Chuyện cổ tích về loài người của Xuân Quỳnh và cấu trúc huyền
thoại
TS. Đào Ngọc Chương
Trường Đại học KHXH&NV tp.Hồ Chí Minh
Xuân Quỳnh là nhà thơ tình. Điều đó không có gì phải bàn cãi. Xưa nay
các nhà phê bình và người đọc vẫn nhìn nhận như thế và mãi mãi vẫn thế.
Một nhà thơ tình tài hoa mệnh bạc! Tôi lại quan tâm đến bài thơ chị viết
cho trẻ thơ, Chuyện cổ tích về loài người, như một kiểu bài thơ ngoại vi
của thơ chị. Nhưng một điều thú vị trong văn chương: đôi khi tác phẩm
được coi là ngoại vi lại mang cái ánh loé rực sáng nhất trong dòng sáng
tạo của tác giả. Chuyện cổ tích về loài người của Xuân Quỳnh với cấu trúc
huyền thoại là một tác phẩm như thế.
Trong Huyền thoại Đức, J. Grimn từ những dấu vết của ngôn ngữ, ví dụ
trong các tên gọi tưởng mơ hồ, đã đi xuyên qua truyện cổ tích, truyền
thuyết dân gian, tìm tới những cội nguồn xa xôi là huyền thoại. Rồi J.
Grimn tìm thấy cội nguồn của hiện tượng song hành trên cơ sở nhất thần
luận giữa huyền thoại đa thần giáo với huyền thoại Thiên chúa giáo. Qui
luật của những dịch chuyển, thay đổi tương ứng giữa ngôn ngữ với huyền
thoại đã được J. Grimn xác lập dựa vào cây cầu truyền thuyết dân gian,
truyện cổ tích. E.M. Meletinsky cũng khẳng định mối quan hệ đó nhưng
đi theo chiều ngược lại khi mà truyện cổ tích như là đích đến trong mối
quan tâm của ông, ít nhất là trong trường hợp này: “Truyện cổ tích thoát
thai từ huyền thoại, đó là một điều chắc chắn”
(1)
. Còn con đường tôi đi vào
Chuyện cổ tích về loài người của Xuân Quỳnh là lần theo hiện tượng
chuyển hoá của huyền thoại như một kiểu phục sinh hay là tái sinh của
loài rồng trong dòng thác của những cơn mưa và trong lời của hoa cỏ giữa
trời – cuộc tái sinh mà ta thường gọi là hiện tượng huyền thoại hoá. Ở
đây, chúng ta nhận ra một hiện tượng trùng phức như thể thứ trò chơi của
giấc mơ trong cảm thức thời gian mà sáng tạo thi ca từng phô diễn.
“Chuyện loài người” là câu chuyện của huyền thoại về thời gian đầu tiên,
thuở khai thiên lập địa được thuật lại bằng quan hệ tiếp nhận cổ tích khi
tác giả hướng về người nghe trẻ em, và nhân vật trẻ con thành trung tâm.
Tất cả hiện ra trên những dòng thơ năm chữ như lời tâm tình.
Huyền thoại đã sống như thế - tái sinh với những hoá thân - trong văn
chương hiện đại nhưng là hiện ra từ nơi chiều sâu tâm thức con người. Ở
nơi ấy, huyền thoại như dòng sông mà mọi kiểu sáng tạo nghệ thuật khi
ngang qua đó (hay ra đi từ đó) đều đẫm những hơi sương. Cái nhịp điệu
vũ trụ (hay là nhịp điệu huyền thoại) đã được tái lập theo cách ấy trong
Chuyện cổ tích về loài người:
Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác
Bài thơ như một dòng chảy – dòng thơ trước tiếp dòng thơ sau – chỉ âm
thanh hiện lên thành nhịp: âm thanh của vần, âm thanh của thanh điệu –
con-trần/ cỏ-có / đêm-đen. Hình như một nhịp mạnh đi liền một nhịp yếu
hay một nhặt một khoan: con/trần/cỏ/có/ đêm/đen. Đó là thứ nhịp điệu có
một độ chênh cần thiết trong một vùng giới hạn cho một chu kỳ mới. Đó
là hiện tượng bất biến trong dịch chuyển và ngược lại, vì thế vũ trụ không
bao giờ tồn tại trong thế tĩnh tại. Một cấu trúc âm thanh tạo nhịp và
mang nghĩa.
Tiếp tục theo hướng ấy, chúng ta sẽ thấy rằng có một điều cần nói thêm
trong khổ thơ này là dòng thơ đầu khổ khép lại ở thanh sắc (nhất), và
cũng như vậy với dòng thơ cuối khổ thơ (khác). Sự sắp xếp âm thanh của
khổ thơ sẽ được thực hiện như sau: nhất/ con-trần/ cỏ-có/ đêm-đen/ khác.
Nếu chuỗi âm thanh đó được xếp theo chiều dọc như chiều của khổ thơ
thì tình hình sẽ rõ hơn:
nhất
con
trần
cỏ
có
đêm
đen
khác
Cấu trúc âm thanh của khổ thơ gợi lên hình ảnh quả trứng, nửa phần vỏ
trên là “nhất” và nửa phần vỏ dưới là “khác” – quả trứng tạo thiên lập địa,
quả trứng vũ trụ. Cấu trúc âm thanh kiểu như vậy được lặp lại ở từng khổ
thơ, và cả bài thơ cũng thế. Vì thế sự liên tục vẫn được bảo đảm trong thế
ngắt quãng giữa những khổ thơ. Những quả trứng con trong một quả
trứng lớn (hay một quả cầu lớn, một cái bọc lớn) mà nửa vỏ phần trên là
dòng thơ đầu: “Trời sinh ra trước nhất” và nửa vỏ phần dưới là dòng thơ
cuối cùng: “Chuyện loài người trước nhất”.
Chuyện cổ tích về loài người, vì thế, là câu chuyện về sự sáng tạo trời đất
và con người được thể hiện không chỉ qua nghĩa của từ mà qua cả cấu trúc
âm thanh của bài thơ với tư cách là một hình tượng thơ bao trùm toàn hệ
thống.
Và đồng thời, chính cũng trên cơ sở hệ thống âm thanh, cấu trúc bài thơ
như cấu trúc của cái bọc trăm trứng là cơ sở để Xuân Quỳnh đưa vào bài
thơ truyền thống văn hoá dân tộc với “cái bống cái bang… cánh cò, vị
gừng… con cóc, nàng tiên, cô Tấm…” một cách tự nhiên như thể đó là
chuyện của loài người. Ngay ở đây, chúng ta bắt gặp một cuộc gặp gỡ thú
vị giữa nhân loại và dân tộc. Cả bài thơ là một quả cầu tròn mà tính chu
kỳ là hướng vận động của thời gian tự nhiên theo nhịp điệu vũ trụ. Ý thơ
chuyển từ chuyện vũ trụ (Trời sinh ra trước nhất) sang chuyện loài người
(Chuyện loài người trước nhất), từ chuyện loài người sang chuyện văn
hoá dân tộc.
Nếu trở lại với biểu tượng quả trứng vũ trụ được thể hiện trong cấu trúc
âm thanh của bài thơ, chúng ta nhận ra thêm một điều thú vị khác của việc
tách quả trứng vũ trụ khúc xạ trong huyền thoại Thần Trụ Trời. Trên đây,
tôi đã thử sắp dọc chuỗi âm thanh của một khổ thơ, cả bài thơ cũng thế,
và hình thượng Thần Trụ Trời hiện ra – vị thần tạo thiên lập địa, tách đất
khỏi trời. Vị thần đó được hình dung bằng trục dọc âm thanh mà dòng
thơ đầu là nửa phần trên (trời) và dòng thơ cuối là nửa phần dưới (đất).
Nhưng đó cũng là hình tượng ông Đống: “Ông Đống cao to đến kỳ lạ. đầu
chạm trời, chân đạp đất, hai vai cao tầm mây. Ông khoả tay xuống đất, đất
thành đống lúa, ông vun đá thành núi, ông bới cát thành sông. Khi ông
bước, một chân ông đạp lên đỉnh núi này, chân kia đạp lên đỉnh núi khác.
Khi ông đi, bước chân ông đạp đổ cả vách núi đá, nghiền nhỏ thành đất
bụi. Giọng ông vang như tiếng sấm. Mắt ông sáng rực như những tia chớp
lửa. Hơi thở ông thổi tan cả đám mây đen, thành gió, thành bão, mưa
giông”
(2)
.
N.I. Niculin, trong bài viết “Các danh ngữ Việt: Ông Đống và Phù Đổng
(Gióng)”
(3)
đã khảo sát, lý giải mối quan hệ giữa Ông Đống với Ông
Gióng, rồi người anh hùng Phù Đổng với hình tượng Ilia Muromx trong
truyền thuyết Nga.
Điều đáng chú ý trong bài thơ Chuyện cổ tích về loài người là thần trụ trời,
tức Ông Đống, tách trời ra khỏi đất (như sự hình dung từ cấu trúc âm
thanh của bài thơ mà tôi đề nghị trên đây) của huyền thoại lại được hình
dung bằng hình ảnh trẻ con: “Chỉ toàn là trẻ con”: Ông Đống – Ông
Gióng. Dựa trên từ, dòng thơ có hai nét nghĩa: “trẻ con” là sinh vật duy
nhất và đầu tiên (được) “Trời sinh ra trước nhất”, đồng thời một dạng trẻ
con khổng lồ (“chỉ toàn là”) như kiểu một tập hợp mang ý nghĩa khổng lồ
của hình tượng Ông Gióng trong huyền thoại dân tộc – một đứa bé được
hoài thai từ bước chân của Ông Đống khổng lồ, sinh ra ba năm không biết
nói, không biết cười… Và lời nói đầu tiên là xin đi giết giặc, thế là lớn
phổng lên thành khổng lồ với các thức ăn thô mộc của quê… Trong cái
nhìn của Xuân Quỳnh, đó là hình tượng “trẻ con” chứ không phải trẻ em.
Trẻ con là tính cách, là phẩm chất, là tinh thần; trẻ em là thể xác, là thể
chất. Và điều quan trọng hơn ở đây chính là trẻ con bao hàm cả trẻ em và
người lớn. Chính vì thế, với từ “trẻ con”, Xuân Quỳnh, trong Chuyện cổ
tích về loài người, đã dẫn ta đến với hình ảnh những con người nguyên
thuỷ trong lịch sử loài người như Giambattista Vico và nhiều triết gia
khác cũng đã từng quan niệm như thế về con người nguyên thuỷ.
Nhưng một điểm khác biệt rất lớn và cực kỳ thú vị là, với Xuân Quỳnh,
“trẻ con” vừa giữ vai trò tạo thiên lập địa vừa là người làm nên truyền
thống văn hóa. Điều này gợi ra từ một từ khoá của bài thơ: “sinh ra” và
những cụm từ tương tự nghĩa với nó. Trời là tự sinh và sản sinh, đó là tạo
hoá: Trời sinh ra trước nhất. Ý nghĩa tự sinh và sản sinh của “trời” nằm
trong dòng chảy của hai dòng thơ theo kiểu bắc cầu liền mạch:
Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Nhưng từ đây, mọi từ sinh ra và những cụm từ tương tự nghĩa cần được
hiểu là được sinh ra, theo kiểu:
Mặt trời mới nhô cao
Cho trẻ con nhìn rõ
hay:
Nhưng còn cần cho trẻ
Tình yêu và lời ru
Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
hoặc:
Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu
Mà bà về ở đó...
Thực ra, ý kiến trên của tôi về nghĩa của từ sinh ra và những cụm từ
tương tự nghĩa với nó chưa thâu tóm hết hiện tượng đa nghĩa của bản thân
từ đó trong cấu trúc của từng câu thơ. Nhưng có một điều cần xác tín, đó
là vai trò và vị trí của “trẻ con” trong cái nhìn của nhà thơ. Cái nhìn này