Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Nghiên cứu dòng di cư từ nông thôn ra thành thị trong bối cảnh toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (722.89 KB, 105 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TCTK Tổng cục Thống Kê
UNFA Quỹ dân số Liên hiệp quốc
TCH Toàn cầu hóa
FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
CMTND Chứng minh thư nhân dân
NĐ-CP Nghị định – Chính PHủ
TT Thông tư
BCA Bộ Công An
ILO Tổ chức lao động quốc tế
CIEM Viện nghiên cứu Quản lý Kinh Tế Trung ương
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
UNDP
APEC
Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
Diễn đàn kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương
1
ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam á
DANH MỤC BẢNG, HÌNH VẼ
2
Bảng 2.1 Chỉ số toàn cầu hóa của Việt Nam năm 2007 so với các quốc gia khác
Hình 2.1 Mức độ mở cửa của nền kinh tế Việt Nam kể từ sau Đổi Mới
Hình 2.2 Lao động xuất khẩu qua các năm của Việt Nam, 1996-2006
Bảng 2.2 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số thành phố lớn năm 2007
Bảng 2.3 Phần trăm lao động di cư làm việc trong các khu vực kinh tế
Bảng 2.4 Cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn ở các thành phần kinh tế
Bảng 2.5 Tỉ lệ lao động nhập cư phân theo lĩnh vực kinh tế tại thành phố Hồ Chí
Minh
Bảng 2.6 Diện tích đất thu hồi bình quân mỗi hộ theo loại đất
Hình 2.3 Nguyên nhân chính di cư nông thôn – thành thị


Hình 2.4 Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp từ năm 1986-2007
Hình 2.5 Tổng đầu tư xã hội cho toàn nền kinh tế và cho các ngành chính
Hình 2.6 Chi tiêu công cho nông nghiệp so với tổng GDP nông nghiệp ở một số
nước
Bảng 2.7 Năng suất lao động xã hội phân theo một số ngành kinh tế
Bảng 2.8 Thu nhập bình quân chung của đô thị so với nông thôn các vùng địa lý
theo nhóm
Bảng 2.9 Phân bố phần trăm người di cư theo nơi sinh và nơi cư trú hiện tại
Bảng 2.10 Các dòng di cư từ nơi sinh đến nơi cư trú hiện tại và từ nơi cư trú trước
đây đến nơi cư trú hiện tại, chia theo khu vực nông thôn - đô thị
Hình 2.7 Xác suất di chuyển theo tuổi và loại hình di cư.
Bảng 2.11 Tỉ suất xuất cư, nhập cư, di cư thuần giữa các vùng 2004, 2005, 2006
Hình 2.8 Phần trăm người di cư từ nông thôn phân theo độ tuổi
Bảng 2.12 Số năm đi học trung bình tại những thời điểm khác nhau trong cuộc đời
người di cư chia theo giới tính
Hình 2.9 Phân bố nghề nghiệp người di cư qua các giai đoạn của chu trình sống
Bảng 2.13 Thu nhập bình quân tháng của người di cư chia theo các đặc trưng cơ bản
Hình 2.10 Lượng tiền gửi về nhà 12 tháng trước phân theo giới tính
Hình 2.11 Các cách sử dụng chính đối với tiền do lao động nhập cư gửi về
3
MỞ ĐẦU
Di cư là yếu tố tất yếu, là động lực tích cực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội, góp phần phân bổ lại dân cư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế lao động, giải quyết
việc làm, xoá đói giảm nghèo, là một bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội bền vững. Kinh tế phát triển, quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá, chuyển đổi
cơ cấu nền kinh tế diễn ra nhanh chóng cùng với chính sách mở cửa, hội nhập dẫn
đến việc di cư nội địa và ra nước ngoài tăng lên. Tuy nhiên, dòng di cư nói chung,
trong đó có lao động di cư cũng là nhóm người dễ bị tổn thương và bị lạm dụng và
cũng chịu ảnh hưởng của các sự kiện trong đời sống kinh tế xã hội. Với bối cảnh
toàn cầu hoá, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn với thế giới, việc tiếp cận thị

trường thế giới tác động tới các ngành công nghiệp mới và tạo việc làm cho hàng
triệu người, già và trẻ bước vào thị trường lao động mỗi năm. Với điều kiện khan
hiếm diện tích đất ở nông thôn, đặc biệt là đất nông nghiệp và sự tăng trưởng dân số
cao so với khu vực thành thị, vấn đề dư thừa lao động ngày càng nổi cộm lên ở
nông thôn và trở nên nghiêm trọng hơn trong suốt 20 năm qua. Thất nghiệp và bán
thất nghiệp đã và đang trở thành vấn đề lớn vì khả năng tạo ra việc làm cho lao
động ở nông thôn là rất yếu.
Tất cả các nhân tố này cùng với khoảng cách về thu nhập giữa thành thị và nông
thôn đã sinh ra các dòng di cư từ nông thôn ra thành thị. Cùng với quá trình công
nghiệp hoá và đô thị hoá vẫn đang tiếp diễn ở Việt Nam, khu vực thành thị sẽ tiếp
tục được mở rộng và vùng nông thôn ngày càng bị thu hẹp lại. Áp lực đối với khu
4
vực nông thôn sẽ gia tăng và vì vậy, không thể tránh khỏi thực tế về các dòng di cư
lao động lớn từ nông thôn ra thành thị trong thời gian tới.
Đề tài:
“Nghiên cứu dòng di cư từ nông thôn ra thành thị trong bối cảnh toàn cầu
hóa” là kết quả mà tôi thu được sau khi nghiên cứu lý luận, thực trạng dòng di cư
từ nông thôn ra thành thị trong bối cảnh toàn cầu hoá, qua thời gian thực tập tại
Viện Kinh tế Việt Nam.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy giáo TH.S Vũ Cương và các
cán bộ thuộc Viện Kinh tế Việt Nam đã giúp đỡ tôi hoàn thành bản chuyên đề thực
tập này và với hạn chế của đề tài nghiên cứu chuyên đề thực tập, mong thầy giáo
hướng dẫn sẽ giúp đỡ tôi sửa và hoàn thành tốt đề tài này.
Câu hỏi nghiên cứu:
1. Tình hình và đặc điểm của dòng di cư từ nông thôn ra thành thị trong bối cảnh
Việt Nam hội nhập sâu với thế giới.
2. Ảnh hưởng của dòng di cư này đến đời sống kinh tế - xã hội và một số kiến
nghị để giải quyết vấn đề tồn tại trong đó.
Phương pháp nghiên cứu:
- Cách thức giải quyết vấn đề: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích và

đánh giá số liệu có được, phương pháp so sánh.
Trong đó sử dụng chủ yếu số liệu của các cuộc điều tra Di dân năm 2004 và
2006 như: Điều tra di cư năm 2004, Di cư và liên hệ đời sống 2006, Chất lượng
cuộc sống người di cư 2006. Mục tiêu của cuộc Điều tra là miêu tả và phân tích đầy
đủ tình hình di cư ở Việt Nam, cuộc Điều tra di cư năm 2004 với cỡ mẫu đủ lớn là
một nghiên cứu cấp quốc gia đầu tiên ở Việt Nam, thu thập thông tin về lịch sử di
chuyển và đặc điểm kinh tế xã hội khác diễn ra trong chu trình sống của đối tượng
điều tra. Năm 2005, Tổng cục Thống kê đã hoàn thành phân tích cơ bản dữ liệu điều
tra và công bố ấn phẩm tên là Điều tra Di cư Việt Nam năm 2004 và các chuyên
5
khảo có tiêu đề: Di cư trong nước và mối liện hệ với các sự kiện cuộc sống, Chất
lượng cuộc sống người di cư là bước tiếp theo nhằm cung cấp thông tin sâu hơn về
mối quan hệ di cư với các sự kiện khác trong cuộc sống người di cư với sự hỗ trợ kĩ
thuật của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) và các cán bộ Viện Xã hội học
thực hiện cho ra đời năm 2006.
- Phạm vi xử lý đề tài: số liệu có được từ năm 1996-2008, đối tượng nghiên cứu:
dòng dân di cư có độ tuổi từ 19-59.
- Kết quả dự kiến: cho thấy tình hình dòng di cư trong hiện tại và xu hướng dòng
di cư nông thôn ra thành thị trong tương lai với bối cảnh toàn cầu hoá ngày càng sâu
rộng hơn và một số giải pháp đưa ra để giải quyết ảnh hưởng không mong muốn từ
dòng di cư.
Bố cục của đề tài nghiên cứu
Chương I: Cơ sở lý luận về di cư và dòng di cư từ nông thôn ra thành thị trong
bối cảnh toàn cầu hóa ở Việt Nam.
Chương II: Tình hình di cư từ nông thôn ra thành thị ở Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa
Chương III: Các kiến nghị chính sách với dòng di cư từ nông thôn ra thành thị
trong bối cảnh toàn cầu hóa ở Việt Nam.
6
Chương I: Cơ sở lý luận về di cư và dòng di cư từ nông thôn ra

thành thị trong bối cảnh toàn cầu hoá của Việt Nam
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DI CƯ LAO ĐỘNG
1.1.1. Quan niệm về di cư
1.1.1.1. Khái niệm về di cư
Di cư là một thuật ngữ mô tả quá trình di chuyển dân số hoặc là quá trình con
người rời bỏ hoặc hội nhập vào một đơn vị hành chính - địa lý nhất định.
Nói chung khái niệm di dân thường được các nhà nghiên cứu định nghĩa không
giống nhau. Theo tác giả Lee (1966) thì di cư là: “sự thay đổi cố định nơi cư trú”.
Còn theo Mangalam và Morgan (1968) cho rằng di cư là “sự di chuyển vĩnh viễn
tương đối của người di cư ra khỏi tập đoàn đang sống từ một đơn vị địa lý khác”.
Mặt khác, theo tác giả Paul Shaw thì “di cư là hiện tượng di chuyển khỏi tập thể
từ một địa điểm địa lý này đến một địa điểm địa lý khác, trên cơ sở quyết định của
người di cư, dựa vào một loạt các giá trị trong hệ thống các mối quan hệ qua lại của
người di cư”.
Những định nghĩa nêu trên chỉ đề cập tới “không gian di trú” và hầu như chưa
nói lên được thời gian quá trình di cư, theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc; “di dân
hay di cư là sự dịch chuyển từ khu vực này sang khu vực khác, thường là qua một
địa giới hành chính (hoặc là sự dịch chuyển theo một khoảng cách xác định nào đó)
thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú”.
Trong đó, di dân nội địa liên quan đến sự chuyển dịch nơi cư trú bên trong biên giới
của quốc gia.
Đối với Việt Nam, “di cư được định nghĩa là sự di chuyển của con người từ nơi
này đến nơi khác đó là chuyển đến một huyện khác, thành phố khác, một tỉnh khác
hay một nước khác trong một khoảng thời gian nhất định”. Trong phạm vi nghiên
cứu này khái niệm về di cư được hiểu theo cách hiểu của Haughton. Người di cư
được hiểu trong luận văn này là người di cư từ nông thôn ra thành thị với độ tuổi từ
15 đến 59 tuổi trong vòng 5 năm và đã cư trú tại nơi đến từ 1 tháng trở lên.
7
1.1.1.1. Các khái niệm liên quan đến di cư
a. Người di dân

Là người đã thay đổi nơi thường trú của mình từ một khu vực này đến một khu
vực khác, ít nhất là một lần trong khoảng thời gian nhất định. Di dân có thể liên
quan đến một hay nhiều cá nhân di chuyển, một gia đình hay thậm chí là cả một
cộng đồng.
b. Di dân gộp
Là con số tổng cộng bao gồm cả những người đến và đi cùng một vùng, nó đo
lường toàn bộ số lượng dân số (cả số người đi và đến trong một cồng đồng dân cư).
c. Di cư ròng
Đối với một vùng cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định đều luôn diễn ra
các quá trình tiếp nhận thêm một số lượng dân cư này và đồng thời lại mất đi một
số lượng dân cư khác do họ di chuyển đi tới vùng khác. Sự chênh lệch giữa quy mô
dân cư chuyển đến và quy mô dân cư chuyển đi được gọi là di dân hay di dân ròng.
d. Sự nhập cư và sự xuất cư.
Đây là khái nịêm được sử dụng trong các quá trình di cư bên trong, hay nội bộ
của một quốc gia, một vùng:
- Sự nhập cư hay di dân vào là: quá trình di cư từ nơi nào khác đến nơi dự định
sinh sống. Đây là sự chuyển đến.
- Sự xuất cư hay di dân ra là: quá trình di cư từ nơi đang sống sang vùng khác.
Đây là sự chuyển đi.
e. Nơi xuất cư và nơi đến:
Nơi xuất cư là: nơi mà từ đó người di cư chuyển đi. Ngược lại, nơi đến là nơi
mà người di cư từ nơi nào khác chuyển đến sống.
f. Sự di cư chênh lệch
Trong quá trình di cư luôn có hiện tượng chênh lệch giữa các nhóm di cư khác
nhau về các yếu tố nhân khẩu, hoàn cảnh xã hội, kinh tế, văn hoá…Vì vậy, đối với
những luồng di cư khác nhau sẽ có những sự khác nhau trong cơ cấu thành phần của
8
dân cư về nhiều mặt. Điều này cần được quan tâm đúng mức để có thể giải quyết
vấn đề di cư một cách hợp lý.
1.1.2. Loại hình di cư

Di cư diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau gồm: di cư trong nước và di cư
quốc tế. Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là tập trung phân tích luồng di cư nông
thôn ra thành thị hay di cư trong nước. Do vậy, di cư được chia thành các loại hình
theo căn cứ sau:
a. Theo pháp lý
Bao gồm: di cư có tổ chức hay di cư tự do hợp pháp và di cư không hợp pháp.
- Di cư có tổ chức: diễn ra trong khuôn khổ chương trình của nhà nước, trong
trường hợp này những người di cư thường nhận một khoản trợ cấp hỗ trợ và thường
di chuyển nơi ở thường trú của gia đình.
- Di cư tự do hợp pháp: là việc chuyển đến nơi sinh sống mới do bản thân người
di cư tự quyết định bao gồm cả việc lựa chọn địa bàn nhập cư, tổ chức di chuyển,
cũng như trang trải mọi phí tổn và tìm việc làm…
- Di cư bất hợp pháp: là việc chuyển đến nơi ở mới giống như di cư tự do hợp
pháp, tuy nhiên người di cư lờ đi các quy định và cố gắng tránh liên lạc với các cấp
chính quyền.
b. Theo nơi đi và nơi đến
Dựa theo nơi đi và nơi đến có 4 loại hình: nông thôn – nông thôn, nông thôn –
thành thị, thành thị - thành thị và thành thị - nông thôn.
c. Theo thời gian
Theo thời gian, di cư có thể chia thành: di cư lâu dài, di cư tạm thời và di cư
theo mùa vụ.
- Di cư lâu dài: Là nhóm những người di cư đến một khoảng thời gian tương đối
dài và có ý định ở lại nơi đến.
- Di cư tạm thời: những người tới một địa bàn trong một thời gian nhất định (để
học tập, làm việc) trước khi có quyết định liệu có sống ở đó hay không.
9
- Di cư theo mùa vụ: Là trường hợp đặc biệt của di dân tạm thời. Thuật ngữ
“mùa vụ” không nhất thiết mang nghĩa mùa vụ thu hoạch, mặc dù nó có thê là như
vậy đối với người di dân. Thuật ngữ này còn hàm ý những hoạt động mùa khác như
mùa xây dựng hoặc mùa du lịch bao gồm cả loại hình đi làm ăn xa ở nông thôn. Có

thể nói, di cư theo mùa vụ là những người ra thành phố trong những lúc nông nhàn
để tìm kiếm việc làm, không có ý định cư trú lâu dài và sẽ quay về khi có nhu cầu
lao động và công việc gia đình ở quê hương.
1.1.3. Các mô hình về di cư
Di cư là một hiện tượng phổ biến trong xã hội loài người. Lý do tại sao con
người di cư thì rất khác nhau giữa người này với người khác trong cùng một cộng
đồng, giữa dân tộc này với dân tộc khác, giữa vùng này với vùng khác…Chính sự
phức tạp của quá trình di cư hay nguyên nhân của di cư mà không có sự thống nhất
giữa các nhà nghiên cứu về nguyên nhân của di cư.
1.1.3.1. Mô hình của Lewis
Giả thích giản đơn nhất cho sự di cư từ nông thôn ra thành thị là người ta di cư
đến thành thị khi lương của thành thị cao hơn ở nông thôn. Lewis đã đưa ra lý
thuyết này trong giải thích của ông về sự chuyển lao động từ nông nghiệp sang công
nghiệp ở một nước vừa mới công nghiệp hóa.
Mô hình của Lewis là học thuyết chung cho quá trình phát triển của các nước dư
thừa lao động. Trong mô hình này, Lewis đã mô tả sự vận động của 2 khu vực kinh
tế được chia thành: (1) Khu vực kinh tế nông thôn truyền thống với số lao động dưa
thừa được đặc trưng bởi năng suất lao động cận biên rất thấp (gần như bằng 0) – do
đó có thể rút lao động ra khỏi khu vực nông thôn truyền thống mà sản lượng nông
nghiệp không giảm và (2) là khu vực thành thị công nghiệp hiện đại – khu vực này
có năng suất lao động cao hơn, lao động khu vực này do lao động khu vực nông
thôn chuyển sang. Trọng tâm của mô hình này là thể hiện quá trình chuyển giao lao
động lẫn sự gia tăng sản lượng đầu ra - tỉ lệ thuận với tích luỹ tư bản và gia tăng
mức độ sử dụng lao động ở khu vực thành thị. Sự gia tăng lao động và mức độ
chuyển giao lao động đều do sự gia tăng sản lượng đầu ra của khu vực (2) mang lại.
10
Trong khi đó, tốc độ của việc mở rộng đầu ra này được xác định bởi nhịp độ đầu tư
công nghiệp và tích luỹ vốn trong chính khu vực này. Khối lượng đầu tư này có
được nhờ sự vượt trội của lợi nhuận trong khu vực kinh tế thành thị hiện đại so với
phần chi trả lương với giả thiết rằng toàn bộ lợi nhuận được đem đầu tư phục vụ mở

rộng sản xuất. Hơn nữa, mức lương ở thành thị với giả thiết là không đổi cho đến
khi lao động ở nông thôn hết dư thừa (năng suất lao động cận biên khu vực nông
nghiệp không bằng không nữa, tuyến cung lao động hoàn toàn không co giãn) và
cao hơn ít nhất là 30% so với mức lương cố định trung bình được ấn định trước đủ
để duy trì cuộc sống ở khu vực truyền thống. Lúc này, đường cung lao động ở nông
thôn cho khu vực thành thị được coi là hoàn toàn co giãn.
Trong khu vực kinh tế truyền thống có 2 giả thiết cần lưu ý. Một là, có lao động
dư thừa; và thứ hai, mức lương thực tế của nông thôn được xác định bằng năng suất
trung bình (chứ không phải bằng năng suất cận biên của lao động, như trong khu
vực kinh tế hiện đại). Còn trong khu vực kinh tế hiện đại, thị trường lao động có
tính chất cạnh tranh hoàn hảo.
Do nguồn cung lao động ở nông thôn được coi là không có giới hạn nên khu vực
kinh tế hiện đại có thể thuê bao nhiêu lao động ở nông thôn cũng được mà không sợ
phải nâng cao thêm mức lương. Các chủ doanh nghiệp trong khu vực kinh tế hiện
đại, do muốn tối đa hoá lợi nhuận, có thể thuê bao nhiêu lao động tới mức lương mà
sản lượng đầu ra cận biên của họ tương đương với mức lương chi trả thực tế. Do
đó, quá trình tìm kiếm lợi nhuận, tích luỹ và tái đầu tư của khu vực công nghiệp tiếp
tục diễn ra và kết quả làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng nhanh.
Quá trình hoạt động trên diễn ra liên tục cho đến khi tất cả lao động dư thừa ở
nông thôn được thu hút vào ngành công nghiệp mới. Đến lúc này, những lao động
bổ sung chỉ có thể rút ra khỏi khu vực nông nghiệp với chi phí cao hơn, năng suất
lao động cận biên của lao động nông thôn không bằng không nữa. Như vậy, đường
cung lao động lúc này có độ dốc dương khi mức tiền lương và số việc làm của khu
vực hiện đại tiếp tục tăng trưởng. Quá trình chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế sẽ
11
diễn ra với sự cân bằng các hoạt động kinh tế, chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang
nền kinh tế hiện đại.
Mô hình hai khu vực của Lewis đơn giản, hầu như phù hợp với các nước
phương Tây và với những giả định không gắn với thực tế phát triển kinh tế của hầu
hết các nước đang phát triển hiện nay.

Mô hình của Lewis có những hạn chế nhất định: Một là, mô hình này giả định
rằng tỷ lệ lao động thu hút từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp tương ứng với
tỉ lệ vốn tích luỹ của khu vực này. Có nghĩa là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của khu vực
công nghiệp hiện đại càng cao thì dẫn đến tỷ lệ công ăn việc làm mới càng nhiều.
Điều này chỉ đúng với công nghệ không thay đổi, song thực tế kĩ thuật công nghệ
không ngừng thay đổi và việc trang bị kĩ thuật tiết kiệm lao động sẽ làm cho tỉ lệ
tăng trưởng trong khu vực này tăng nhưng số lao động được sử dụng lại giảm, tỷ lệ
công ăn việc làm giảm. Hơn nữa, trong nền kinh tế mới, không có gì đảm bảo rằng
nhà tư bản chỉ thu được lợi nhuận khi tái đầu tư trong nước; họ có thể tìm nơi đầu
tư có lợi nhất như đầu tư ra nước ngoài nơi có giá đầu tư rẻ hơn. Thứ hai, mô hình
giả thiết khu vực nông thôn có dư thừa lao động còn khu vực thành thị thì không
trong khi đó thất nghiệp vẫn xảy ra ở thành thị trên thực tế. Thêm vào đó, khu vực
nông thôn có thể giải quyết tình trạng dư thừa lao động mà không cần lên thành
phố. Thứ ba, Lewis cho rằng khu vực công nghiệp không phải tăng lương cho số lao
động từ nông thôn khi ở đây còn dư thừa lao động. Trên thực tế, ở các nước đang
phát triển tiền công trong công nghiệp vẫn có thể tăng kể cả khi nông thôn có dư
thừa lao động vì khu vực này đòi hỏi lao động có tay nghề cao hơn với mức tiền
công cao hơn. Thêm vào đó, một số nước hoạt động của tổ chức công đoàn rất
mạnh, họ có thể tạo ra những áp lực đáng kể đòi hỏi phải tăng lương cho người lao
động.
Có thể nói, mô hình hai khu vực của Lewis không chỉ giải thích nguyên nhân có
di cư lao động từ nông thôn ra thành thị mà còn là công trình đầu tiên về tiến trình
phát triển chỉ ra xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế là phát triển công nghiệp
12
trước, nông nghiệp sau và giải thích sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở
giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa.
1.1.3.2 . Mô hình của Harris – Torado
Mô hình John R.Harris và Micheal Torado hay còn gọi là mô hình Harris –
Torado nghiên cứu hiện tượng di cư nông thôn – thành thị tăng tốc trong bối cảnh
thất nghiệp ở thành thị vẫn tiếp tục gia tăng. Cá nhân người di cư vẫn có thể di cư

mặc dù có tình trạng thất nghiệp ở thành thị. Trên giả thiết mô hình Torado cho rằng
việc di cư diễn ra là do có sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn về thu nhập dự
kiến chứ không phải về thu nhập thực tế. Người di cư có thể xem xét các cơ hội
khác nhau để lựa chọn nhằm tối đa hóa lợi ích dự kiến của họ. Lợi ích này được
tính toán bằng hiệu số giữa thu nhập thực tế ở thành thị và nông thôn, có tính đến
khả năng (xác suất) kiếm được việc làm ở khu vực thành thị (Torado – năm 1970).
Nếu như hầu hết người di cư là trẻ tuổi (dưới 25 tuổi) nên có thể giả thiết
khoảng thời gian để quyết định di cư dù lâu hơn vẫn thực tế. Người di cư có thể
xem xét thu nhập trong suốt cuộc đời họ hay quyết định di cư của họ sẽ dựa trên
tính toán tổng thu nhập của một thời kỳ dài hạn hơn. Nếu người này thấy rằng lúc
đầu anh ta có xác suất để có việc thấp nhưng qua thời gian các quan hệ được mở
rộng dần, khả năng tìm được việc làm mới với tiền lương đều đặn sẽ tăng lên, thì di
cư vẫn là hợp lý, thậm chí ngay cả trong trường hợp thu nhập dự kiến ở thành thị
trong thời gian đầu có thể thấp hơn thu nhập ở khu vực nông thôn. Khi mà giá trị
hiện tại của luồng thu nhập ròng dự kiến ở thành thị, tính trong “kỳ kế hoạch” của
người di cư vượt trội hơn giá trị tương ứng của thu nhập dự kiến ở nông thôn thì
quyết định di cư vẫn là lựa chọn xác đáng.
Tuy nhiên, theo nghiên cứu của ILO chỉ ra rằng sự di cư theo mô hình Torado
không nối được khoảng cách lương dự kiến giữa thành thị và nông thôn. Có thể lý
giải khoảng cách đó bằng cách bổ sung thêm một khu vực nữa vào khu vực nông
thôn và khu vực thành thị chính quy của Harris – Torado. Những người di cư có thể
không làm việc ở những khu vực chính quy mà làm những công việc không chính
quy như: các nhà buôn nhỏ, cửa hàng nước trà, người bán hàng rong, bán trên hè
13
phố, người quét rác, người sửa chữa, người làm hàng mây tre, và những người tự
hành nghề tạo ra việc làm và thu nhập cho bản thân họ trong hoạt động với rất ít
vốn, kỹ năng và hàng rào cạnh tranh. Những nhà buôn và chủ doanh nghiệp nhỏ này
có chi phí bắt đầu và chênh lệch lợi nhuận thấp, thoả thuận ngoài hệ thống luật pháp
chính thức và thuê nhân công ở mức thấp hơn mức lương quy định tối thiểu. Cung
cấp lao động cho khu vực không chính quy chịu tác động chủ yếu của tăng lương và

dân số ở nông thôn. Điều này giải thích lý do quá trình di cư vẫn tiếp tục khi vẫn có
thất nghiệp thành thị và tỉ lệ thành phần kinh tế tư nhân, mặc dù tỉ lệ thất nghiệp này
khá cao. Nhiều người di cư vừa bị thất nghiệp lại vừa không nhận được mức lương
ở khu vực chính quy mà làm những công việc trong khu vực không chính thức, điều
đó tạo điều kiện cho họ bước chân vào nền kinh tế thành thị.
Mô hình Torado vẫn có những hạn chế, hạn chế rõ nhất trong lý giải nguyên
nhân di cư là do sự chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị là giải pháp
không đầy đủ với vấn đề thất nghiệp. Có thể dẫn tới nghịch lý càng mở rộng việc
làm ở thành thị, càng tăng cao tiền lương ở thành thị thì càng khuyến khích tốc độ
di cư cao lên, làm thất nghiệp ở thành thị tăng lên và đồng thời dẫn đến giảm sút
sản lượng nông nghiệp. Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhưng mô hình Harris -
Torado được ứng dụng nhiều trong thực tế để dự báo vấn đề di cư từ các vùng nông
thôn – thành thị cũng như di cư giữa các nước.
1.2. DÒNG DI CƯ TỪ NÔNG THÔN RA THÀNH THỊ TRONG BỐI
CẢNH TOÀN CẦU HOÁ
1.2.1. Dòng di cư từ nông thôn ra thành thị
1.2.1.1. Khái niệm di cư từ nông thôn ra thành thị
Di cư từ nông thôn ra thành thị là sự di chuyển của con người từ nông thôn ra
thành thị trong một khoảng thời gian nhất định (xét theo yếu tố nơi đi và nơi đến
của loại hình di cư).
Các nhà kinh tế học cho rằng: di cư từ nông thôn ra thành thị là một quá trình di
chuyển của lao động từ khu vực kém phát triển hơn đến khu vực phát triển hơn.
14
Trong đó:
Nông thôn: là chỉ vùng đất mà người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp.
Thành thị:
- Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ như: vùng liên tỉnh,
vùng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc vùng trong tỉnh, trong thành phố
trực thuộc Trung ương; vùng huyện hoặc tiểu vùng trong huyện.

- Đối với khu vực nội thành phố, nội thị xã, thị trấn tỷ lệ lao động phi nông
nghiệp tối thiểu phải đạt 65% tổng số lao động; cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt
động của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết kế quy
hoạch xây dựng quy định cho từng loại đô thị, quy mô dân số ít nhất là 4000 người
và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km².
1.2.1.2. Những nhân tố quyết định đến di cư từ nông thôn ra thành thị
Di cư vừa là nguyên nhân và là hệ quả của quá trình phát triển. Di cư đã và đang
trở thành sự lựa chọn của người dân nhằm cải thiện kế sinh nhai và tạo cơ hội làm
ăn cho mình. Di dân đã trở thành một cấu thành không thể thiếu được của quá trình
phát triển đặc trưng cho mối quan hệ qua lại giữa vùng miền và lãnh thổ.
a. Các nguyên nhân dẫn đến di cư nông thôn ra thành thị
Di cư nói chung và di cư nông thôn ra thành thị nói riêng là quá trình làm cân
bằng các nguồn lực kinh tế để tạo lập một bước tiến mới trong sự phát triển kinh tế.
Có nhiều nguyên nhân theo các nhà nghiên cứu dẫn đến di cư từ nông thôn ra thành
thị, quá trình di cư nông thôn ra thành thị ở Việt Nam có thể chia làm các nguyên
nhân sau đây:
Một là, nguyên nhân về áp lực dân số và việc làm: Những năm gần đây, dân số
Việt Nam tăng trưởng trong sự kiểm soát khá chặt chẽ với tốc độ tăng dân số
khoảng 1.5% / năm. Nhưng những thập kỉ trước đó, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng
dân số rất cao đặc biệt trong những năm 1970 đến đầu những năm 1990 là năm mà
dân số bùng nổ với tốc độ tăng trưởng 2% / năm. Tốc độ tăng trưởng dân số cao
như vậy đặt áp lực rất lớn lên nền kinh tế về việc tạo ra đủ công ăn việc làm và áp
15
lực này càng tăng lên khi những năm gần đây phần trăm những người đến tuổi lao
động tìm việc tăng lên. Điều này có nghĩa là số người tham gia vào lực lượng lao
động hàng năm có xu huớng ngày càng lớn.
Sự bùng nổ dân số làm mất cân bằng các nguồn lực kinh tế. Trong vòng một thế
kỉ, nền kinh tế đặc biệt là kinh tế nông thôn khá ổn định trong sự cân bằng giữa
nguồn lực con người và đất đai, nhưng sự bùng nổ dân số đã làm cho nguồn lực đất
đai càng trở nên khan hiếm cùng với trình độ công nghệ không được cải thiện thích

đáng để giải quyết sự không cân bằng này và kết quả là một bộ phận sẽ trở thành
thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp. Sự bùng nổ dân số cùng với mật độ dân số dầy
đặc ở một số vùng đã làm cho tình trạng trên trở nên tồi tệ hơn, cư dân ở các vùng
đó rơi vào tình trạng thiếu đất, họ không thể đủ sống chỉ dựa vào sản xuất nông
nghiệp. Những người này vừa là nông dân và cũng không phải là nông dân, họ tìm
mọi phương thức sinh kế để kiếm sống. Trong hoàn cảnh này thì vịêc di cư từ nông
thôn ra thành thị là không thể tránh khỏi.
Hai là, cuộc cải cách kinh tế hay “Đổi mới” và sự thay đổi về chính sách liên
quan đến người di dân đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tình hình di
dân. Thứ nhất, về sản xuất nông nghiệp đã giải thể sản xuất tập thể và cho ra đời cơ
chế khoán. Do đó, người nông dân không còn bị ràng buộc với đất đai của mình.
Hơn nữa, xu hướng thương mại hoá sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng và việc
thay thế sức lao động thủ công bằng vốn đầu vào đã có tác động rất đáng kể trong
việc phân bố lại lực lượng lao động nông thôn và hối thúc họ rời quê hương đi làm
ăn xa. Thứ hai, trong lĩnh vực sản xuất công nghệ và đầu tư công nghệ mới, sự hội
nhập của Việt Nam vào nền kinh tế chung của toàn cầu đã thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài; lao động di cư được thu hút đến khu vực đầu tư nước ngoài và những
trung tâm công nghiệp. Ở đô thị, các quy định về đăng kí hộ khẩu, hộ tịch cho dù
còn tồn tại cũng không còn hạn chế nhu cầu về nhu yếu phẩm hay tìm việc làm
ngoài thị trường lao động như trước đây. Thứ ba, song song với quá trình này, mạng
lưới xã hội dựa trên cơ sở cộng đồng ngày càng mở rộng và thúc đẩy việc di chuyển
của người dân (Đặng Nguyên Anh, 1998). Sự phát triển của mạng lưới giao thông
16
vận tải với chất lượng tốt hơn, dễ dàng hơn và mạng lưới viễn thông liên lạc, các
phương tiện thông tin đại chúng giữa các vùng khác nhau đã tạo điều kiện thuận lợi
cho việc di chuyển về không gian và tăng cường sự giao thoa và các quan hệ xã hội
giữa nông thôn và thành thị.
Ba là, Quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hoá phát triển nhanh chóng tại Việt
Nam trong những năm gần đây đã tác động đáng kể tới dòng di cư từ nông thôn ra
thành thị. Tỉ lệ của ngành công nghiệp và dịch vụ đóng góp trong GDP có xu hướng

tăng và tỉ lệ ngành nông nghiệp có xu hướng giảm. Quá trình công nghiệp hóa chủ
yếu diễn ra ở các khu vực thành thị do có lợi thế so sánh nhưng sau đó sự khan
hiếm về đất đai và cơ sở hạ tầng đã hình thành nên các khu công nghiệp gần các
thành phố lớn – các khu công nghiệp này thu hút một lượng khổng lồ vốn đầu tư
nước ngoài cũng như một lượng lớn công nhân và công nhân không trực tiếp (làm
việc trong các khu vực mà sản xuất có liên quan đến khu công nghiệp). Sự phát
triển của công nghiệp hóa và các thành phố lớn thúc đẩy quá trình đô thị hoá ở Việt
Nam, đô thị hóa là kết quả của quá trình phát triển kinh tế và quá trình này phát
triển rất nhanh trong thời kì công nghiệp hóa. Tốc độ tăng dân số ở đô thị lớn hơn
so với tốc độ tăng dân số của cả nước và điều này có nghĩa rằng quá trình di cư
nông thôn ra thành thị đã tạo nên một sự thay đổi không thể phủ nhận trong cấu trúc
dân số của Việt Nam.
Bước chuyển mình theo hướng kinh tế thị trường đã thay đổi bộ mặt của nền
kinh tế, cải thiện mức sống của người dân nói chung và những người nghèo nói
riêng. Nhưng việc giảm nghèo không có nghĩa là giảm khoảng cách chênh lệch giữa
người giàu và người nghèo. Sự bất bình đẳng không chỉ là hiện tượng giữa người
giàu và người nghèo mà còn thấy được giữa nông thôn và thành thị. Sự phát triển
mất cân đối giữa các vùng lãnh thổ trong nền kinh tế thị trường và sự khơi rộng
khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền cũng như giữa các tỉnh thành trong
tăng trưởng kinh tế thời mở cửa chính là sự khác biệt căn bản được xem là nguyên
nhân chính đối với di cư nông thôn ra thành thị.
b. Quy luật của quá trình di cư từ nông thôn ra thành thị
17
Di cư từ nông thôn ra thành thị nói riêng và di cư nói chung là một hiện tượng tự
nhiên của quá trình phát triển kinh tế bởi nó xảy ra để thích nghi những cơ hội về
kinh tế cũng như phi kinh tế. Việc phân bố lại dân cư sẽ tiếp diễn cho đến khi
những cơ hội này đồng đều giữa các vùng, miền. Trong quá trình này, di cư từ nông
thôn ra thành thị là phổ biến nhất đặc biệt khi các nước bước vào quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đi kèm với nó là quá trình đô thị hóa không thể tránh
khỏi, với đại bộ phận dân số sống ở nông thôn và kế sinh nhai của họ là làm nghề

nông, khi quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa bắt đầu thì chuyển dịch cơ cấu
kinh tế cũng diễn ra mạnh mẽ hơn. Tỉ trọng lao động trong ngành nông nghiệp có
xu hướng ngày càng giảm trong khi đó tỉ trọng lao động trong các ngành công
nghiệp, dịch vụ, thương mại ngày càng tăng. Di cư từ nông thôn ra thành thị góp
phần mang lại sự cân bằng về lao động, cân bằng giữa cung và cầu lao động ở cả
nông thôn và thành thị. Do đó, quá trình di cư là tất yếu trong giai đoạn đầu của quá
trình công nghiệp hoá.
Quá trình di cư luôn chịu tác động của yếu tố “nhân tố đẩy” và “nhân tố kéo”
hay quá trình di dân xảy ra khi có sự khác biệt về đặc trưng giữa hai vùng: vùng đi
và vùng đến. Nhân tố đẩy là những yếu tố, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, chính
trị, văn hóa…ở vùng xuất phát đang gây khó khăn cho người dân ở đó như là: do
điều kiện sống khó khăn, ít công ăn việc, thiếu đất đai làm nên người ta phải di cư
rời bỏ quê hương tìm đến một nơi khác để cư trú và làm việc kiếm sống, trong đó
khu vực thành thị với nhiều lợi thế là những nhân tố kéo người nông dân rời bỏ
nông thôn và đến đó lập nghiệp – đây là “nhân tố đẩy” (Mô hình nhân tố đẩy và kéo
– Ernest Ravenstein 1989); thứ hai, do các nhân tố hút ở nơi đến như những điều
kiện, yếu tố thuận lời về tự nhiên, kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa…cùng với sự
hấp dẫn về việc làm, cơ hội thu nhập cao và mức sống ở nơi đến, đây là “nhân tố
kéo”.
Quá trình di cư từ nông thôn ra thành thị vẫn tiếp diễn trong khi thất nghiệp ở
thành thị là khá cao (có thể làm việc ở các khu vực không chính thức); với số lượng
việc làm được đưa ra ở thành thị thì số người di cư từ nông thôn ra đô thị có thể lớn
18
hơn bởi vì họ không nhất thiết đòi hỏi phải làm việc trong những khu vực chính
thức mà có thể làm ở những khu vực không chính thức: bán hàng rong, thợ thủ
công, thợ đánh giầy, người sửa chữa, quét rác, giúp việc trong gia đình với hi vọng
qua thời gian sẽ tìm được một công việc ở thành thị với mức lương cao hơn ở khu
vực nông thôn – đây là cách mà họ có thể dần bước chân vào nền kinh tế thành thị.
Trường hợp này cũng phù hợp với những người di dân mùa vụ - những người
không hẳn là thất nghiệp mà tìm cách làm việc trong thành thị với thời gian ngắn

trong lúc nông nhàn, mùa vụ xây dựng hay du lịch…để có thêm thu nhập.
c. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định di cư
Đối với quá trình di cư trên thế giới nói chung đều phải tính toán đến một số
nhân tố có ý nghĩa quan trọng, kể đến như là: khoảng cách di chuyển, cơ hội tìm
kiếm việc làm tốt hơn ở nơi đến, khả năng thu nhập, các thông tin cần thiết về nơi
đến…Nhìn chung, các nghiên cứu về di cư đều đi đến thống nhất là quyết định di
cư phụ thuộc vào một số nhân tố ảnh hưởng xét về phía cá nhân của người di cư
như:
* Nạn thất nghiệp cũng như không hài lòng về công việc đóng vai trò là nhân tố
“đẩy” đối với sự di cư. Những người mới di cư đến một vùng và sau đó không tìm
được việc làm ở nơi đó thì họ có thể lại di chuyển tiếp sang vùng khác hoặc những
người bị thất nghiệp thường trở thành những người di cư.
* Những người thất nghiệp, những người đang tìm kiếm việc làm thường dễ
phản ứng với các vấn đề kinh tế có liên quan như khả năng thu nhập, mức lương, và
nói chung họ thường muốn khả năng kiếm sống tăng cao hơn nữa. Điều này trái
ngược với những người đang thoả mãn với công việc của mình đang có.
* Những gia đình đã nhiều lần di cư thường có khuynh hướng di chuyển nhiều
hơn so với các gia đình chỉ di cư một lần hoặc chưa có lần nào di cư trong thời gian
gần đây. Có thể xem họ là những người di cư mãn tính hay kinh niên.
Trong những cuộc di cư của các hộ gia đình thì vai trò của người vợ có ý nghĩa
quan trọng trong việc quyết định di cư, họ không phải là những người thụ động.
19
* Tuổi tác và học vấn không giữ vai trò quyết định trong việc ảnh hưởng đến
quyết định di cư của các cặp vợ chồng.
Ngoài ra, nhân tố quan trọng hay cũng coi là nguyên nhân quan trọng tác động
tới vịêc ra quyết định của người di cư như: điều kiện việc làm, thu nhập, các điều
kiện về kinh tế xã hội, văn hóa giáo dục ở khu vực thành thị luôn tốt hơn so với ở
nông thôn. Hơn nữa, sự thay đổi nhận thức trong chính sách của chính phủ với
người di cư từ việc hạn chế, nới lỏng cho đến công nhận và tạo điều kiện hỗ trợ
nhiều hơn cho cuộc sống người di cư là những nhân tố kéo người di cư ra khỏi làng

quê của mình để tìm cuộc sống tốt đẹp hơn. Một nhân tố nữa do ông Đặng Nguyên
Anh đưa ra đó là: “mạng lưới xã hội” được hình thành từ quá trình di dân gọi là:
“mạng lưới di dân”, những người di cư lâu năm và đã có cơ ngơi ổn định tại thành
thị thường mời và “hỗ trợ” người thân ở quê khi họ muốn di cư. Những mối quan
hệ này thường liên quan đến đến việc người dân mới đến thuê trọ, tạm ứng tiền bạc
hoặc vay nợ người quen để bắt đầu tìm kiếm việc làm, tự tìm việc hoặc được người
quen giúp chọn công việc có thu nhập thường xuyên. Do vậy, người di cư có đầy đủ
thông tin về nơi đến qua họ hàng, điều này sẽ góp phần giảm những rủi ro do thiếu
thông tin và tăng cơ hội thành công của quá trình di dân. Do đó, “mạng lưới di cư”
là nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy quá trình chuyển cư.
1.2.1.3. Tác động kinh - tế xã hội của dòng di cư từ nông thôn ra
thành thị và vai trò can thiệp của chính phủ.
a. Tác động kinh tế - xã hội của dòng di cư từ nông thôn ra thành thị:
* Tác động tích cực của dòng di cư nông thôn – thành thị tới đời sống kinh tế -
xã hội:
Càng ngày, việc dịch chuyển dân cư và sự điều chỉnh lực lượng lao động đóng
góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Việt Nam. Dân di cư đóng
góp vào sự phát triển kinh tế thông qua:
Một là, dòng lao động di cư đã bổ sung lực lượng lao động đáng kể trong các
lĩnh vực kinh tế ở thành thị, giúp các nhà tuyển dụng tiếp cận nguồn lao động một
20
cách có hiệu quả, nhưng giá thấp bởi vì sự cung cấp lao động cần phải duy trì mức
lương cạnh tranh cho các nhà tuyển dụng.
Hai là, những người di cư chấp nhận những công việc khác nhau kể cả những
công việc mang tính chất tạm thời (như: gom phế liệu, nguyên liệu tái chế, bốc vác,
giúp việc gia đình…) ở những mức lương thấp mà người thành thị không làm nếu
không được bảm đảm các phúc lợi xã hội như bảo hiểm y tế và xã hội tốn kém. Do
vậy, di cư đã tạo ra một thị trường năng động mà trước đây chưa có.
Ba là, sự di cư trong nước hay từ nông thôn ra thành thị giúp giảm nghèo đói cụ
thể là: tăng khả năng kiếm tiền đáng kể so với thu nhập của người không di cư tại

nông thôn; có ảnh hưởng tích cực với kinh tế địa phương tại những nơi đến vì các
khoản chi tiêu của người di cư; gửi tiền về quê hương để đầu tư cho các hoạt động
tăng thu nhập, đầu tư kinh doanh, trả nợ, chi trả tiền chữa bệnh, tiền tiêu dùng của
gia đình, tiếp cận các kĩ năng làm việc và hiểu biết thông tin về thị trường, nắm bắt
kĩ năng kỹ thuật về áp dụng tại quê hương.
Bốn là, dòng di cư này cũng giúp giảm gánh nặng ngân sách nhà nước dành cho
các dịch vụ tại những nơi họ rời đi, trong khi đến nơi sinh sống họ lại không được
chính quyền hỗ trợ và đồng thời giúp chính quyền nơi đến giảm bớt các chi phí
quản lý các dịch vụ ở thành thị thông qua việc thu nhặt, vận chuyển phế liệu và như
vậy những người di cư tham gia vào dây chuyền sản xuất tái chế.
* Tác động tiêu cực của dòng di cư nông thôn – thành thị đến kinh tế - xã hội
- Lao động di cư - đối tượng ít được bảo vệ nhất trong thị trường làm việc mới
gia nhập. Họ thường không có bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm nghề
nghiệp hay tai nạn lao động do bản chất công việc của họ là tạm thời và không được
đăng kí hộ khẩu thường trú, người lao động di cư không thể tự bảo vệ mình khỏi
những rủi ro về sức khoẻ, họ không tự tổ chức được những cuộc thương lượng tập
thể để đòi hỏi một đồng lương xứng đáng và yêu cầu được bồi thường trong trường
hợp bị thương tật hoặc đau ốm.
- Những người di cư cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế và
xã hội. Họ không phải là đối tượng được quan tâm nhiều đến việc nâng cao khả
21
năng tiếp cận các dịch vụ y tế, nhà ở, xã hội cho người nhập cư, họ có lương thấp
nhưng nhu cầu tiết kiệm lại cao do vậy lao động di cư thường sống chui rúc trong
các khu nhà trọ đông đúc, thiếu thốn các tiện nghi cơ bản và an toàn. Bên cạnh đó,
tình trạng dễ tổn thương đói với nhóm phụ nữ di cư thường do bị xâm hại tình dục
và bạo lực, thậm chí gây nên các rủi ro lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường
tình dục và HIV/AIDS. Những vấn đề này ảnh hưởng rõ nét đến an ninh xã hội
cũng như vấn đề về môi trường ở các đô thị đông đúc người di cư.
- Cơ sở hạ tầng ở thành thi được cung cấp tốt hơn so với các vùng nông thôn
nhưng chỉ đảm bảo cho một khối lượng người cụ thể mà thôi. Khi có dòng di cư

quá lớn từ các vùng miền khác ra thành thị, cùng với điều này là khối lượng phương
tiện giao thông sử dụng cũng tăng lên đáng kể sẽ tác động tới yếu tố hạ tầng như:
đường xã, đất đai, nhà ở đều trở nên quá tải ở thành thị.
b. Vai trò can thiệp của chính phủ:
* Nhận định: Việc di dân từ những vùng nông thôn lên thành thị là một thực tế
cần được chấp nhận và di dân nội địa là một động lực của phát triển đô thị. Thay vì
hạn chế việc di cư hoặc chối bỏ sự có mặt của người nông thôn ở thành phố, các
quốc gia nên coi đây là một cơ hội để phát triển. Hầu hết kinh nghiệm của các quốc
gia trên thế giới cho thấy, việc cố gắng hạn chế dòng di cư từ nông thôn lên các
thành phố lớn bằng các biện pháp hay rào cản trực tiếp hay gián tiếp, ngấm ngầm
hoặc công khai thực sự không hiệu quả bởi nó không chặn đứng được dòng di cư
mà còn gây ra sự xung đột không cần thiết và gây ra cái giá phải trả về những cơ
hội bị bỏ lỡ về tăng trưởng kinh tế và sự hội tụ mức sống (Báo cáo phát triển thế
giới năm 2009), vì vậy thay vì chống lại sức hút những người di cư rời làng quê của
họ, chính phủ nên cố gắng xóa bỏ những nhân tố đang xô đẩy người dân ly hương.
Những chính sách nhằm kiềm soát di dân sẽ gây ra hậu quả phản tác dụng và cần
được loại bỏ, không nên xem di chuyển nội địa tự nguyện hay chủ yếu là di cư nông
thôn – thành thị là mối đe dọa, thực tế là di cư nội địa mang lại cho các xã hội cơ
hội để tăng trưởng kinh tế và hội tụ phúc lợi xã hội. Bên cạnh đó, sự di cư quá tải sẽ
dẫn đến tình trạng không thể kiểm soát và gây ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống kinh
22
tế - xã hội. Do vậy, cần có sự can thiệp của nhà nước vào vấn đề này một cách phù
hợp và đúng đắn để đạt được sự bền vững về cả kinh tế, xã hội và văn hoá.
* Vai trò của chính phủ:
Một là, lồng ghép di dân vào các chương trình phát triển và xoá đói giảm nghèo,
đặc biệt là những chương trình có mục tiêu giảm nghèo. Chính phủ cần nắm rõ
thông tin nhiều hơn về tình hình di cư để có sự can thiệp kịp thời: hỗ trợ về nhà cửa,
việc làm và tiếp cận vốn vay ngân hàng, dịch vụ y tế, giáo dục, nắm bắt được nhu
cầu của từng nhóm di cư khác nhau trong tổng số lao động phổ thông.
Hai là, cần có sự phân bố đồng đều quyền lợi ở thành phố chứ không phải nới

rộng khoảng cách giữa giàu và nghèo, tăng cường việc làm ở khu vực nông thôn và
tạo ra công nghệ lao động.
Ba là, Nhà nước cần có các chính sách để hạn chế tổn thất cho người di cư khi
họ đến nơi ở mới, tạo điều kiện ổn định cho người di cư và nâng cao khả năng tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
1.2.2. Bối cảnh toàn cầu hoá `và tác động của toàn cầu hóa đến dòng di
cư nông thôn ra thành thị.
1.2.2.1. Khái niệm toàn cầu hóa
Theo từ điển Bách khoa: Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay
đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi
ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá,
kinh tế, v.v. trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu
như được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương
mại hay "tự do thương mạị" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các
dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật,
công nghệ, thông tin, văn hoá.
Theo quan niệm của Ủy ban Châu Âu cho rằng: “Toàn cầu hoá có thể định nghĩa
như là một quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác
nhau đang trở nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhau do có sự năng động của việc buôn
23
bán hàng hóa và dịch vụ cũng như có sự lưu thông tư bản và công nghệ. Đây không
phải là hiện tượng mới mà là sự tiếp tục của một tiến trình đã được khơi mào từ khá
lâu”. Theo quan niệm trên thì thực chất toàn cầu hóa là toàn cầu hóa kinh tế.
Theo IMF, “Toàn cầu hoá là sự gia tăng của quy mô và hình thức giao dịch hàng
hóa, dịch vụ xuyên qua sự lưu thông vốn quốc tế với việc truyền bá rộng rãi nhanh
chóng của kĩ thuật làm tăng mức độ phụ thuộc lẫn nhau của nền kinh tế các nước
trên thế giới.”
Theo nghị quyết Đại Hội Đảng toàn quốc IX thì: “Toàn cầu hoá là sự tự do hóa
thương mại, thị trường. Toàn cầu hóa đó là tiến trình toàn cầu hóa về kinh tế, chính
trị, văn hóa – xã hội được đẩy mạnh bởi công nghệ tin học và viễn thông”.

Dù có nhiều định nghĩa khác nhau về toàn cầu hóa, song tất cả những định nghĩa
được đề cập đến trong các nghiên cứu chủ yếu là toàn cầu hóa về kinh tế. Có thể
nói, toàn cầu hóa về kinh tế vẫn là một đề tài chiếm vị trí trọng tâm, những lĩnh vực
khác của toàn cầu hóa cũng đều xuất phát từ những nguyên nhân và lý do kinh tế,
những mối quan hệ kinh tế - chính trị - xã hội vượt ra khỏi biên giới quốc gia một
nước. Vì vậy, có thể nói: “Toàn cầu hóa ngày nay có bản chất chủ yếu là toàn cầu
hóa kinh tế, với những tác động sâu rộng của nó đến các mặt đời sống xã hội như:
quân sự, chính trị, văn hóa, môi trường…và việc giải quyết các vấn đề nảy sinh
trong các lĩnh vực này không thể không liên quan đến toàn cầu hóa kinh tế”.
1.2.2.2. Các kênh tác động nói chung trong bối cảnh toàn cầu hoá
Toàn cầu hóa đã và đang mang lại những biến đổi to lớn và sâu sắc, tác động
hầu như mọi lĩnh vực của cuộc sống, do vậy, các kênh tác động và nội dung ảnh
hưởng của toàn cầu hóa cũng rất đa dạng. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài nên
phần này tôi sẽ chỉ trình bày kênh tác động của toàn cầu hóa có liên quan đến quá
trình di cư nói chung và di cư nông thôn – thành thị nói riêng (sẽ được trình bày ở
mục sau đó). Các kênh tác động của toàn cầu hoá đến nền kinh tế các quốc gia nói
chung trên thế giới: tự do vốn đầu tư, xuất nhập khẩu, tự do thương mại, chuyển
giao công nghệ, kĩ năng quản lý, tự do di chuyển lao động toàn cầu.
24
- Kênh tự do hoá thương mại: Tự do hoá thương mại thúc đẩy việc mở rộng
phân công và hợp tác lao động giữa các nước, làm cho việc phân bố và sử dụng các
nguồn tài nguyên, nguồn nhân lực và các nguồn lực khác của các nước hợp lý hơn.
Tự do hoá thương mại thúc đẩy cạnh tranh về giá cả, chất lượng hàng hóa và các
tiểu chuẩn khác về quy trình sản xuất, quản lý, môi trường lao động, quan hệ lao
động…Do vậy, yêu cầu đối với đào tạo, huấn luyện nguồn nhân lực ngày càng cao
và có tác động đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp. Tự
do hóa thương mại cũng làm cho các nước mở rộng thị trường lao động, thêm được
cơ hội việc làm do xuất khẩu hàng hóa, nguồn lao động được phân bổ hợp lý hơn và
thu hút nhiều lao động hơn vào các khu vực chế xuất và sản xuất phục vụ xuất khẩu,
đã giải quyết một khối lượng công ăn việc làm rất lớn cho những lao động phổ

thông. Mặt khác, tự do hoá thương mại còn là một thách thức lớn đối với các nước
đang phát triển, do hàng hóa có hàm lượng tri thức cao của các nước này chiếm tỉ lệ
thấp, trình độ sản xuất hạn chế, hàng hóa không có khả năng cạnh tranh được với
hàng hóa của các nước phát triển nên tình trạng biến động trong sản xuất kinh
doanh, việc làm, lao động dư dôi…có thể xảy ra trong quá trình mở cửa thương
mại.
- Kênh tự do hoá vốn đầu tư: Di chuyển vốn thường kèm theo di chuyển công
nghệ, kiến thức kinh doanh, quản lý. Do vậy, kích thích phát triển giáo dục đào tạo
lao động lành nghề và lao động có trình độ cao để đáp ứng sự phát triển của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trên cả ba lĩnh vực, tay nghề, năng lực
quản lý và tác phong làm việc, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường
có những tác động tích cực, làm tăng chất lượng lao động, đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động. Năng suất lao động của các nước
đang phát triển bị ảnh hưởng lớn bởi các công ty có vốn đầu tư nước ngoài thể hiện
là năng suất lao động có xu hướng tăng lên đi kèm với quá trình chuyển giao công
nghệ, kiến thức kinh doanh, điều này làm cho cơ cấu lao động cũng dịch chuyển
theo, lao động sẽ đi tới đâu mà có năng suất cao hơn tương ứng với mức lương cao
hơn hay từ khu vực thành thị ra khu vực nông thôn. Một thực tế là dòng vốn đầu tư
25

×