Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Bài tiểu luận: Ảnh hưởng của truyền thống dân tộc đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.56 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang
2

NÔI DUNG
̣
I.  VAI TRO CUA GIÁ TR
̀ ̉
Ị TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC 
VIỆT NAM  ĐÔI V
́ ƠI  S
́ Ự HINH THANH T
̀
̀
Ư TƯỞNG HỒ 
CHÍ MINH
1.1. Ảnh hưởng của chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên 
cường, bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ 
nước của dân tộc Việt Nam đối với sự  hình thành, 
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.  Ảnh hưởng của truyền thống nhân nghĩa, đoàn 
kết   cộng   đồng,  tương   thân,   tương   ái   của  dân  tộc 
Việt Nam đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng 
Hồ Chí Minh
1.3.  Ảnh hưởng của truyền thống lạc quan, yêu đời 
của dân tộc Việt Nam đối với sự  hình thành, phát 
triển tư tưởng Hồ Chí Minh
1.4. Ảnh hưởng của truyền thống cần cù, dũng cảm, 
thông minh, sáng tạo và hiếu học của dân tộc Việt 


Nam đối với sự  hình thành, phát triển tư  tưởng Hồ 
Chí Minh
II. HÔ CHI MINH KÊ TH
̀
́
́ ƯA VA PHAT TRIÊN GIA TRI
̀
̀
́
̉
́
̣ 
TRUYÊN THÔNG DÂN TÔC VIÊT NAM TRONG TINH
̀
́
̣
̣
̀  
HINH M
̀
ƠÍ
2.1. Điều kiện lịch sử ­ xã hội Việt Nam và thế giới
2.2. Hồ  Chí Minh kế  thừa và phát triển các giá trị 
truyền thống dân tộc lên một tầm cao mới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

3


3

5

8

10

12

12
15
23
24


MỞ ĐÂU
̀
Tư  tưởng Hồ  Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. 
Cùng với chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng của Người là một bộ  phận hợp thành 
nền tảng tư  tưởng của Đảng, là kim chỉ  nam cho hành động cách mạng.  Nghiên 
cứu  và nhận thức  sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học của tư  tưởng Hồ  Chí 
Minh là tiền đề vững chắc để nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển tư 
tưởng của Người. Theo đó, cần đi sâu nghiên cứu, làm rõ những mối quan hệ  có 
tính quy luật, nguyên tắc về sự ra đời, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, 
nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam với 
tư  tưởng Hồ Chí Minh là cơ  sở  quan trọng để  thấy sự  tác động của giá trị  truyền 
thống dân tộc ta đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò, 
công lao to lớn của Hồ Chí Minh trong kế thừa, phát triển các giá trị truyền thống  

của dân tộc Việt Nam lên một tầm cao mới. 
Trong thơi ky qua đô lên chu nghia xa hôi, nh
̀ ̀ ́ ̣
̉
̃ ̃ ̣
ưng diên biên ph
̃
̃
́ ưc tap cua tinh
́ ̣
̉ ̀  
hinh thê gi
̀
́ ơi, khu v
́
ực, trong nươc đa va đang đăt ra 
́ ̃ ̀
̣
một tất yếu khách quan, mang 
tính cấp thiết, đòi hỏi phải đi sâu nghiên cứu mối quan hệ  giữa tư tưởng Hồ  Chí  
Minh với giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam và vận dụng trong  công tac tuyên
́
 
truyên, 
̀ giáo dục chính trị tư tưởng, đao đ
̣ ưc 
́ hiện nay, để khắc phục những hạn chế 
và góp phần nâng cao tinh thân canh giac cach mang, phat hiên va phan bac lai nh
̀ ̉
́ ́

̣
́ ̣
̀ ̉
́ ̣
ưng
̃  
tư tưởng, luân điêu xuyên tac, pha hoai cua cac thê l
̣
̣
̣
́ ̣ ̉
́
́ ực thu đich
̀ ̣  bao vê v
̉
̣ ưng chăc nên
̃
́ ̀ 
tang t
̉ ư tưởng cua Đang ta
̉
̉
.

2


NÔI DUNG
̣
I. VAI TRO CUA GIÁ TR

̀ ̉
Ị  TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VIỆT NAM 
ĐỐI VƠI S
́ Ự HINH THANH, PHAT TRIÊN 
̀
̀
́
̉ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
1.1. Ảnh hưởng của chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất  
trong đấu tranh dựng nước và giữ  nước của dân tộc Việt Nam đối với sự 
hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta, ra đời từ rất sớm  
cùng với sự ra đời của nhà nước Văn Lang từ thời thượng cổ và trở thành dòng chủ 
lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm 
của bản thân lịch sử  Việt Nam, do chính con người Việt Nam qua các thế  hệ  tạo 
dựng và trở thành sức mạnh nội sinh giúp dân tộc ta vượt qua muôn ngàn thử thách 
trong chống giặc ngoại xâm và thiên tai, bảo vệ  sự  trường tồn của dân tộc trong 
mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. 
Do là một nước nhỏ, lại nằm  ở vị trí địa lý có giá trị  chiến lược về kinh tế,  
quân sự, ngoại giao và giàu có về tài nguyên, khoán sản, “rừng vàng, biển bạc”, nên  
từ thời cổ đại cho đến hiện đại nước ta luôn bị  các thế  lực ngoại bang gây chiến  
tranh xâm lược và chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta. Trải qua rất nhiều  
cuộc “đụng đầu lịch sử” với các thế lực lớn, mạnh hơn ta gấp nhiều lần trong gần  
12 thế  kỷ  đã hung  đút và bồi đắp nên chủ  nghĩa yêu nước cho dân tộc Việt Nam.  
Đồng thời, đất nước ta tuy phì nhiêu, trù phú nhưng cũng lắm thiên tai, hạn hán, bão  
lụt. Từ rất sớm, nhân dân ta đã biết đắp đê để chống lũ lụt, đào kênh mương, làm thủy 
lợi để chống hạn hán...Tất cả những thành tựu đó trong quá trình xây dựng quê hương 
đều thắm đượm mồ hôi, nước mắt và xương máu của bao thế hệ, vì thế mà người  
Việt Nam rất nặng tình, nặng nghĩa với quê hương, xứ sở  của mình.  Cho thấy, chủ 
nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam không những 

được hình thành trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm mà còn là sản phẩm của hàng 
nghìn năm chống chọi với thiên tai để xây dựng và phát triển đất nước.
Hình thành từ  rất sớm và được bồi đắp liên tục trong thử  thách của mấy 
nghìn năm lịch sử, chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc 
3


Việt Nam có sức sống mãnh liệt, trường tồn với thời gian. Bởi nó đã ăn sâu, bám rễ 
trong tiềm thức của con người Việt Nam.  Yêu nước là tình cảm lớn nhất, bao trùm 
nhất, trở thành lẽ sống, thành tư duy chính trị và hành động ứng xử tự nhiên của mỗi  
người Việt Nam. Với người Việt Nam, không có gì quan trọng hơn là Tổ quốc được  
độc lập, thống nhất, không một ai và lý thuyết nào có thể kéo người Việt Nam ra khỏi  
trách nhiệm đối với đất nước. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không tách rời “nước”  
với “dân”, “nước” là nước của “dân” nên yêu nước luôn gắn liền với thương dân. 
Chủ  nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất trong đấu tranh dựng 
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam được biểu hiện rõ nét nhất qua lịch sử hào 
hùng của dân tộc. Bên cạnh đó, chủ  nghĩa yêu nước còn được biểu hiện qua bản 
sắc văn hóa của dân tộc luôn được bảo tồn, phát triển từ văn hóa dân gian cho đến  
văn hóa bác học, từ  những nhân vật truyền thuyết như  Thánh Gióng đến các tên 
tuổi sáng ngời trong lịch sử như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Trần Hưng  
Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung,…đều phản ánh hùng hồn chân lý đó. Chủ  nghĩa 
yêu nước còn được biểu hiện  ở  mỗi con người Việt Nam yêu nước, luôn mang 
trong lòng niềm tự hào dân tộc, sự kế thừa và phát huy nó trong điều kiện đất nước  
có chiến tranh và trong cả thời bình.
Theo dòng chảy lịch sử, chủ  nghĩa yêu nước Việt Nam được lưu truyền và 
phát triển qua các thế hệ, là “dòng sữa” nuôi dưỡng tâm hồn, bản lĩnh và trí tuệ của  
con người Việt Nam, là động lực tinh thần chủ yếu tạo nên sức mạnh to lớn của  
dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước trong mọi thời đại. Chủ nghĩa yêu nước 
và ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam vì thế  đã có ảnh hưởng sâu  
sắc đến sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tình yêu quê hương, đất nước đã nảy nở trong tâm hồn Hồ Chí Minh từ thuở 
nhỏ  qua  ảnh hưởng của gia đình, quê hương và đất nước. Sinh ra trong một gia  
đình nhà nho yêu nước, Nguyễn Sinh Cung sớm thấu hiểu sự cao đẹp của tình yêu 
quê hương, đất nước qua lời dạy của người cha, lời ru của mẹ và từ  tấm gương  
sáng ngời về lòng yêu nước, thương dân của thân phụ, thân mẫu. Đặc biệt, Người  
sinh ra, sống tuổi thơ tại quê hương Nam Đàn, xứ Nghệ, một vùng quê có “một bề 
dày lịch sử” yêu nước, chống giặc ngoại xâm và là cái nôi sản sinh ra các anh hùng,  
hào kiệt cho đất nước. Cũng tại nơi đây, Bác trực tiếp nếm trải tình cảnh người  
dân của một nước nô lệ; đau xót trước cuộc sống nghèo khổ, bị đàn áp, bị bóc lột  
cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương và tận mắt chứng kiến  
thái độ   ươn hèn, bạc nhược của bọn quan lại triều đình, những thất bại của các  
phong trào cách mạng.
Với lòng yêu nước, thương dân vô bờ bến, Nguyễn Tất Thành đã trăn trở về 
sự bế tắc đường lối cứu nước của dân tộc ta và quyết chí ra đi tìm một con đường  
cứu nước mới cho dân tộc. Lúc ấy, Người khẳng định rõ mục đích của chuyến đi:  
“Tôi muốn ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác, sau khi xem xét họ làm 
4


như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”[49, tr.3]. Cho thấy, tình cảm yêu 
nước trong Hồ Chí Minh đã được hiện thực hóa bằng ý chí và hành động tìm đường  
cứu nước. Chủ nghĩa yêu nước không những là động lực chủ yếu thúc đẩy Nguyễn  
Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước mà còn giúp Người xác định hướng đi và cách  
đi đúng, đó là đi về phương Tây và đi bằng con đường lao động. Người hiểu rõ, chỉ 
có đi sang phương Tây, mà trước hết là sang Pháp mới hiểu rõ kẻ  thù của dân tộc 
mình và chỉ có đi bằng con đường lao động thì mới đi được xa và được lâu. Thực tế, 
nếu không có tấm lòng yêu nước nồng nàn và một ý chí kiên cường, bất khuất thì 
làm sao Nguyễn Tất Thành dám dấn thân “vào hang cọp mới bắt được cọp” như thế 
được.
Chủ nghĩa yêu nước đã đưa Nguyễn Tất Thành đến được với chủ nghĩa Mác 

­ Lênin, tìm thấy lời giải đáp đầy thuyết phục về con đường cứu nước và giải phóng  
dân tộc. Chính tình yêu nước vô bờ  bến đó đã không kìm nén được cảm xúc của 
Người khi bắt gặp Luận cương của Lênin. Sau này, Người kể lại: “Luận cương của  
Lênin làm tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng  
đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng kín mà tôi nói to lên như  đang nói 
trước quần chúng đông đảo: Hởi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết  
cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”[39, tr. 127]. Hồ Chí Minh nêu rõ: 
“Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa công sản đã đưa tôi  
theo Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã 
hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người 
lao động trên thế  giới khỏi ách nô lệ”[39, tr.128]. Qua đó cho thấy, chủ  nghĩa yêu 
nước kết tinh trong Hồ Chí Minh là cầu nối giữa Người với chủ nghĩa Mác ­ Lênin ­  
Nguồn gốc lý luận chủ  yếu quyết định đến bản chất cách mạng và khoa học tư 
tưởng Hồ Chí Minh.
Các giá trị truyền thống dân tộc còn là động lực chủ  yếu chi phối mọi suy  
nghĩ, hành động của Hồ  Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của  
mình. Bác lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, chính là tự  đặt cho mình nhằm nhắc nhở 
Người và đồng bào luôn luôn yêu nước, suốt đời phấn đấu vì nước, vì dân. Thật 
vậy, suốt cuộc đời Người chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bật là làm sao cho 
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có 
cơm ăn, áo mặt, ai cũng được học hành. Đến khi sắp về cỏi vĩnh hằng, trong bản 
Di chúc lịch sử, Người viết: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục  
vụ  cách mạng, phục vụ  nhân dân. Nay dù phải từ  biệt thế  giới này, tôi không có 
điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn 
nữa”[26, 512]. 
Như vậy, chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất trong đấu tranh  
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là một truyền thống quý báu, là động lực tinh 
thần to lớn góp phần vào sự trường tồn của dân tộc và sự phồn vinh của đất nước.  
5



Đồng thời, các giá trị   ấy, đã  ảnh hưởng sâu sắc đến sự  hình thành, phát triển tư 
tưởng Hồ  Chí Minh.  Với cách nhìn  biện chứng cho thấy, nếu như  không có chủ 
nghĩa yêu nước là động lực để Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước thì sẽ không đến 
được với chủ nghĩa Mác ­ Lênin và từ đó không thể có tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ 
nghĩa yêu nước như con thuyền lớn đã đưa Bác đến được với chủ nghĩa Mác – Lênin 
và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. 
1.2.  Ảnh  hưởng của truyền thống nhân nghĩa,  đoàn kết  cộng  đồng, 
tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam đối với sự hình thành, phát triển  
tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân, tương ái là một truyền thống quý báu được 
hình thành, phát triển cùng với sự ra đời, phát triển của dân tộc Việt Nam; được tạo 
dựng, bồi đắp và phát triển bền vững từ đời này qua đời khác. Giá trị truyền thống  
ấy cho phép dân tộc Việt Nam quy tụ  sức mạnh tổng hợp to lớn để  chiến thắng 
thiên tai và giặc ngoại xâm trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của  
dân tộc. 
Việt Nam với vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên chứa đựng nhiều tiềm năng,  
nhưng cũng đặt ra không ít thách thức lớn đối với con người. Bên cạnh đó, dân tộc  
ta cũng luôn đứng trước nguy cơ mất độc lập do các thế lực ngoại bang lớn mạnh  
hơn ta gấp nhiều lần xâm chiếm. Từ thời cổ đại cho đến thời hiện đại, với độ dài  
thời gian gần 12 thế kỷ trong hơn 22 thế kỷ và số lượng các cuộc kháng chiến quá  
lớn so với các nước trên thế giới, buộc dân tộc ta phải biết huy động sức mạnh của 
toàn dân thì mới có thể chiến thắng được kẻ thù, bảo vệ non sông. Đúc kết từ thực  
tiễn đấu tranh chống thiên tai và địch họa, dân tộc Việt Nam đã động viên nhau: 
“đoàn kết thì sống, chia rẽ là chết”. Hơn nữa, văn hóa nhà ­ làng ­ nước tồn tại lâu 
đời trong lịch sử  dân tộc ta là cơ  sở  để  sinh sôi, nảy nở  truyền thống nhân nghĩa,  
đoàn kết, tương thân, tương ái. Làng, xã là đơn vị  quần cư  chủ  yếu và là đơn vị 
kinh tế ­ xã hội cơ sở của người Việt. Nơi đây, những tình cảm cao quý giữa người  
với người, giữa người với quê hương có điều kiện phát triển trở thành những giá trị 
cao quý đó là “tình làng, nghĩa xóm”, “một con ngựa đau, cả  tàu bỏ  cỏ”, “lá lành 

đùm lá rách” hay “tắt lửa tối đèn có nhau” … “Làng” thực sự trở thành “chất keo”  
bền chặt gắn bó, tạo dựng nên truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân, 
tương ái của dân tộc Việt Nam. 
Truyền thống nhân nghĩa thấm đượm trong mối quan hệ giữa các thành viên 
trong gia đình, phát triển trong quan hệ làng xóm và mở rộng ra cả cộng đồng dân 
tộc Việt Nam. Người Việt Nam lấy tình nghĩa làm cơ sở để đối nhân, xử thế ở đời:  
khen ngợi những tấm gương vì nghĩa cả và lên án mạnh mẽ những kẻ ác nhân, ác  
đức. Trước những tình cảnh khó khăn, họ cảm thấy thương mình và thương người  
cùng cảnh ngộ, sẳn sàng “nhường cơm sẻ áo”. Đồng thời, họ luôn kiên quyết đấu 
tranh chống lại mọi sự chà đạp lên phẩm giá cao đẹp của con người.
6


Tuy nhà, làng là cơ sở ban đầu nảy sinh tinh thần nhân nghĩa, đoàn kết nhưng  
với người Việt Nam, “nước” là trên hết. Họ luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên 
trên lợi ích của cá nhân, nhà, làng. Với quan niệm “nước mất thì nhà tan”, nên đất 
nước ta tuy có nhiều làng, xã khác nhau; nhiều dân tộc với những phong tục, tập  
quán khác nhau; nhiều giai tầng có địa vị  xã hội khác nhau, nhưng họ  luôn chung 
một điểm tương đồng để  cố  kết lại với nhau đó chính là vì “nước”. Họ  thường  
khuyên nhũ nhau: “Nhiễu điều phủ  lấy giá gương, người trong một nước phải 
thương nhau cùng” hay “Bầu  ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng 
chung một giàn”. Thật vậy, “nước” trở thành tiếng nói chung và là cơ  sở  để  “vua  
tôi đồng lòng”, “cha con nhất trí”, một khi cần có thể  động viên cả  nước chống 
giặc. Có lúc “làng” là thành lũy vững chắc để ngăn cản bước tiến, vùi thây sát quân 
thù, nhưng có lúc người dân sẳn sàng bỏ  nhà, bỏ  làng để  thực hiện “vườn không,  
nhà trống” trong chiến lược đánh giặc, giữ  nước. Với ý nghĩa đó, quá trình dựng 
nước và giữ nước của dân tộc ta luôn là thành quả của cả dân tộc, là sự thống nhất  
ý chí và hành động của cả lãnh tụ và dân chúng, trong đó “dân vi bản” ­ dân là gốc. 
Dân tộc Việt Nam không bao giờ cho phép và dung thứ âm mưu chia cắt đất 
nước hay tư  tưởng cát cứ  địa phương, chia rẽ  đoàn kết toàn dân tộc…Thực tiễn 

lịch sử  đã chứng minh, triều đại nào không biết phát huy sức mạnh đoàn kết dân 
tộc sẽ  phải chịu cái giá rất đắt. Sau thất bại của nhà Hồ  trong cuộc kháng chiến 
chống quân Minh, Nguyễn Trãi đã chỉ  rõ: “Nhân họ  Hồ  gây sự  phiền hà, để  trong 
nước lòng dân oán hận”. Sau này, trong khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi với tư 
tưởng “tập hợp bốn phương manh lệ” đã giúp Lê Lợi khắc phục sai lầm của nhà 
Hồ, phát huy sức mạnh toàn dân chúng trong kháng chiến chống quân Minh giành 
thắng lợi vẽ vang. 
Truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân, tương ái không những được thể 
hiện trong trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, mà còn được phản ánh vô cùng  
phong phú qua nền văn học dân gian, văn học hiện thực từ xưa đến nay. Văn học dân  
gian có huyền thoại “Âu Cơ  và Lạc Long Quân”, truyền thuyết “Sơn Tinh, Thủy  
Tinh”…. Văn học hiện thực có “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, “Hịch tướng sĩ” 
của Trần Quốc Tuấn. Cho đến nay, tư tưởng : “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân  
điếu phạt trước lo trừ bạo”, “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, đem trí nhân để thay  
cường bạo” của Nguyễn Trãi, hay: “…anh em hòa thuận, cả  nước chung sức” của  
Trần Quốc Tuấn…vẫn còn nguyên giá trị.
Truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc Việt  
Nam luôn được thế hệ người Việt Nam từ đời này sang đời khác nối tiếp nhau, kế 
thừa và phát triển, góp phần nuôi dưỡng tâm hồn, tư  tưởng, tình cảm của con 
người Việt Nam. Hồ  Chí Minh đánh giá cao truyền thống đoàn kết của dân tộc, 
đồng thời khẳng định đó là một chân lý bất diệt: “Nước Việt Nam là một, dân tộc 
Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ 
7


thay đổi”. Chân lý ấy, đã tác động mạnh mẽ đến con người, tư tưởng và cả  cuộc 
đời Hồ Chí Minh. 
Thấm nhuần truyền thống đoàn kết của dân tộc, Hồ  Chí Minh đã sớm nhận 
thấy âm mưu chia rẽ  đoàn kết dân tộc của thực dân Pháp nhằm dễ  bề  cai trị  đất  
nước ta. Ngay khi thiết lập nền thống trị   ở  Việt Nam, thực dân Pháp đã thi hành  

chính sách “chia để  trị”. Thủ  đoạn thâm độc đó nhằm làm suy yếu sức mạnh đấu  
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Người không những nhận thấy mà còn chỉ 
cho nhân dân ta thấy rõ thủ đoạn thâm độc đó: “Chủ nghĩa thực dân Pháp không hề 
thay đổi cái châm ngôn “chia để  trị” của nó. Chính vì thế  mà nước An Nam, một  
nước có chung một dân tộc, chung một dòng máu, chung một phong tục, chung một 
lịch sử, chung một truyền thống, chung một tiếng nói, đã bị  chia năm xẻ  bảy. Lợi  
dụng một cách xảo trá sự chia rẽ ấy, người ta hy vọng làm nguội được tình đoàn kết, 
nghĩa đồng bào trong lòng người An Nam và tạo ra những mối xung khắc giữa anh  
em ruột thịt”[29, tr. 116]
Hồ  Chí Minh thấy rõ một trong nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của  
các phong trào yêu nước cuối thế  kỷ  XIX đầu thế  kỷ  XX là do chưa có phương 
pháp đúng đắn để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết. Từ đó, Người quyết định  
không theo con đường cứu nước của các bật tiền bối, mà chọn hướng đi riêng cho  
mình, với mong muốn sau khi trở về nước sẽ quy tụ được sức mạnh toàn dân đánh 
giặc.  Thực tế,  khi đang hoạt động  ở  nước ngoài, Người nói sau này sẽ  “trở  về 
nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ  chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ,  
đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”[26, tr.192]. 
Có thể thấy, truyền thống đoàn kết của dân tộc kết tinh trong Hồ Chí Minh  
là cơ  sở ban đầu và quan trọng để  Người tiếp thu lý luận chủ  nghĩa Mác  ­ Lênin, 
vận dụng lý luận đó vào giải quyết đúng đắn, sáng tạo những vấn đề mà thực tiễn 
cách mạng Việt Nam đặt ra lúc bấy giờ. Thông qua những bài nói, bài viết và thực  
tiễn chỉ đạo cách mạng của Hồ Chí Minh, cho thấy truyền thống đoàn kết trong tư 
tưởng của Người có bước phát triển cao hơn về  chất, và mang đậm nét truyền  
thống dân tộc sâu sắc, như: tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” trước đây được Hồ 
Chí Minh kế  thừa, phát triển: “Gốc có vững, cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên  
nền nhân dân”[33, tr. 410].
Cùng với truyền thống đoàn kết, truyền thống nhân nghĩa, tương thân, tương ái 
của dân tộc Việt Nam cũng  ảnh hưởng không nhỏ  đến sự  hình thành, phát triển tư 
tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh. Trong tác phẩm “Hồ Chủ tịch lãnh tụ kính yêu của  
giai cấp vô sản và nhân dân Việt Nam”, đồng chí Trường Chinh có viết: “Một điều 

nổi bật trong đạo đức Hồ Chí Minh là lòng thương người”[14, tr. 263]. Tình thương  
của Người trước hết dành cho tất cả mọi người, trong đó dành tình cảm nhiều hơn  
cho những người lao động nghèo khổ, những người chịu thiệt thòi trong xã hội. Người 
còn dành tình cảm yêu thương đối với tất cả những người lầm đường lạc lối. Tình  
8


yêu thương con người của Bác luôn xác định yêu ­ ghét rõ ràng. Hồ Chí Minh bày tỏ 
thái độ căm ghét quân xâm lược, những kẻ áp bức bóc lột đã gây ra sự đau khổ cho 
nhân dân và phải bằng những hành động thiết thực, hiệu quả để đấu tranh giải phóng 
con người, dù có phải hy sinh bản thân mình. Tình yêu thương con người của Hồ Chí 
Minh phản ánh tư tưởng nhân văn cao cả, trên cơ sở tiếp nối và phát huy lên tầm cao  
mới của đức thương người, thương dân trong truyền thống dân tộc Việt Nam đã có từ 
hàng nghìn năm về  trước.
Truyền thống đó không những  ảnh hưởng đến tư  tưởng mà còn tác động 
mạnh mẽ đến nhân cách Hồ Chí Minh, một nhân cách vĩ đại luôn thống nhất giữa 
lời nói và việc làm, lý trí và tình cảm. Đó là nhân cách của một người trọng tình  
nghĩa và giàu lòng nhân ái. Hồ Chí Minh khuyên mọi người sống với nhau phải có 
tình, có nghĩa. Theo Người: “Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống với nhau không có 
tình nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ  nghĩa Mác ­ Lênin được”[43, tr. 554]. Không  
những thế, Người còn nêu một gương sáng về giàu lòng nhân ái, nhân đạo, sống có  
tình, có nghĩa. Trong những năm bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ  Chí Minh đã 
nhiều lần gửi thư  cho Khâm sứ  Trung kỳ  và Toàn quyền Đông Dương, nhờ  cho  
biết tình hình và địa chỉ của cụ Nguyễn Sinh Huy. Sau đó, có một bức thư cho biết  
Người gửi cho cha mình ba ngân phiếu, nhưng chỉ mới nhận được một lần trả lời.  
Một việc nhỏ   ấy thôi, cũng đã cho thấy Người lo việc cứu nước, nhưng không 
quên đạo làm con. Năm 1950, nghe tin anh cả Nguyễn Sinh Khiêm mất nhưng Bác  
không về  được vì đang bận chỉ  đạo chiến dịch Biên giới, Người đã gửi một bức  
thư  về  cho dòng họ  với những lời lẽ  thống thiết: “Than ôi! Tôi chịu tội bất đệ 
trước vong hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho một người con đã hy sinh tình  

nhà vì phải lo việc nước”[34, tr. 114]. Qua đó cho thấy, truyền thống nhân nghĩa, 
đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc không những ảnh hưởng mạnh mẽ tới  
sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh mà Người còn là hiện thân của giá  
trị truyền thống ấy. 
1.3.  Ảnh hưởng của truyền thống lạc quan, yêu đời của dân tộc Việt 
Nam đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Lạc quan, yêu đời là truyền thống vốn có từ ngàn xưa của dân tộc Việt Nam  
và được phát triển bền vững cho đến ngày hôm nay. Nó được hình thành là do đòi  
hỏi khách quan từ  thực tiễn cuộc sống mang lại; cho phép dân tộc Việt Nam luôn 
có đủ  bản lĩnh, niềm tin hướng về  tương lai tươi sáng của dân tộc cho dù phía  
trước còn gặp muôn ngàn khó khăn, thách thức. Tinh thần lạc quan đó không phải là 
sự  chủ  quan, tự  dối mình và dối người mà là dựa trên những cơ  sở  của niềm tin 
vững chắc vào sức mạnh của chính bản thân mình có thể nắm được vận mệnh của 
mình chứ không cúi đầu cam chịu số kiếp bị quy định sẵn từ đâu đâu; là tin vào sự 
tất thắng của chân lý, chính nghĩa, dù có thể trải qua những thất bại tức thời và còn  
nhiều những thách thức lớn phía trước. Giáo sư Trần Văn Giàu nhận định: “Trong 
9


tư tưởng lạc quan có một lòng tin mãnh liệt. Nhưng lòng tin đó không phải là một 
sự  tin tưởng có tính chất tôn giáo, mà là một sự  tin tưởng có tính chất khoa học, 
nghĩa là có căn cứ thực tế, dựa trên những suy lý chắc chắn, bằng vào kinh nghiệm 
lịch sử”[14, tr. 226].
Truyền thống lạc quan, yêu đời không phải chỉ  riêng dân tộc ta mới có. 
Nhưng đối với dân tộc ta, truyền thống  ấy được hình thành từ  rất sớm và được  
thử  thách bởi một điều kiện chiến tranh chống giặc ngoại xâm có tiềm lực lớn 
hơn ta, thường xuyên và lâu dài, hiếm có trong lịch sử  nhân loại, cùng với điều  
kiện thiên nhiên hà khắc luôn đe dọa đến sự  sinh tồn, phát triển của dân tộc ta.  
Trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc, từ thời Hai Bà Trưng đến thời Ngô Quyền  
có hàng trăm cuộc khởi nghĩa của dân tộc, với tinh thần lạc quan, dân tộc ta quyết 

“thua keo này, bày keo khác”, cuối cùng ta đã chiến thắng. Sau này, trong kháng chiến  
chống quân Nguyên ­ kẻ từng chinh phạt từ Âu sang Á, nổi danh bách thắng, nhưng 
khi đưa quân đến xứ ta, nó bị liên tiếp đánh bại ba lần, điều đó không thể là do may, 
rủi được. Mặt dù quân, dân ta có lúc phải bỏ thành, bỏ làng để chiến đấu, nhưng dân 
tộc Việt Nam vẫn lạc quan vì tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc, sức mạnh của 
“chính nghĩa” nhất định thắng “hung tàn”. Cho thấy, trong mọi hoàn cảnh, điều kiện, 
dân tộc Việt Nam luôn giữ cho mình một lối sống lạc quan yêu đời, yêu quê hương, 
đất nước…và luôn tin tưởng vào sức mạnh của chủ  nghĩa yêu nước, của tinh thần  
đoàn kết dân tộc; tin vào sự tất thắng của chính nghĩa, của chân lý, trí tuệ, bản lĩnh con  
người Việt Nam. 
Truyền thống lạc quan, yêu đời của dân tộc Việt Nam có ảnh hưởng sâu sắc 
đến sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Người không những tiếp thu  
truyền thống lạc quan, yêu đời của dân tộc mà còn là hiện thân của truyền thống  
ấy. Đồng chí Phạm Văn Đồng có viết: “Hồ Chủ tịch rất vui tính, vì vốn có cái tính 
lạc quan của những người quyết chiến, quyết thắng ngày nay và xây đắp đời sống  
tốt đẹp cho dân tộc ngày mai”[13, tr. 11]. Thực vậy, chúng ta thấy tinh thần lạc  
quan của Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc ở niềm tin vững chắc vào sự tất thắng của 
cách mạng Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp, Người khẳng định: Trường  
kỳ  kháng chiến nhất định thắng lợi. Trong kháng chiến chống Mỹ, Người nhận 
định: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh 
nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”[44,  
tr. 506].
Niềm tin đó hoàn toàn có cơ  sở  khoa học từ tình yêu quê hương, đất nước,  
đồng bào đến việc Bác nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác ­ Lênin, nắm vững xu thế 
thời đại và tin vào sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của tinh thần đoàn kết toàn 
dân…Trên thực tế, ngay khi tiếp cận chủ nghĩa Mác ­ Lênin, Người đã thấy được 
“đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” và xác  
định cách mạng Việt Nam phải đi theo phương hướng của cách mạng tháng Mười  
10



Nga. Tin vào sức mạnh to lớn của nhân dân, Người khẳng định: “dân khí mạnh thì 
không quân lính nào, súng  ống nào chống lại”[30, tr. 274]. Lạc quan, yêu đời là 
động lực mạnh mẽ giúp Hồ  Chí Minh vượt qua mọi khó khăn, gian khổ  để  vươn  
tới mục đích cao cả của cuộc đời hoạt động cách mạng. Càng trong khó khăn, gian  
khổ, hiểm nguy, Hồ Chí Minh càng có thái độ ung dung, thư thái, tự tin, bình thản.  
Đọc “Nhật ký trong tù” thấy rõ tinh thần  ấy: “Thân thể   ở  trong lao, tinh thần  ở 
ngoài lao, muốn nên sự  nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao”. Tinh thần lạc quan,  
yêu đời của Hồ  Chí Minh có  ảnh hưởng sâu sắc đến người Việt Nam yêu nước, 
giúp họ vượt qua mọi khó khăn để thực hiện nhiệm vụ cách mạng. “Tư tưởng lạc  
quan đã khuyến khích biết bao nhiêu là nghị  lực của nhân dân, đã làm bao nhiêu 
triệu người tránh khỏi cạm bẩy của Pháp, Nhật. Đã củng cố  lòng tin của quần  
chúng vào Đảng tiền phong biết nhìn xa, trông rộng và hướng dẫn đồng bào đi đúng  
đường trong những lúc khó khăn nhất, trong những đoạn đường dễ  vấp nhất”[14,  
tr. 238].
1.4.  Ảnh hưởng của truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng 
tạo và hiếu học của dân tộc Việt Nam đối với sự  hình thành, phát triển tư 
tưởng Hồ Chí Minh
Từ  khi mới ra đời, dân tộc Việt Nam đã cần cù, dũng cảm trong chống chọi  
với thiên tai, địch họa, mới tạo ra nơi sinh tụ của dân tộc và giữ  yên bờ  cõi. Thực  
vậy, nghiên cứu lịch sử văn hóa sông Hồng, sông Mã, cho thấy, dân Lạc Việt hình 
thành một cộng đồng lớn từ rất lâu đời và đã cùng nhau tự mình lao động để sinh tụ, 
chứ không phải thừa hưởng từ một cộng đồng nào khác. Chính vì công lao, mồ hôi 
tạo dựng rất lớn, từ đời này đến đời khác nên họ  rất gắn bó với quê hương. Cùng 
với khai phá mở mang đồng ruộng, dân tộc Việt Nam phải thường xuyên chống chọi 
với bão, lụt, hạn hán. Thần thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ là điển hình cho khai phá 
đất đai lên rừng, xuống biển; truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh là minh chứng cho 
chống chọi với thiên tai còn lưu truyền cho đến hôm nay. Công lao của các thế  hệ 
xây dựng cái nôi dân tộc lớn bao nhiêu, thời gian các thế hệ sinh sống dài bao nhiêu  
thì lòng yêu nước càng đậm đà bấy nhiêu. Đó là động lực lớn để họ bám trụ với quê  

hương, đất nước. Vì vậy, cần cù, dũng cảm trong lao động bao nhiêu thì trong chiến 
đấu chống giặc giữ nước, tinh thần ấy càng phát huy bấy nhiêu. Nếu không cần cù, 
dũng cảm sao ta có thể đủ sức chiến đấu chống lại bọn xâm lược lớn mạnh và lâu  
dài đến thế. 
Truyền thống cần cù, dũng cảm của dân tộc Việt Nam được biểu hiện sâu  
sắc  ở  con người Việt Nam luôn yêu quý lao động, người lao động, thành quả  lao  
động; tinh thần dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, hy sinh, gian khổ chiến thắng mọi  
kẻ thù của dân tộc. Câu chuyện Mai An Tiêm, truyền thuyết Thánh Gióng…đến các 
nhân vật lịch sử  như  Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung…là biểu hiện 
sinh động của truyền thống cần cù, dũng cảm của dân tộc.
11


Bên cạnh đó, dân tộc Việt Nam cũng rất thông minh và sáng tạo trong sản  
xuất và trong chiến đấu. Trải qua nhiều năm bị giặc phương Bắc đô hộ, nhưng dân  
tộc Việt Nam không những không bị đồng hóa mà còn giữ vững và phát triển một  
nền văn minh Trống Đồng, nền văn hóa Lạc Việt nổi tiếng, điều đó chứng tỏ  sự 
thông minh tài giỏi của dân tộc ta. Người Việt Nam còn có năng lực sáng tạo trên  
mọi lĩnh vực, nhất là trên lĩnh vực quân sự. Để chiến thắng đối phương có tiềm lực 
lớn hơn ta gấp nhiều lần, có nhiều kinh nghiệm và thủ  đoạn trong chiến đấu, đòi 
hỏi dân tộc ta phải không ngừng sáng tạo ra nghệ thuật đánh giặc giữ nước. Đó là 
nghệ thuật lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều, lấy đoản binh thay trường trận;  
nghệ thuật toàn dân đánh giặc; nghệ thuật tiên phát chế  nhân; nghệ  thuật tạo lực, 
lập thế, tranh thời…Những sáng tạo ấy đã góp phần làm nên chiến công hiển hách 
của dân tộc ta, tiêu biểu như: năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên  
sông Bạch Đằng; Năm 1077, Lý Thường Kiệt dùng đạo quân 10 vạn người đánh 
tan 30 vạn quân của Quách Quỳ; hơn 200 năm sau, Trần Quốc Tuấn với vài vạn  
quân tiêu diệt 50 vạn quân của Thoát Hoan; năm 1416, Lê Lợi khởi nghĩa đánh  
thắng quân Minh; Nguyễn Huệ đánh tan 20 vạn quân Thanh năm 1789...
Cùng với cần cù, dũng cảm, thông minh và sáng tạo, hiếu học đã trở  thành 

một truyền thống tốt đẹp có từ  ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam.   Biểu hiện 
trước hết của truyền thống hiếu học là tinh thần ham học hỏi, thích hiểu biết một 
cách tự nguyện. Với ý thức: “Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện” (Học không 
biết chán, dạy người không biết mỏi), ông cha ta xưa dù nghèo mấy cũng cố  cho 
con đi học kiếm dăm ba chữ  để  làm người. Biểu hiện thứ  hai của truyền thống  
hiếu học là thái độ luôn coi trọng sự học, coi trọng người có học:  “Kho vàng không 
bằng một nang chữ”, “Người không học như  ngọc không mài”. Từ  đó hình thành 
đạo lý tôn sư  trọng đạo “kính thầy mới được làm thầy”. Nguyễn Trãi đã chỉ  ra 
rằng: “Nên thợ  nên thầy vì có học, có ăn có mặc bởi hay làm” ý nói làm nghề  gì 
cũng cần học, có học mới tinh thông nghề nghiệp.
Tìm hiểu lịch sử giáo dục Việt Nam, chúng ta dễ dàng nhận biết dân tộc ta có 
truyền thống hiếu học từ lâu đời. Truyền thống ấy đã góp phần tạo dựng, bồi đắp 
và phát triển các giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc ngày càng phong phú, 
bền vững. Chính đức tính cầu học, cầu tiến, dân tộc  ta sẵn sàng tiếp thu cái mới, cái 
tiến bộ từ bên ngoài. Những tinh hoa văn hóa nhân loại từ phương đông đến phương 
tây khi vào Việt Nam đều được lựa chọn, cải biến những cái hay, cái đẹp thành giá 
trị riêng phù hợp với đặc điểm của dân tộc. Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông  
minh, sáng tạo và hiếu học có  ảnh hưởng sâu sắc đến hình thành và phát triển tư 
tưởng Hồ Chí Minh. 
Tiếp thu truyền thống cần cù, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước 
với đôi bàn tay trắng. Với đôi tay ấy, Người đã làm rất nhiều việc để sống và thực 
hiện mục đích cao cả của mình. Về sau khi trở thành Chủ tịch nước, bên cạnh gánh 
12


nặng việc nước, Người vẫn tranh thủ  giờ  rỗi để  tăng gia sản xuất. Bên cạnh,  
Người còn là một tấm gương mẫu mực về  lòng dũng cảm, bao nhiêu khó khăn, 
gian khổ, hiểm nguy vẫn không ngăn cản được bước tiến của Người trong quá  
trình tìm đường cứu nước và hoạt động cách mạng. Thật vậy, “đời sống và những  
tư  tưởng lớn, những tình cảm lớn của Hồ  Chí Minh thể  hiện sáng tỏ  phẩm chất 

của một người cách mạng vô sản dũng cảm kiên cường, triệt để, suốt đời hy sinh  
với khí phách của người chiến thắng, khí phách của chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, khí  
phách của những người mà sứ  mạng lịch sử  là đánh đổ  xã hội cũ và xây dựng xã 
hội mới xã hội chủ nghĩa”[14, tr. 294]. 
Cùng với lòng dũng cảm, trí tuệ thông minh và sáng tạo cho phép Người lựa  
chọn hướng đi cứu nước đúng và đến được với chủ nghĩa Mác ­ Lênin, vận dụng  
sáng tạo lý luận đó phù hợp với thực tiễn của cách mạng Việt Nam; kế  thừa các  
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Với tư 
duy độc lập, sáng tạo, thông minh hơn người, Hồ  Chí Minh đã phân tích sâu sắc  
nguyên nhân thất bại của các phong trào đấu tranh chống Pháp cuối thế  kỷ  XIX 
đầu thế kỷ XX. Người cho rằng con đường Đông du của cụ Phan Bội Châu chẳng 
khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, còn cụ Phan Chu Trinh thực hiện 
các biện pháp cải lương, chẳng khác nào “xin giặc rủ  lòng thương”. Từ  đó, Bác 
không theo con đường cứu nước của các bậc tiền bối mà có hướng đi riêng, đúng 
đắn nhất. 
Hồ  Chí Minh còn là hiện thân của truyền thống hiếu học. Kế  thừa truyền  
thống hiếu học của dân tộc từ quê hương, gia đình, trong những năm tháng ra đi tìm 
đường cứu nước, Người luôn thể hiện một nghị lực phi thường, bền bỉ tự học, tự 
đào tạo. Người đã học và làm rất nhiều nghề  khác nhau, bắt đầu từ  việc làm thợ 
đốt lò trên tàu viễn dương, làm đầu bếp ở Mỹ, quét tuyết ở Anh, bốc thuốc ở Thái  
Lan, viết báo, viết truyện, viết kịch, làm thợ chụp ảnh, thợ sửa đồng hồ… Nhờ tinh 
thần tự học mà việc Người làm cũng giỏi. Hồ Chí Minh  học ngoại ngữ, học viết báo, 
nghiên cứu chủ nghĩa Mác ­ Lênin, nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa  
nhân loại, đặc biệt là văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây. Người biết và sử 
dụng thông thạo nhiều ngoại ngữ nhờ tự học chứ không qua một trường đào tạo chính 
quy nào. Người học  ở sách báo, đồng nghiệp, bạn bè, nhân dân. Người học từ thực 
tiễn sinh động ở các nước đế quốc, nước thuộc địa, ở phong trào cách mạng trên thế 
giới. Chính quá trình tự nghiên cứu, học tập và khảo sát mà Hồ Chí Minh đã tìm ra con  
đường cứu nước cho dân tộc. Ngay cả những năm tháng cuối đời trên giường bệnh,  
mặc dù sức khỏe đã già yếu nhưng Hò Chí Minh vẫn thể hiện tinh thần hiếu học. Đại  

tướng Hoàng Văn Thái kể rằng, năm 1969, mỗi lần đến làm việc, ông thường thấy 
trên chiếc bàn con bên giường của Người để đầy sách báo đang xem. Ông lo lắng đến  
sức khỏe của  Người, nên đề nghị Bác nên đọc ít, để nhiều thời gian nghỉ ngơi thư thả 
cho lại sức, nhưng Bác trả lời: “Chú bảo Bác không đọc sách báo ư? Dù già yếu cũng  
13


phải học, phải đọc sách báo nâng cao hiểu biết và nhất là để  nắm vững tình hình  
chứ!”.
Như  vậy, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, các giá trị  truyền thống dân tộc  
Việt Nam được hun đúc, bồi đắp, phát triển bền vững và trở  thành sức mạnh nội  
sinh trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta qua các thời kỳ. Những 
giá trị  truyền thống  ấy là cội nguồn tư  tưởng lý luận quan trọng đối với sự  hình 
thành, phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh; góp phần khẳng định tính đúng đắn,  
cách mạng, khoa học và làm nên sức sống mãnh liệt tư tưởng của Người . “Hồ Chủ 
tịch là kết tinh của giá trị tinh thần của nhân dân ta suốt bốn nghìn năm lịch sử”[14,  
tr. 287].
II.  HÔ CHI MINH
̀
́
 KÊ TH
́
ƯA VA PHAT TRIÊN
̀
̀
́
̉  GIA TRI TRUYÊN
́
̣
̀  

THÔNG DÂN TÔC VIÊT NAM TRONG ĐIÊU KIÊN M
́
̣
̣
̀
̣
ƠI.
́
2.1. Điều kiện lịch sử ­ xã hội Việt Nam và thế giới
2.1.1. Điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược là xã hội phong kiến độc lập, 
nền nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách 
đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động… không mở ra khả năng cho Việt Nam cơ hội  
tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Khi thực dân Pháp xâm lược Việt  
Nam (1858) và hiệp định Patơnốt (1884) được ký kết, xã hội Việt Nam bước sang giai  
đoạn mới, trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Nói là một nước thuộc địa, nửa 
phong kiến là vì nước Việt Nam đã bị thực dân Pháp đặt ách thống trị, còn triều đình 
phong kiến tồn tại để làm tay sai cho chúng. 
Trong lòng xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến không những không thủ 
tiêu mâu thuẫn cũ mà còn hình thành nhiều mâu thuẫn mới đan xen nhau, song mâu 
thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và  
bọn phong kiến tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức và bóc lột càng tăng thì mâu  
thuẫn đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn vong của dân tộc càng 
phát triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và hình thức. Trái lại,  
sự  xung đột về  quyền lợi riêng của mỗi giai cấp trong nội bộ  dân tộc được giảm 
thiểu và không quyết liệt như cuộc đấu tranh dân tộc. Hồ Chí Minh đã vạch rõ vấn 
đề  này từ  năm 1924 rằng: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như   ở 
phương Tây... Sự xung đột về  quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó, không 
thể chối cãi được” [28, tr. 464].
Tuy triều đình Nguyễn đã đầu hàng Pháp nhưng dân tộc Việt Nam không 

bao giờ  chịu khuất phục trước kẻ  thù xâm lược. Với lòng yêu nước và căm thù 
giặc, các phong trào đấu tranh chống Pháp nổ ra liên tiếp trong khắp cả nước theo  
nhiều hệ  tư  tưởng khác nhau. Các phong trào đấu tranh theo hệ  tư  tưởng phong 
kiến có Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật,  
Tôn Thất Thuyết…Các phong trào đấu tranh theo hệ  tư  tưởng tư  sản như: phong 
14


trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam phục hội…Phong trào 
nông dân có khởi nghĩa Yên Thế  của Hoàng Hoa Thám. Dưới sự  đàn áp của thực 
dân Pháp và bọn phong kiến tay sai, tất cả các phong trào trên đều bị thất bại.
Nguyên nhân sâu xa của sự thất bại đó là do thiếu đường lối chính trị  đúng 
đắn, khoa học, thiếu sự lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến. Giai cấp phong kiến, có  
vai trò tiến bộ nhất định trong lịch sử đã trở thành giai cấp phản động, bán nước, tay 
sai cho đế quốc. Giai cấp tư sản mới ra đời, còn non yếu với lực lượng kinh tế phụ 
thuộc và khuynh hướng chính trị  cải lương, không có khả  năng lãnh đạo cuộc đấu 
tranh chống đế quốc và phong kiến để giành độc lập tự do cho dân tộc. Giai cấp nông 
dân và tiểu tư sản khao khát độc lập, tự do, hăng hái chống đế quốc và phong kiến, 
nhưng không thể vạch ra con đường giải phóng đúng đắn và không thể đóng vai trò 
lãnh đạo cách mạng. Cách mạng Việt Nam đứng trước cuộc khủng hoảng trầm trọng 
về đường lối cứu nước.
Thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX nói  
lên một sự  thật lịch sử là: không thể  cứu nước trên lập trường phong kiến hay lập 
trường của giai cấp tư sản, tiểu tư sản. Các đường lối và phương pháp ấy đều không 
đáp ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở 
thành hệ  thống thế  giới. Chủ  nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đang đòi hỏi  
được đổi mới, đó là một nhu cầu cấp thiết của dân tộc lúc bấy giờ.
2.1.2. Bối cảnh thế giới
Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai  
đoạn tự  do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế  quốc chủ  nghĩa). 

Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó  
chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia  
phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm 
hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của  
các nước đế  quốc. Đến năm 1914, các nước đế  quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, 
Nhật chiếm một khu vực thuộc địa rộng 65 triệu km2 với số dân 523,4 triệu người 
(so với diện tích các nước đó là 16,5 triệu km2 và dân số  437,2 triệu). Riêng diện 
tích các thuộc địa của Pháp là 10,6 triệu km2 với số dân 55,5 triệu (so với diện tích 
nước Pháp là 0,5 triệu km2 và dân số 39,6 triệu người). Qua đó cho thấy, chủ nghĩa 
đế quốc là một hiện tượng quốc tế, một hệ thống thế giới, chúng vừa tranh giành 
xâu xé thuộc địa, vừa hùa nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ yếu trong vòng kìm kẹp 
của chúng và mỗi dân tộc thuộc địa là một mắt khâu của chủ nghĩa đế quốc. Do đó 
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa sẽ không không bao giờ 
giành thắng lợi được nếu đó chỉ là hành động riêng lẽ của từng dân tộc mà phải trở 
thành một mặt trận chung chống đế quốc thực dân.
Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga thành công (1917) mở ra một thời đại mới,  
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.  
15


Lúc này, các dân tộc thuộc địa của đế  quốc Nga được giải phóng và được hưởng  
quyền dân tộc tự quyết, kể cả quyền phân lập, hình thành nên các quốc gia độc lập và  
quyền liên hợp, dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết 
(1922). Từ đó cho thấy, cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng về sự giải  
phóng dân tộc bị áp bức đã “mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc,  
thời đại giải phóng dân tộc”[37, tr. 562]. Nó làm cho phong trào cách mạng vô sản ở 
các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước  
thuộc địa phương Đông có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ 
thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế  Cộng sản được thành lập. Tại Đại hội II của 

Quốc   tế   Cộng   sản   (1920), bản   “Sơ   thảo   lần   thứ   nhất   những   luận   cương   về 
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin được công bố. Bản luận cương  
này đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức đó là đi theo 
con đường cách mạng vô sản.
Vấn đề  thời đại đặt ra yêu cầu đối với mỗi dân tộc thuộc địa là muốn cứu 
nước và giải phóng dân tộc mình phải bằng con đường cách mạng vô sản và phải  
biết đoàn kết trong phong trào cách mạng vô sản thế  giới. Lúc này, chủ  nghĩa yêu  
nước của dân tộc không cho phép tự giới hạn trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược 
để  giải phóng dân tộc mà phải tiến tới xóa bỏ  mọi áp bức, bóc lột, bất công, mọi  
nghèo nàn, lạc hậu để giải phóng giai cấp và giải phóng con người; yêu nước phải 
gắn liền với yêu chủ  nghĩa xã hội, sức mạnh dân tộc phải kết hợp với sức mạnh  
thời đại. Trong hoàn cảnh ấy, giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam đã được Hồ Chí 
Minh kế thừa và phát triển lên tầm cao mới như thế nào?
2.2. Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống dân tộc  
lên một tầm cao mới
2.2.1. Hồ Chí Minh luôn đề cao giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam
 Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ  nước các giá trị  truyền thống  
dân tộc Việt Nam theo thời gian đã trở  thành lẽ  sống của mỗi con người Việt  
Nam, làm cho vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào 
sự sống còn và phát triển của dân tộc. Đồng thời, các giá trị truyền thống đó luôn 
là niềm tự hào lớn lao của người Việt Nam nói chung và đối với Hồ Chí Minh nói  
riêng.
Theo Hồ Chí Minh, các giá trị truyền thống dân tộc là sức mạnh tinh thần to  
lớn của Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước qua các thời kỳ lịch sử.  
Trong các giá trị truyền thống ấy, Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao sức mạnh của chủ 
nghĩa yêu nước, coi đó là một chân lý bất diệt: “Dân ta có một lòng nông nàn yêu
̀
 
nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị 
xâm lăng, thì tinh thân 

̀ ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn song vô cùng m
́
ạnh mẽ, to 
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ  
16


cướp nước...Chúng ta có quyền tự hào về những trang sử ve vang th
̉
ời đại Bà Trưng, 
Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung…Chúng ta phải ghi nhớ  công lao 
của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”[35,  
tr.171]. 
Hồ  Chí Minh nhận định chủ  nghĩa yêu nước Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt  
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và nó cũng giữ nguyên giá trị trong thời kỳ 
xây dựng đất nước. Chủ  nghĩa yêu nước thời bình được thể  hiện bằng sự  phát 
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, dân giàu, nước mạnh. Nó thể hiện trong phong trào 
thi đua của những người lao động tiên tiến, trong cuộc đấu tranh cho sự công bằng  
và tiến bộ xã hội, cho sự tổ chức công việc một cách khoa học… Nó còn biểu hiện 
qua sự đấu tranh không khoan nhượng đối với những khuyết điểm, thiếu sót. 
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng rất đề cao truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết 
của dân tộc ta. Người khẳng định đoàn kết là quy luật sống còn đối với dân tộc:  
“Sử  ta dạy ta rằng: lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như  một thì nước ta độc 
lập, tư do, trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”[42, tr. 
217]. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết là sức mạnh vô địch, là cơ sở nền tảng, là điều 
kiện tất yếu đưa sự  nghiệp kháng chiến đi đến thắng lợi, kiến quốc đến thành 
công. Người cho rằng, đoàn kết mới có lực lượng tiến hành cách mạng, theo đó 
đoàn kết càng chặt chẽ thì sức mạnh càng cao, đoàn kết càng rộng rãi thì thắng lợi  
càng vĩ đại. Từ nhận thức giá trị truyền thống đoàn kết nên Bác luôn đặc biệt quan 
tâm đến vấn đề đoàn kết, coi đó là chiến lược lâu dài của cách mạng Việt Nam và  

là cội nguồn sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Bác khẳng định: “Đoàn 
kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”[40, tr. 350].  
Trong kháng chiến chống Pháp, Người chỉ  rõ: Sự  đồng tâm của đồng bào ta đúc 
thành một bức tường đồng xung quanh tổ  quốc, dù địch hung tàn, xảo quyệt đến 
mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại. Đến thời kỳ 
chống đế quốc Mỹ xâm lược, Người tiếp tục khẳng định: “Đoàn kết là sức mạnh 
vô địch của chúng ta…Dù giặc Mỹ hung ác đến đâu, sức mạnh đoàn kết vĩ đại của  
chúng ta sẽ đánh thắng chúng”[42, tr. 287].
Theo Người, sức mạnh đoàn kết không chỉ  tất thắng trong kháng chiến mà 
còn tất thắng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vì thế, Hồ  Chí 
Minh luôn chăm lo xây dựng khối đoàn kết toàn dân để phát triển kinh tế, văn hóa, 
giáo dục…Người kêu gọi: “Các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể, các tôn giáo, các 
dân tộc, các nhân sỹ  tiến bộ, đã đoàn kết phải đoàn kết hơn nữa, cùng nhau đẩy  
mạnh phong trào thi đua yêu nước, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, làm cho 
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chúng ta tiến nhanh, tiến mạnh,  
tiến vững chắc”[40, tr. 348].
Ngoài ra, Hồ Chí Minh luôn xem trọng truyền thống lạc quan, yêu đời; truyền 
thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo và hiếu học của dân tộc Việt Nam.  
17


Người không những là tấm gương sáng về tinh thần lạc quan, yêu đời, cần cù, dũng 
cảm, thông minh sáng tạo và hiếu học, đồng thời, Người cũng luôn quan tâm giáo 
dục cho mọi người tiếp thu, lĩnh hội và hiện thực hóa các giá trị  truyền thống  ấy  
trong thực tiễn cuộc sống và hoạt động cách mạng. “Đồng chí Hồ Chí Minh là một 
chiến sĩ cộng sản kiên cường, một người theo chủ nghĩa quốc tế, đồng thời là một 
người tượng trưng cho dân tộc mình ­ Một dân tộc anh hùng, yêu hòa bình, có lòng 
tự hào chính đáng và có tinh thần độc lập tự chủ, một dân tộc khiêm tốn thực sự và 
hết sức coi trọng những giá trị  tinh thần ­ Một vị  lãnh tụ  mất mà để  lại bản “Di 
chúc” căn dặn đồng bào phải giữ gìn những giá trị đó. Lời hiệu triệu cuối cùng của 

Người là một văn kiện có sức mạnh tinh thần và gây xúc động lớn lao”[14, tr. 289].
Nhận thấy rõ sức mạnh to lớn của các giá trị  truyền thống dân tộc, Hồ  Chí  
Minh khẳng định: “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây 
nên cuộc nổi dậy chống thuế  năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản  
đối…cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh 
với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc dục thanh niên bãi khóa, làm cho  
những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khỡi nghĩa 
năm 1917”[28, tr.466]. Chủ nghĩa dân tộc mà Hồ  Chí Minh nói đến đó chính là chủ 
nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch  
sử. Thực vậy, “Giá trị truyền thống dân tộc là một sức mạnh vĩ đại không thể xem  
thường. Huy động các gái trị  của truyền thống để  làm cách mạng và kháng chiến  
hiện đại, là huy động sức mạnh của hàng mấy mươi thế kỷ, là mấy mươi thế kỷ tổ 
tiên ông cha ta cổ  vũ và trợ  chiến cho con cháu hoàn thành sự  nghiệp dân tộc”[14, 
tr.52].
Tự  hào về  các giá trị  truyền thống dân tộc là cơ  sở  quan trọng để  xây dựng  
niềm tin vào khả  năng của con người Việt Nam. Bởi vì, hơn ai hết, Hồ  Chí Minh  
hiểu rõ các giá trị truyền thống dân tộc vốn đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi  
con người Việt Nam.  Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã rèn luyện và 
hun đúc nên những thế hệ con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, sẵn sàng xả thân 
để cứu nước, đoàn kết, thủy chung, thông minh, sáng tạo, có tinh thần chịu đựng gian  
khổ, khó khăn... Những đức tính đó đã trở thành truyền thống mà hàng ngàn đời nay, 
những thế hệ con người Việt Nam đã nâng niu, gìn giữ và nó đã nuôi dưỡng, làm lớn 
lên những giá trị  tinh thần cao quý trong mỗi con người Việt Nam. Đây chính là 
nguồn lực vô tận để  đưa đất nước vượt qua mọi thử  thách, vững bước tiến lên. 
Chính vì thế trong hoàn cảnh đen tối nhất, Hồ Chí Minh vẫn lạc quan tin tưởng sâu  
sắc vào sức mạnh của dân tộc: “Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân  
không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của  
người Đông Dương…Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một 
cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ  bùng nổ  một cách ghê gớm, khi thời cơ 
đến”[25, tr. 28]. 

18


2.2.2. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị truyền thống  
dân tộc Việt Nam
Các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam sở dĩ vẫn tồn tại và phát triển bền 
vững qua hàng nghìn năm lịch sử  với nhiều biến cố  chính là do các thế  hệ  người  
Việt Nam không ngừng ra sức bảo vệ, giữ  gìn. Khi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ 
tiến hành chiến tranh xâm lược các nước thuộc địa nói chung và nước ta nói riêng, 
chúng đã thi hành chính sách cai trị dã man và thâm độc trên mọi lĩnh vực đời sống xã 
hội Việt Nam. Chúng không những muốn hủy điệt tất cả sự sống của đất nước mà 
còn hòng thủ tiêu các giá trị truyền thống của dân tộc để dễ bề cai trị. Bên cạnh thực  
hiện chính sách  “chia để trị”, “ngu dân dễ trị”, đầu độc dân ta bằng rượu cồn, thuốc  
phiện, thủ  tiêu tinh thần đấu tranh của nhân dân… chúng còn ngăn chặn mọi  ảnh  
hưởng của nền văn hóa dân chủ tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam, đem văn hóa phản 
động, trụy lạc nhồi sọ nhân dân ta. Trong khi đó bọn chúng vẫn hô hào khẩu hiệu “tự 
do, bình  đẳng, bác ái”, “khai phá văn minh” để  che đậy bản chất xấu xa đó của 
mình.
Phát huy tinh thần của dân tộc, nhận diện rõ âm mưu thủ  đoạn của kẻ  thù, 
hơn ai hết Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị truyền thống 
dân tộc trong điều kiện mới. Theo Người, đó chính là cơ sở để phát huy sức mạnh 
của dân tộc trong kháng chiến và kiến quốc. Thông qua đó sẽ khơi dậy và làm sống 
lại các giá trị  truyền thống trong mỗi con người Việt Nam; đấu tranh loại bỏ  các  
văn hóa xấu độc của kẻ thù, văn hóa lỗi thời, lạc hậu của chế độ củ; xây dựng một  
nền văn hóa mới có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. Nói chung là phải biết  
kết hợp giữa xây và chống, trong đó “xây” là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài.
Để bảo vệ và giữ gìn có hiệu quả các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, 
Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi người mà nhất là cán bộ, đảng viên trước hết phải hiểu 
biết về lịch sử: “dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Bởi 
vì, người ta chỉ bảo vệ những cái gì người ta biết. Các giá trị truyền thống dân tộc  

Việt Nam được hình thành và phát triển qua từng giai đoạn lịch sử nhất định cho nên 
chỉ trên cơ sở hiểu biết về lịch sử mới có thể cảm nhận đầy đủ và sâu sắc giá trị của 
truyền thống dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh từng cảnh báo: “Coi chừng, có nhiều  
người Việt Nam lại không hiểu rõ lịch sử, đất nước, con người và những cái vốn rất  
quý báu của mình bằng người nước ngoài”[43, tr. 557]. Trên thực tế, Hồ Chí Minh đã 
viết nhiều bài báo, tài liệu tuyên truyền, nói chuyện ở nhiều nơi, mở nhiều lớp bồi  
dưỡng, huấn luyện để giáo dục truyền thống. Trong đó Người chú trọng khơi dậy 
truyền thống yêu nước của dân tộc thông qua các tấm gương cụ thể như: “Người già  
như  ông Lý Thường Kiệt quá 70 tuổi mà vẫn đánh Đông, dẹp Bắc, bao nhiêu lần 
đuổi giặc cứu dân. Thiếu niên như Đổng Thiên Vương chưa đến 10 tuổi mà đã ra tay 
cứu nước, cứu nòi. Trần Quốc Toản mới 15, 16 tuổi đã giúp ông Trần Hưng Đạo  
19


đánh phá giặc Nguyên. Phụ nữ có Bà Trưng, Bà Triệu ra tay khôi phục giang san”[42,  
tr. 216]. 
Bảo vệ, giữ  gìn giá trị  truyền thống dân tộc không có nghĩa là cất giữ  khư 
khư mà theo Người, phải biết khơi dậy biến nó thành hành động trên thực tế: Tinh  
thần yêu nước cũng như  các thứ  của quý. Có khi được trưng bày trong cửa kính, 
trong bình pha lê, rõ ràng, dễ  thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín trong giương,  
trong hòm, bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý (kín đáo ấy) đều được  
đưa ra trưng bày.
Đồng thời, theo Hồ Chí Minh bảo vệ và giữ gìn các giá trị truyền thống dân tộc 
không có nghĩa là đóng cửa, khép kín mà phải đi đôi với tiếp thu các giá trị văn hóa 
nhân loại xưa và nay. Bởi vì, nếu không mở mang đầu óc với thế giới bên ngoài thì 
sớm hay muộn sẽ suy thoái. Theo Người, cái gì bổ ích và cần thiết, cái gì tốt và hay 
thì ta phải học lấy, tiếp nhận để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa 
hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân. Nói như vậy để thấy 
không   phải   mọi   thứ mới   lạ đều  bổ   ích.   Cái   gì mới mà hay thì   tiếp   thu,   còn 
cái mới mà lai căng, xấu xa thì cương quyết loại bỏ. Thực tiễn về sự thất bại của  

các phong trào yêu nước cuối thế  kỷ  XIX đầu  thế kỷ XX cho thấy chủ nghĩa yêu 
nước truyền thống không phát huy sức mạnh để chiến thắng kẻ thù. Nhưng chủ nghĩa 
yêu nước đó, trong thời đại Hồ  Chí Minh đã được nâng lên một tầm cao mới và trở 
thành sức mạnh to lớn của dân tộc làm nên chiến thắng vĩ đại. Vì “ở Người, tinh hoa  
của dân tộc được kết hợp với chủ nghĩa Mác ­ Lênin ­ đỉnh cao của tư tưởng loài Người  
trong thời đại mới”[14, tr. 287].
2.2.3. Hồ  Chí Minh coi trọng việc kế  thừa và phát triển các giá trị  truyền  
thống dân tộc Việt Nam lên tầm cao mới
Là một anh hùng giải phóng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, Hồ Chí  
Minh không những có công lao to lớn trong sự  nghiệp giải phóng dân tộc, giải 
phóng giai cấp, giải phóng con người mà còn có vai trò quan trọng trong kế thừa và  
phát triển các giá trị  truyền thống dân tộc lên một tầm cao mới. Hồ  Chí Minh đã 
“khơi dậy những tiềm năng bị chôn vùi, phát huy những sức mạnh sẳn có, làm nảy 
nở những cái mới, cái hay, cái đẹp của cả dân tộc và trong mỗi con người”[10, tr.  
27]. Chính điều đó đã “làm cho tất cả những gì tốt đẹp của dân tộc trong bốn nghìn 
năm lịch sử  đều sống dậy tràn đầy sức mạnh hơn bao giờ  hết trong thời đại Hồ 
Chí Minh”[14, tr. 288].
Các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam dù đã khẳng định sức mạnh to lớn  
trong lịch sử dựng nước và giữ  nước của dân tộc ta. Tuy nhiên, khi thực dân Pháp 
tiến hành xâm lược và đặt ách thống trị lên đất nước ta thì các giá trị truyền thống ấy 
đã bộc lộ những hạn chế trước yêu cầu của lịch sử trong thời cận hiện đại. Sự thất  
bại của phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến hay hệ tư tưởng tư sản  
chứng tỏ chỉ có lòng yêu nước thôi thì chưa thể giải phóng được dân tộc, đòi hỏi chủ 
20


nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết và các giá trị truyền thống khác của dân tộc  
phải có sự phát triển phù hợp với thời đại mới. Vậy đứng trước yêu cầu cấp bách 
đó, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống dân tộc lên tầm cao 
mới như thế nào?

Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất  
khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc lên một tầm cao mới.
Hồ  Chí Minh đã kế  thừa và phát triển chủ  nghĩa yêu nước truyền thống lên 
một trình độ  cao, khác về  chất, đó là yêu nước trên lập trường của giai cấp công 
nhân. Chỉ có yêu nước trên lập trường của giai cấp công nhân thì chủ nghĩa yêu nước  
mới phát huy tối đa sức mạnh. Vì chủ nghĩa yêu nước luôn phản ánh tính chất giai  
cấp sâu sắc. Trong khi đó, giai cấp công nhân là sản phẩm của thời đại mới, là giai 
cấp tiên tiến nhất, triệt để cách mạng nhất và là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch 
sử lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động lật đổ chủ nghĩa tư bản xây dựng thành 
công chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Giai cấp công nhân Việt Nam, tuy  
còn nhỏ  bé trong điều kiện nước thuộc địa, nhưng ngoài đặc điểm chung của giai 
cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam còn được kế  thừa chủ  nghĩa  
yêu nước của dân tộc, lại sớm tiếp thu ánh sáng chủ  nghĩa Mác ­ Lênin và rất gần  
gũi với nông dân, nên Hồ Chí Minh khẳng định, chỉ có giai cấp công nhân Việt Nam  
mới có đủ  khả  năng lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi. Do vậy chủ  nghĩa yêu 
nước chỉ trên lập trường của giai cấp công nhân mới phát huy sức mạnh chiến thắng  
kẻ  thù vốn là một lực lượng có tính quốc tế. Người chỉ  rõ: vấn đề  dân tộc phải  
được giải quyết trên lập trường giai cấp công nhân; độc lập dân tộc gắn liền với 
chủ nghĩa xã hội. Theo Người, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải 
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô 
lệ”[39, tr. 128]. Từ đó, Bác yêu cầu: “Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với  
yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình ngày một no 
ấm thêm, tổ quốc ngày một giàu mạnh thêm”[38, tr.173].
Trên cơ sở kế thừa và có sự phát triển chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã 
triệt để  phát huy sức mạnh của chủ  nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc. Tinh  
thần đó được thể hiện khi xác định mục tiêu của cách mạng ngay trong cương lĩnh 
đầu tiên do Người soạn thảo: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” hay  
tinh thần “dù đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải đấu tranh giành cho kỳ  được  
độc lập dân tộc”. Theo Người “ Hể còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta  
còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”. Khi nền độc lập bị  huy hiếp thì  

“Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm 
nô lệ”. Người chỉ  ra, vấn đề  trước mắt cho các nước thuộc địa  ở  phương Đông 
không phải là làm ngay một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà trước hết phải  
đấu tranh giành độc lập dân tộc, sau đó mới có điều kiện tiến lên làm cách mạng  
xã hội chủ nghĩa. Vì theo Hồ Chí Minh, dân tộc chưa được giải phóng thì giai cấp  
21


cũng chưa được giải phóng; Giải phóng dân tộc là điều kiện, tiền đề  để  giải 
phóng giai cấp; độc lập dân tộc là tiền đề đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời, theo Hồ  Chí Minh, chủ  nghĩa yêu nước thống nhất với chủ  nghĩa 
quốc tế  của giai cấp công nhân. Trước việc kẻ thù tuyên truyền chủ  nghĩa chủng  
tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, thói kỳ thị màu da, tiếng nói, phong tục, tập quán... 
để chia rẽ giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh chỉ ra cách mạng vô sản phải thực hiện  
triệt để tư tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô 
sản trong sáng. Từ  đó, muốn giải phóng mình thì nhân dân “bị  bóc lột thuộc mọi  
chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức”[24, tr.452].
Qua đó cho thấy, chủ  nghĩa yêu nước trong thời đại Hồ  Chí Minh đã được 
nâng lên một tầm cao mới, khác về  chất so với chủ nghĩa yêu nước truyền thống. 
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống dựa trên lập trường của giai cấp phong kiến, giai 
cấp tư  sản chỉ  hướng tới giải phóng dân tộc chứ  chưa hướng tới giải phóng giai  
cấp, giải phóng con người; độc lập cho dân tộc chưa gắn liền với  ấm no, tự  do  
hạnh phúc cho nhân dân…rõ ràng như thế không phù hợp với xu thế phát triển của  
thời đại mới và không cho phép phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc 
tế  để  chống lại kẻ  thù chung là chủ  nghĩa đế  quốc. Kế  thừa có chọn lọc và phát 
triển chủ nghĩa yêu nước trong thời đại mới, Hồ Chí Minh khơi dậy truyền thống 
yêu nước của dân tộc, biến nó thành sức mạnh vật chất to lớn, “làm cho tinh thần  
yêu nước của mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc 
kháng chiến”[35, tr. 172].
Bên cạnh đó, ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất của dân tộc cũng được 

Hồ  Chí Minh phát huy tối ta trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong  
kháng chiến chống Pháp, Người nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm hoặc  
lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số  thành phố, xí nghiệp có thể  bị  tàn phá,  
song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến 
ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”[41,  
tr.108]. Trong kháng chiến chống Mỹ, Người cũng khẳng định ý chí và quyết tâm 
chiến thắng kẻ thù: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ  cứu nước có thể  kéo dài. Đồng 
bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm 
đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”[44, tr. 510].
Hồ  Chí Minh kế  thừa và phát triển truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết của  
dân tộc lên tầm cao mới. 
Hồ  Chí Minh cũng luôn coi trọng việc kế  thừa và phát triển truyền thống  
đoàn kết dân tộc, Người khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ  quý  
báu của Đảng và nhân dân ta”[44, tr. 510]. Kế thừa truyền thống đoàn kết của dân  
tộc nhưng tư tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh đã có sự phát triển phù hợp với thực 
tiễn của đất nước và yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Nếu như trước đây, dân tộc ta 
chỉ quan tâm xây dựng khối đoàn kết toàn dân thì trong thời đại Hồ Chí Minh đoàn  
22


kết được phát triển ở phạm vi rộng hơn bao gồm: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết  
toàn dân và đoàn kết quốc tế. Điều đó cho phép Đảng và Bác Hồ không những huy 
động sức mạnh dân tộc mà còn huy động sức mạnh của thời đại để  thực hiện  
thắng lợi mục tiêu của cách mạng. Sự kế thừa và phát triển truyền thống đoàn kết 
của dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh có thể thấy trên một số vấn đề sau:
Thứ  nhất, kế  thừa và phát triển truyền thống đoàn kết dân tộc trong  điều  
kiện mới, điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến có nhiều tầng lớp,  
giai cấp, có quan điểm, thái độ  khác nhau trong cuộc cách mạng vô sản. Hồ  Chí 
Minh đã khéo léo giải quyết hài hòa mối quan hệ  giai cấp và dân tộc, vấn đề  dân  
tộc chỉ được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân, nhưng vấn đề dân 

tộc là cao hơn hết thảy, vì theo Người, dân tộc không được giải phóng thì quyền 
lợi giai cấp ngàn năm cũng không đòi được. Hồ Chí Minh đã tìm ra “mẫu số chung” 
để  từ  đó huy động sức mạnh của toàn dân tộc, tất cả  mọi người Việt Nam yêu 
nước, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam  
trong nước hay ngoài nước…đều đoàn kết lại trong một mặt trận để chống kẻ thù 
chung của dân tộc. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc xác 
định: Dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều 
nhất trí chống cường quyền. Người cũng chỉ rõ, đoàn kết rộng rải nhưng phải lấy  
công nông làm gốc, vì theo Người, ai bị áp bức càng nặng thì tinh thần cách mạng 
càng bền, chí cách mệnh càng quyết: “Công nông là tay không rồi, nếu thua thì chỉ 
mất một kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới cho nên họ gan góc. Vì những cớ 
ấy, nên công nông là gốc cách mệnh…”[30, tr. 266].
Thứ  hai, đoàn kết dân tộc theo Hồ  Chí Minh phải trên lập trường của giai  
cấp công nhân, đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế để  chống kẻ 
thù chung của giai cấp, của nhân loại, đó là chủ nghĩa đế quốc. Tiếp nhận lý luận 
chủ  nghĩa Mác ­ Lênin và qua khảo sát thực tiễn về  bản chất của chủ  nghĩa đế 
quốc và số phận của những “người cùng khổ”, Người đã đi đến khái quát: “Vậy là, 
dù màu da có khác nhau, trên đời này, chỉ có hai giống người: giống người bị bóc lột  
và giống người bóc lột. Mà cũng chỉ  có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: Tình  
hữu ái vô sản”[27, tr. 266]. Từ  đó, Người đã làm được một việc quan trọng là:  
“Gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân 
dân ta đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến  
chủ nghĩa Mác ­ Lênin”[3, tr. 10]. 
Thứ  ba, theo Hồ Chí Minh, đoàn kết rộng rãi nhưng phải lấy công nông làm 
gốc và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong khi khẳng định  
cách mạng là sự  nghiệp chung của quần chúng nhân dân, bằng tư  duy biện chứng, 
Người chỉ rõ: Khối quần chúng có đông đến hàng triệu, hàng chục, hàng trăm triệu 
mà không được tổ chức lại, không được giác ngộ đưa ra tập dượt đấu tranh thì sẽ 
rời rạc như đũa mỗi chiếc một nơi và không thành lực lượng cách mạng được. Bác 
23



cảnh báo sẽ nguy hại khôn lường nếu khối quần chúng ấy không được tổ chức lại  
và bị kẻ thù lợi dụng cho mưu đồ chống lại dân tộc, chống lại bản thân quần chúng.  
Từ  đó, Hồ  Chí Minh yêu cầu cách mạng “trước hết phải có Đảng cách mạng, để 
trong thì vận động quần chúng, ngoài thì liên lạc với vô sản giai cấp mọi nơi”[30,  
tr.267]. Đảng trở thành nhân tố hàng đầu quyết định sự thành bại cách mạng vì dưới  
sự  lãnh đạo của Đảng, sức mạnh dân tộc được phát huy hơn gấp nhiều lần trước  
đây. Qua đó, cho thấy, Hồ Chí Minh không những đã kế thừa truyền thống đoàn kết 
của dân tộc mà còn phát triển truyền thống  ấy lên một tầm cao mới, khắc phục  
những hạn chế trong tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của một số nhà yêu nước 
Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế lỷ XX.
Hồ  Chí Minh luôn kế  thừa và phát triển truyền thống nhân nghĩa của dân  
tộc Việt Nam, tư  tưởng đó không dừng lại  ở  “thương người như  thể  thương  
thân”, hay “lá lành dùm lá rách” mà tình thương yêu dành cho tất cả  mọi người,  
không phân biệt màu da, chủng tộc. Lòng yêu thương trước hết dành cho những  
người lao động nghèo khổ, những người chịu thiệt thòi trong xã hội, yêu thương 
đối với những kẻ lầm đường lạc lối, “đối với kẻ lầm đường lạc lối, lòng Hồ Chí 
Minh còn rộng hơn biển cả. Người dạy phải khoan hồng, vui mừng  đón rước  
những đứa con vì cảnh ngộ  mà lạc bầy…Hồ  Chí Minh tin rằng người Việt Nam  
ai cũng yêu nước, muốn nước thống nhất, độc lập, ta khéo nhen chút than hồng 
ấy, nó sẽ  cháy lên thành ngọn lửa”[14, tr. 304]. Tình yêu thương con người của  
Bác luôn gắn liền với căm ghét bọn áp bức, bóc lột và kiên quyết đấu tranh, sẵn 
sàng chấp nhận hy sinh để thực hiện mục tiêu giải phóng con người.
Ngoài ra, Hồ  Chí Minh còn kế  thừa và phát triển truyền thống lạc quan,  
yêu đời, cần cù, dũng cảm, thông minh, hiếu học dân tộc trong điều kiện mới.  
Tinh thần lạc quan trong tư tưởng c ủa Ng ười luôn xây dựng trên cơ sở  niềm tin  
có tính khoa học, yêu đời nhưng sẳn sàng cống hiến cả  cuộc đời cho đất nước,  
cho nhân dân, cần cù là làm việc có kế  hoạch khoa học, cho kết quả  cao, ti ết  
kiệm thời gian và chi phí…Có thể  thấy, khi mà con đường cứu nước đang gặp 

sự  bế tắc, các giá trị  truyền thống của dân tộc vốn là sức mạnh tinh thần to lớn  
cũng không thể  phát huy để  bảo vệ  đất nước nhưng khi đến thời đại Hồ  Chí  
Minh thì “tất cả  những gì tốt đẹp của dân tộc trong bốn nghìn năm lịch sử  đều 
sống dậy tràn đầy sức mạnh hơn bao giờ hết”[14, tr. 288]. H ồ Chí Minh không 
những đã kế thừa mà còn phát triển các giá trị truyền thống dân tộc lên một tầm  
cao mới cao hơn. Đúng như  cố  Thủ  tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Từ  đầu  
những năm 20 của thế  kỷ  này, một con người đã trở  thành thân thiện của quá  
trình gặp gỡ lịch sử giữa một dân tộc, một thời đại, làm nên một sự  nghiệp lớn  
lao. Con Người ấy là Hồ Chí Minh. Dân tộc ấy là dân tộc Việt Nam”[11, tr. 10].
Tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam có mối quan  
hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, các giá trị  truyền thống tộc là 
24


cội nguồn tư tưởng lý luận có ảnh hưởng sâu sắc đến con người, cuộc đời và tư 
tưởng Hồ Chí Minh. Người đã kế thừa, “là kết tinh các giá trị tinh thần của nhân 
dân ta suốt bốn nghìn năm lịch sử”[14, tr. 287] và phát triển các giá trị  truyền 
thống  ấy lên tầm cao mới trong thời đại mới. Vấn đề  này đã góp phần khẳng 
định tính đúng đắn, khoa học, cách mạng tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời thấy  
được công lao to lớn của Người trong gi ữ gìn và làm phát triển các giá trị truyền  
thống dân tộc Việt Nam. Đây còn là cơ sở quan trọng để khắc phục những nhận  
thức lệch lạc về  nguồn gốc hình thành tư  tưởng Hồ  Chí Minh và là vũ khí sắc 
bén để  đấu tranh chống lại có hiệu quả  các quan điểm sai trái chống phá tư 
tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch hiện nay./.

KÊT LUÂN
́
̣
Tư  tưởng Hồ  Chí Minh và giá trị  truyền thống dân tộc Việt Nam có mối 
quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, giá trị truyền thống dân 

tộc Việt Nam là nguồn gốc tư  tưởng lý luận quan trọng đối với sự  hình thành, 
phát triển tư  tưởng Hồ  Chí Minh; hanh trang đâu tiên khi Ng
̀
̀
ươi ra đi tim đ
̀
̀ ường  
cưu n
́ ươc; t
́ ư tưởng Hồ Chí Minh là sự  kế  thừa và phát triển giá trị  truyền thống 
dân tộc lên tầm cao mới. Đây là một trong những quy luật, nguyên tắc cơ bản của 
quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. 
Nhận thức đầy đủ, sâu sắc mối quan hệ  trên là cơ  sở  để  khẳng định tính  
đúng đắn, cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị truyền thống 
dân tộc Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả  nghiên cứu, vận dụng, phát triển  
sáng tạo, bảo vệ có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị truyền thống dân tộc  
Việt Nam trong tình hình mới./.

25


×