từ chỉ tính đầy đủ và trọn vẹn
Anh ấy đã chu toàn được mọi việc.

Chu toàn trong câu trên là động từ chỉ hành động làm cho đầy đủ, không thiếu
thứ gì.
- Chuyển loại giữa danh từ và đại từ:
Nhiều danh từ chỉ người trong quan hệ thân thuộc: ông, bà, cháu, dì
v.v… chuyển thành đại từ xưng hô (lâm thời). Nhóm danh từ chỉ chức danh:
thủ trưởng, thầy giáo, giám đốc… được dùng thay cho đại từ nhân xưng ngôi
thứ hai.
- Chuyển loại trong nội bộ từ loại danh từ
Những danh từ chỉ đồ vật như chén, bát, thuyền, xe, mâm v.v... chuyển
thành danh từ chỉ đơn vị (vật chứa đựng) như (một) chén (rượu), (một) bát
(cơm), (một) thuyền (cá), (một) xe (gạo), (một) mâm (thức ăn) v.v…
b.2 . Chuyển loại giữa thực từ và hư từ
Hiện tượng chuyển loại giữa thực từ và hư từ thường kèm theo hiện
tượng mờ nghĩa trong thực từ (hiện tượng “hư hóa”).
- Chuyển loại giữa danh từ và kết từ: kết từ của trong tiếng Việt hiện
nay có nguồn gốc danh từ; ngoài ra, một số danh từ chỉ vị trí: trên, dưới,
trong, ngoài v.v… chuyển thành kết từ: (ngồi) trên (ghế), (đi) dưới (nước),
(họp) trong (hội trường)…
- Chuyển loại giữa động từ và kết từ: một số kết từ có nguồn gốc động
từ: cho, bằng, vào, để v.v…


- Chuyển loại trong nội bộ hư từ: một số phụ từ có thể thực hiện chức
năng liên kết của từ: còn, rồi v.v… hoặc dùng phối hợp hai phụ từ để kiêm
chức năng liên kết: vừa…vừa…, đã…lại…, mới…đã…v.v… hoặc dùng phối
hợp một kết từ với một phụ từ: vừa mới…nên…v.v…
c. Hiện tượng chuyển loại từ với hiện tượng đồng âm
Cần lưu ý phân biệt hiện tượng chuyển loại với hiện tượng đồng âm
như sau:
Hiện tượng chuyển loại


Hiện tượng đồng âm

- Là một từ nhưng đảm nhiệm vai - Là nhiều từ giống nhau về hình
trò của hai, ba từ loại khác nhau. Ví thức ngữ âm. Ví dụ: hạt1 táo và hạt2
dụ: mua muối1, muối2 dưa.

kiểm lâm.

- Các từ có mối liên hệ với nhau về
nghĩa. Ví dụ: muối1 chỉ tinh thể - Không có mối liên hệ với nhau về
trắng, có vị mặn, dùng để ăn; muối2 nghĩa. Ví dụ: hạt1 chỉ bộ phận bên
chỉ hoạt động cho muối vào thịt, cá, trong của quả; hạt2 chỉ đơn vị quản
rau quả để giữ được lâu.

lí ngành kiểm lâm.

- Xác lập được cơ chế chuyển loại.

- Không xác lập được cơ chế

- Xảy ra với hai từ loại, thậm chí chuyển nghĩa.
một từ loại.

- Xảy ra với nhiều từ.

1.1.3. Đặc điểm tâm lý học sinh tiểu học
Học sinh tiểu học là những trẻ có độ tuổi từ 6 - 11, 12 tuổi. Đây là lứa
tuổi đầu tiênđến trường - trở thành học sinh và có bước chuyển từ hoạt động
vui chơi sang hoạt động học tập là chủ đạo. Hoạt động học tập có vai trò và ý

nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển tâm lí của học sinh tiểu học.
Cùng với cuộc sống nhà trường, hoạt động học tập đem đến cho trẻ nhiều điều
mới lạ mà trước đây trẻ chưa bao giờ có được hoặc không thể tiếp cận được.


Từ đó cùng với sự phát triển về thể chất và dựa trên những thành tựu
tâm lí đã đạt được của giai đoạn trước đó, trẻ sẽ tạo nên những cái mới trong
đời sống tâm lí của mình, mà trước hết là tính chủ định, kĩ năng làm việc trí
óc, sự phản tỉnh - những cấu tạo tâm lí mới đặc trưng cho lứa tuổi này. Nhà
trường và hoạt động học tập cũng đặt ra cho trẻ những đòi hỏi mới của cuộc
sống. Trẻ không chỉ phải tập tạo lấy vị trí của mình trong môi trường “trung
lập về tình cảm”, phải thích ứng với những bó buộc không tránh khỏi và chấp
nhận về một người lớn ngoài gia đình (thầy, cô giáo) sẽ đóng vai trò hàng đầu
trong cuộc sống của trẻ. Trẻ chẳng những phải ý thức thái độ trách nhiệm
trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình, đặc biệt là nhiệm vụ học tập và biết
điều khiển hành vi của mình một cách có chủ định, đồng thời phải có khả
năng thiết lập, vận hành cùng một lúc các mối quan hệ với đối tượng khác và
mang tính chất khác nhau.
Trước những thử thách này, trẻ dù muốn hay không cũng phải lĩnh hội
các cách thức, phương thức phức tạp hơn của hành vi và hoạt động để thỏa
mãn những yêu cầu và đòi hỏi của cuộc sống nhà trường và nhờ vậy “đẩy”
được sự phát triển của mình lên một mức cao hơn. Tuổi tiểu học là tuổi của sự
phát triển hồn nhiên bằng phương thức lĩnh hội. Cùng với việc lĩnh hội, tiếp
thu một hệ thống tri thức về các môn học, trẻ em còn học cách học, học kĩ
năng sống trong môi trường học và môi trường xã hội. Cùng với sự ảnh
hưởng khá lớn của môi trường giáo dục gia đình và quan hệ bạn bè cùng tuổi,
cùng lớp và trường học, học sinh tiểu học lĩnh hội các quy tắc chuẩn mực đạo
đức của hành vi. Sự lĩnh hội trên tạo ra những biến đổi cơ bản trong sự phát
triển tâm lí của học sinh tiểu học. Chúng không chỉ đảm bảo cho các em
những bước ngoặt trong cuộc sống ở tuổi thiếu niên - lứa tuổi có xu thế vươn

lên làm người lớn. Về việc này, N.X.Leytex đã khắc họa: “Tuổi tiểu học là
thời kì của sự nhập tâm và tích lũy tri thức, thời kì mà sự lĩnh hội chiếm ưu


thế”. Chức năng trên được thực hiện thắng lợi nhờ các đặc điểm đặc trưng của
lứa tuổi này - sự tuân thủ tuyệt đối vào những người có uy tín với các em (đặc
biệt là thầy, cô giáo), sự mẫn cảm, sự lưu tâm, đặc biệt là thái độ ngây thơ đối
với các đối tượng mà các em được tiếp xúc.
Khả năng tưởng tượng của học sinh tiểu học cũng phát triển hơn so với
trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dày dạn.
Tưởng tượng của các em có một số đặc điểm nổi bật: ở đầu tuổi tiểu học, hình
ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền và dễ thay đổi; ở cuối tiểu học,
tưởng tượng tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối
phát triển ở cuối tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ
tranh,… Đặc biệt, tưởng tượng của các em giai đoạn này bị tri phối mạnh mẽ
bởi xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với
các dung động tình cảm của các em.
Trí nhớ trực quan - hình tượng và trí nhớ máy móc phát triển hơn trí
nhớ lôgic - từ ngữ. Các em ghi nhớ, giữ gìn và nhớ lại các hiện tượng, hình
ảnh tốt hơn là các câu chữ có hình tượng khô khan. Dưới ảnh hưởng của hoạt
động học tập, trí nhớ có chủ định, trí nhớ từ ngữ - lôgic xuất hiện, phát triển
nhưng không biệt lập với trí nhớ máy móc, trí nhớ trực quan - hình tượng.
Chú ý không chủ định được phát triển mạnh mẽ và chiếm ưu thế ở học
sinh tiểu học. Chú ý của học sinh chưa bền vững, nhất là học sinh lớp đầu tiểu
học. Do thiếu khả năng tổng hợp nên chú ý của học sinh còn phân tán, tại
thiếu khả năng phân tích nên dễ bị cuốn vào hình ảnh trực quan gợi cảm.Sự
chú ý của học sinh thường hướng vào bên trong, vào tư duy và hoạt động trí
óc. Chú ý có chủ định thường phát triển cùng với sự phát triển của động cơ
học tập mang tính chất xã hội cao và sự phát triển của ý thức với kết quả học
tập.

Học sinh tiểu học là lứa tuổi sống và phát triển trong nền văn minh nhà
trường theo giai đoạn. Giai đoạn một gồm lớp 1, lớp 2, lớp 3, trong cấp độ


này thì lớp 1 đặc biệt - lớp đầu của cấp tiểu học, được nhiều người cho là
“Cửa ải lớp 1”. Giai đoạn hai gồm lớp 4, lớp 5 - lớp cuối cấp tiểu học. Hai cấp
độ này tuy có sự khác nhau về cấp độ phát triển tâm lí và trình độ thực hiện
hoạt động học tập, nhưng không có sự thay đổi đột biến, không có sự phát
triển theo chiều hướng mới. Dù ở cấp độ nào thì học sinh tiểu học cũng là
nhân vật trung tâm, là linh hồn của trường học. Ở đây, trẻ đang từng ngày,
từng giờ hình thành cho mình trình độ của người ở năng lực sơ đẳng, như sử
dụng tiếng mẹ đẻ, năng lực tính toán, đặc biệt là năng lực làm việc trí óc năng lực tạo ra các năng lực khác. Cùng với các năng lực trên, sự hình thành
tình cảm, thái độ và cách cư xử phù hợp với dân tộc và văn minh nhân loại
hiện đại. Học sinh tiểu học hiện nay là những chủ thể đang trở thành chính
mình bằng hoạt động của mình dưới sự tổ chức, hướng dẫn của người lớn
theo phương pháp nhà trường hiện đại.
Xem xét những đặc điểm tâm lí chúng tôi thấy, tư duy của học sinh lớp
5 tốt hơn hẳn so với tư duy của học sinh lớp 1, 2, 3, do vậy các em đã có sự
thích ứng với hệ thống bài tập. Tuy vậy do những tư duy lập luận, khả năng
trừu tượng của các em còn ở mức độ đơn giản, chính vì vậy mà các hoạt động
này cần lặp lại nhiều lần để các em hình thành thói quen với kĩ năng nhận biết
sự chuyển loại của từ trong các bài tập. Dựa trên việc tìm hiểu khả năng của
học sinh kết hợp với các đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 5, chúng tôi nhằm
tìm ra các phương pháp thích hợp để nâng cao khả năng học tập của học sinh
về phần từ loại.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Nội dung về từ loại trong sách giáo khoa Tiếng Việt ở tiểu học
Phần kiến thức từ loại của học sinh dần được hình thành bắt đầu từ lớp
2. Ở lớp 2, các em có thể nhận biết các từ chỉ người, chỉ vật, hành động, trạng
thái, đặc điểm, tính chất.



Sang lớp 3, các em ôn tập về các từ chỉ sự vật, ôn tập về các từ chỉ trạng
thái, hoạt động; về từ chỉ đặc điểm, tính chất và nhận biết một số cặp từ
nối.
Đến lớp 4, các em mới được học chính thức khái niệm từ loại; hình
thành các khái niệm sơ giản về danh từ, động từ, tính từ.
Lớp 5, hình thành các khái niệm sơ giản về đại từ và ôn tập về toàn bộ
hệ thống từ loại đã học.
Cụ thể các từ loại đã được dạy ở tiểu học như sau:
- Danh từ: là từ chỉ người, sự vật, hiện tượng, khái niệm hoặc đơn vị.
Danh từ gồm hai loại (danh từ chung và danh từ riêng). Danh từ chung là
những từ chỉ tên chung một loại sự vật như nhà cửa, bạn bè, học sinh, thư kí,
muối, đường…
Danh từ riêng là tên riêng của một sự vật. Danh từ riêng luôn được viết hoa.
Danh từ riêng thường làm chủ ngữ trong kiểu câu Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế
nào? Làm vị ngữ trong kiểu câu Ai là gì?
- Động từ: là những từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật.Động từ gồm
(động từ chỉ hoạt động và động từ chỉ trạng thái). Động từ chỉ hoạt động (ăn,
nói, ngồi, đứng, nằm…). Làm vị ngữ trong kiểu câu Ai làm gì?
Động từ chỉ trạng thái (vui, buồn, cười, khóc…). Làm vị ngữ trong câu Ai thế
nào?
- Tính từ: là những từ miêu tả đặc điểm, tính chất của sự vật, hoạt động,
trạng thái… Tính từ gồm có một số cách thể hiện mức độ của đặc điểm, tính
chất như: tạo ra từ ghép và từ láy với các từ đã cho; thêm các từ rất, quá, lắm
vào trước hoặc sau tính từ; tạo ra phép so sánh.
- Đại từ: là những từ dùng để xưng hô hay thay thế danh từ, động từ,
tính từ trong câu cho khỏi lặp lại các từ ấy. Đại từ gồm (đại từ xưng hô và đại
từ thay thế). Đại từ xưng hô là từ người nói dùng để chỉ mình hay người khác
khi giao tiếp.



Đại từ thay thế là khi không muốn dùng lặp đi lặp lại một danh từ, động từ
hay tính từ người ta dùng một đại từ tương ứng để thay thế.
- Quan hệ từ: là từ dùng để nối các từ ngữ hoặc các câu, nhằm thể hiện
mối liên hệ giữa những từ ngữ hoặc những câu ấy.Quan hệ từ gồm (một quan
hệ từ hoặc một cặp quan hệ từ).
Như vậy, trong nội dung từ loại được dạy ở tiểu học, học sinh đã được
học 5 từ loại bao gồm: danh từ, động từ, tính từ và đại từ. Nội dung kiến thức
về từ loại trong sgk tương đối đơn giản, mỗi bài học về từ loại đều có phần
phân loại rõ ràng để học sinh dễ nhận diện, có lồng ghép nhiều bài tập phù
hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học. Tuy nhiên, nội dung về từ
loại trong sgk chưa đề cập đến lý thuyết về hiện tượng chuyển di từ loại. Ở
bài ôn tập về từ loại của lớp 5, nội dung bài tập chỉ dừng lại ở mức kiểm tra
khả năng nhận diện các từ loại đã học mà chưa có bài tập đưa ra trường hợp
một từ mang hai ý nghĩa từ loại nhằm tìm hiểu khả năng nhận biết hiện tượng
chuyển loại của học sinh.
1.2.2. Chương trình về từ loại trong sách giáo khoa Tiếng Việt ở tiểu học
Phần kiến thức từ loại được dạy trong phân môn Luyện từ và câu.
Những kiến thức sơ giản liên quan đến từ loại bắt đầu được dạy từ lớp 2. Cụ
thể như sau:
Ở lớp 2, học sinh bắt đầu được học những kiến thức liên quan đến từ
loại từ tuần 3: Từ chỉ sự vật được dạy cùng kiểu câu Ai là gì? Tìm từ chỉ sự
vật, nhận diện từ chỉ sự vật, đặt câu Ai là gì?
Tuần 4: Từ chỉ sự vật.
Tuần 5: Tên riêng và cách viết hoa tên riêng. Kiểu câu Ai là gì?
Tuần 7: Từ chỉ hoạt động.
Tuần 8: Từ chỉ hoạt động, trạng thái. Các tuần tiếp theo học kiểu câu Ai
làm gì?
Tuần 15: Từ chỉ đặc điểm, kiểu câu Ai thế nào?



Tuần 16: Từ chỉ tính chất được lồng ghép với việc dạy từ trái nghĩa, đặt câu
với mỗi từ tìm được theo mẫu Ai thế nào?
Ở lớp 3, ngay từ tuần 1 học sinh đã học những kiến thức liên quan đến
từ loại: Ôn tập về các từ chỉ sự vật, tìm từ chỉ sự vật trong đoạn thơ, tìm các từ
chỉ sự vật được so sánh với nhau trong câu.
Tuần 7: Ôn tập về từ chỉ hoạt động, trạng thái.
Tuần 12: Ôn tập về từ chỉ hoạt động, trạng thái.
Tuần 14: Ôn tập về từ chỉ đặc điểm; ôn tập kiểu câu Ai làm gì?; trả lời câu hỏi
Ai thế nào?.
Tuần 17: Tiếp tục ôn tập về từ chỉ đặc điểm và ôn tập kiểu câu Ai thế nào?.
Ở lớp 4, học sinh chính thức được học những khái niệm về từ loại:
Tuần 5: Học sinh được làm quen với danh từ: tìm các từ chỉ sự vật trong đoạn
thơ, yêu cầu học sinh xếp các từ vừa tìm được vào nhóm từ chỉ sự vật, khái
niệm, hiện tượng, đơn vị. Sau đó là phần luyện tập để học sinh áp dụng lý
thuyết vào thực tiễn.
Tuần 6: Học sinh được tìm hiểu sâu hơn về danh từ với hai tiểu loại: danh từ
chung và danh từ riêng.
Tuần 7: Trong tiết 1 của Luyện từ và câu, học sinh được học cách viết tên
người, tên địa lí Việt Nam. Ở tiết 2, các em được học thêm về cách sửa lỗi khi
viết hoa danh từ riêng.
Tuần 8: Cách viết hoa tên người, tên địa lí nước ngoài. Luyện tập sửa lỗi viết
tên riêng.
Tuần 9: Học sinh được học về khái niệm động từ. Sau bài học lý thuyết học
sinh tiếp tục được rèn luyện thông qua các bài tập về động từ.
Tuần 11: Trong tiết 1, học sinh được luyện tập về động từ và học ý nghĩa,
cách sử dụng của các phụ từ thường đứng trước động từ: đã, sẽ, đang.
Trong tiết 2 của tuần, sgk cung cấp những kiến thức sơ giản về tính từ
cho học sinh.



Tuần 12: Tiếp tục học về tính từ. Sau đó là các bài tập nhằm luyện tập cho
học sinh cách nhận diện, tìm các từ ngữ miêu tả mức độ khác nhau về hình
dạng, kích thước, màu sắc, đặt câu với mỗi từ đó.
Tuần 17: Trong bài Vị ngữ trong câu kể Ai làm gì?, học sinh thấy được rõ
hơn về vai trò của động từ khi làm vị ngữ trong câu
Tuần 19: Học sinh thấy rõ vai trò chủ ngữ của danh từ.
Tuần 21: Học sinh được cung cấp thêm kiến thức về động từ và tính từ khi
đảm nhận chức năng vị ngữ trong câu kể Ai thế nào?.
Ở lớp 5, học sinh được học thêm về hai từ loại mới. Kiến thức về từ
loại được dạy bắt đầu từ tuần 9, trong 2 tiết học sinh được học về đại từ
Tuần 11: Trong tiết 1 của Luyện từ và câu học sinh tiếp tục được học về đại
từ xưng hô. SGK cung cấp cho học sinh tác dụng, ý nghĩa của các đại từ xưng
hô trong tiếng Việt.
Sang đến tiết 2, học sinh được học thêm về quan hệ từ. Phần luyện tập, học
sinh tập xác định các quan hệ từ, cặp quan hệ từ, nêu tác dụng của chúng và
đặt câu với một số từ tìm được.
Tuần 12: Học sinh tiếp tục được học về quan hệ từ. Sgk tổ chức cho học sinh
nhận diện một số quan hệ từ, cặp quan hệ từ, điền quan hệ từ vào ô trống, đặt
câu với một số quan hệ từ khó sử dụng.
Tuần 13: Học sinh tiếp tục được luyện tập về quan hệ từ.
Tuần 14: Ôn tập về từ loại (2 tiết). Tiết thứ nhất ôn lại danh từ chung, danh từ
riêng, quy tắc viết hoa danh từ riêng, đại từ xưng hô. Tiết thứ hai là các bài
tập để học sinh nhận diện, phân biệt danh từ, động từ, tính từ, đại từ và quan
hệ từ trong ngữ liệu cho sẵn và trong đoạn văn.
Qua tìm hiểu hệ thống chương trình dạy học từ loại ở tiểu học, chúng
tôi nhận thấy kiến thức liên quan đến từ loại được lồng ghép trong nội dung
phân môn Luyện từ và câu xuyên suốt từ lớp 2 đến lớp 5. Học sinh được làm



quen với những kiến thức sơ giản nhất về từ loại ngay từ lớp 2,3 để làm tiền
đề cho việc dễ dàng tiếp thu những khái niệm cụ thể về từ loại ở lớp 4,5. Song
thời lượng dành riêng cho các tiết học về từ loại là không nhiều, đặc biệt ở lớp
5 chỉ có 7 tiết dành cho phần dạy học từ loại với nội dung dạy về đại từ, quan
hệ từ và ôn tập các từ loại đã học.
Vì vậy, mặc dù ở lớp 5 học sinh đã nắm được những kiến thức cơ bản
về danh từ, động từ, tính từ, đại từ và quan hệ từ nhưng chương trình không
có thời lượng dành cho phần kiến thức chuyển loại từ. Ngay cả trong bài ôn
tập về từ loại (2 tiết) ở lớp 5 cũng không có phần kiến thức liên quan đến hiện
tượng này.
1.2.3. Việc dạy học về từ loại ở tiểu học
Ở trường tiểu học hiện nay việc dạy học từ loại được tiến hành tuần tự
theo các bước nhận thức của học sinh. Bắt đầu là việc phân tích ngữ điệu của
từ hoặc đoạn văn cho trước để tìm ra đặc điểm, khái niệm của các hiện tượng
phục vụ cho việc làm bài tập. Các bước này có thể chia làm hai hướng là dạy
lý thuyết và thực hành từ loại.
Học sinh nắm vững kiến thức về từ sẽ tạo nền tảng cho việc phát triển
và sử dụng ngôn ngữ, việc dạy học từ loại là một nội dung không thể xem
nhẹ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều GV chỉ theo hướng dẫn giúp học sinh
hoàn thành đầy đủ các bài tập, mà không quan tâm xem các em đã nắm được
những gì sau bài học và khả năng vận dụng bài học của HS ra sao. Thực tế
cũng cho thấy, giáo viên cũng gặp khó khăn, lúng túng và có sự nhầm lẫn khi
giảng dạy về từ loại, đặc biệt nhiều giáo viên vẫn chưa thực sự nắm chắc kiến
thức về tượng chuyển loại từ - một phần kiến thứcquan trọng rất hữu ích cho
quá trình giảng dạy và bồi dưỡng kiến thức đối với những học sinh khá - giỏi.
Bởi vậy, trong quá trình dạy học rất ít giáo viên đề cập đến nội dung chuyển
loại từ hoặc lấy thêm ví dụ và phân tích cho học sinh hiểu.



Về phía học sinh, các em cũng ít hứng thú khi học nội dung này, do đây
là mảng kiến thức tương đối khó và khô khan. Các em HS thường rất dễ nhầm
lẫn trong quá trình xác định các từ loại đã học và hầu như không biết đến hiện
tượng chuyển loại từ, chỉ số ít học sinh giỏi biết đến hiện tượng này nhưng
hiểu biết của các em còn chưa nhiều.


×