BỘ LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG XÃ HỘI ( CS II )
TIỂU LUẬN
CHUYỂN ĐỔI VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
HUYỆN BÌNH ĐẠI – BẾN TRE TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
Giảng viên: Nguyễn Ngọc Tuấn
Lớp:
Thực hiện:
1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
5. Nguồn số liệu.
6. Kết cấu của đề tài.
PHẦN NỘI DUNG
CH ƯƠ NG 1. C Ơ S Ở LÝ LU Ậ N V Ề CHUY Ể N ĐỔ I VIỆ C LÀM CỦ A
LAO Đ Ộ NG NÔNG THÔN
1.1 Các khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm việc làm và người có việc làm
a. Việc làm;
b. Các hình thức việc làm;
c. Phân loại việc làm;
d. Thiếu việc làm;
đ. Thất nghiệp;
1.1.2 Dân số hoạt động kinh tế và không hoạt động kinh tế
1.1.3 Cơ cấu lao động
1.1.4 Đô thị hoá
1.2 Mối quan hệ giữa đô thị hoá với cơ cấu lao động và việc làm
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển đổi việc làm của lao động nông thôn trong
quá trình đô thị hoá.
1.3.1 Thị trường lao động;
1.3.2 Trình độ học vấn;
1.3.3 Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội;
2
1.4 Các mô hình chuyển đổi việc làm ;
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI LAO
ĐỘNG HUYỆN BÌNH ĐẠI HIỆN NAY
2.1 Bức tranh kinh tế xã hội huyện Bình Đại trong quá trình đô thị hóa ;
2.2 Quá trình thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất tác động đến việc làm
lao động nông thôn ;
2.2.1 Công tác thu hồi đất và chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở Huyện:
2.2.2 Chính sách hỗ trợ ;
2.2.3 Vấn đề việc làm trước và sau khi nhà nước thu hồi đất ở huyện Bình
Đại ;
2.3 Sự chuyển dịch lao động và hiệu quả khi chuyển đổi việc làm cho lao động
nông thôn huyện Bình Đại trong thời gian gần đây ;
2.3.1. Sự chuyển dịch lực lượng lao động nông thôn huyện Bình Đại trong
thời gian gần đây ;
2.3.2 Hiệu quả sau khi chuyển đổi việc làm ;
2.3.2.1 Hiệu quả thu nhập ;
2.3.2.2 Kết quả thực hiện ;
2.4 Đánh giá chung ;
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ
CHUYỂN ĐỔI VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN HUYỆN BÌNH
ĐẠI – BẾN TRE
3.1 Phương hướng phát triển kinh tế xã hội huyện Bình Đại đến năm 2015;
3.2 Một số khuyến nghị đối với vấn đề chuyển đổi việc làm của lao động nông
thôn huyện Bình Đại;
3.2.1 Khuyến nghị đối với Nhà Nước cấp Trung ương;
3.2.2 Đối với chính quyền địa phương, cơ sở;
3.2.3 Đối với người dân;
3.3 Một số giải pháp hỗ trợ cho việc chuyển đổi việc làm của lao động nông thôn
huyện Bình Đại;
3.3.1 Phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực;
3.3.2 Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách ;
3.3.3 Nhóm giải pháp về phát triển kinh tế xã hội ;
3
3.3.4 Quy hoạch các khu công nghiệp, khu đô thị mới gắn với giải quyết việc
làm cho người lao động;
3.3.5. Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động;
3.3.6 Phát triển thị trường xuất khẩu lao động;
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Quá trình đô thị hoá đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi cả nước nói
chung và Tỉnh Bến Tre nói riêng. Một mặt đô thị hoá là một trong những giải pháp
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo hưóng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đáp ứng mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá: phát triển mạnh các
ngành công nghiệp và thương mại – dich vụ mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong
giai đoạn từ nay đến năm 2020. Mặt khác đô thị hoá cũng là một trong những chỉ
tiêu quan trọng phản ánh sự phát triển của một đất nước. Tuy nhiên bên cạnh
những tác động tích cực, vẫn còn có không ít những bất cập, tồn tại đặt ra cần
phải giải quyết, đặc biệt là vấn đề lao động việc làm đối với một bộ phận lớn
dân cư nông thôn bị rơi vào tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm khi bị thu hồi
đất đai để phục vụ cho mục tiêu đô thị hoá.
Khu vực nông thôn tỉnh Bến Tre đang khởi sắc theo hướng đô thị hóa. Quá
trình xây dựng các khu, cụm công nghiệp, cảng cá, chợ đầu mối sẽ kéo theo sự
hình thành cụm dân cư mới … Nền kinh tế tỉnh Bến Tre trong những năm gần đây
đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đô thị hóa gắn với công nghiệp hóa – hiện
đại hóa nông thôn.
Bình Đại là một trong ba huyện giáp biển của tỉnh Bến Tre, nhưng không
được nhiều thuận lợi như Ba Tri và Thạnh Phú; Bình Đại nằm trên Cù lao An Hóa,
so với các huyện khác trong tỉnh Bến Tre thì Bình Đại có phần cô lập nằm lẻ loi
trên một dãy cù lao. Bình Đại thường xuyên chịu sự xâm nhập của nước mặn vào
tận các xã ở giữa cù lao. Người dân ở đây chủ yếu làm vườn, ruộng, trồng giồng
và đánh cá biển, chế biến những sản phẩm của biển.
Bình Đại đang trong quá trình đô thị hóa với những dự án khuyến khích mời
gọi đầu tư phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, góp phần thúc
đẩ tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và nâng cao đời sống cho người dân.
4
Đặc biệt là dự án lấn biển và đầu tư phát triển tiềm năng du lịch, xây dựng cơ sở
hạ tầng, phát triển khoa học kĩ thuật …
Bình Đại chủ yếu là phát triển nông và ngư nghiệp vì vậy mà trong quá trình
đô thị hóa làm cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp lại, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng giảm tỉ trọng nông nghiệp điều đó sẽ dẫn đến việc chuyển đổi cơ
cấu lao động và việc làm của người dân, ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của
họ.
Vấn đề đặt ra ở đây là cơ cấu lao động và việc làm của người dân trong
huyện đã chuyển đổi như thế nào dưới tác động của đô thị hoá? Người dân đã
thực hiện những chiến lược sinh k ế nh ư th ế nào để có thể thích nghi với hoàn
cảnh và điều kiện sống mới? Đó chính là lí do để nghiên cứu đề tài.
Vấn đề lao động việc làm, chuyển dịch cơ cấu việc làm và cơ cấu lao
động nông nghiệp, nông thôn được chú ý nghiên cứu từ nhiều năm nay, bao gồm
các công trình nghiên cứu:
Thực trạng thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi
để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia.( Đề tài độc lập cấp nhà
nước 12/2005). Nghiên cúư này được thực hiện tại các tỉnh/TP: Hà Nội, TP Hồ
Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bắc Ninh, Hà Tây, Cần Thơ, Bến Tre, Bình
Dương … với mục tiêu:
+ Đánh giá thực trạng thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu
hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế, xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia hiện nay, chỉ ra những thành tựu,
hạn chế, nguyên nhân hạn chế của vấn đề này.
+ Đề xuất các quan điểm, phương hướng, giải pháp và các điều kiện giải
quyết thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các
khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nhu cầu công
cộng và lợi ích quốc gia những năm tới.
Nghiên cứu đề xuất phương án đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
nông thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá gắn với công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trên địa bàn thành phố Hà Nội. ( Đề tài khoa học và công
nghệ cấp thành phố 2005). Cùng với xu thế khách quan và tất yếu của đô thị hoá
là sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động ở các vùng bị thu hồi đất
5
sản xuất nông nghiệp, trong đó vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động
thuần nông gặp phải những trở ngại lớn khi họ buộc phải chuyển đổi từ việc làm
nông nghiệp không cần đến trình độ chuyên môn kĩ thuật sang việc làm phi nông
nghiệp đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn kĩ thuật. Nghiên cứu này hướng đến đề
xuất những giải pháp phát triển nguồn nhân lực nông thôn với phương án khả thi
và mô hình phù hợp với xu thế đô thị hoá nhanh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngoại thành Hà Nội.
Về vấn đề giải quyết việc làm đề tài cấp Bộ (2000) “Những biện pháp
chủ yếu giải quyết lao động thiếu việc làm ở vùng thuần nông” do Trung tâm
Nghiên cứu Dân số và Nguồn lao động Viện Khoa học Lao động và Xã hội thực
hiện, đã đưa ra nhận định: Khả năng tạo việc làm ở khu vực nông thôn hiện nay rất
phong phú và đa dạng, tạo việc làm phi nông nghiệp ngay tại địa phương, tăng
cường dạy nghề cho lao động nông thôn, ưu tiên các dự án quốc gia và quốc tế cho
việc giải quyết việc làm, dạy nghề và nâng cao dân trí.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân trong đề tài độc lập cấp nhà nước
KX.01 2005 đã đề cập đến vấn đề “việc làm và thu nhập cho lao động bị thu
hồi đất trong quá trình CNHHĐH và đô thị hoá”. Về mặt lý luận nghiên cứu đã
đề cập đến sự cần thiết phải thu hồi đất, CNHHĐH và đô thị hoá tất yếu sẽ dẫn
đến thu hồi đất nông nghiệp và do đó một bộ phận dân sẽ mất việc làm trong
nông nghiệp. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với nước ta trong quá trình
phát triển. Về mặt thực tiễn nghiên cứu chỉ ra những bất cập về vấn đề đảm bảo
thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi. Việc thu hồi đất là điều
kiện chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ nhưng kế hoạch thu hồi đất
không gắn với kế hoạch đào tạo nghề nên người dân mất đất không có việc làm
và thu nhập, đời sống người dân tiềm ẩn sự bất ổn bên trong. Nghiên cứu dự báo
nhu cầu thu hồi đất và đưa ra khung chính sách đồng bộ bao gồm: Chính sách đền
bù, bồi thường thiệt hại; Chính sách tạo việc làm; Chính sách tái định cư; Chính
sách về trách nhiệm và nghĩa vụ của các đơn vị được nhận đất thu hồi sử dụng
vào các mục đích phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị và các chính sách xã
hội liên quan để đảm bảo việc làm và thu nhập cho đối tượng bị thu hồi đất.
Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu chuyên sâu nào về mối quan hệ tương tác
giữa đô thị hoá với sự dịch chuyển về cơ cấu lao động, việc làm cả các hộ gia
đình trong khu vực quy hoạch đô thị hoá. Chính vì vậy, nghiên cứu đề tài này là rất
6
cần thiết nhằm phát hiện ra các tác động của quá trình đô thị hoá đối với cơ cấu
lao động, việc làm của các hộ gia đình nằm trong vùng đô thị hoá. Kết quả nghiên
cứu này sẽ góp phần vào việc hoạch định chiến lược đô thị hoá trong thời gian tới
ở Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở đánh giá tác động của quá trình đô thị hoá đến thực trạng chuyển
đổi việc làm và đời sống của lao động nông thôn huyện Bình Đại, phân tích các
nhân tố tác động tới chuyển đổi việc làm, từ đó đưa ra các giải pháp và khuyến
nghị phù hợp nhằm tạo việc làm, giúp cho việc chuyển đổi việc làm đạt hiệu quả
cao cho lao động nông thôn huyện Bình Đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: các vấn đề ảnh hưởng đến chuyển đổi việc làm và
đời sống của người lao động nông thôn huyện Bình Đại trong quá trình đô thị hoá.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Người lao động nông thôn trên địa bàn huyện Bình Đại
quản lý.
+ Về thời gian quan sát thu thập thông tin: Từ năm 2005 đến năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp như thống kê
phân tích, phương pháp so sánh, thu thập tài liệu...
5. Nguồn số liệu
Phòng Tài nguyên môi trường Tỉnh Bến Tre
Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre
Trung tâm dạy nghề và việc làm huyện Bình Đại
Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện Bình Đại
UBND huyện Bình Đại
HĐND huyện Bình Đại
Phòng thống kê lao động huyện Bình Đại
Internet …
7
6. Kết cấu của đề tài:
Chương 1: Cơ sở lí luận về chuyển đổi việc làm của lao động nông thôn.
Chương 2: Thực trạng chuyển đổi việc làm của người lao động huyện Bình
Đại – Bến Tre hiện nay.
Chương 3: Một số khuyến nghị và giải pháp đối với vấn đề chuyển đổi việc
làm của lao động nông thôn huyện Bình Đại – Bến Tre.
CH ƯƠ NG 1. C Ơ S Ở LÝ LU Ậ N V Ề CHUY Ể N ĐỔ I VIỆ C LÀM CỦ A
LAO Đ Ộ NG NÔNG THÔN
1.1 Các khái niệm cơ bản:
1.1.1 Khái niệm việc làm và người có việc làm:
a. Việc làm:
* Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì khái niệm việc làm chỉ đề cập đến
trong mối quan hệ với lực lượng lao động. Khi đó, việc làm được phân thành hai loại:
Có trả công ( những người làm thuê, học việc…) và không được trả công nhưng vẫn
có thu nhập ( giới chủ làm kinh tế gia đình…). Những người đang làm việc trong lực
lượng vũ trang cũng được coi là có việc làm. Vì vậy, việc làm được coi là hoạt động
có ích mà không bị pháp luật ngăn cấm có thu nhập bằng tiền (hoặc bằng hiện vật).
Những người có việc làm là những người làm một việc gì đó có được trả công, lợi
nhuận, được thanh toán bằng tiền hoặc hiện vật, hoặc tham gia vào các hoạt động
mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập của gia đình, không được
nhận tiền công (hiện vật). Khái niệm này đã được chính thức nêu tại Hội nghị quốc
tế lần thứ 13 ( ILO.1993) và đã được áp dụng ở nhiều nước.
8
* Điều 13, chương II ( việc làm) Bộ luật lao động của nước ta: “Mọi hoạt động
lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là
việc làm”.
b. Các hình thức việc làm:
Làm những công việc được trả công lao động dưới dạng bằng tiền hoặc
hiện vật hoặc đổi công.
Các công việc tự làm để thu lợi nhuận.
Làm các công việc sản xuất, kinh doanh cho gia đình mình không nhận tiền
công hay lợi nhuận.
c. Phân loại việc làm:
Căn cứ vào thời gian thực hiện công việc, việc làm có thể được phân chia
thành các loại:
Việc làm chính và việc làm tạm thời: căn cứ vào số thời gian có việc làm
thường xuyên trong một năm.
Việc làm đủ thời gian và việc làm không đủ thời gian: căn cứ vào số giờ
làm việc trong một tuần.
Việc làm chính và việc làm phụ: căn cứ vào khối lượng thời gian hoặc mức
độ thu nhập trong việc thực hiện một công việc nào đó .
d. Thiếu việc làm:
Thiếu việc làm hay còn gọi là bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá hình, là
những người làm việc ít hơn mức mà mình mong muốn.
Thiếu việc làm được biểu hiện dưới hai dạng là người lao động không có đủ
việc làm theo thời gian quy định trong tuần, trong tháng hoặc làm những việc có thu
nhập quá thấp không đảm bảo cuộc sống nên muốn làm việc thêm để có thu nhập.
đ. Thất nghiệp:
Theo ILO: "Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một người trong lực lượng
lao động muốn tìm được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành".
Như vậy người thất nghiệp là người mang ba đặc trưng cơ bản: có khả năng
lao động,có nhu cầu làm việc và chưa tìm được việc làm.
9
* Người không có nhu cầu làm việc:
Những người không thuộc lực lượng lao động bao gồm các đối tượng từ đủ
1560 tuổi đang đi học, làm nội trợ, không có nhu cầu làm việc, những người mất
khả năng lao động do ốm đau, bệnh tật.
1.1.2 Dân số hoạt động kinh tế và không hoạt động kinh tế:
Dân số hoạt động kinh tế hay còn gọi là lực lượng lao động bao gồm những
người đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm, nhưng có nhu
cầu làm việc.
Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm những người từ đủ 15 tuổi trở lên
không thuộc bộ phận có việc làm và thất nghiệp.
1.1.3 Cơ cấu lao động:
Cơ cấu cung lao động đượ c xác định bằng chỉ tiêu phản ánh cơ cấu ,tỷ
lệ số lượ ng và chất lượ ng ngu ồn lao động: Dân số trong độ tuổi lao độ ng
không hoạt động kinh tế thường xuyên và hoạt động kinh tế thườ ng xuyên; Cơ
cấu chất lượ ng l ực l ượng lao động.
Cơ cấu cầu lao động phản ánh tình trạng việc làm hay sử dụng lao động.
Cơ cấu này được biểu thị bằng tỷ lệ lao động phân chia theo ngành, theo vùng, theo
khu vực, theo thành phần kinh tế, theo trạng thái việc làm.
1.1.4 Đô thị hoá.
Đô thị hoá được hiểu là quá trình biến đổi và phân bố các lực lượng sản
xuất trong nền kinh tế quốc dân; bố trí dân cư; hình thành, phát triển các hình thức
và điều kiện sống theo kiểu đô thị; đồng thời phát triển đô thị hiện có theo chiều
sâu trên cơ sở hiện đại hoá cơ sở vật chất kĩ thuật và tăng qui mô dân số.
Các xu hướng đô thị hoá ở Việt Nam:
+ Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ trong các đô thị.
+ Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ ở các vùng ngoại ô.
+ Mở rộng các đô thị hiện có.
+ Chuyển một số vùng nông thôn thành đô thị, hình thành các khu đô thị mới.
1.2 Mối quan hệ giữa đô thị hoá với cơ cấu lao động và việc làm:
10
Cùng với việc tăng dân số đô thị là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đô thị hoá
là quá trình chuyển đổi cơ cấu dân số nói chung và lực lượng lao động nói riêng
chuyển đổi về cơ cấu lực lượng lao động nông thôn: từ lĩnh vực nông nghiệp sang
lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Bộ phận những người nông dân trước đây gắn bó
với ruộng vườn sau khi bị thu hồi đất phục vụ mục tiêu đô thị hoá, phải thực hiện
những chuyển đổi mới phù hợp với cuộc sống đô thị: chuyển đổi ngành nghề sản
xuất kinh doanh, tìm việc làm mới, xây dựng nơi cư trú mới...
Trong quá trình đô thị hoá, cơ cấu ngành nghề kinh tế trong vùng và cả nền
kinh tế cũng thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công
nghiệp và thương mại dịch vụ.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển đổi việc làm của lao động nông thôn
trong quá trình đô thị hoá.
1.3.1 Thị trường lao động:
Chuyển đổi việc làm cho lao động mất việc làm do mất đất chịu sự tác động
lớn của xu hướng phát triển thị trường lao động địa phương, vùng và liên vùng. Tại
các vùng thị trường lao động phát triển mang tính thống nhất cao, ít bị phân mảng,
có sự hoạt động mạnh của quan hệ cung cầu lao động, môi trường thị trường lao
động được thiết lập thuận lợi (hệ thống tư vấn, giới thiệu việc làm...) thì cơ hội
việc làm của lao động mất việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất lớn hơn.
Vai trò của thị trường lao động có tác động lớn đối với việc chuyển đổi nghề
cho lao động mất việc làm tại các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Do đó,
thực hiện các giải pháp thúc đẩy sự phát triển hoạt động lành mạnh của thị trường
lao động các địa phương, thị trường lao động vùng là nhân tố quan trọng để hỗ trợ
cho việc chuyển đổi việc làm cho lao động bị mất việc làm trong quá trình đô thị
hoá.
1.3.2 Trình độ học vấn:
Trình độ học vấn của người lao động trong các hộ gia đình bị thu hồi đất có
mối liên hệ với khả năng đào tạo chuyển đổi nghề, tìm việc làm mới, tự tạo việc
làm mới và nâng cao thu nhập sau khi bị mất việc làm do chuyển đổi mục đích sử
dụng đất. Trình độ học vấn của người lao động càng cao thì khả năng tham gia đào
11
tạo CMKT, chuyển đổi nghề, tạo việc làm mới, tìm việc làm mới và nâng cao thu
nhập cũng càng cao.
Để thống kê được tỷ lệ người lao động đã tìm được việc làm hay chưa tìm
được việc làm sau khi đất nông nghiệp bị thu hồi, Bộ Lao động – Thương binh và
Xã hội đã thực hiện cuộc điều tra với 2249 hộ thuộc diện bị thu hồi đất tại 15 tỉnh
thuộc ba miền Bắc, Trung, Nam và thu được kết quả như sau:
Bảng 1.1. Số lượng lao động tìm được việc làm sau khi đất nông nghiệp bị thu
hồi và trình độ học vấn của lao động
ĐVT: Người
Chưa có việc
Đã có việc
Số lượng Tỷ lệ
Số lượng Tỷ lệ
Không biết đọc, viết
78
49,1
81
50,9
Chưa TN tiểu học
252
30,4
577
69,6
TN tiểu học
469
25,7
1356
74,3
TN PTCS
1170
26,2
3288
73,8
TN THPT
950
32,8
1944
67,2
Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, 2005
Học vấn
Nhìn chung, trên cả về phương diện lý thuyết và thực tiễn thì khả năng tìm
được việc làm tăng lên theo trình độ học vấn, một tỷ lệ 50% số lao động chưa biết
đọc, biết viết không tìm được việc làm khi không còn đất sản xuất, trong khi ở các
cấp trình độ học vấn khác tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều (2532%).
Một số nghiên cứu gần đây cũng cho thấy, % tăng thêm thu nhập đối với mỗi
năm đi học đạt được cao hơn ở những người có trình độ học vấn cao, cụ thể đối
với cấp nghiệp tiểu học mỗi năm đi học có thể tăng thêm mức tiền lương 0,77% ở
lao động nam và 0,32% ở lao động nữ, trong khi con số này đối với phổ thông trung
học là 3,97% và 2,79%. Thu nhập là kết quả của việc làm, do đó lao động có thu
nhập cũng đồng nghĩa với có cơ hội việc làm cao hơn, khả năng tìm được việc làm
trên thị trường lao động lớn hơn so với lao động trình độ học vấn thấp.
Như vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với địa phương vùng chuyển đổi mục đích sử
dụng đất là thực hiện các biện pháp đảm bảo không ngừng nâng cao trình độ văn
hoá cho dân cư và người lao động, phải coi đây là hướng mở căn bản, quan trọng
để hỗ trợ cho việc chuyển đổi việc làm cho lao động mất việc làm do Nhà nước
thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng.
12
1.3.3 Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội:
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của địa phương là việc luận
chứng phát triển kinh tế xã hội và tổ chức không gian các hoạt động kinh tế, xã
hội hợp lý theo lãnh thổ để thực hiện mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội quốc
gia; là bước cụ thể hoá của chiến lược phát triển kinh tế xã hội quốc gia theo các
điều kiện và đặc điểm của từng vùng lãnh thổ.
Hiện nay, ở nước ta các cơ quan quản lý Nhà nước không chỉ xây dựng và
triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội cho toàn quốc,
mà các tỉnh/ thành phố và huyện cũng tổ chức nghiên cứu quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội phạm vi của từng địa phương (tỉnh, thành phố, huyện...).
Thực tế cho thấy, để đưa quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của các địa
phương vào cuộc sống có hiệu quả, nhất thiết phải có sự gắn kết với các nội dung
tạo và chuyển đổi việc làm cho lao động, hộ gia đình mất việc làm do Nhà nước
thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Các nội dung của quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế xã hội của địa phương trực tiếp tác động tới các hình thức
chuyển đổi việc làm cho người lao động thể hiện ở các mặt như: vốn đầu tư, tốc
độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các chính sách đền bù
và tái định cư cho dân nông nghiệp bị thu hồi đất, chính sách phát triển nguồn nhân
lực, chính sách phát triển việc làm, …
1.4 Các mô hình chuyển đổi việc làm
Phát triển các khu công nghiệp (KCN) là nhân tố cơ bản để tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá trình đó ắt kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động
từ nông nghiệp sang công nghiệp. Tuy nhiên, các KCN muốn phát huy tác dụng
phải cần từ ba đến năm năm. Trong khoảng thời gian đó, người dân làm nông
nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Thống kê cho thấy, trung bình mỗi hộ nơi thu hồi
đất có 1,5 lao động không có việc làm hoặc thiếu việc làm; mỗi ha đất nông nghiệp
thu hồi ảnh hưởng tới việc làm của trên 10 lao động nông nghiệp.
Những năm qua Chính phủ đã dành nhiều ưu tiên giải quyết việc làm
(GQVL) cho người dân có đất bị thu hồi, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu (ước tính
tạo việc làm cho khoảng 55.000 người/năm). Hai năm 2006 và 2007, Chương trình
mục tiêu quốc gia về việc làm cũng đã dành 22 tỷ đồng bổ sung vốn vay GQVL cho
gần 10 nghìn lao động bị thu hồi đất.
13
Chủ động vượt lên những khó khăn chung, thời gian qua nhiều tỉnh đã ban
hành các chính sách đối với người dân bị thu hồi đất và triển khai thực hiện có hiệu
quả: Bình Dương mở hệ thống dạy nghề xuống tận huyện, xã; Ðà Nẵng hỗ trợ
bốn triệu đồng cho một nông dân bị thu hồi đất; Tiền Giang hỗ trợ 1,06 triệu đồng
cho mỗi lao động thuộc hộ có đất bị thu hồi từ 0,1 ha trở xuống, nếu nhiều hơn thì
được hỗ trợ tiền cho cả khóa học nghề. Một số tỉnh, thành cũng đã có chính sách
hỗ trợ cho doanh nghiệp, nếu sử dụng từ 100 lao động trở lên sẽ được hỗ trợ 50%
kinh phí dạy nghề cho một lao động của địa phương...
Trong quá trình thực hiện các chính sách hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm, một
số tỉnh, thành đã điều chỉnh quy hoạch tái định cư gắn với tạo việc làm, bổ sung
chính sách, đầu tư ngân sách cho dạy nghề, hỗ trợ phát triển ngành nghề, mở rộng
sản xuất, dịch vụ gắn với khu công nghiệp, khu kinh tế (như Bình Dương, Hải
Dương, Hà Nam). Những việc làm thiết thực nói trên đã được các hộ dân ủng hộ.
Ðó chính là sự khích lệ lớn, làm cơ sở xác lập những mô hình hợp lý hơn, chăm lo
việc làm cho nông dân.
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI LAO
ĐỘNG HUYỆN BÌNH ĐẠI TỈNH BẾN TRE
2.1 Bức tranh kinh tế xã hội huyện Bình Đại trong quá trình đô thị hóa:
Bình Đại là một trong ba Huyện biển của tỉnh Bến Tre với tiềm năng sẵn có
do thiên tai ưu đãi về chiều dài bờ biển 27km, hệ thống sông rạch chằng chịt, hình
thành môi trường sinh thái khá lý tưởng không chi cho việc phát triển thủy sản ở cả
3 vùng mặn, lợ, ngọt, mà còn tạo điều kiện phát triển nghề đánh bắt hải sản, mang
lại nguồn nguyên liệu phong phú, dồi dào cung ứng cho tiêu thụ, chế biến, xuất
14
khẩu, mở rộng các loại hình dịch vụ, đồng thời phát triền du lịch biển Thừa Đức và
Cồn Chày Mười xã Thới Thuận…
Với tiềm năng lợi thế đó, trong những năm gần đây, huyện Bình Đại đạt
được thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho nhân dân.
Một trong những thành tựu đó là Huyện đã có nhiều nỗ lực khuyến khích,
mời gọi đầu tư phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và nâng cao đời sống cho người
lao động.
Qua 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX Đảng bộ huyện, Bình Đại đã
gặt hái nhiều thành tựu quan trọng khá toàn diện mà nổi bật nhất là tốc độ tăng
trưởng kinh tế (GDP) đạt bình quân 12.45%/ năm. Riêng năm 2009, đạt 12,85%.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, sản xuất công nghiệp – tiểu thủ
công nghiệp có bước phát triển tích cực.
Huyện đã chủ động xâ y dựng và triển khai nhiều chương trình, dự án
khuyến khích mời gọi đầu tư phát triển công nghiệp – tiểu công nghiệp và dịch vụ,
phối hợp triển khai các chương trình, dự án phát triển kinh tế hạ tầng ( giao thông,
thủy lợi ). Việc đầu tư này được Huyện xem là khâu đột phá trong việc thu hút đầu
tư phát triển.
Bốn năm qua, tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn Huyện đạt được
trên 1500 tỷ đồng. Qua đó, diện mạo Bình Đại đã có nhiều khởi sắc, tạo điều kiện
lưu thông hàng hóa, đi lại dể dàng.
Đặc biệt, Huyện ưu tiên khuyến khích, tạo điều kiện về mặt bằng, miễn
giảm thuế, thực hiện cải cách hành chính cho cơ chế “ một cửa ”, “ một cửa liên
thông ” trong giải quyết các hồ sơ thủ tục cấp giấy phép sản xuất, kinh doanh.
Trong đó, ưu tiên mời gọi vốn đầu tư phát triển lĩnh vực chế biến nông thủy
sản, xuất khẩu, cung ứng cây, con giống chất lượng cao, cung cấp nước sạch và
phát huy ngành nghề truyền thống ở địa phương.
Đến nay, toàn Huyện có 1128 cơ sở công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và
4478 cơ sở thương mại – dịch vụ với tổng nguồn vốn đầu tư gần 550 tỷ đồng, giải
quyết việc làm cho 15924 lao động. Các ngành sản xuất công nghiệp – tiểu thủ
công nghiệp ở lĩnh vực chế biến trái dừa, thủy sàn, cung cấp nước đá, nước máy
sinh hoạt có bước tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp trong năm 2009 tăng 19,5% thương mại – dịch vụ tăng 22,3%.
Ngoài ra, các dịch vụ ngành nghề truyền thống của Huyện như sấy nhãn, đan
dây, đan lưới, các dịch vụ hậu cần phục vụ cho việc nuôi và đánh bắt thủy sản
được quan tâm phát triển.
Cảng cá Bình Thắng tăng cường quản lý, khai thác khá tốt các dịch vụ phát
triển ngành nghề đánh bắt, thu mua thủy sản. Khu du lịch biển Thừa Đức đi vào
hoạt động, ngày càng thu hút nhiều du khách đến tham quan.
Huyện đã tổ chức công bố, công khai quy hoạch chi tiết, đang lập phương án
đền bù tổng thể để tiến hành giải phóng mặt bằng giải phóng mặt bằng xây dựng
trung tâm thương mại Huyện, được Tình phê duyệt dự án phát triển rừng sinh thái
và đầu tư xây dựng khu du lịch Cồn Chày Mười, xã Thới Thuận.
15
Hoạt động của ngành bưu chính – viễn thông tiếp tục phát triển, đáp ứng nhu
cầu khách hàng.
Huyện đã phát triển 3874 máy điện thoại, nâng tổng số máy hiện có là 25546
máy, mật độ điện thoại cố định đạt 17,9 máy/100 dân.
Hoạt động của các chi nhánh ng6an hàng đóng trên địa bàn tích cực chủ động
tổ chức thực hiện đồng bộ, linh hoạt những chủ trương, giải pháp của ngành về
hoạt động tín dụng – ngân hàng theo hướng tăng cường khả năng tiếp cận nguồn
vốn tín dụng cho các doanh nghiệp, nhất là các hộ nông dân, doanh nghiệp vừa và
nhỏ, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh đang gặp khó khăn trong tiêu thụ sản
phẩm và xuất khẩu.
Kết quả tổng dư nợ vay trên địa bàn Huyện là 627 tỷ đồng, tăng 30% so với
cùng kỳ, trong đó được hỗ trợ lãi xuất theo các Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ đạt 348 tỷ đồng.
Tuy nhiên so với yêu cầu đẩy nhanh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
việc phát triển nông nghiệp – tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn Huyện đang gặp
khó khăn: các cầu trên đường tỉnh 883 tải trọng thấp, chưa được kiên cố, một số
tuyến đường Huyện chưa được nhựa hóa nên chưa đáp ứng yêu cầu các nhà đầu
tư.
Giá nước máy sinh hoạt và sản xuất còn cao.
Đa số các cơ sở công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, trang thiết bị, công nghê
chưa được đổi mới, quy mô phát triển ở mức vừa và nhỏ, nguyên liệu sản xuất ở
dạng cơ chế, khả năng cạnh tranh thấp, còn hạn chế về việc đăng ký thương hiệu
hàng hóa, thiếu sự liên kết chặt chẽ trong sản xuất, tiêu thụ, chế biến và xuất
khẩu, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề còn thấp.
Ngoài ra, năng lực quản lý, điều hành các chính quyền cơ sở trên lĩnh vực này
chưa theo kịp sự phát triển, còn lúng túng trong việc mời gọi đầu tư.
Năm 2010 là năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ
IX, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của Huyện để hoàn thành thắng
lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2006 – 2010).
Với tinh thần tích cực chủ động, trên lĩnh vực phát triển công nghiệp – tiểu
thủ công nghiệp, Huyện tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm góp phần
ngăn chặn suy giảm kinh tế, phát huy mọi nguồn lực phấn đấu duy trì tốc độ tăng
trưởng hợp lý và bền vững.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tăng
nhanh tỷ trọng công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện thu
hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
Thực hiện đồng bộ giữa phát triển kinh tế gắn với đảm bảo môi trường bền
vững, với các vấn đề về văn hóa – xã hội và an ninh quốc phòng.
Trên cơ sở đó, Huyện vận dụng các chính sách cụ thể, tạo điều kiện khuyến
khích mời gọi đầu tư phát triển các cơ sở công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ, tập trung các lĩnh vực chế biến nông, thủy sản, làm hàng xuất khẩu, phát
huy ngành nghề truyền thống.
16
Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để mời gọi đầu tư xây dựng cụm công
nghiệp Bình Thới, đẩy mạnh các hoạt động khuyến nông, hỗ trợ các doanh nghiệp
thông qua các chương trình tập huấn đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc dân.
Huyện đặt trọng tâm là công tác quản lý chất lượng hàng hóa, nâng cao tay
nghề cho người lao động, phối hợp triển khai thực hiện kế hoạch hành động sản
xuất sạch hơn trong công nghiệp trên địa bàn Huyện giai đoạn 2006 – 2013.
Tổ chức hoạt động doanh nghiệp, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và tuyên
dương các điển hình tốt, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, nâng cao chất lượng
hoạt động thướng mại, bưu chính viễn thông, ngân hàng, du lịch, dịch vụ thủy sản.
Khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện liên kết với nông dân trong hợp
đồng bao tiêu sản phẩm, tăng dần tỷ trọng hàng xuất khẩu đã qua chế biến.
Tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền , vận động các tầng lớp nhân dân
hưởng ứng tích cực cuộc vận động “ Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt ”.
Thường xuyên giới thiệu về hình ảnh, vị thế của Huyện Bình Đại là một địa
chỉ đầu tư hấp dẫn, có tính cạnh tranh cao trong mắt các nhà đầu tư, cảng cá Bình
Thắng – Bình Đại trong những ngày này khá nhộn nhịp. Sau Tết nguyên đán, ngư
dân bắt đầu ra khơi trong tâm trạng phấn khởi. Năm 2009 vừa qua, tuy còn một số
khó khăn nhưng đa số ngư dân đều đánh bắt có hiệu quả.
Lượng tàu cập Cảng ngày càng đông hơn, trên 2542 lượt, tăng 13%, hàng
thủy sản qua Cảng 15220 tấn, tăng 21%. Năm qua, Ban Quản lý cũng đã hợp đồng
cho thuê hết diện tích mặt bằng khu đất dự phòng phát triển để đầu tư cơ sở chế
biến mực và cho 5 hộ khác thuê 1120m2 mặt bằng khu vực kho lạnh để xây dựng
cơ sở thu mua thủy sản, kho lạnh, dịch vụ cơ khí, ngư cụ. Hiện còn 600m 2, BQL
tiếp tục kêu gọi đầu tư. Các cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá trong khu vực Cảng
hoạt động ổn định, hiệu quả cao. Chương trình vệ sinh an toàn thực phẩm SSOP
đang được thực hiện có hiệu quả. BQL Cảng đang triển khai dự án mở rộng vì
thực tế đã quá tải, do lượng tàu về càng đông hơn.
2.2 Quá trình thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất tác động đến việc
làm lao động nông thôn:
2.2.1 Công tác thu hồi đất và chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở Huyện:
Nhằm định hướng cho nền kinh tế huyện Bình Đại phát triển theo con
đường CNH – HĐH, Đảng bộ và Chính quyền địa phương phải có những phương
pháp để đạt được yêu cầu cấp thiết của Tình, Trung ương đã đề ra, cụ thể như
phát triển, nâng cấp Huyện tiến lên đô thị loại 4 trong năm 2015.
Việc thực hiện chính sách thu hồi đất, đền bù giải tỏa để mở rộng các công
trình trọng điểm như trung tâm thương mại, giao thông vận tải, khu dân cư…là đều
tất yếu. Điều đó quyết định đến kinh tế xã hội của Huyện.
Từ năm 2007 đến nay, thực hiện theo Quyết định về chính sách hỗ trợ, công
tác thu hồi đất đã được triển khai và bước đầu đền bù giải tỏa thỏa đáng cho các
hộ dân để họ ổn định kinh tế đời sống.
17
Bảng 2.1 Danh mục các công trình xây dựng ở Huyện Bình Đại cơ bản đến
năm 2010
( Theo Nghị quyết số 18/2009/NQHĐND) :
STT
1
2
3
4
5
6
7
Tên
Công Trình
Quy hoạch chi tiết
khu dân cư và tái
định cư Hàng Còng
Quy hoạch khu
công viên văn hóa
và đô thị mới Bà
Nhựt
Quy hoạch khu
hành chính Huyện
Quy hoạch khu
nghĩa trang nhân
dân Huyện
Quy hoạch bãi rác
Huyện
Quy hoạch giao
thông nông thôn
giai đoạn 2010
2020
Quy hoạch sử
dụng đất đến 2015
của 8 xã trong
Huyện
Tổng kết
Tổng
vốn
Tổng
số đất
thu
( ha )
Kinh
tế
280
20
170
475
80
475
100
10
100
50
5
50
100
2
100
150
30
150
690
166
690
1845
313
1585
Môi
trườn
g
Vốn
tài sản
công
Ghi
chú
110
150
110
2.2.2 Chính sách hỗ trợ:
a. Hỗ trợ di chuyển:
1.Khi Nhà nước thu hồi đất, hộ gia đình, cá nhân bị giải tỏa trắng, không còn
đất hoặc diện tích còn lại không còn đủ để xây dựng nhà phải di chuyển chổ ở
trong phạm vi Tỉnh thì được hỗ trợ như sau:
Đối với nhà có diện tích xây dựng dưới 50m2: 3.000.000 đồng/hộ.
Đối với nhà có diện tích xây dựng dưới 50m2 trở lên: 4.500.000 đồng/hộ.
Nếu di chuyển sang Tỉnh khác thì được hỗ trợ thêm 3.000.000 đồng/hộ.
18
2. Khi Nhà nước thu hồi đất, hộ gia đình, cá nhân, tổ chức được Nhà nước
giao đất, cho thuê đất hoặc đang sử dụng đất hợp pháp phải di chuyển cơ sở sản
xuất, kinh doanh có đăng ký kinh doanh thì được hỗ trợ chi phí tháo dỡ, di chuyển
và lắp đặt. Mức hỗ trợ cụ thể do hội đồng bồi thường Huyện, thành phố đề nghị
nhưng mức cao nhất không quá 30% giá trị còn lại của tài sản.
3. Khi Nhà nước thu hồi đất, hộ gia đình bị giải tỏa trắng nhà, phải di
chuyển chỗ ở nhưng còn diện tích đất trong cùng thửa đất được phép xây dựng thì
được hỗ trợ như sau:
đối với nhà có diện tích xây dựng dưới 50m2: 1.000.000 đồng/bộ.
đối với nhà có diện tích xây dựng dưới 50m2 trở lên: 1.200.000 đồng/bộ.
4. Người bị thu hồi đất ở, không còn chỗ ở khác thì trong thời gian chờ tạo
lập lại chỗ ở mới được bố trí vào nhà ở tạm hoặc hỗ trợ tiền thuê nhà ở. Mức hỗ
trợ do hội đồng bồi thường Huyện, Thành phố đề nghị, nhưng mức tối đa 200.000
đồng/nhân khẩu/tháng, thời gian hỗ trợ không quá 6 tháng. Nếu hết thời gian 6
tháng, nhưng vẫn chưa giao đất tái định cư thì tiếp tục hỗ trợ tiền thuê nhà đến khi
giao đất tái định cư. Đối với trường hợp bị giải tỏa trắng nhà nhưng còn trong
phạm vi được phép xây dựng thì được hỗ trợ tiền thuê nhà tối đa không quá 3
tháng.
5. Hỗ trợ người đang thuê nhà không thuộc sở hữu Nhà nước.
6. Khi Nhà nước thu hồi đất, hộ gia đình, cá nhân đang thuê nhà ở, nhưng nhà
ở không thuộc sở hữu Nhà nước, phải phá dỡ nhà, di chuyển chỗ ở thì được hỗ trợ
chi phí di chuyển bằng mức quy định tại khoản 1 Điều này. Người được hỗ trợ
phải có hợp đồng thuê nhà được cơ quan có thẫm quyền xác định.
b. Hỗ trợ tái định cư:
Đối với hộ gia đình, cá nhân phải di chuyển chỗ ở do bị thu hồi hết đất ở mà
không có chỗ ở nào khác và không còn đất nông nghiệp trong địa bàn xã, phường,
thị trấn nơi có đất bị thu hồi thì được hỗ trợ tái định cư theo một trong hai trường
hợp sau đây:
1.trường hợp hộ gia đình, cá nhân đó nhận đất ở tái định cư tập trung nhưng số tiền
bồi thường, hỗ trợ nhỏ hơn giá một suất tái định cư tối thiểu thì được hỗ trợ
khoản chênh lệch đó. Suất tái định cư tối thiểu được qui định bằng 50.000.000
đồng.
2.trường hợp hộ gia đình, cá nhân tự lo nơi ở khác thì được xem xét hỗ trợ một
khoản tiền bằng một suất đầu tư hạ tầng tính cho một hộ gia đình tại khu tái định
cư tập trung, nhưng tối đa không vượt mức 25.000.000 đồng đối với dự án thu hồi
19
đất thuộc các xã của các huyện, không quá 30.000.000 đồng đối với dự án thu hồi
đất thuộc thị trấn và các xã của thành phố Bến tre, không quá 40.000.000 đồng đối
với dự án thu hồi đất thuộc các phường của thành phố Bến Tre.
c. Hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất:
1. Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp
sản xuất nông nghiệp gồm diện tích các loại đất: trồng cây hàng năm, trồng cây lâu
năm, được giao để trồng rừng sản xuất, nuôi trồng thủy sản, làm muối và nông
nghiệp khác thì được hỗ trợ ổn định đời sống theo quy định sau đây:
a.Thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được
hỗ trợ ổn định đời sống trong thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và
trong thời gian 12 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở, trường hợp phải di chuyển đến
các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội kinh tế khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn thì
thời gian hỗ trợ tối đa 24 tháng.
b.Thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ ổn
định đời sống trong thời gian 12 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong
thời gian 24 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở, trường hợp phải di chuyển đến các
địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội kinh tế khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn thì
thời gian hỗ trợ tối đa 36 tháng.
c.Mức hỗ trợ quy định tại các điểm a và b khoản này được tính theo nhân khẩu
và quy đổi bằng tiền tương đương 30kg gạo cho 1 tháng, theo thời giá trung bình
tại thời điểm hỗ trợ của địa phương.
2. Khi nhà nước thu hồi đất của tổ chức kinh tế, hộ sản xuất, kinh doanh có
đăng ký kinh doanh mà bị ngừng sản xuất, kinh doanh thì được hỗ trợ bằng 20%
thu nhập sau thuế trong một năm, theo mức thu nhập sau thuế bình quân của 3 năm
liền kề trước đó, được cơ quan thuế xác nhận. Trường hợp cá biệt cần hỗ trợ cao
hơn thì phải xin chủ trương của Ủy ban nhân dân Tỉnh nhưng mức tối đa không quá
30% thu nhập sau thuế một năm.
3. Khi Nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất do
nhận giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi
trồng thủy sản của các nông, lâm trường quốc doanh mà thuộc đối tượng là cán
bộ , công nhân viên của nông, lâm trường quốc doanh đang làm việc hoặc đã nghỉ
hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp đang trực tiếp sản xuất
nông, lâm nghiệp, hộ gia đình, cá nhân nhận khoán đang trực tiếp sản xuất nông
nghiệp và có nguồn sống chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp thì được hỗ trợ bằng
tiền. Mức hỗ trợ bằng 50% giá đất bồi thường tính theo diện tích đất thực tế bị thu
hồi nhưng không vượt hạn mức giao đất nông nghiệp theo quy định.
20
4. Hộ gia đình, cá nhân được bồi thường bằng đất nông nghiệp thì được hỗ trợ
ổn định sản xuất, bao gồm: hỗ trợ giống cây trồng, giống vật nuôi cho sản xuất
nông nghiệp, các dịch vụ khuyến nông, dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y, kỹ thuật
trồng trọt...đối với sản xuất, kinh doanh dịch vụ công thương nghiệp. mức hỗ trợ
tối đa không quá 50.000.000 đồng/ha.
d. Hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư và đất vườn ao không
được công nhận là đất ở:
1.Hộ gia đình, cá nhân khi bị thu hồi đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở
trong khu dân cư nhưng không được công nhận là đất ở, đất vườn, ao trong cùng
thửa đất có nhà ở riêng lẻ, đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở dọc kênh,
rạch và dọc tuyến đường giao thông thì ngoài việc bồi thường theo giá đất nông
nghiệp trồng cây lâu năm, còn được hỗ trợ bằng 40% giá đất ở của thửa đất đó
nhưng tổng mức bồi thường và hỗ trợ tối đa không vượt giá đất ở, diện tích được
hỗ trợ không quá 5 lần hạn mức giao đất ở tại địa phương. trường hợp cá biệt cần
hỗ trợ cao hơn phải xin chủ trương của Ủy ban nhân dân Tình nhưng mức tối đa
không quá 70% giá đất ở của thửa đất đó.
2. Hộ gia đình, cá nhân khi bị thu hồi đất nông nghiệp trong địa giới hành chính
phường, trong khu dân cư thuộc trị trấn, khu dân cư nông thôn, thửa đất tiếp giáp
với tranh giới phường, ranh giới khu dân cư, thì ngoài việc được bồi thường theo
giá đất nông nghiệp còn được hỗ trợ bằng 30% giá đất ở trung bình của khu vực có
đất thu hồi theo quy định trong bảng giá đất do Ủy ban nhân dân Tỉnh ban hành hàng
năm nhưng tổng mức bồi thường và hỗ trợ tối đa không vượt giá đất ở, diện tích
được hỗ trợ không quá 5 lần hạn mức giao đất ở tại địa phương. trường hợp cá
biệt cần hỗ trợ cao hơn phải xin chủ trương của Ủy ban nhân dân Tình nhưng mức
tối đa không quá 50% giá đất ở trung bình các khu vực.
đ. Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm:
1. Khi nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông
nghiệp không thuộc trường hợp quy định tại phần 2.4 mà không có đất để bồi
thường thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền còn được hỗ trợ như sau:
a. Đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản
vùng nước ngọt, nước lợ: tính bằng 3 lần giá đất trồng cây hàng năm tại vị trí 4
của đường huyện thuộc khu vực huyện Ba Tri, huyện Bình Đại, huyện Thạnh Phú
theo giá đất do Ủy ban nhân dân Tỉnh quy định hàng năm đối với toàn bộ diện tích
bị thu hồi.
b. Đất nuôi trồng thủy sản vùng nước mặn: tính bằng 4 lần giá đất nuôi trồng
thủy sản tại vị trí 4 theo giá đất do Ủy ban nhân dan Tỉnh quy định hàng năm đối
với toàn bộ diện tích bị thu hồi.
21
c. Đất làm muối: tính bằng 4 lần giá đất làm muối tại vị trí 4 theo giá đất do
Ủy ban nhân dan Tỉnh quy định hàng năm đối với toàn bộ diện tích bị thu hồi.
d. Đất lâm nghiệp: tính bằng 4 lần giá đất lâm nghiệp tại vị trí 4 theo giá đất
do Ủy ban nhân dan Tỉnh quy định hàng năm đối với toàn bộ diện tích bị thu hồi.
đ. Diện tích được hỗ trợ đối với các loại đất được quy định tại điểm a,b,c,d
khoản này tối đa không vượt hạn mức giao đất nông nghiệp theo quy định hiện
hành.
2. Trường gợp người được hỗ trợ theo quy định có nhu cầu được đào tạo, học
nghề thì được nhận vào các cơ sở đào tạo nghề thuộc Sở Lao động Thương binh –
Xã hội và được học phí đào tạo cho một khóa học đối với các đối tượng trong độ
tuổi lao động.
Kinh phí chuyển đổi nghề cho các đối tượng chuyển đổi nghề nằm trong phương
án đào tạo chuyển đổi nghề và được tính trong tổng kinh phí của dự án đầu tư
hoặc phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư được duyệt, mức chi theo quy định
hiện hành.
2.2.3 Vấn đề việc làm trước và sau khi nhà nước thu hồi đất ở huyện
Bình Đại:
Mặc dù địa phương đã ban hành nhiều chính sách như bồi thường, hỗ trợ
giải quyết việc làm, đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp, hỗ trợ tái định cư đối
với đất nông nghiệp bị thu hồi nhưng thực tế thì 67% lao động nông thôn vẫn giữ
nguyên nghề cũ, 13% chuyển sang nghề mới và có tới 25,30% không có việc làm
hoặc có việc làm không ổn định.
a. Dư thừa lao động:
Kết quả là 53% số hộ dân bị thu hồi đất có thu nhập giảm so với trước đây,
chỉ có khoảng 13% số hộ có thu nhập tăng hơn trước. Trung bình mỗi hộ bị thu
hồi đất có 1,5 lao động rơi vào tình trạng không có việc làm, mỗi ha đất nông
nghiệp bị thu hồi có tới lao động 13 lao động mất việc làm phải chuyển đổi nghề
nghiệp.
Huyện Bình Đại là vùng nông thôn tập trung chủ yếu là nông nghiệp, nơi
tạo ra năng suất lao động thấp nhất và cũng là một trong những nơi quỹ đất canh
tác đang ngày càng bị thu hẹp và giảm dần do nhiều nguyên nhân . Hậu quả tất yếu
là dư thừa lao động và thiếu việc làm.
Theo thống kê của Phòng Tài nguyên và Môi trường Huyện năm 2009, thời gian từ
2010 trở đi Huyện có kế hoạch chuyển đổi mục đích sử dụng khoảng 200ha đất
nông nghiệp, tức là có gần 1000 lao động phải chuyển nghề nghiệp do mất sản
xuất ở lĩnh vực nông nghiệp. nếu tính riêng từ năm 2007 Huyện đã thu hồi 80ha,
tương đương 322 người mất đất và 112 người phải tái định cư.
22
Tuy nhiên, cơ chế chính sách chuyển đổi nghề, giải quyết việc làm còn
nhiều hạn chế cùng với việc mở rộng nhiều khu công nghiệp, dự án, tốc độ đô thị
hóa nhanh ở các xã Bình Thới , Đại Hòa Lộc, Bình Thắng khiến Bình Đại còn rất ít
đất canh tác và có khoảng 1000 lao động ở độ tuổi cần việc làm mỗi năm.
Đánh đổi cho sự phát triển theo hướng hiện đại và công nghiệp hóa là hàng
ngàn người trong độ tuổi lao động đã mất dần khả năng tự tạo việc làm trên lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp.
b. Khó chuyển đổi nghề:
Điều đáng quan tâm là chất lượng lao động còn thấp, trình độ chuyên môn kỹ
thuật còn hạn chế, có đến 83% lao động chưa từng qua trường lớp đào tạo chuyên
môn và 18,9% lao động chưa tốt nghiệp tiểu học trở xuống ( số liệu tại Phòng
TBXH huyện Bình Đại năm 2009). Vì vậy, khả năng chuyển đổi việc làm, tìm
kiếm nghề nghiệp đối với nhóm lao động này là không đơn giản về cầu lao động,
kinh tế trang trại cũng như doanh nghiệp nhỏ vừa ở Huyện phát triển còn khiêm
tốn, chỉ mới tập trung ở các làng nghề và cũng chỉ mới giới hạn ở một số địa
phương nhất định như đánh bắt cá ở xã Bình Thắng, du lịch Thừa Đức, Thới
Thuận…chưa lan tỏa đến nhiều vùng lan cận.
Bên cạnh đó, các kênh thông tin
việc làm và sàn giao dịch việc làm ở
Huyện chưa phát triển, người lao động
tìm việc chủ yếu thông qua người thân
trong gia đình và bạn bè…các kênh giao
dịch trên thị trường cũng như vai trò
của các tổ chức giới thiệu việc làm
dường như mờ nhạt.
Người lao động đang phơi muối tại huyện Bình Đại –
Bến Tre.
c. Thực trạng việc làm (VL) của người lao động trong hộ bị thu hồi đất
sản xuất:
Bảng 2.2
Đơn vị tính: Người
Địa
STT
phương
1
2
Đại
Hòa
Lộc
Tam
Hiệp
Lao động các nhóm
ngành Kinh tế
Nông
Công
Dịch
lâm
nghiệ
vụ
nghiệp
p
Tình trạng VL của lao
động
Thiế
Đủ
Không
u
VL
VL
VL
Tha
m
gia
VL
Thất
nghiệ
p
28
3
17
8
8
19
7
2
96
7
52
34
34
72
20
4
23
Long
Định
Châu
4
Hưng
Vang
5
Quới
Tây
Lợi
6
Thuận
Bình
7
Thới
Bình
8
Thắng
Thị
9
Trấn
Tổng cộng
3
108
11
81
20
20
93
11
4
100
8
78
6
6
70
21
9
96
9
55
19
19
63
25
8
100
9
72
14
14
51
30
19
136
20
98
26
26
113
14
9
148
27
120
21
21
124
20
4
400
32
216
92
92
300
62
38
1212
126
789
183
240
905
210
97
Số liệu bảng A cho thấy các hộ bị thu hồi đất sản xuất có 126 người rơi vào
tình trạng thất nghiệp chiếm 9,42% tổng số người trong độ tuổi lao động có khả
năng làm việc và nhu cầu việc làm. Trong đó, thị trấn có người thất nghiệp cao
nhất là 32 người chiếm 25,4%. Bình Thắng chiếm 21,4% trong tổng số thất nghiệp
của các hộ bị thu hồi đất sản xuất ở Huyện.
Trong tổng số 1212 người hiện đang làm việc, có 789 người hoạt động
ngành Nông Lâm nghiệp chiếm 65,1%, Công nghiệp chiếm 15,1%, dịch vụ chiếm
19,8%. Tuy nhiên, tình trạng việc làm của lao động vẫn còn xảy ra tình trạng thiếu
việc làm, 210 người một tuần làm việc ít hơn 40h và không có việc làm là 97
người. Vậy tổng số thất nghiệp, thiếu việc làm là 433 người, đặc biệt đáng quan
tâm nhất là ở tại thị trấn – trung tâm hành chính Huyện lại là nơi thất nghiệp và
thiếu việc làm cao nhất.
Công nghiệp
15,1%
Dịch vụ19,8%
Nông Lâm
nghiệp 65,1%
Biểu đồ lao động tham gia việc làm theo ngành tại Bình Đại.
2.3 Sự chuyển dịch lao động và hiệu quả khi chuyển đổi việc làm cho
lao động nông thôn Huyện Bình Đại trong thời gian gần đây:
24
2.3.1. Sự chuyển dịch lực lượng lao động nông thôn huyện Bình Đại
trong thời gian gần đây:
Theo Báo cáo thực hiện Nghị quyết Đại hội IX Đảng bộ huyện Bình Đại,
theo số liệu chi cục thống kê năm 2009, mức tăng trưởng bình quân GDP của
Huyện là 12,45% nhưng tốc độ thu hút lao động ra khỏi nông nghiệp của khu vực
phi nông nghiệp vẫn còn chậm ở những nơi thu hồi đất. Nhìn chung, lao động nông
thôn ở Huyện còn khá trẻ, sự chuyển dịch cơ cấu lao động có hướng tích cực
nhưng vẫn còn chậm, chuyển dịch ở nhiều hình thức, trong nhiều lĩnh vực từ nông
nghiệp sang phi nông nghiệp nhưng không đồng đều , không hòan toàn đồng nhịp
với cơ cấu kinh tế.
Những năm gần đây, khi Tỉnh Bến Tre có chính sách thu hồi đất, phát triển
kết cấu hạ tầng, đô thị hóa nông thôn ở các địa phương trong Tỉnh thì cơ cấu lao
động nông thôn Huyện Bình Đại nói riêng và cả Tỉnh nói chung có những thay đổi
nhất định. Biết trước những yếu tố tác động đến đời sống của nhân dân, chính
quyền địa phương của Huyện trước khi thu hồi đất đã ban hành nhiều chế độ theo
luật Đất đai năm 2003. Nghị định số 197/2004/NDCP về bồi dưỡng hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Nghị quyết số 01/2002/NQCP về một số giải
pháo chủ yếu tập trung chỉ đạo điều hành thực hiện ngân sách Nhà nước năm 2004.
Vì vậy, đã có một số lao động nông nghiệp nhất định, chuyển sang làm việc
ở các ngành nghề phi nông nghiệp như công nghiệp, dịch vụ góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng tích cực.
Tuy nhiên, có thể nói: trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật của lao động
nông thôn hiện nay thấp hơn so với mặt bằng chung của xã hội, xét về tỉ lệ lao
động nông thôn Bình Đại ở độ tuổi 20 – 24 thống kê năm 2009 cho thấy chỉ có 75%
số lao động có thể lực bình thường, 23,6% có thể lực gầy, 1,4% có thể lực thừa
cân.
Thể lực thừa
cân 1,4%
Thể lực gầy
23,6%
Thể lực bình
thường 75%
Biểu đồ tỉ lệ nông thôn Bình Đại ở độ tuổi 2024 theo thống kê của phòng Dân số tài nguyên và Môi trường năm
2009.
Đa số lao động nông nghiệp nông thôn ở lứa tuổi trẻ nhưng khả năng chuyển
đổi nghề nghiệp, cơ hội tiềm kiếm ở nhóm người này rất thấp khi họ bị thu hồi
đất. ngòai ra, sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở một số xã còn chậm, làng nghề ít
phát triển nên gặp khó khăn trong khâu sản xuất và tiêu thụ. Tất cả những lý do
25