Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Di sản đô thị trong bối cảnh toàn cầu hóa tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 4 trang )

VẤN ĐỀ

HÔM NAY

Nhận diện và quản lý

trong bối cảnh toàn cầu hóa tại Việt Nam

TS. Lê Quỳnh Chi*

Tóm tắt: Việt Nam có một nền văn hóa đặc sắc, lâu

Summary: Vietnam has a unique and long life culture with

đời gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của dân a long history of forming and developing nation and diverse
tộc cùng với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. natural resources. However, coping with the challenges of
Tuy nhiên, đứng trước thách thức của quá trình đô thị hóa the strong urbanization and the limited awareness of the
mạnh mẽ và nhận thức hạn chế của cộng đồng, công tác community, the conservation of city heritage is encountering
bản tồn các di sản đô thị đang gặp rất nhiều khó khăn. Bài a lot of difficulties. This article will help readers to have an
viết sẽ giúp độc giả nhìn nhận lại lịch sử phát triển của các overview of the development history of city heritage concepts
khái niệm về di sản đô thị nhằm làm rõ xu hướng trên thế in order to clarify tendency in the world, methods to analyze
giới, phương pháp phân tích đặc điểm và đánh giá giá trị the characteristics and evaluate the value of Asian city
của di sản đô thị Châu Á, và các bài học rút ra đối với nhận heritage, and the lessons learnt in the field of identifying and
diện và quản lý di sản đô thị tại Việt Nam.
Từ khóa: Di sản đô thị, bảo tồn, Việt Nam.

managing the city heritage in Vietnam.
Key words: City heritage, conservation, Vietnam

Nhận ngày 22/7/2017, chỉnh sửa ngày 12/8/2017, chấp nhận đăng ngày 20/8/2017.


36 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ


VẤN ĐỀ

HÔM NAY

Với nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, đa dạng cùng với bề dày
văn hóa lịch sử lâu năm, Việt Nam
hiện đang có 22 di sản thế giới được
UNESSCO vinh danh, hàng trăm
các di sản cấp quốc gia hay cấp địa
phương được công nhận, và hàng
ngàn các công trình có giá trị đang
hiện hữu tại các khu vực thành thị và
nông thôn. Tuy nhiên, các di sản văn
hóa lịch sử, đặc biệt là các di sản ở
đô thị chưa được công nhận, đang
chịu sức ép từ sự phát triển, trong
đó có hai thách thức lớn bao gồm:
Quá trình đô thị hóa mạnh mẽ kéo
theo sự tăng trưởng dân số, và nhận
thức hạn chế của cộng đồng và giáo
dục. Nhằm cứu giữ những di sản này,
cần thiết có một cách nhận diện linh
hoạt hơn về di sản đô thị, đặc biệt
trong lĩnh vực quy hoạch xây dựng.
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KHÁI
NIỆM DI SẢN ĐÔ THỊ

Năm 1964, ICOMOS đưa ra Hiến
chương Venice (Venice Charter),
thiết lập phương pháp bảo tồn cho

các công trình lịch sử. Năm 1972, nhiều nước phát triển đã ký vào Hiệp ước
UNESCO về bảo vệ các di sản thiên nhiên và di sản văn hóa thế giới. Trong khi
Hiến chương Venice chỉ quan tâm đến các công trình lịch sử riêng lẻ, Hiệp ước
UNESCO đã giới thiệu khái niệm di sản văn hóa, là cơ sở cho việc bảo tồn và cải
tạo khu vực. Kể từ khái niệm khởi nguồn về di sản văn hóa năm 1972 cho đến
nay, rất nhiều khái niệm về di sản đô thị đã ra đời nhằm thích ứng với sự thay
đổi của kinh tế, xã hội. Năm 1976, UNESCO đề xuất khái niệm Khu vực/thành
phố lịch sử bao gồm nhóm các công trình, cấu trúc và không gian mở; phương
pháp bảo tồn là bảo tồn nguyên trạng. Hiến chương Washington năm 1987
đã mở rộng mối quan tâm, theo Hiến chương, Khu vực đô thị lịch sử cần đặt
trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên và nhân tạo. Bên cạnh vai trò là
chứng nhân lịch sử, các khu vực này chứa đựng giá trị văn hóa truyền thống.
Đến năm 2004, Hiệp hội Châu Âu chính thức đề xuất các hợp phần của Di sản
đô thị bao gồm ba loại chính (1) Di sản mang tính biểu tượng, chứa đựng giá
trị văn hóa độc đáo (2) Các thành phần di sản tuy không chứa đựng giá trị độc
đáo nhưng biểu hiện rõ ràng, góp phần tạo nên sự phong phú (3) Các nhân tố
đô thị mới nên được xem xét; ví dụ: Hình thái đô thị, không gian mở, hạ tầng
đô thị. Khái niệm mới nhất hiện nay được UNESCO đề xuất năm 2011 là Cảnh
quan đô thị lịch sử. Khái niệm đã mở rộng và thể hiện sự linh hoạt của định
nghĩa di sản đô thị. Theo khái niệm này, Cảnh quan đô thị lịch sử là các khu vực
đô thị hình thành do sự chồng lớp lịch sử của các giá trị và thuộc tính về văn
hóa và tự nhiên; khái niệm cũng mở rộng mối quan tâm đến bối cảnh đô thị
và các nhân tố về địa lý.
Phố cổ Hội An - Di sản Văn hóa thế giới

Số 55.2017


XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

37


VẤN ĐỀ

HÔM NAY

Trong rất nhiều di sản của Châu Á, giá trị phi vật thể luôn nổi trội hơn

PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM VÀ ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ CỦA DI SẢN
ĐÔ THỊ TẠI CHÂU Á
Đầu thế kỉ 21, hai vấn đề đã chi phối việc bảo tồn quốc tế là tính xác thực và
tính toàn vẹn. Đây là những vấn đề mà việc bảo tồn đã giải quyết sau nhiều thế kỷ
tìm kiếm và phát triển các học thuyết và ý tưởng. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra về phù
hợp và những hạn chế của các học thuyết bảo tồn được phát triển ở các nước
phương Tây áp dụng vào trong khu vực Châu Á, nơi có sự khác biệt về lịch sử xây
dựng, văn hóa và bối cảnh phát triển đô thị. Phần này sẽ tập trung bàn luận xoay
quanh vấn đề của tính xác thực, đưa ra quan điểm làm cơ sở cho việc phân tích
đặc điểm và đánh giá giá trị của di sản tại Châu Á.
Khởi nguồn từ Hiến chương Venice năm 1964, trong nhiều năm, các tài liệu
tham khảo chính cho nền tảng của bảo tồn quốc tế bắt đầu bằng việc cho rằng:
“Trách nhiệm của chúng ta là trao lại cho các thế hệ sau di sản văn hóa mang
tính xác thực cao” (“It is our duty to hand them on in the full richness of their
authenticity”). Đây là một nguyên lý quan trọng của bảo tồn quốc tế trong quá
trình xác định những di sản đích thực.
Câu hỏi cần phải đặt ra trong phạm vi di sản của Châu Á là những gì chúng ta
đang bảo vệ, tinh thần hay vật chất của di sản đó. Kể từ khi áp dụng kỹ thuật và

khoa học tự nhiên phục vụ cho công việc bảo tồn, chúng ta đã có thể kiểm tra
một cách chắc chắn về sự xác thực; Ví dụ về việc xác định tuổi thực của một đối
tượng, nghiên cứu về xác thực của việc xây dựng hay sự xác thực về tông màu
sắc .v.v. Tuy nhiên, đối với các di sản của Châu Á, chỉ số ít trong những trường hợp
đặc biệt mới có thể được phục hồi để có tính xác thực; đa số trường hợp chỉ là
tân trang chứ không bao giờ có thể được tái tạo lại về nguyên gốc. Nguyên nhân
là do các di sản liên tục trải qua quá trình xây dựng lại, các công trình thường
được cách điệu hơn vì lí do truyền thống. Seung Jim trong những nghiên cứu về

38 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

bảo tồn ở Nam Triều Tiên, ông đã
kết luận về bảo tồn ở Châu Á là nơi
mà những yếu tố về tâm linh và sự
tinh tế được sử dụng để xác định
giá trị. Larsen trong Bảo tồn kiến
trúc tại Nhật Bản (Architectural
Preservation in Japan) đã lưu ý
rằng “không phải là gốc ban đầu
được đánh giá là xác thực mà
chính là sự xây dựng nó để truyền
lại cho chúng ta qua lịch sử”. Theo
cách này, tại thời điểm cộng đồng
bắt đầu nhận thức tầm quan trọng
của công trình, công trình đó được
coi là một di sản lịch sử với các giá
trị mặc định. Hiến chương Nara đã
giải quyết một phần những vấn đề
về tính xác thực, các định nghĩa về
tính xác thực cần linh động và phù

hợp hơn. Trong khi người phương
Tây chủ yếu nhìn nhận về vật chất,
cách tiếp cận của người Châu Á
lại được miêu tả là một cách nhìn
được định hình bằng sự hòa hợp,
thống nhất của con người, cộng
đồng.


VẤN ĐỀ

HÔM NAY

Việc bảo tồn truyền thống phương Tây tập trung vào
những giá trị thực tế của di sản, điều này đẩy việc bảo
tồn các giá trị vật chất lên cao hơn giá trị tinh thần của
di sản. Trong rất nhiều di sản của Châu Á, giá trị phi vật
thể luôn nổi trội hơn, nhất là trong bối cảnh những di
sản Châu Á không có tính vĩnh cửu. Đối với nền văn hóa
Châu Á, giá trị lại ở chính đời sống văn hóa truyền thống
của họ. Chen & Aass (1989) đã nhấn mạnh nhân tố then
chốt của những công trình di sản văn hóa trong phạm vi
Châu Á là di sản phi vật thể, là các giá trị tinh thần, văn
hóa. Chúng không cần giá trị vật chất cụ thể, cũng không
thể hiện giá trị qua kết cấu hay hình thức của công trình
di sản. Giống như việc thể hiện thần thái trong một bức
tranh Trung Quốc, những người nghệ sĩ Trung Hoa đã
cảm nhận hàng ngàn năm nay rằng mục đích chính của
việc vẽ tranh là thể hiện được cái thần thái của chủ thể
trong bức tranh. Một bức vẽ núi rất ít khi họa ra hẳn hình

ảnh cụ thể mà chỉ là các hình ảnh ước lệ, khi nhìn vào sẽ
không thấy núi cụ thể, song lại mang sắc thái núi non rõ
ràng. Việc giải thích, miêu tả này đã nhấn mạnh sự khác
nhau trong cách tiếp cận và cũng cho thấy rõ giá trị tinh
thần có ý nghĩa lớn lao như thế nào so với giá trị vật thể.
ÁP DỤNG VÀO BỐI CẢNH ĐÔ THỊ TẠI VIỆT NAM
Trong bối cảnh phát triển năng động tại các đô thị ở
Việt Nam, cần thiết một cách thức nhận diện linh hoạt
về di sản đô thị, bắt kịp xu hướng thế giới. Việc áp dụng
khái niệm mới nhất của UNESSCO đưa ra về Cảnh quan
đô thị lịch sử yêu cầu thừa nhận các nguyên tắc trong
quy hoạch xây dựng: Chấp nhận các thay đổi trong lịch
sử phát triển đô thị như một phần trong truyền thống
thành phố; Đáp ứng các yêu cầu về nâng cao tiện nghi
sống và phát triển kinh tế, trong khi vẫn tôn trọng cảnh
quan được kế thừa nhằm đảm bảo tính toàn vẹn và thẩm
mỹ của các khu vực lịch sử.
Khi xem xét, nhận diện và phân tích đặc điểm và giá
trị không gian kiến trúc cảnh quan lịch sử, chúng ta cần

nhìn nhận những lớp thông tin: (1) Nhìn nhận trong bối
cảnh phát triển của thành phố, có tính đến quy hoạch
chung để nhận diện các áp lực phát triển (2) Các yếu tố tự
nhiên (3) Các yếu tố về môi trường xây dựng: Môi trường
xây dựng (cả môi trường lịch sử và môi trường hiện tại);
Hạ tầng (nổi và ngầm); Không gian mở và vườn hoa, Hình
thái sử dụng đất và tổ chức không gian, Các nhân tố khác
của cấu trúc đô thị (5) Các giá trị phi vật thể: Bao gồm kỹ
thuật xây dựng và sử dụng vật liệu truyền thống, giá trị
về tâm linh, vai trò quan trọng của công trình trong cộng

đồng, đời sống văn hóa truyền thống.
Khuyến nghị một số các chính sách và chiến lược
Một là, cần đánh giá kỹ lưỡng về cơ hội và nguy cơ
trong quy trình quy hoạch cảnh quan đô thị nhằm đảm
bảo sự phát triển cân bằng nhất.
Hai là, cần nhìn nhận các kiến trúc đương đại là nhân
tố bổ sung giá trị cho cảnh quan đô thị lịch sử.
Ba là, cần giới hạn ngưỡng phát triển kinh tế vì tầm
nhìn tổng thể và dài hạn, bảo tồn di sản lâu dài trong
tương lai.
Tài liệu tham khảo
Chen, W. and Aass, A. (1989) “Heritage Conservation:
East and West”, ICOMOS Information, 3: 348
Larsen, K. (1994)“Archiectural Preservation in Japan”,
Nhà xuất bản Tara, Nauy, 204 trang. ISBN 82-519-1432-9
Seung-Jin, C (1998)“Architectural Conservation in
the East Asian Cultural Context with special reference to
Korea”. Khoa Môi trường xây dựng. Sydney, Đại học New
South Wale : 284
Seung-Jin, C. (2005). “East Asian Values in Historic
Conservation”. Tạp chí bảo tồn Kiến trúc: 55-50.
UNESCO (2011), “UNESCO Recommendation on
the Historic Urban Landscape”, website chính thức của
UNESCO.
Quần thể di tích cố đô Huế - Di sản Thế giới tại Việt Nam

Số 55.2017

XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ


39



×