Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Bài tiểu luận: Mặt trời và hệ mặt trời

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.85 KB, 36 trang )

Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
ĐẠI HỌC KHOA HỌC
BỘ MÔN VẬT LÝ
­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­

BÀI TIỂU LUẬN

ĐỀ TÀI: 

Mặt Trời và hệ Mặt Trời

Giáo viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Văn Đăng
Người thực hiện: Lê Thị Phương Hiền
Nguyễn Thị Huyền Trang

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

1


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
Thái nguyên, ngày 30 tháng 4 năm 2011

MỤC LỤC
Trang
Mục lục...........................................................................2
Mở đầu............................................................................4
Chương I: Mặt Trời .......................................................6
I.Nhận thức ban đầu của con người về Mặt Trời........6
II. Mặt Trời theo quan điểm khoa học...........................7


1. Giới thiệu qua về Mặt Trời ..............................7
2. Sự tiến hoá của Mặt Trời..................................8
3. Cấu tạo của Mặt Trời.......................................10
3.1 Phần lõi........................................................10
3.2 Tầng bức xạ................................................11
3.3  Tầng tối ưu.................................................12
3.3.1 Phần quyển sáng.......................................12
3.3.2 Phần quyển sắc........................................13
Mặt trời và hệ Mặt Trời 

2


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
3.3.3 Vầng hào quang........................................13
4.Một số hiện tượng .............................................14
4.1 Vết đen Mặt Trời........................................14
4.2 Nhật thực và nguyệt thực...........................15
Chương II: Hệ Mặt Trời................................................19
I.

Hệ Mặt Trời và các hành tinh  ..............................19
1. Hệ Mặt Trời .....................................................19
2. Các hành tinh trong hệ Mặt Trời .....................21

II.

Sự hình thành hệ Mặt Trời....................................27
1. Lý thuyết cổ điển..............................................27
2. lý thuyết hiện đạ...............................................28


Kêt luận...........................................................................32
Tài liêu tham khảo...........................................................33

 

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

3


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

4


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011

MỞ ĐẦU
Mặt Trời rất gần gũi và quen thuộc với chúng ta, trong cuộc sống 
hàng ngày cũng như trong lao động sản suất. Hàng ngày, mặt trời soi sáng  
sưởi  ấm cho chúng ta, đó như  là một điều hiển nhiên. Tuy nhiên đã bao  
giờ  bạn tự hỏi rằng nếu như  không có mặt trời thì chúng ta sẽ  thế  nào?  
Hay bao giờ thì Mặt Trời biến mất?Hoặc có thể đơn giản như Mặt Trời  
từ đâu đến?
Từ  xa xưa con người  ở  mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đã có những 
nhận thức khác nhau về mặt trời. Hình ảnh mặt trời thường gắn liền với  
các vị  thần, có một nguồn năng lượng siêu nhiên nào đó. Ngày nay, khi 

khoa học phát triển người ta đã nghiên cứu ra hiểu rõ hơn về mặt trời và 
quan niệm rằng:
Chúng ta sống trên trái đất, một khối cầu lơ lửng trong không trung 
và lăn tròn. Hàng đêm bầu trời của chúng ta sáng lên nhờ những đốm sáng  
mà chúng ta vẫn thường gọi là những vì sao hay những ngôi sao. Và mỗi 
đốm sáng nhỏ bè đó đều là các khối cầu khí khổng lồ, có khả năng tự phát  
sáng và phát nhiệt, các đốm sáng đó rất lớn và cách rất xa chúng ta. Trong 
số  hàng tỉ  các ngôi sao đó, có một ngôi sao đã mang đến cho chúng ta sự 
sống. Thực tế  một ngôi sao không bao giờ  suất hiện vào ban đêm, bởi vì  
bản thân sự  hiện diện của nó đã đồng nghĩa với ánh sáng ban ngày, và  
chúng ta cũng không gọi nó là một ngôi sao mà chúng ta goi đó là Mặt 
Trời. 
Và cũng biết rằng chúng ta đang sống trên trái đất, một vệ tinh quay  
xung quanh Mặt Trời, nhưng không phải chỉ có riêng Trái đất của chúng ta 

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

5


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
quay xung quanh Mặt Trời mà xung quanh mặt trời có một hệ, gồm nhiều 
hành tinh gọi là hệ  Mặt Trời. Trái Đất của chúng ta chỉ  là một trong số 
các   hành tinh đó.  Vậy hệ  Mặt Trời là gì?  Và được  hình thành như  thế 
nào?
Trong đề tài này chúng ta sẽ đi tìm hiểu khái quát về mặt trời và hệ 
mặt trời, giải thích những hiên tượng, vấn đề  quay xung quanh Mặt Trời 
và hệ Mặt Trời.

Mặt trời và hệ Mặt Trời 


6


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011

Chương I: MẶT TRỜI
I. Nhận thức ban đầu của con người về Mặt Trời
Từ thời xa xưa, khi khoa học kĩ thuật còn chưa phát triển, nhận 
thức của con người còn rất sơ khai về 
các hiện tượng tự nhiên như: gió, 
mưa, sấm chớp,… Họ đã gắn các hiện 
tượng thới tiết đó vào một hình tượng 
siêu nhiên đó là các vị thần linh, có khi 
ôn hoà che chở, có khi lại nổi giận để 
rồi có những tai ương. Mặt Trời cũng 
tương tự như vậy, cũng được gắn với 
một vị thần ở trên cao hàng ngày mang 
ánh sáng đến
Thần Helios cà chiếc xe tứ mã
 cho con người.  Mỗi dân tộc đều có những 
hình tượng về Mặt Trời riêng với những truyền 
thuyết riêng. Nhưng tất cả đều gắn Mặt Trời 
với một vì thần, như một đáng tối cao, hay là 
một vị thần đáng kình nhất. hàng ngày soi sáng 
cho cuộc sống của họ. Một truyện thần thoại 
rất tiêu biểu mà đếnnay chúng ta vẫn con được 

Mặt trời và hệ Mặt Trời 


7


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
biết tới hình ảnh của vị thần Mặt Trời trong trí tưởng tượng của con 
người trước đây là thần thoại Hy Lạp. 
Tượng thần Helios
Cho đến nay, vẫn còn rất nhiều hình ảnh được giữ lai về vị thần 
Mặt Trời Helios trong thần thoại này. Theo trí tưởng tượng của người Hy 
Lạp xa xưa, Helios là vị thần hàng ngày ngồi trên cỗ xe vàng tứ mã. Mặt 
Trời được thần đặt trên xe này và đưa đi dọc theo bầu trời Đông ­ Tây 
theo lệnh của thần Zeus.

II. Mặt Trời theo quan điểm khoa học
1. Giới thiệu qua về Mặt Trời
Mặt   Trời   là   một   quả   cầu   khí 
nóng khổng lồ, là một sao cỡ trung bình 
trong   số   các   sao   trong   thiên   hà   của 
chúng   ta   (Ngân   Hà   hay   còn   gọi   là 
Milkyway).   Nó   nằm   cách   dìa   củ 
Milkyway 14000 năm ánh sáng và cách 
trung tâm của nó
Mặt trời
  khoảng 26000 năm ánh sáng, thuộc một nhánh của thiên hà xoắn 
Milkyway.
Đường kính của Mặt Trời mà hàng ngày chúng ta nhìn thấy được  
gọi là quang cầu bằng 1392000 km.
Thể thích V=1,41.1018km3
Khối lượng M=1,99.1030kg


Mặt trời và hệ Mặt Trời 

8


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
Khối lượng riêng trung bình  ρ = 1, 41 kg/dm3
Gia tốc trọng trường g=274m/s2
Mặt Trời tự quay quanh một trục (không như một vật rắn). Chu kì 
quay của vật chất ở vùng xích đạo bằng 25 ngày. Càng xa xích đạo chu kì 
quay càng lớn. Gần cực chu kì quay đến 30 ngày.
2. Sự tiến hoá của Mặt Trời
Trước khi đi tìm  hiểu về sự tiến hoá của Mặt Trời thì chúng ta nói 
sơ qua về sự  hình thành của Mặt Trời. Mặt Trời hình thành cách đây 5,1 
tỷ  năm từ  một đám khí bụi khổng lồ, đám khí này co lại và quay nhanh  
dần do hấp dẫn bản thân và phần trung tâm khối khí tụ lại tạo thành Mặt  
Trời.
Vậy quá trình tiến hoá của Mặt Trời diễn ra như  thế  nào? Có khi  
nào Mặt Trời ngừng toả sáng?
Từ  những hiểu biết về  sự  hình thành và xuất hiện của hệ  Mặt  
Trời. Chúng ta có thể  biết rằng Mặt Trời đã tồn tại được hơn 5 tỷ  năm. 
Mặt Trời cũng là một ngôi sao trong số  hàng ngàn các ngôi sao khác. Vì 
vậy sự  tiến hoá của Mặt Trời cũng sẽ  tuân theo quy luật chung của các 
ngôi sao, nó phụ  thuộc vào khối lượng và mật độ  (hay là kiểu sao) của 
mỗi ngôi sao.
Trước hết chúng ta sẽ  tìm hiểu về  tiến trình tiến hoá chung của 
một ngôi sao với các khối lượng tương ứng khác nhau kể từ sau khi chúng 
bắt đầu toả sáng: Thời gian tồn tại của mỗi ngôi sao tuỳ theo khối lượng  
của chúng. Các sao càng nặng thì càng cần nhiều năng lượng để chống lại 
lực hấp dẫn nên nhiên liệu nhanh bị đốt cháy hết. Do đó sao càng nặng thì 

tuổi thọ càng ngắn ngủi.

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

9


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
Mặt Trời là một sao lùn vàng G2V. Các sao cỡ  như  Mặt Trời có 
tuổi thọ khoảng 10 tỷ năm. các sao khổng lồ 10­ 15 triệu năm còn các sao  
lùn đỏ là 20 triệu năm, các sao siêu khổng lồ chỉ thọ vài triệu năm. Sau khi 
hêt nhiên liệu. Ngôi sao không thể  tiếp tục chống lại hấp dẫn bản thân. 
Phần trong co lại về phía lõi còn vỏ ngoài phồng to và phát ra ánh sáng đỏ. 
Ngôi sao trở  thành sao khổng lồ  đỏ  trong khoảng 100 triệu năm (với sao  
cỡ  Mặt Trời) hoặc sao siêu khổng lồ  đỏ  trong vài triệu năm. Phần nõi 
trong co lại và tiếp tục nóng lên. Đây là lúc phản ứng xảy ra kết hợp hạt 
nhân Heli thành hạt nhân Cacbon. Khi áp suất giải phóng ra cân bằng với 
hấp dẫn, lõi ngôi sao ngừng co lại. 
Đối với các sao nhỏ  cỡ  Mặt Trời, sau quá tình trên, lõi sao co lại  
thành sao lùn trắng còn lớp ngoài phóng ra tạo thành tinh vân hành tinh.
Với các sao có khối lượng lớn, nhiệt độ ở lõi sẽ tăng đủ lớn dể xảy ra các  
quá trình tổng hợp hạt nhân tạo ra các nguyên tố  năng như  C, O, Mg, Al,  
P, S,....Fe. Ngôi sao có lõi sắt trong cùng và các nguyên tố nhẹ dần ra phía 
ngoài.
Giai đoạn kết thúc: khi nhiên liệu hoàn toàn cạn kiệt, ngôi sao bước 
vào thời kì suy sập do hấp dẫn. 


Các sao có khối lượng < 1,4 lần khối lượng Mặt Trời (giới  
hạn Chandrasekhar) co laị  thành sao lùn trắng và cuối cùng là 

một sao lùn đen mất hút trong vũ trụ. 



Các   sao  khối   lượng   1,4 ­  1,5  khối  lượng   Mặt Trời  co lại  
mạnh hơn, vượt qua kích thước sao lùn trắng xuống mức đường 
kính 20km gây ra một vụ  nổ  sao siêu mới. Cuối cùng, khi lực 

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

10


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
đẩy tĩnh điện giữa các neutron và proton chống lại được lực hấp 
dẫn, sao ngừng co và trở thành sao neutron.


Các sao có khối lượng lớn hơn Mặt Trời 4­5 lần co lại hêt 
sức manh mẽ, cũng tạo ra một vụ nổ sao siêu mới. Tuy nhiên do 
khối lượng lớn, hấp dẫn lớn đến mức làm triệt tiêu lực đẩy giữa 
các neutron, tạo thành lỗ đen.

Hiện nay, các nhà khoa học đã tính toán và dự  đoán: giai đoạn kết  
thúc của Mặt Trời có lẽ  sẽ  bắt đầu vào khoảng 4 tỷ  năm nữa. Sau thời  
gian này, nhiên liệu của Mặt Trời không còn đủ  để  tạo ra các phản  ứng  
chống lại hấp dẫn của bản thân nó nữa và trong lõi trong co lại để  dần  
tạo thành sao lùn trắng thì cái vỏ ngoài sẽ phình to và tất cả chúng ta cũng 
như  các hành tinh nhóm trong sẽ  bị  nuốt chửng và khi đó chúng ta hãy hi 
vọng rằng con người đã tìm được một nơi khác để ở hay ít ra là vẫn còn  

nơi nào trong vũ trụ giống chúng ta (tức là sự sống vẫn còn tồn tại)
3. Cấu tạo của Mặt Trời
 Cũng giống như Trái đất, Mặt trời cũng có nhiều lớp khác nhau tạo 
nên cấu trúc của nó. Nhưng Mặt Trời không giống Trái Đất  ở  chỗ, nó 
hoàn toàn là một quả cầu khí, không có một bề mặt chất rắn nào cả. Mặc 
dù Mặt Trời hoàn toàn được tạo ra bằng các khí, nhưng tỷ trọng và nhiệt 
độ của các khí có sự khác biệt rất lớn từ phần trung tâm cho đến phần xa  
nhất. Ở phần trung tâm của Mặt trời, tỷ trọng bằng 150 gam/cm 3 (gấp 10 
lần tỷ trọng của vàng hoặc chì). Càng xa trung tâm Mặt trời, nhiệt độ  và 
tỷ trọng càng giảm. 
    Mặt trời có cấu tạo gồm 3 phần: Phần lõi, bức xạ  và tầng đối  
lưu:

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

11


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
3.1 Phần lõi: 
Phần lõi của Mặt trời là khu vực trung tâm, có độ  dày gần bằng  
25% bán kính Mặt trời, là nơi các phản 
ứng   hạt   nhân   tổng   hợp   hyđro   để   hình 
thành   Heli.   Những   phản   ứng   này   giải 
phóng   năng   lượng   mà   về   sau   nó   đi   ra 
khỏi   mặt   trời   dưới   dạng   các   ánh   sáng 
nhìn được. Tại đây, trọng lực sẽ  hút tất 
cả   mọi   vật   hướng   vào   trong   và   tạo   ra 
một áp lực rất lớn. Chính áp lực này đã 
tác động khiến cho các nguyên tử  khí Hyđro kết hợp với nhau để  tạo ra 

phản ứng hạt nhân. Hai nguyên tử Hyđro được kết hợp để  tạo ra nguyên 
tử Heli­4 và năng lượng theo các bước sau:
 Hai proton kết hợp với nhau tạo ra một Đơ­te­ri (nguyên tử  Hyđro  
kết hợp với một nơtron), một pozitron (phần rất nhỏ của vật chất  
có  điện tích  dương  và có  cùng khối lượng  với  electron)  và  một 
nơtrinô 
 Một   proton   kết   hợp   với   một   nguyên   tử   Đơ­te­ri   để   tạo   ra   một  
nguyên tử  Heli­3 (hai proton kết hợp với một nơtron) và một tia 
gam­ma. 
 Hai nguyên tử  Heli­3 phản  ứng với nhau tạo thành một Heli­4 (hai  
proton và hai nơtron) và hai proton.

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

12


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
Những phản  ứng này tạo ra 85% nguồn năng lượng Mặt trời. 15%  
còn lại được tạo ra từ các phản ứng dưới đây:
 Một nguyên tử Heli­3 và một nguyên tử Heli­4 kết hợp với nhau tạo 
thành một nguyên tử  Berili­7 (bốn proton và 3 nơtron) và một tia 
Gam­ma. 
 Một Berili­7 hút một electron để  tạo thành một Lithi­7 (ba proton 
và bốn nơtron) và một nơtrinô 
 Một Lithi­7 kết hợp với một proton tạo thành hai nguyên tử Heli­4.
     Nguồn năng lượng được phát ra dưới nhiều dạng ánh sáng (tia  
cực tím, các tia X, ánh sáng có thể  nhìn thấy được, tia hồng ngoại, các 
sóng ngắn và sóng radio). Mặt trời cũng phát ra các hạt mang năng lượng 
(nơtron và proton) tạo ra gió Mặt trời. Nguồn năng lượng chiếu xuống 

Trái đất giúp sưởi ấm hành tinh này, tác động lên sức khỏe của con người  
và cung cấp các nguồn năng lượng cho đời sống. Chúng ta hầu như không 
bị các bức xạ và gió Mặt trời làm hại bởi vì đã có bầu khí quyển bảo vệ.
3.2 Tầng bức xạ: là phần tiếp theo phần lõi, chiếm 55% bán kính 
Mặt trời.  Ở khu vực này, năng lượng từ  phần lõi được truyền đi xa hơn 
nhờ các photon (lượng tử ánh sáng). Khi một lượng tử ánh sáng được hình 
thành, nó sẽ  di chuyển được khoảng 1 micromet (một phần triệu mét)  
trước khi bị hút bởi các nguyên tử khí. Sau khi hút các photon, các phân tử 
khí sẽ  bị đốt nóng và lại tiếp tục phát ra các lượng tử  ánh sáng khác với  
bước sóng tương tự. Các lượng tử ánh sáng được tái phát đó cũng đi thêm 
được một quãng đường là 1 micromet và cũng bị các phân tử khí khác hấp 

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

13


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
thụ, chu trình này được lặp lại liên tục, mỗi sự  tương tác giữa lượng tử 
ánh sáng và các phân tử khí đều mất một lượng thời gian nhất định. Quá 
trình hấp thụ  và tái phát này diễn ra khoảng 1025 lần   trước  khi một 
lượng tử ánh sáng đi đến được bề  mặt, vì vậy khoảng thời gian để  một  
lượng tử ánh sáng được tạo ra ở phần lõi và sau đó đi đến được bề mặt là 
rất đáng kể.
3.3 Tầng đối lưu: 
nằm trong khoảng 30% bán kính còn lại, nơi có các dòng đối lưu 
hoạt động và mang năng lượng đi ra khỏi bề mặt của Mặt trời. Các dòng  
đối lưu này làm tăng hoạt động của các khí nóng bên cạnh đó làm giảm  
hoạt động của các dòng khí lạnh. Các dòng đối lưu mang các lượng tử ánh  
sáng ra khỏi bề mặt của mặt trời nhanh hơn quá trình chuyển giao các bức 

xạ xẩy ra giữa phần lõi và phần bức xạ. Với rất nhiều sự tương tác diễn  
ra giữa các lượng tử ánh sáng và phân tử khí trong các tầng bức xạ và đối 
lưu, một lượng tử  ánh sáng mất gần 100000 đến 200000 năm để  tới bề 
mặt. 
    Phía trên bề mặt của Mặt trời là bầu khí quyển bao gồm 3 phần:
3.3.1 Phần quyển sáng:
 là khu vực thấp nhất trong bầu khí quyển Mặt trời mà tại đó có thể 
nhìn thấy Trái đất, rộng khoảng 300­400 km và có nhiệt độ  trung bình là 
5.800oK.  Nó  xuất   hiện  dưới  dạng  bong  bóng  hoặc  kết  tạo  thành  hạt, 
giống với bề mặt của một bình nước đang sôi. Khi đi ra khỏi quyển sáng  

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

14


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
thì nhiệt độ sẽ giảm và các khí sẽ trở nên lạnh hơn, do vậy nó không phát  
ra nguồn năng lượng ánh sáng nữa. Vì thế, rìa ngoài cùng của quyển sáng 
sẽ tối lại và một hiệu ứng rìa tối  đã chiếm toàn bộ phần xung quanh Mặt 
trời.
3.3.2 Phần quyển sắc:
  nằm   phía   trên   và   cách   phần   quyến 
sáng   khoảng 2000 km, Nhiêt độ  chảy dọc 
phần   quyển   sắc   tăng   từ   4.500oK   đến 
10.000oK.   Người   ta   cho   rằng   phần   quyển 
sắc bị đốt nóng là do sự  đối lưu xẩy ra phía 
dưới   tầng   quyển   sáng.   Khi   các   chất   khí 
chuyển động hỗn loạn trong vùng
Quyển sắc

  quyển sáng, chúng sẽ  tạo ra các sóng làm đốt nóng các khí xung 
quanh và phóng chúng vào vùng quyển sắc dưới dạng các tia khí nóng nhỏ 
gọi là các gai nhỏ. Mỗi cái gai cách quyển sáng khoảng 5.000km và tồn 
tại  một  vài  phút. Những  cái  gai này cũng kéo theo sau  một  đường  từ 
trường của Mặt trời mà nó được tạo ra bởi sự  chuyển động của các khí 
bên trong Mặt trời.
3.3.3 Vầng hào quang:
 là lớp cuối cùng của Mặt trời và trải dài hàng triệu km phía ngoài  
vùng quyển sáng. Chúng ta có thể quan sát nó rõ nhất vào thời điểm nhật  

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

15


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
thực và trong các bức  ảnh của mặt trời được chụp bằng tia X. Nhiệt độ 
của quầng trung bình là 2 triệu độ K, mặc dù không có ai có thể giải thích 
vì sao quầng lại nóng như vậy, nhưng theo một số phỏng đoán thì nguyên  
nhân là do từ tính Mặt Trời.
4.Một số hiện tượng
4.1Các vết đen Mặt Trời
Một trong các  hiện tượng gây ảnh hưởng mạnh nhất lên trái đất cảu  
Mặt Trời là từ trường sinh ra bởi các vết đen, các vệt nhỏ màu đen mà 
đôi khi ta có thể quan sát được trực tiếp bằng mắt thường khi nhìn lên  
Mặt Trời.

Vết đen Mặt Trời 

Người đầu tiên quan sát lên các vết đen này bằng một kính thiên văn 30x 

(chiếc kính viễn vọng đầu tiên của loài người). Các quan sát của Galilei 
cho thấy các vết đen Mặt Trời xuất hiện và tồn tại khá lâu trên Mặt Trời,  
chúng chuyển động từ từ trên bề mặt này và dần biến mất sau khi bị che 
khuất. Từ  đó ông đi đến kết luận rằng 
các   vết   đen   này   cũng   là   một   phần   của 
Mặt Trời và chuyển độn quay cùng thiên 
thể, và quan sát các vết đen Mặt Trời cho 
phaeps Galilei tự rút ra kết luận Mặt Trời  
có chu kỳ tự quay là 28 ngày.

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

16


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
Các vết đen Mặt Trời có đường kính khoảng 1000 km và tồn tại 
khoảng 2 tháng, tức là đủ  thời gian để  chúng chuyện động trên bề  mặt 
Mặt Trời, biến mất và lại xuất hiện 2 tuần sau đó. Các vết đen này bản 
thân chúng là các vùng có nhiệt độ thấp hơn trên bề mặt ngôi sao, chúng ta  
biết rằng bề mặt Mặt Trời có nhiệt độ khoảng 5800k, còn các vết đen thì 
chỉ  khoảng 4800k, sự  chênh lệch nhiệt độ  này là chúng ta nhìn lên thấy 
chúng có vẻ tối, và cũng do sự chênh lệch nhiệt độ nhất thời này dẫn đến 
các chênh lệch áp suất và biến các vết đen trở  thành các vùng hoạt động 
mạnh mẽ  mỗi khi chúng xuất hiện, sự  hoạt động này gây ra nhiều  ảnh 
hưởng đến Trái Đất mà chủ  yếu là các hieuj  ứng từ. Chúng có thể  làm  
kim lam châm chỉ  sai hướng và có thể  là  ảnh hưởng đến hoạt động của 
nhiều thiết bị  khĩ thuật. Chu kỳ của các vết đen  vào khoảng 11­17 năm, 
cũng có chu kỳ 22 năm, 64 năm và cả 100 năm. Thông thường, chu kỳ của  
chúng là 11 năm hoặc 22 năm, vào những thời kỳ  có sự  trùn của các chu  

kỳ, giống nhu sự cộng hưởng của nhiều hiệu ứng Mặt Trời hoạt động dữ 
dội và gây ra nhiều chấn động.
4.2 Nhật thực và nguyệt thực
Nhật thực và nguyệt thực là hiện tượng xảy ra khi Mặt Trời , Trái  
Đất cà Mặt Trăng cùng nằm trên một đường thẳng và che khuất lẫn nhau.
Ngày xưa, khi chưa có nhiều nhận thức về vũ trụ, con người không 
hiểu về  hai hiện tượng này và thường đưa ra nhiều cách gải thích khác  
nhau:

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

17


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011


Có câu chuyện thần thoại phương đông kể  rằng 2 nữ  thần 

Mặt Trời và Mặt Trăng là do Ngọc Hoàng sinh ra có nhiệm vụ thay  
nhau đi giám sát dân cư ở từng vùng. Chồng của  hai nữ thần này là  
một con Gấu. Khi gấu đi với một trong hai người vợ thì khi đó dưới 
hạ  giới thấy Mặt Trời hoặc Mặt Trăng bị  che khuất và người ta 
phải đuổi Gấu đi bằng cách gõ mạnh vào chiêng, trống, hay là cối 
giã gạo,…
 Có chuyện lại cho rằng khi đó Mặt Trời hoặc Mặt Trăng bị gấu ăn 
mất.
 Có nơi lai cho rằng sự  biến mất tạm thời của Mặt Trời hay Mặt  
Trăng là điềm dự  báo cho một sự  thay đổi lớn của một đất nước 
hay một dân tộc.

 Ở  Thổ  Nhĩ kỳ, Vào năm 1877, người ta đã chĩa súng về  phía Mặt 
Trời bắn liên tiếp vì cho rằng quỷ  Satan đã ăn mất Mặt Trời của  
họ.
Khi có nhật  thực toàn phần, trên mặt đất xuất hiện những bóng nhỏ như 
những làn sóng lướt đi, còn chân trời thì loé lên những vầng hào quang rực  
lửa. Sử gia Herodot đã ghi lại một trận đánh kết thưc bất ngờ  giữa quân 
Lidia và Midia vì các binh sĩ hai bên đều kinh hoàng khi thấy hiện thượng  
này. Nhờ sự phát triển của ngành thiên văn học người ta có thể tính được 
trận đánh đó diễn ra vào ngày 28/5/585 (trước công nguyên).
Ngày nay nhờ  vào những hiểu biết và khoa học kỹ  thuật, chúng ta 
có thể  giả thích hiện tượng nhật thực và nguyệt thực như sau:

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

18


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
Vi quỹ đạo chuyển động của Mặt trăng quanh Trái Đất là một mặt 
phẳng nghiêng so với quỹ đạo chuyển động quanh Mặt Trời của Trái Đất 
nên hai mặt phẳng này cắt nhau tạo thành một giao tuyến trong đó có 2  
điển nối tâm gọi là 2 tiết điểm của bạch đạo. Nhật thực hay nguyệt thực 
sẽ xảy ra khi Mặt Trăng năm tại một trong hai tiếp điểm.

Dưới ánh sáng Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng tạo ra phía sau  
mình một bóng tối khổng lồ. Khi 3 thiên thể nằm trên giao tuyến nói trên 
thì trục của hai nón bóng tối này cùng nằm trên mặt phảng quỹ  đạo của  
Mặt Trăng.
Khi Mặt Trăng đi qua tiết điểm giữa Trái đất và Mặt Trời (ngày 
không Trăng), cái nón bóng tối của nó quét qua Trái Đất tao thành một 

bóng đen. Những khu vực bị bóng đen đó bao phủ khi nó xảy ra nhật thực.  
Vì Mặt Trăng có đường kính nhỏ hơn 400 lần so với Mặt Trời và khoảng  
cách từ nó đến Trái Đấ cũng nhỏ hơn 400 lần so với khoảng cách từ Trái 
Đất đến Mặt Trời nên khi xảy ra nhật thực toàn phần c chính là khi Mặt 
Trăng lướt qua che vừa khít lên đĩa sáng Mặt Trời. Những nơi khác do sự 
thay đổi góc nhìn nên chỉ có nhật thực một phần.

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

19


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
Nhật thực toàn phần ít khi sảy ra vì bóng của Mặt Trăng in xuống 
Trái Đất chỉ  tạo thành một vệt rất nhỏ  so với bóng của Trái Đất và cái 
bóng đó lướt đi với tốc độ 1km/s. Tại một điểm nhất định khi muốn thấy 
2 lần nhật thực toàn phần kế tiếp nhau cần đợi 250­ 300 năm.
Ngược lại khi Mặt Trăng đi qua tiết điểm đối xứng bên kia Trái 
Đất (ngày Trăng tròn). Nó đi qua cái bóng tối của Trái Đất và không nhận 
được ánh sáng đến từ Mặt Trời, dó đó xảy ra nhật thực. Cũng vì nón bóng 
tối của 
Mặt Trăng nên nguyệt thực xảy ra trong một thời gian dài và thấy được ở 
nhiều nơi trên Trái Đất.

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

20


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011


Mặt trời và hệ Mặt Trời 

21


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011

Chương II: HỆ MẶT TRỜI
I.

Hệ Mặt Trời và các hành tinh

1. Hệ Mặt Trời 
Hệ Mặt Trời là một tập hợp các thiên thể trong vũ trụ, trong đó Mặt Trời 
là trung tâm và có rất nhiều loại thiên thể  khác nẳm trong phạm vi lực  
hấp dẫn của Mặt Trời: 8 hành tinh, 61 vệ tinh & vô số các tiểu hành tinh, 
các sao chổi, các thiên thạch,...

 8 hành tinh trong hệ Mặt Trời:

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

22


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
Thủy tinh ­ hành tinh nóng bỏng & lạnh buốt.
Kim tinh­ nữ thần Sắc đẹp hay hành tinh của Thần chết?
Trái Đất­ hành tinh xanh.

Hỏa tinh­ hành tinh màu lửa.
Mộc tinh­ hành tinh khổng lồ đỏ.
Thổ tinh­ hành tinh đeo khuyên.
Thiên Vương tinh­ hành tinh khổng lồ màu lá biếc.
 Hải Vương tinh­ hành tinh khổng lồ màu xanh thẫm.
Trước đây sao Diêm Vương cũng được coi là một hành tinh trong 
hệ  Mặt Trời. Tuy nhiên, trong những năm gần đây lại có nhiều tranh cãi  
liệu rằng sao Diêm Vương có là một hành tinh trong hệ  Mặt Trời hay 
không? Và cuộc gặp gỡ của gần 2.500 nhà khoa học tại Parague, cộng hoà 
Czech đã nhất trí bỏ  phiếu loại sao Diêm vương ra khỏi danh sách các  
hành tinh trong hệ  mặt trời. Thiên thể  nhỏ  bé xa xôi này bị  giáng xuống 
hạng

 

thấp

 

hơn.

 

Quyết định của Hiệp hội thiên văn quốc tế (IAU) có nghĩa là các sách giáo 
khoa giờ đây sẽ phải viết lại về hệ mặt trời chỉ với 8 hành tinh lớn. 
Hệ mặt trời theo tiêu chí mới, chỉ gồm 8 hành tinh lớn truyền thống.
Diêm Vương được xếp vào dạng "hành tinh lùn" cùng với Ceres, Charon 
và 2003 UB313. Ảnh: BBC.

Mặt trời và hệ Mặt Trời 


23


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
Quyết định được đưa ra sau khi các nhà khoa học thống nhất những 
tiêu chí để phân loại một thiên thể là một hành tinh:
­ Nó phải bay trong quỹ đạo quanh mặt trời.
­ Nó phải đủ lớn để có hình dạng gần tròn
­ Quỹ đạo của nó phải tách bạch với các vật thể khác
Theo những tiêu chí này, sao Diêm Vương đã tự mình rơi khỏi bảng  
xếp loại bởi quỹ  đạo hình elip dẹt của nó cắt qua quỹ  đạo của sao Hải 
Vương. 
Sao Diêm Vương, được nhà thiên văn Mỹ Clyde Tombaugh mô tả 
năm 1930, giờ đây sẽ được xem là một "hành tinh lùn"
2. Các hành tinh trong hệ Mặt Trời 

Các   hành   tinh   trong   hệ   mặt 
trời

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

24


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2011
Hành tinh (planet) là các thiên thể  dưới cấp sao, có khối lượng  
nhiều lần nhỏ hơn các sao. Khối lượng của chúng không đủ để tạo ra các  
phản ứng tổng hợp hạt nhân giúp chúng phát sáng được như các ngôi sao  
nên hành tinh là các thiên thể tối. Chúng chuyển động quanh ngôi sao theo  

các quĩ đạo hình elip với chu kì xác định.
Hệ Mặt Trời được biết đến với 8 hành tinh tính từ trong (gần Mặt 
Trời   nhất)   ra   gồm:   Sao   Thuỷ   (Mercury),   Sao   Kim   (Venus),   Trái   Đất 
(Earth), Sao Hoả  (Mars), Sao Mộc (Jupiter), Sao Thổ (Saturn), Sao Thiên  
Vương (Uranus) và Sao Hải Vương (Neptune).
Trước   đây   chúng   ta   còn   biết   đến   hành   tinh   thứ   9   là   Sao   Diêm 
Vương (Pluto). Tuy nhiên đến tháng 8 năm 2006, hành tinh này đã được 
xét lại và với các yếu tố  về  khối lượng, đường kính và khả  năng phản 
chiếu ánh sáng quá thấp so với 8 hành tinh còn lại, Sao Diêm Vương đã bị 
loại ra khỏi danh sách các hành tinh của Hệ  Mặt Trời. Nó được đưa vào  
một nhóm thiên thể  mới gọi là các “hành tinh lùn” (dwarf planet). Hiện 
nay nhóm này gồm có 3 thành viên là Pluto, Ceres ­ tiểu hành tinh lớn nhất  
trong vành đai tiểu hành tinh, và 2003UB313 ­ một thiên thể  được phát 
hiện năm 2003 tại vành đai Kuiper. Đây là các thiên thể được coi là trung 
gian giữa hành tinh và tiểu hành tinh. Chúng không đủ khối lượng, đường  
kính và khả năng phản chiếu ánh sáng để trở thành hành tinh nhưng lại …  
quá lớn so với kích cỡ trung bình của các tiểu hành tinh.
8 hành tinh trong hệ Mặt Trời được chia làm 2 nhóm:
­ Các hành tinh nhóm trong gồm Sao Thuỷ, Sao Kim, Trái Đất và Sao Hoả

Mặt trời và hệ Mặt Trời 

25


×