Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Tác giả của bài thơ “Đi học” là một liệt sỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.79 KB, 4 trang )

Tác giả của bài thơ “Đi học” là một liệt sỹ
(Nguồn: )
Nhà thơ - liệt sỹ Minh Chính.
Bài thơ nổi tiếng “Đi học” được Minh Chính viết từ năm 1959, bằng mực Cửu
Long xanh đen trên giấy thếp, khi anh mới mười lăm tuổi. Bên dưới bài thơ có ghi “Kỷ
niệm thăm Thản”. Thản ở đây là Trạm Thản, một vùng đồi địa thế đẹp có rất nhiều cọ và
gần nhà anh.
“Hôm qua em tới trường/ Mẹ dắt tay từng bước/ Hôm nay mẹ lên nương/ Một
mình em tới lớp...”. Trong vài thập niên trở lại đây, không một cô cậu học trò nào trên đất
nước Việt Nam lại không biết đến những câu thơ đó trong bài thơ “Đi học” được in trong
sách Tiếng Việt lớp hai.
Điều mà tôi dám chắc lại càng được khẳng định hơn khi những câu thơ có vẻ
đẹp trong vắt đó được nâng cánh trên những giai điệu mang âm hưởng dân ca Tày - Nùng
của nhạc sĩ Bùi Đình Thảo, đã trở thành quen thuộc với không chỉ trẻ em. Nhắc đến Bùi
Đình Thảo, người ta nhớ ngay ông là một nhạc sĩ nổi tiếng với những ca khúc dành cho
tuổi thơ. Nhưng với tác giả bài thơ “Đi học”, ngoài cái tên Minh Chính, người ta hầu như
không biết gì thêm...
Tôi cũng nằm trong số những người này, cho đến trước mùa thu 1996. Năm đó
NXB Giáo dục chủ trương xuất bản cuốn “Thơ chọn với lời bình” (2 tập), gồm những bài
thơ hay nhất được chọn từ chương trình văn cấp tiểu học kèm theo các lời bình. Trong 6
bài thơ mà tôi nhận viết lời bình, có bài “Đi học” của Minh Chính. Công việc trôi chảy,
nhưng đến khi NXB yêu cầu làm tiểu sử sơ lược về các tác giả để in kèm tác phẩm được
chọn thì tôi gặp trở ngại...
Tôi không có thông tin gì về tác giả Minh Chính, ngoài một lần đã lâu lắm tình
cờ được nghe láng máng qua đài phát thanh: Minh Chính là một anh bộ đội và bài thơ “Đi
học” được gửi từ chiến trường ra NXB Kim Đồng. “Đi học” được chọn in trong một tuyển
thơ dành cho thiếu nhi và đến lúc ấy, người ta vẫn chưa biết tác giả ở đâu để gửi nhuận bút
và sách biếu! Chừng ấy chưa đủ “dựng” đôi dòng tiểu sử. Tôi và các biên tập viên NXB
Giáo dục đã mất khá nhiều thời gian để “tìm” Minh Chính mà không ra.
1
Bản thảo đầu tiên của bài "Đi học".


Tôi không quan tâm lắm đến việc hỏi nhạc sĩ Bùi Đình Thảo, phần vì không rõ
ông đang ở đâu, phần vì tôi tin là ông cũng chỉ biết bài thơ đã được công bố mà không
rành về tác giả của nó (nhạc sĩ đã mất một năm sau đó ở Hà Nam, tháng 12/1997). Nhưng
thật lạ, vào giữa lúc đã tưởng chừng phải bó tay thì trí nhớ của tôi chợt lóe lên. Tôi bỗng
nhớ có một lần nào đó, một nhà thơ trẻ ở Phú Thọ bảo rằng tác giả “Đi học” còn có một
người bạn gái đang làm việc ở trên đó.
Vậy là bắt đầu một hướng kiếm tìm. Cuối cùng thì tôi cũng gặp được chị H. -
nhà giáo ưu tú, lúc ấy đang giữ cương vị Phó giám đốc Sở Giáo dục Vĩnh Phú. Từ chị H.,
tôi được gặp em trai của anh Minh Chính - Giám đốc một nhà máy đang nổi đình đám lúc
bấy giờ ở miền trung du. Cũng nhờ chị H. mà tôi được tiếp xúc với nhiều kỷ vật của Minh
Chính do cụ thân sinh anh tin cậy cho xem: hai tập thơ khá dày của anh do cụ tự tay chép
lại để lưu giữ, nhiều bản thảo thơ rời và thư riêng mang bút tích của anh, bản nhạc do anh
sáng tác, một vài tập thơ mỏng in ở chiến trường có bài của Minh Chính, và cả Thẻ đoàn
viên của anh (thẻ mang số 1614002, ghi: “Ngày vào đoàn: 29/12/1963. Nhận dạng: cao
1m63, sẹo bên dưới trái cằm” )... cùng rất nhiều ký ức về anh còn nguyên vẹn trong tâm trí
những người thân yêu.
Tôi đã kể lại chi tiết hành trình “đi tìm” Minh Chính trong một bài báo đã được
giải thưởng cuộc thi phóng sự của tờ Tiền phong Chủ nhật. Đây là đoạn kết của bài báo
nói trên: “Tôi kể lại hành trình đi tìm tác giả bài thơ “Đi học” không phải với ý định đánh
giá một tài năng hay không phải tài năng (...). Đây cũng là dịp để tôi được biết thêm một
trong rất nhiều gương mặt của một thế hệ tuyệt đẹp - những người đã sẵn sàng hy sinh tất
cả: tình yêu, học hành, những say mê ước vọng của bản thân - để cầm súng ra trận. Nếu
không có sự dở dang nghiệt ngã ấy, nhiều người trong số họ rất có thể sẽ trở thành những
tài năng, những người nổi tiếng. Nhưng họ đã ra đi và mãi mãi không trở về. Tự hào thay
và cũng đau đớn thay!”.
Gia đình Minh Chính, cả hai bên nội, ngoại đều có truyền thống về dạy học và
văn chương. Năm đời bên nội có người làm đốc học, gần nhất là chú ruột anh - ông Hoàng
2
Trung Tích, một trong những vị Trưởng ty Giáo dục nổi tiếng của miền Bắc những năm
chống Mỹ. Bác ruột anh là nhà thơ, dịch giả Nhượng Tống, người mà tên tuổi đã gắn với

những áng văn dịch bất hủ từ nền văn học Trung Hoa.
Họ Hoàng, sinh ra ở quê nhà ý Yên (Nam Định) năm 1944, nhưng suốt tuổi thơ
và thời cắp sách, Minh Chính lại gắn bó với miền cọ Trung du (thôn Tiên Phú, xã Phú Hộ,
huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ). Đây là nơi gia đình anh đã dừng chân trên con đường
kháng chiến. Bố anh từng làm Trưởng ty Túc mễ (lương thực) của chính quyền Việt Minh,
sau này cụ là Phó ty Nông nghiệp tỉnh Vĩnh Phú cho đến khi nghỉ hưu. Trong 6 anh em
trong gia đình thì Minh Chính là người có thiên hướng văn chương rõ nhất. Một trong
những bài thơ thời “con nít” trường làng của anh còn giữ lại được là bài “Học làm thơ”:
Cô giáo dạy con làm thơ/ Con viết “tiếng ru của mẹ...” /Ngoài hiên sương muối phủ mờ/
Con vui như đàn chim sẻ/ Cô giáo gọi lên khẽ nói/ “Bài hay, em được điểm mười”/ Rồi
hai cô cháu cùng cười/ Hôm nay chấm bài cho mẹ...
Có một điều bất ngờ là bài thơ nổi tiếng “Đi học” được Minh Chính viết từ năm
1959, bằng mực Cửu Long xanh đen trên giấy thếp, khi anh mới mười lăm tuổi. Bên dưới
bài thơ có ghi “Kỷ niệm thăm Thản”. Thản ở đây là Trạm Thản, một vùng đồi địa thế đẹp
có rất nhiều cọ và gần nhà anh. Bản thảo lần đầu ấy, bài thơ có 4 khổ như sau: Cọ xòe ô
che nắng/ Râm mát đường em đi/ Hương rừng thơm đồi vắng/ Nước suối trong thầm thì/
Hôm qua em tới trường/ Mẹ dắt tay từng bước/ Hôm nay mẹ lên nương/ Một mình em tới
lớp/ Đường xa em đi về/ Có chim reo trong lá/ Có nước chảy dưới khe/ Thì thào như tiếng
mẹ/ Dù bom rơi đạn nổ/ Em vẫn học vẫn hành/ Vẫn ngắm màu cờ đỏ/ Rạo rực giữa rừng
xanh”.
Bài thơ được sửa chữa lại sau đó, vào năm nào không rõ, nhưng chắc chắn phải
sau năm 1964, khi chiến tranh phá hoại của Mỹ đã lan ra miền Bắc. Tôi đoán vậy vì thấy
bên lề bản thảo có nhiều gạch xóa và những câu thơ gợi không khí của chiến tranh. Đây là
một số câu thơ rời được viết thêm bên lề: “Trường của em be bé/ Nằm lặng dưới dặng cây/
Chiến hào chạy giữa lớp/ Chẳng sợ gì máy bay”; “Cô giáo em tre trẻ/ Dạy em hát rất hay”;
“Mũ rơm thơm em đội/ Hương cốm chen hương rừng”; “ Mỗi lần em tới lớp/ Là một lần
lớn thêm”... Cũng trong lần sửa chữa này, Minh Chính đã dùng gạch chéo xóa bỏ đoạn thơ
cuối trong lần viết đầu và ta có thể dễ dàng nhận thấy anh đã sắp xếp lại các câu thơ, đảo
lại trật tự các khổ thơ để có một bản chính thức đã quen thuộc với bạn đọc bây giờ.
Và như vậy cũng có nghĩa là bài thơ “Đi học” đã được sửa chữa khi tác giả của

nó đã trở thành một người lính. Năm 1963, khi đang là học sinh Trường cấp 3 Hùng
Vương (Phú Thọ), Minh Chính đã tạm gác con đường đèn sách, tình nguyện nhập ngũ.
Anh là lính bộ binh, hai lần đi B. Lần thứ nhất là năm 1966, vào chiến trường B2 và lần
thứ hai là năm 1969. Hoàn cảnh chiến trường ác liệt, lại là một Thượng úy Đại đội trưởng
của Sư đoàn 312, nhưng Minh Chính vẫn làm được nhiều thơ.
Anh bắt đầu in thơ trên một số tờ báo từ năm 1964: “Đường về quê mẹ”, “Dòng
sông Công”, “Mùa nhãn”, “Qua trường cũ”, “Cô gái lái đò trên sông Cam Lộ”... Thơ anh
không hiếm câu hay và chúng nằm trong phong cách chung của thơ ca quãng giữa giai
đoạn chống Mỹ, ngời lên niềm tin và lý tưởng của một thế hệ thanh niên mặc áo trận ra đi
từ các mái trường XHCN... Tiếc rằng, những bài thơ đó đã thất lạc khá nhiều. Chúng thất
lạc ngay tại chiến trường và thất lạc trên đường anh gửi ra các tờ báo miền Bắc.
Cuối năm 1969, Minh Chính trở lại chiến trường lần thứ hai. Trước khi đi, anh
gom những bài thơ còn giữ được gửi lại người thân. ở Quảng Trị một thời gian, đơn vị anh
tiếp tục vào sâu hơn để sang chiến trường K. Tại đây, vào một ngày của tháng 3/1970, anh
đã ngã xuống dưới những bóng cây thốt nốt giữa lúc mới 26 tuổi đời. Khi đó, anh không
thể biết rằng một năm sau bài thơ “Đi học” sẽ được ra mắt bạn đọc lần đầu tiên ở Hà Nội
3
Trần Hòa Bình.
-------------------
Đi học
(Bản in trong sách giáo khoa)
Hôm qua em tới trường
Mẹ dắt tay từng bước
Hôm nay mẹ lên nương
Một mình em tới lớp.
Trường của em be bé
Nằm lặng giữa rừng cây
Cô giáo em tre trẻ
Dạy em hát rất hay.
Hương rừng thơm đồi vắng,

Nước suối trong thầm thì…
Cọ xòe ô che nắng
Râm mát đường em đi.
BẤM VÀO ĐÂY !!!
4

×