Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Bài tiểu luận: Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.75 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
 MỞ ĐẦU                                                                                                               
 
..............................................................................................................
   
 1
 NỘI DUNG                                                                                                           
 
..........................................................................................................
   
 2
I. TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH.................................................. 2
1. Nguồn gốc tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh ....................................... 2
2. Khái niệm và những nội dung chủ yếu của tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh....................................................................................................... 12
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC TA GIAI ĐOẠN HIỆN NAY...........24
1. Xây dựng chế độ chính trị phát huy quyền làm chủ của nhân dân là
mục tiêu quan trọng thể hiện tính nhân văn của chủ nghĩa xã hội. .......24
2. Mục tiêu phát triển kinh tế, giải phóng sức sản xuất, tạo ra của cải vật
chất dồi dào nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân ............25
3. Xây dựng xã hội mới có sự phát triển cao về văn hóa, đạo đức, công
bằng và văn minh.................................................................................. 26

MỞ ĐẦU
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một tư tưởng nổi bật trong hệ thống tư 
tưởng của Người. Đó là tư tưởng hạt nhân chỉ  đạo quá trình đấu tranh nhằm lật 
đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, chế độ phong kiến phản động, giành độc  
lập cho Tổ quốc Việt Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đem lại cuộc sống tự do, 



ấm no, hạnh phúc cho đồng bào. Tư tưởng đó phản ánh khát vọng độc lập, tự đo,  
hoà bình của dân tộc Việt Nam, nâng cao lên một chất lượng mới tư tưởng lấy  
đại nghĩa để  thắng hung tàn của dân tộc ta, thực sự  động viên, phát huy cao độ 
sức mạnh tổng hợp của nhân dân vào cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng chế  độ 
mới, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc Việt Nam.
Nghiên cứu tưởng nhân văn Hồ  Chí Minh phù hợp với tư  tưởng nhân văn  
thời đại là độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội,  
đã thu hút các lực lượng tiến bộ trên thế  giới  ủng hộ  cuộc đấu tranh, cũng như 
các cuộc chiến tranh yêu nước nhằm giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do của 
nhân dân ta, chống các đế quốc to xâm lược. Chính tư tưởng nhân văn của Người 
đã phân hoá, cô lập cao độ kẻ thù, làm suy yếu chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế 
quốc, làm cho nhân dân ta thêm bạn bớt thù.
Thắng lợi của các cuộc chiến tranh yêu nước của dân tộc ta mang đậm tư 
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đã có những cống hiến lớn lao, góp phần phát triển  
phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ  và tiến bộ  xã hội, cho hoà  
bình và hữu nghị giữa các dân tộc, cho quyền được sống và mưu cầu tự do, hạnh  
phúc cho mỗi dân tộc và mỗi con người. Đồng thời làm rõ ý nghĩa thực tiễn và  
cấp bách trong việc khẳng định tính chân lý và tất thắng của con đường mà Hồ 
Chí Minh đã chọn cho dân tộc ta, vạch trần sự xuyên tạc, bóp méo tính nhân văn  
cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước của nhân dân ta do Người và Đảng ta lãnh 
đạo.

NỘI DUNG
I. TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH
1. Nguồn gốc tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
Tư tưởng nhân văn (hay chủ nghĩa nhân văn) là một khái niệm để chỉ giá trị,  
tinh thần chung của nhân loại. Trong cuộc sống, con người luôn có khát vọng 
vươn tới cái đẹp, muốn được tự  do và hạnh phúc. Song điều đó lại bị  chi phối  
2



bởi điều kiện lịch sử, chính trị ­ xã hội của từng quốc gia (dân tộc), của từng thời  
đại. Hơn nữa, tư  tưởng nhân văn là vấn đề  về  con ngườì, mà con người lại là 
trung tâm của mọi thời đại. Các giai cấp khác nhau giải quyết về  vấn đề  con 
người khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại, tư  tưởng nhân văn là hệ  thống quan  
điểm lý luận về con người theo nghĩa rộng. Xuất phát từ sự tôn trọng giá trị nhân 
phẩm con người, thương yêu con người, tin vào sức sáng tạo vô biên của con 
người, coi quyền của con người được phát triển tự do, hạnh phúc và lợi ích của 
con người là tiêu chuẩn đánh giá các quan hệ xã hội, tư tưởng nhân văn, nhất là tư 
tưởng nhân văn cộng sản, chủ trương phát triển mọi khả năng của con người và 
xã hội, thừa nhận các nguyên tắc bình đẳng, công bằng, nhân đạo trong quan hệ 
giữa con người với nhau.
Thực ra, khái niệm tư  tưởng nhân văn không phải đã có ngay từ  buổi bình 
minh của loài người. Lúc bấy giờ, con người còn sống thành bầy đàn rồi sau đó 
thành thị  tộc, bộ  tộc, bộ  lạc. Mọi người sống, lao động tự  nguyện theo chế  độ 
tập thể. Mọi thành viên gái cũng như  trai đều có quyền bình đẳng như  nhau. Xã  
hội càng phát triển, con người càng bị  phân hoá thành kẻ  giàu người nghèo. Đời  
sống vật chất ­ tinh thần giữa các tầng lớp dân cư càng cách xa nhau, giai cấp ra  
đời: kẻ  đi áp bức bóc lột và người bị  áp bức bóc lột. "Xã hội văn minh" đã xuất 
hiện với những nghịch cảnh, kể  thì hưởng thụ  phè phỡn, người thị  quằn quại 
trong đói rét, chết chóc.
Cùng với cuộc đấu tranh để  chinh phục tự  nhiên trong lao động sản xuất,  
con người lại phải đương đầu với các cuộc xung đột xã hội giữa kẻ  đi áp bức, 
bóc lột với người bị  áp  ức, bóc lột. Tư  tưởng, tình cảm, thái độ  của con người  
đối với cuộc sống và xã hội in đậm dấu  ấn giai cấp (địa vị  xã hội) và biến đổi  
không ngừng trong cuộc đấu tranh giai cấp triền miên đó. Cũng từ đây trong nhân  
dân lao động thưòng nảy sinh những  ước muốn giải phóng mọi nỗi khổ  đau đè 
nặng lên mình, cùng những  ước mơ  về  một xã hội lý tưởng, vua thánh tôi hiền,  
mọi người sống với nhau hoà thuận, gần gũi thương yêu, đoàn kết giúp đỡ nhau.
Những khát vọng về cuộc sống tự do và hạnh phúc như vậy của con người, 

khi con người đã đạt đến một cuộc sống vật chất nhất định, có một trình độ  tư 
duy nào đó đủ nhận thức về vai trò và giá trị của con người, trở thành những giá 
trị  nhân văn. Và như  chúng ta đều biết, kể  từ  khi xã hội có giai cấp, các giá trị 
nhân văn ấy trước hết và cơ bản là của nhân dân lao động, của tầng lớp người bị 
áp bức, bóc lột.
Tuy nhiên, chúng ta không hoàn toàn phủ nhận những nhân vật cá biệt trong  
các giai cấp bóc lột cũng biểu thị  lòng thương yêu con người, nhiều khi rất sâu 
đậm và nồng hậu, tố cáo mãnh liệt xã hội đương thời và bệnh vực nhân dân lao  
động và những người bị  áp bức bóc lột, cùng tiếng nói với nhân dân lao động. 
Nhưng đó chỉ  là sự  đồng cảm cảnh ngộ  với người bị  thống trị, bóc lột người  
nghèo, là thái độ  đồng tình của kể  đứng trên ngó xuống và mong  ước cải thiện  
chính sách thống trị  hà khắc của chế  độ  xã hội, chữ  ít khi đòi lật đổi chế  độ 
đương thời.
3


Khi xã hội tư  bản ra đời, khái niệm tư  tưởng nhân văn với tư  cách là một 
trào lưu tư tưởng xã hội mới hoàn chỉnh những quan điểm triết học, chính trị, đạo 
đức lấy con người làm trung tâm.
Khác với chế độ phong kiến, khi thế giới tinh thần do tôn giáo thống trị coi  
con người trước hết là một sinh vật tinh thần, khuyên con người cam chịu mọi  
thiếu thốn và đau khổ về thể xác ở trần thế để hy vọng một tương lai thanh thản,  
hạnh phúc  ở  thiên đường hư   ảo ­ thì khuynh hướng mới của xã hội tư  bản chủ 
nghĩa đòi phải trả  lại con người cho tự  nhiên để  tự  do phát triển, coi việc tận  
hưởng mọi hạnh phúc trần tục là sự phát triển toàn diện của tính người.
Biểu thị  ý muốn hiểu biết và sáng tạo; khát vọng chân lý và tự  do; sự  công 
bằng, bình đẳng và bác ái; lòng tin  ở  con người, tư  tưởng nhân văn tư  sản buổi  
hưng thịnh phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động đã góp phần 
giải phóng sức sản xuất, phát triển văn hoá, khoa học, tạo điều kiện cho sự tiến bộ 
xã hội.

Nhưng tư  tưởng nhân văn tư  sản dần dần bị  bộc lộ  những hạn chế  không 
thể khắc phục bởi quan hệ sản xuất tư hữu tư bản và chủ  nghĩa cá nhân tư  sản. 
Con người mà tư tưởng nhân văn tư sản tôn thờ, đặt vào vị trí trung tâm chính là  
con người tư sản. Đó là con người ích kỷ, ngày càng thoái hoá sa đoạ trong cái xã 
hội mà mọi giá trị đều đo bằng lợi nhuận và tiền bạc.
Tư  tưởng nhân văn tư  sản trong thời kỳ chủ nghĩa tư  bản chuyển sang giai 
đoạn chủ nghĩa đế quốc chủ yếu là phản ánh sự bóc lột nhân dân lao động, cá lớn 
nuốt cá bé, cướp bóc, thôn tính xâm lược các quốc gia dân tộc khác. Nó sản sinh 
ra nhiều thứ "lý luận về con người" chống lại con người hoặc làm cho con người  
càng mất tin tưởng ở con người, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc là thủ đoạn 
chính của những tội ác vô nhân đạo, phản nhân văn trên quy mô ngày càng lớn đối 
với các dân tộc, con người và loài người tiến bộ mà ai cũng biết; là kẻ gây ra các 
cuộc chiến tranh giữa các quốc gia dân tộc phục thuộc, là hai cuộc chiến tranh  
thế giới nhằm chia lại quyền lợi của chúng. Tư tưởng nhân văn tư sản thực chất 
chỉ  là chủ  nghĩa cá nhân tư  sản, là cái "đạo làm người" của giai cấp tư  sản chà 
đạp lên quyền sống của đông đảo nhân dân lao động.
Đối lập với tư tưởng nhân văn tư sản (phản nhân văn) là tư tưởng nhân văn 
cộng sản. Từ khi những "bóng ma cộng sản" ra đời, nhất là từ Cách mạng Tháng 
Mười Nga vĩ đại giành được thắng lợi, tạo nên bước ngoặt lịch sử  đối với loài 
người, tư tưởng nhân văn cộng sản xuất hiện và phát triển, phản ánh quyền lợi  
và những giá trị tinh thần của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trên cơ sở 
quan điểm cho rằng, bản chất của con người là tổng hoà các quan hệ  xã hội, do 
vậy, muốn giải phóng con người và tạo điều kiện cho con người phát triển hoàn 
mỹ phải thay đổi những quan hệ  kìm hãm, trói buộc con người. Nghĩa là xoá bỏ 
quan hệ  bóc lột và bị  bóc lột, thống trị  và bị  trị, xoá bỏ  quan hệ  người bóc lột 
người, thiểu số thống trị đa số; tạo lập quan hệ bình đẳng, tự do giữa con người  
với con người,  tạo lập hệ thống những quan hệ xã hội mới tốt đẹp. Trong toàn 
bộ các quan hệ xã hội ấy, quan hệ sản xuất giữ vị trí chi phối. Nó là quan hệ kinh 
4



tế cơ bản của hình thái xã hội. Muốn xoá bỏ quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế,  
những điều kiện kinh tế ­ xã hội của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trói  
buộc, kìm hãm sự  phát triển của con người thì phải làm cách mạng, phải có 
cương lĩnh cách mạng và khoa học nhằm xoá bỏ quan hệ sản xuất, quan hệ kinh  
tế bóc lột, thống trị của thiểu số tư sản để giải phóng con người, thật sự làm cho  
hoàn cảnh hợp với tính người.
Trong xã hội tư sản, lực lượng xã hội có khả năng xóa bỏ quan hệ sản xuất  
tư hữu tư bản chủ nghĩa ­ nguồn gốc của mọi sự đau khổ của người lao động ­ là  
giai cấp công nhân cách mạng. Chỉ có họ mới làm được cuộc cách mạng vì lợi ích  
của chính mình và cũng vì lợi ích của tất cả mọi người lao động trong xã hội, của  
toàn nhân loại và xây dựng một xã hội mới, trong đó sự tự do phát triển của mỗi 
người là điều kiện cho sự tự do phát triển của tất cả mọi người. Đó chính là tư 
tưởng nhân văn cách mạng, tư tưởng nhân văn chiến đấu của giai cấp công nhân  
của những người cộng sản, là đỉnh cao của tư tưởng nhân văn hiện nay trong xã  
hội hiện đại.
Tư  tưởng nhân văn Hồ  Chí Minh là tư  tưởng nhân văn cộng sản được vận  
dụng vào điều kiện của dân tộc Việt Nam: một dân tộc bị thực dân, đế quốc đô hộ 
phải đứng lên để tự giải phóng mình không thể không kế thừa những giá trị đó. 
Để  xác định bản chất, nội dung của một tư  tưởng, một sự  vật hay hiện 
tượng nào đó của tự nhiên hay xã hội, cần nắm vững nguồn gốc của nó. Trên đây 
chúng tôi đã phác hoạ  một số điểm chính của quá trình phát triển tư  tưởng nhân 
văn trong lịch sử mà tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thạc dòng tư tưởng nhân văn  
cách mạng, tư  tưởng nhân văn cộng sản nhằm làm sáng tỏ  phần nào nguồn gốc 
tư tưởng nhân văn của Người.
Tuynhiên, sẽ  không đầy đủ  nếu không kể  đến những yếu tố  sau đây trong  
nguồn tốc tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Một là, lòng nhân ái trong đời sống của gia đình và quê hương.
Từ buổi đầu thiếu thời, Nguyễn Sinh Cung ­ Hồ Chí Minh đã sống trong một 
gia đình nhà nho nghèo, mọi người đều có lòng nhân ái, thương người, thương  

dân, yêu nước, có tâm huyết với nền độc lập, tự do của dân tộc, không chịu khuất 
phục chế độ thống trị bóc lột, áp bức của bọn phong kiến và thực dân.
Đặc biệt ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với Người là thân mẫu và thân phụ.
Bà Hoàng Thị  Loan, thân mẫu Hồ  Chí Minh là người phụ  nữ  nông thôn cần 
mẫn, đảm đang, thương yêu chồng con vô hạn, nhân hậu với bà con làng xóm. 
Những đức tính quý báu đó của bà đã có tác động mạnh mẽ, ảnh hưởng quyết định  
đến tâm hồn đa cảm, giàu tình thương người của Nguyễn Sinh Cung (Hồ Chí Minh), 
có thể nói đó là những sợi tơ dệt nên nhân cách của Người thời thơ ấu.
Ông Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ  Hồ  Chí Minh đã thể  hiện một quan diểm  
yêu nước, thương dân sâu sắc. Tuy học rộng, hiểu biết nhiều, đã đỗ đạt cao (phó 
bảng) nhưng ông từ  chối ra làm quan vì triều đình phong kiến làm tay sai cho 
giặc. Khi bị thực dân thúc ép nhiều lần buộc phải ra làm quan ông tìm cách không 
hợp tác với bọn họ. Ông thường nói: quan trường là nô lệ  trong những người nô 
5


lệ, lại càng nô lệ hơn. Cũng như một số nhà nho tiến bộ, quan điểm "trung quân  
ái quốc" của ông đã đổi khác. Ông phủ nhận thuyết trung quân của nhà nho và cho  
rằng trung quân bây giờ không phải mù quáng phục tùng triều đình phong kiến mà 
phải thương dân, ái quốc là ái dân, ông hô hào cải cách duy tân, chủ  trương lấy  
dân chúng làm hậu thuẫn cho các phong trào cải cách chính trị xã hội. Và có lòng 
nhân ái, thương dân thực sự, khi ra làm quan ông luôn đứng về phía nhân dân, che  
chở người nghèo, trừng trị bọn hách dịch và nhữhg tên sâu mọt áp bức dân lành.
Dù  ở  đâu, bất cứ   ở  cương vị  nào, ông vẫn thông cảm với dân nghèo, luôn 
giành những tình cảm  ưu ái nhất cho những trẻ  mồ  côi, cho những gia đình gặp 
cảnh éo le, neo đơn, góa bụa, cho những người bị  bọn địa chủ, phong kiến và 
thực dân, đế quốc đẩy vào điêu đứng, khổ ải, lầm than.
Chính tấm lòng thương dân, thương người nghèo khổ  và thái độ  căm ghét 
thực dân phong kiến của ông đã nhen nhóm ngọn lửa yêu nước, tình thương đồng 
bào bị đọa đày trong tâm hồn trẻ tuổi của Nguyễn Tất Thành.

Ảnh hưởng của ông đối với Hồ Chí Minh không chỉ ở tầm lòng thương dân, 
yêu nước mà điều quan trọng hơn là ông đã hướng cho các con mình trong đó có 
Người vào con đường lao động và học tập để biết "đạo lý làm người".
Điều thức thời nhất của ông Nguyễn Sinh Sắc là đã hướng cho các con mình 
chuyển từ  học Hán văn sang học Pháp văn và tạo những điều kiện cần thiết để 
Nguyễn Tất Thành đi theo con đường, tiếp xúc với nền văn minh mới trên con  
đường cứu nước, cứu dân sau nay.
Quê hương Nghệ  Tĩnh là một vùng quê nghèo khổ  vì thiên tai khắc nghiệt 
đối với con người. Đây là cái túi của lụt lội, bão tố và gió Lào của miền Trung bộ 
Việt Nam. Người dân xứ  Nghệ  luôn phải vật lộn, chiến đấu gian khổ  với thiên 
nhiên. Họ  cần cù lao động, thức khuya dậy sớm, một nắng hai sương mới biến 
sỏi đá thành cơm. Từ  xa xưa trong lịch sử, Nghệ  Tĩnh đã từng là chiến trường 
chống các loại giặc ngoại xâm và các cuộc nội chiến do các tập đoàn phong kiến  
gây ra. Vào đầu thế kỷ này, cũng như nhiều vùng nông thôn khác trên đất nước ta,  
Nghệ Tĩnh chịu sự áp bức, bóc lột rất hà khắc của bọn thực dân phong kiến. Đời 
sống kinh tế ­ xã hội càng trở nên cực khổ hơn.
Trong cuộc vật lộn với thiên tai và địch họa người dân xứ Nghệ sớm biết yêu 
thương, đùm bọc, hợp quần, cấu kết với nhau và kiên cường đấu tranh để  giữ 
vững sự tồn tại của mình. Tình thương yêu, lòng vị tha, sẵn sàng hy sinh cho người 
khác, cho gia đình, làng xóm, phản ánh mối quan hệ  đời sống cộng đồng đó của 
quê hương đã góp phần tạo nên trong con người Bác tình cảm yêu người lao động, 
coi trọng tình làng nghĩa xóm, sống với nhau có tình có nghĩa và những đức tính tốt 
đẹp khác.
Hồ  Chí Minh thời niên thiếu đã khâm phục tinh thần chống giặc Pháp của 
các khởi nghĩa Phan Đình Phùng ­ Cao Thắng, đã thấm thía nỗi lo nước thương  
dân của các  bậc  cha chú như  Vương  thúc Quí, Phan Bội Châu...  Những  tầm 
gương nghĩa liệt của họ đã hun đúc từ buổi bình minh của Bác Hồ lòng yêu nước 
thiết tha và chí hướng đi tìm con đường cứu dân, cứu nước sau này.
6



Nghệ  Tính còn là một vùng có nhiều di tích lịch sử  và nhân vật lịch sử  của 
hầu hết các triều đại. Đây cũng là xứ  sở  của nền văn hoá độc đáo, là đất khoa  
bảng, sĩ phu, là quê hương của hát dặm, hát phường vải, phường nón và thơ  ca,  
từ  ca vè dân gian đến những vần thơ  mang nặng tình người của Nguyễn Du, 
những câu thơ "dậy sóng" của Phan Bội Châu phản ánh khát vọng độc lập tự do  
và ý chí đấu tranh chống cường bạo của quần chúng nhân dân. Môi trường lịch sử 
văn hoá đó đã nuôi dưỡng tâm hồn Nguyễn Sinh Cung càng giàu thêm tình người,  
tình thân ái và lòng yêu quê hương đất nước.
Cần khẳng định rằng, đời sống đầy lòng nhân ái của gia đình và quê hương 
xứ  Nghệ đã nhen nhóm trong Nguyễn Tất Thành những tình cảm thương người, 
thương dân, yên nước để sau này rực sáng thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Hai là, truyền thống nhân ái 
Đến tuổi trưởng thành, Nguyễn Tất Thành ­ Hồ Chí Minh vượt lũy tre làng, 
ra bắc vào nam, mở rộng tầm nhìn, tiếp nhận nhiều giá trị tinh thần quý báu của  
dân tộc, tiêu biểu là lòng yên nước, tinh thần quật cường của nhân dân ta và  
truyền thống nhân ái sâu bền của dân tộc Việt Nam được kết tinh từ hàng nghìn 
năm nay.
Tư tưởng nhân văn Việt Nam, tiêu biểu là lòng nhân ái, là giá trị tinh thần cao 
quý của con người Việt Nam; lá lành đùm lá rách, thương người như thể thương 
thân, coi người ta là hoa của đất... truyền thống nhân ái đó được nảy sinh từ đời  
sống cố kết cộng đồng lâu đời của dân tộc ta trong lao động sản xuất, đấu tranh  
chống thiên tai địch hoạ. Từ  xa xưa, dân tộc ta chủ  yếu sống trên các lưu vực  
sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, sông Lam. Đây là vùng đất phì nhiêu, màu 
mỡ, nhưng là vùng nhiều bão lụt dữ  dội. Các trận lụt lớn làm chết người, xóm  
làng xơ xác tiêu điều. Còn bão thì phá hoại mùa màng, đưa nước mặn vào ruộng,  
làm sập nhà đổ  cây. Đó là mối đe doạ  thường xuyên đối với nhân dân ta. Mặt 
khác, để phát triển sản xuất, khắc phục thiên tai, công tác trị thuỷ đóng vai trò hết  
sức quan trọng. Muốn vậy, con người Việt Nam từ xa xưa đã hiệp tác rộng rãi và 
lâu dài không chỉ  trong một làng mà nhiều làng, không chỉ  một vùng mà nhiều  

vùng để đắp đê chống lũ, ngăn nước mặn vào ruộng...
Lịch sử mở nước của dân tộc ta gắn với công cuộc khai hoang lấn biển, lập  
làng, cải tạo đất thau chua rửa mặn. Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và những  
thử  thách ngặt nghèo của cuộc sống đã làm nảy sinh trong mỗi người dân Việt 
Nam ý thức thương yêu, đùm bọc, liên kết hiệp đoàn, chung lưng đấu cật, đồng 
cam cộng khổ để duy trì sự  tồn tại và phát triển đất nước, xóm làng quê hương.  
Tình cảm tốt đẹp đó ngày càng phát triển, trở  thành một lối sống vị  tha, nhân ái  
của dân tộc, lối sống "nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải  
thương nhau cùng".
Trong lịch sử  dân tộc Việt Nam ta đã phải liên tiếp đương đầu trực diện 
nhiều đội quân xâm lược. Nhân dân ta đã sống trong kiếp nô lệ dưới ách thống trị 
nghìn năm của phong kiến phương bắc và gần trăm năm của thực dân, đế  quốc.  
Chính sách bóc lột, thống trị  tàn bạo và hung ác của quân xâm lược, sự  bóc lột  
7


thậm tệ  của bọn vua, quan phong kiến, địa chủ  và cảnh nội chiến "nồi da nấu 
thịt" của các tập đoàn phong kiến giành quyền bính đã đẩy nhân dân ta, dân tộc ta  
đến bờ  vực của sự  diệt vong. Có áp bức thì có đấu tranh. Khi bị  tước hết mọi  
quyền sống, bị đẩy vào cảnh đói nghèo, lầm than, bị chà đạp thể  xác, bị  vùi dập 
về  tinh thần nhân dân lao động nước ta từ  xưa đến nay đã không chỉ  than thân 
trách phận mà đã đoàn kết đứng lên đấu tranh giành quyền sống, quyền độc lập,  
tự do cho dân tộc và đất nước mình. Nhân dân ta hiểu rất rõ rằng quyền sống của  
mình trước hết là sự mất còn của cộng đồng dân tộc, của mảnh đất nơi mình sinh 
ra và lớn lên. Vì thế  đối với dân tộc ta, đạo lý làm người là phải xả  thân vì tình 
làng nghĩa nước.  Yêu nước là phải cứu nước,  là nhân đạo, thương người và 
muốn nhân đạo, thương người phải yêu nước và cứu nước. Yêu nước, thưong  
nòi gắn bó chặt chẽ không thể cắt rời trong khái niệm nhân ái của cộng đồng dân  
tộc Việt Nam.
Một nét đặc trưng của lòng nhân ái Việt Nam là lấy thiện trị ác, lấy đại nghĩa 

thắng hung tàn, lấy chí nhân để  thay cường bạo, là đánh kẻ  chạy đi không đánh 
người chạy lại. Nét đặc trưng đó chứa đựng lòng khoan dung độ  lượng, một nội 
dung nhân văn cao cả của dân tộc ta. Rất đáng tự hào, một dân tộc chịu nhiều đau 
khổ, mất mát do chiến tranh gây ra, một dân tộc đã lập nhiều chiến công hiển hách 
trong lịch sử chống ngoại xâm, dập tắt nhiều cuồng vọng của những tên đế  quốc 
hùng mạnh nhưng lại là một dân tộc rất yêu hoà bình, nhân ái, một dân tộc rất đỗi 
nhân hậu, khoan hoà, không hề say máu, không nuôi hận thù. 
Điều đó được thể  hiện  ở ý chí hoà bình mãnh liệt vang lên từ  rất lớn trong  
đời sống của dân tộc ta. Nhiều người Việt Nam biết chuyện Thạch Sanh tài trí và 
nhân hậu xua tan quân xâm lược chỉ  bằng tiếng đàn thần và khi chúng chịu lui  
quân đã sẵn lòng đãi chúng một bữa cơm no nê bằng chiếc niêu kỳ diệu đã phản 
ánh tinh thần yêu chuộng hoà bình, truyền thống nhân ái, nhân văn của dân tộc 
Việt Nam. Các vị  chiến tướng đời Lý từng nói: "Chỉ  có cái ý chí phân biệt quốc 
thổ  chứ  không phân biệt chúng dân, phải quét sạch cái bản thỉu, hôi tanh để  ca  
thuở đẹp, hướng hội lành... Nay ta ra quân cốt cứu vớt muôn dân... Chớ  có mang  
lòng sợ  hãi" [21]. Vua tôi nhà Trần, nhà Lê đánh thắng giặc vẫn mở lượng hiếu  
sinh, chẳng những để  cho địch rút lui an toàn về  nước mà còn cấp cho chúng  
lương thực, thuyền và ngựa, một cử chỉ cao thượng tuyệt vời. Sau đó ba thế kỷ ý  
chí ấy lại một lần nữa vang vọng trong lời hịch của Tây Sơn: "Một dải tăm kình 
phẳng lặng, cơ thái bình đứng đợi đá gần"[21].
Lòng nhân ái Việt Nam, bên cạnh sự yêu mến nhân dân mình, Tổ quốc mình, 
nhân dân ta cũng rất tôn trọng độc lập, chủ  quyền lãnh thổ  của dân tộc kháh. 
Chúng ta không đi xâm lược ai nhưng cũng đồng thời rất kiên quyết bảo vệ nền  
độc lập tự do của dân tộc mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ  Chí Minh đã nâng cao và phát triển truyền  
thống nhân ái ấy thành tình đồng chí, nghĩa đồng bào, tình nghĩa năm châu bốn bốn 
biển một nhà, Hồ Chí Minh rất trân trọng truyền thống nhân ái đó và thường xuyên 
bồi dưỡng lòng yêu nước, thương nòi theo tinh thần mới, "ái quốc là ái dân", yêu 
8



nước và yêu chủ nghĩa xã hội là một ; chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa  
quốc tế vô sản. Người nói: "nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như 
thế. Từ khi có Đảng lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành 
tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Hiểu chủ 
nghĩa Mác­ Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách  
mà sống không có tình nghĩa thì sao gọi là chủ nghĩa Mác­ Lênin được" [17, tr.661­
662].
Ba là, truyền thống nhân ái trong nền văn minh phương Đông và phương Tây  
chính là yếu tố làm cho tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có tính quốc tế, tính thời  
đại. Đúng như V.I.Lênin nói: "Người cộng sản phải làm giàu cho mình bằng mọi 
tinh hoa kiến thức nhân loại" [38, tr.21].
Ở đây cần phân tích ảnh hưởng Nho giáo đối với tư tưởng nhân văn Hồ Chí  
Minh. Nho giáo là vốn tri thức Người tiếp nhận từ thời thơ  ấu cho đến năm 13,  
14 tuổi, thời kỳ  quyết định sự  hình thành nhân cách con người. Nhưng Nguyễn 
Tất Thành (Hồ Chí Minh) đã tiếp nhận Nho giáo qua các nhà nho yêu nước, trong 
diện mạo hoàn chỉnh của một hệ thống tư tưởng chính trị ­ đạo đức đã được Việt 
hoá. Đạo đức Nho giáo thấm vào tư  tưởng, tình cảm của Nguyễn Sinh Cung 
(Nguyễn Tất Thành) không còn là một lý thuyết khô khan về tôn ti đẳng cấp mà 
là nỗi canh cánh "quốc gia hưng vong thất phu hữu trách", biểu hiện sinh động  
qua tấm lòng trăn trở  của các sĩ phu trong vùng, những bạn hữu cùng chí hướng  
thường đàm đạo với thân phụ Người về lòng dân, vận nước.
Sự  tiếp thu Nho giáo của Hồ  Chí Minh là nhằm vào mục đích phục vụ  cách  
mạng, phục vụ công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng đồng bào. Người rất trân 
trọng các giá trị tích cực trong học thuyết Nho giáo, gạn lọc lấy những yếu tố phù  
hợp với thực tiễn Việt Nam. Chẳng hạn như Người đánh giá cao ý tưởng về  xây  
dựng một xã hội lý tưởng, xã hội đại đồng trong Khổng Mạnh. Hồ Chí Minh đặc 
biệt coi trọng khái niệm "Nhân" của Nho giáo. Người chỉ rõ "Nhân" là cốt lõi của  
tất cả. Nhân vừa có nghĩa là "ái nhân" tức yêu thương con người, vừa có nghĩa 
"thương dân" tức yêu thương nhân dân". Hồ Chí Minh giải thích "Nhân là thật thà 

yêu thương, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào", và đã mở rộng khái niệm đó 
như Người nói: "Chữ người nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng bầu bạn; nghĩa 
là đồng bào cả  nước. Rộng hơn nữa là cả  loài người" [41, tr.223]. Trong đức 
"Nhân" lấy dân làm gốc còn có cả "Hoà" như Hồ Chí Minh thường nói "Nhân hoà"  
trong đạo "Hiếu hoà" mà nói chung trên cả thế giới là yêu hoà bình, hoặc là sự hoà  
thuận trong gia đình và sự  hoà hảo giữa các dân tộc. Đó là nền tảng đạo đức của 
khối đại đoàn kết toàn dân, đại đoàn kết quốc tế mà Hồ Chí Minh đã nêu lên trong  
chiến lược cách mạng của mình.
Chữ "Nhân" trong Nho giáo được phát triển thành từ nhân chính tức là chính  
trị  nhân nghĩa. Tư  tưởng này nhấn mạnh pháp trị, là "chế  dân chi sản" (dạy dân 
làm ăn no  ấm để dân không làm loạn) và "Vương hà tất viết lợi hữu nhân nghĩa  
như  dĩ hỉ" (Nhà vua cần gì nói đến lợi, có nhân nghĩa là đủ  rồi). Như  vậy, tư 
tưởng nhân chính và nhân nghĩa đã có mặt tích cực và phát triển. Theo tư  tưởng  
9


đó là phải quan tâm đến người dân, tạo điều kiện cho người dân có sự ổn định về 
kinh tế và chính trị; trong quản lý xã hội coi trọng dân.
Hồ Chí Minh đã phát triển nội dung của "nhân chính" xưa kia là đặt chính trị 
trên một nềng tảng triết học nhân nghĩa. Cho nên, ngay sau khi vừa mới nhận  
trọng trách Nhà nước do Quốc dân trao phó, Người đã nêu bật phương châm đó  
của "nhân chính" là làm sao để  "đồng bào ai cũng có cơm ăn ­ áo mặc, ai cũng  
được học hành". Đến lúc đã dự thảo sẵn bản Di chúc gửi lại mai sau, Người vẫn 
khẳng định với đời những điều hết sức giản dị rằng: "Đánh thắng giặc Mỹ rồi thì 
những việc chính của cách mạng là làm thế nào giải quyết ngày càng tốt hơn các 
vấn đề  ăn, mặc,  ở  đi lại, học hành, phòng và chữa bệnh... Tóm lại là không  
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân [37, tr45].
Trong các bài nói, bài viết nhằm giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân 
ta về  đạo đức cách mạng, nói rộng ra trong 60 năm hoạt động cách mạng phong  
phú và sôi nổi của mình, Hồ  Chí Minh đã nhiều lần vận dụng những câu chữ  có 

liên quan đến những khái niệm và mệnh đề  Nho giáo với một ý nghĩa mới. Ví 
như  các câu "dân vi quý, xã tắc thứ  chi, quân vi khinh" được Người nâng lên và 
lấy làm quan điểm "dân là gốc". Lợi ích của nhân dân là trước hết, thứ đến là lợi  
ích của quốc gia, cái lợi của vua là không đáng kể. Hồ Chí Minh thường nói nhiều 
đến Khổng Tử, bởi vì Khổng Tử  đã đóng góp cho loài người không ít giá trị  mà 
ngày nay không thể đánh giá cách nào hơn cách mà Nguyễn Ái Quốc đánh giá từ 
những năm 20 của thế  kỷ  này "Đức Khổng Tử  vĩ đại đã khởi xướng nền đại  
đồng và thuyết giáo bình đẳng về  của cải. Ngài nói tóm lại là nền hoà bình trên  
thế  giới chỉ  nảy nở  với một nền đại đồng trong thiên hạ. Người ta không sợ 
thiếu mà chỉ sợ  không công bằng. Sự  công bằng sẽ  xoá bỏ  nạn nghèo khổ" [37,  
tr211]. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển những giá trị tinh thần 
tinh túy của Nho giáo nói chung và của Khổng Tử nói riêng, để  giáo dục cán bộ,  
nhân dân ta phải có lòng khoan dung, có tính chân thành, có tình tương ái và tương  
trợ.
Còn ảnh hưởng của Phật giáo đối với tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư 
tưởng nhân văn của Người đến mức nào, đây là vấn đề khó bởi thành tựu nghiên 
cứu về điều này còn ít. Nhưng sự thật hiển nhiên là dân ta và cả dân Ấn Độ  nữa 
coi Hồ Chí Minh như một đức Phật bởi tình thương bao la tha thiết của Bác đối 
với con người. Tình cảm đó không phải ngẫu nhiên.
Phật giáo được truyền bá vào nước ta rất sớm. Giáo lý của đạo Phật nêu cao 
đức từ bi. A Di Đà, Quan âm và các nhà sáng lập khác của đạo Phật là những Đức  
Phật đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn. Các vị có biểu thị lòng cảm thông sâu sắc đối 
với số phận của chúng sinh và có thiện ý muốn giảm nhẹ hoặc xoá bỏ những nỗi  
đau khổ của con người trên trái đất này. Nhưng từ bi Phật giáo thì khuyên con người  
chịu khó tu hành, mong sự cứu vớt đau khổ ở  một đời sống tưởng tượng trên niết 
bàn.
Nhân dân ta tiếp thu những giá trị của đạo Phật: từ bi bác ái, làm điều thiện 
tránh điều ác nhưng không phải theo nghĩa thụ  động mà phải đoàn kết đấu tranh 
10



trực diện nhằm hưng lợi, trừ  hại, lo lợi  ích thiết thực cho dân, cho nước chứ 
không phải cầu mong. Chính vì vậy các khái niệm đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn 
của Phật giáo khi vào Việt Nam được làm giàu thêm, sự  thương người vốn có 
của người Việt Nam cũng được phát triển hơn bởi tinh thần đấu tranh chống lại  
những cái ác. Muốn có điều thiện không chỉ  tránh cái ác mà quan trọng hơn là 
phải làm mất chỗ dựa của cái ác, tiêu diệt nguồn gốc sản sinh ra cái ác.
Hồ Chí Minh hết sức trân trọng những giá trị nhân văn trong đạo Phật. Người 
đã biểu lộ điều đó trong bức thư gửi các Phật tử Việt Nam nhân ngày lễ Phật rằm 
tháng bảy năm 1947: "Đức Phật là đại từ  đại bi, cứu khổ  cứu nạn. Muốn cứu  
chúng sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma.
Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến  
cùng, để đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để  giữ 
quyền thống nhất và độ  clập cho Tổ  quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ 
đại bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để  đưa giống nòi ra khỏi cái khổ  ải 
nô lệ"[11, tr.408].
Như vậy, những giá trị nhân văn trong nền văn hoá phương Đông kết hợp hài 
hoà, hữu cơ  với văn hoá bản địa. Những khái niệm nhân và nghĩa, thiện và mỹ 
cũng như nhiều thành phần khác trong nền văn hoá Việt Nam đã dung hòa cả nền 
giáo hoá của Phật giáo và đạo Nho... trở thành văn hoá truyền thống của dân tộc.
Những tinh hoa triết học, văn hoá xã hội phương Tây cũng góp phần làm 
phong phú tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Từ trong nền văn minh phương Tây, Hồ Chí Minh cảm nhận sâu sắc vai trò 
tiến bộ của văn hoá phục hưng ở I­ta­li­a trong thời gian đi qua Thuỵ sĩ và I­ta­li­
a. Người rất trân trọng cuộc Đại cách mạng Pháp 1789 với khẩu hiệu bất hủ tự 
do­ bình đẳng­ bác ái với " không khí dân chủ và thân mật của các câu lạc bộ Gia­
cô­banh" mà Người nhắc tới như một nét đậm đà trong ký ức. Ra đi từ một nước 
thuộc địa, phong kiến sang phương Tây với ý thức tìm đường cứu nước, cứu dân,  
Người đã tìm hiểu và tiếp nhận các giá trị  nhân văn ấy để  làm công cụ, phương 
tiện giáo dục, giác ngộ  quần chúng nhân dân, để  tiến công kẻ  thù coi đó như  là  

hạt nhân của công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng con người ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh nghiên cứu kỹ Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và 
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp 1789. Người rất coi 
trọng lý tưởng độc lập, tự do của các văn kiện bất hủ đó. Việc trích dẫn văn bản  
của hai cuộc Cách mạng tư sản Pháp và Mỹ trong Tuyên ngôn độc lập (2­9­1945)  
không phải là sự ngẫu nhiên.
Nhận định của một nhà nghiên cứu cho rằng, đây chính là sự thống nhất giữa 
giá trị  chủ  yếu của các dân tộc trên thế  giới, là thành quả  chung của nhân loại 
trong cuộc đấu tranh vì quyền của các dân tộc và quyền của con người chống lại  
các lực lượng áp bức dân tộc nhằm giải phóng con người.
Tinh hoa văn học phương Tây, đặc biệt là trong kho tàng văn học Pháp lúc 
bấy giờ được Hồ Chí Minh nghiên cứu và khai thác khá kỹ, như các tác phẩm của  
W.Sếch­pia, Ch.Đích­ken, V.Huy­gô, E.Dô­la... Điều quan trọng là thông qua các 
11


tác phẩm văn học này, Hồ  Chí Minh đã sớm nhìn thấy một chủ  nghĩa nhân văn, 
một khát vọng tự do và một tinh thần chiến đấu không khoan nhượng chống chế 
độ nô dịch và sự áp bức bóc lột. Nhưng còn quan trọng hơn là từ sự tiếp nhận các 
tri thức đó, Người đã sáng tạo ra những sản phẩm có giá trị  nhân văn mới nhằm 
mục đích giải phóng con người như  những bài đăng trên báo Người cùng khổ, 
sách " Bản án chế độ thực dân Pháp".
Một điều cần nhấn mạnh rằng, trên cơ sở những nhân tố tư tưởng trên, Hồ 
Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Mác­Lênin mà tư tưởng nhân văn  
mác­ xít là sợi chỉ đỏ  xuyên suốt hệ  tư tưởng đó. Đây là bước ngoặt cơ  bản đối  
với sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng nhân 
văn của Người nói riêng. Truyền thống nhân ái Việt Nam và nhân loại được lý  
luận Mác­ Lênin soi sáng, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và con người  
Việt Nam được gắn bó chặt chẽ với phong trào cách mạng vô sản thế giới. đó là  
cơ  sở  làm cho tư  tưởng nhân văn Hồ  Chí Minh được định hình, quyết định bản  

chất tư  tưởng nhân văn của Người thuộc hệ  tư  tưởng nhân văn cách mạng, tư 
tưởng nhân văn chiến đấu của giai cấp vô sản.
Thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác­ Lênin mà tư tưởng 
cốt lõi là vấn đề  con người, sự  tự  do và phát triển toàn diện của con người, lợi  
ích và hành phúc của con người gắn liền với cuộc đấu tranh và thắng lợi của giai  
cấp công nhân và quần chúng lao động, sự khẳng định một chế độ xã hội tiến bộ 
về  mặt lịch sử  trong đó sự  phát triển tự  do của mỗi người là điều kiện cho sự 
phát triển tự do của tất cả mọi người đã giúp cho Hồ Chí Minh quyết tâm tìm ra  
con đường cứu nước cứu dân phù hợp với quy luật lịch sử hiện đại. Ảnh hưởng  
sâu sắc và quyết định  ấy thể  hiện trong câu nói của Người: "Chỉ  có chủ  nghĩa 
cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc  
và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm 
cho mọi người và vì mọi người, niềm vui hoà bình, hạnh phúc" [8, tr.115­116].
2. Khái niệm và những nội dung chủ yếu của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
Để tiến tới một khái niệm hoàn chỉnh, phản ánh được bản chất, cốt lõi của  
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, cần thống nhất một số khía cạnh.
Đối với Hồ Chí Minh vấn đề hàng đầu và vấn đề quán xuyến suốt cuộc đời 
hoạt động cách mạng của mình là vấn đề  yêu thương, tôn trọng, tin tưởng con  
người và sự nghiệp giải phóng con người. Toàn bộ  sức lực, tâm tư, tình cảm, trí 
tuệ và cả cuộc sống của Hồ Chí Minh đều tập trung vào mục đích đó.
Con người trong quan điểm của Hồ Chí Minh không chung chung trừu tượng  
mà rất cụ thể. Đó là toàn thể nhân loại, là số đông các tầng lớp nhân dân, nhất là  
nhân dân lao động, trước hết là những người bị bóc lột đau khổ, bị nô lệ, đoạ đày  
của dân tộc mình và cả nhân loại cần lao bị áp bức không phân biệt chủng tộc và  
màu da.
Từ đó, khái niệm tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nêu như sau:
"Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là hệ thống những quan niệm, quan điểm  
của Hồ Chí Minh về con người và cách ứng xử của con người với bản thân, với  
12



người khác, với công việc và với các sự  vật, hiện tượng trên thế  giới vì con 
người, tiến tới giải phóng triệt để  con người thấm đượm tinh thần dân tộc và  
quốc tế trong sáng, thủy chung. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là kết quả tổng  
hợp của quá trình kết tinh những giá trị  văn hóa dân tộc và nhân loại dưới ánh  
sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nội dung tư tưởng nhân văn Hồ  Chí Minh có thể  khái quát thành mấy điểm  
chủ yếu sau:
Một là, quan niệm của Hồ Chí Minh về con người. Đó là lòng yêu thương và  
quý trọng con người gắn với lòng yêu dân, yêu nước nồng nàn. Biểu hiện nổi bật 
trong tư tưởng của Người về sự kế thừa "đạo lý làm người" của dân tộc Việt Nam.  
Từ xưa tới nay, khi xử thế với đời, những con người có đạo đức cao cả trong nhân  
dân ta thường hay lấy chữ "Nhân" làm gốc. Chữ  nhân ở đây được hiểu theo nghĩa 
thương yêu người. Ông vua có nhân là ông vua biết thương yêu dân như  con, kính  
trọng dân như  trời, coi dân là ý trời. Ông quan có nhân là ông quan chẳng những  
không ép nạt dân mà trái lại còn bênh vực dân. Người dân có nhân là người sẵn lòng 
cứu nghèo, giúp khổ, giải hoạn nạn cho người khác mà không tiêc công, tiếc của, 
không cần trả ơn. Người ta thường nói: tu nhân tích đức là theo nghĩa như vậy [ 34,  
tr.252].
Trong xã hội phong kiến  ở nước ta, các sĩ phu tiến bộ  cũng rất coi trọng chữ 
"nhân". Khi giặc Nguyên xâm chiếm nước ta (năm 1285), Trần Quốc Tuấn đã nói  
với binh sĩ "ai nấy cần giữ phép tắc, đi đến đâu không được nhiễu dân mà phải đồng 
lòng hết sức đánh giặc. Ông bộc lộ lòng yêu nước, thương dân của mình "Ngày thì  
quên ăn, đêm thì quên ngủ, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa xé thịt, lột da 
quân giặc". Còn Nguyễn Trãi, trong một bức thư kêu gọi tướng giặc Vương Thông 
đầu hàng đã viết: "Nước Việt Nam, tuy xa xăm ở cõi lĩnh ngoại, nhưng vẫn có tiếng 
là một nước thi thư, những bậc tài trí đời nào cũng sẵn có. Bởi vậy, phàm những  
việc ta làm, hết thảy đều theo lễ nghĩa, trên ứng với trời, dưới thuận lòng người".  
Nguyễn Du đã bày tỏ lòng thương mười loại người xấu số của xã hội phong kiến 
thối nát trong bài Văn tế thập loại chúng sinh và xót xa cho thân phận con người bị 

vùi dập trong kiệt tác truyện Kiều.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Nguyễn Đình Chiểu đã nêu bật lý  
tưởng nhân đạo, có lòng tin và lòng  ưu ái đặc biệt với những người nông dân  
Nam Bộ. Thông cảm nỗi tủi nhục của những người bị mất nước, cụ  Phan Bội  
Châu đã bôn ba nhiều năm trời nơi hải ngoại để tìm một con đường cứu nước và  
biểu thị tấm lòng thương dân tha thiết trong các vần thơ gửi về nước kêu gọi các  
tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh với giặc.
Tình thương yêu những người bị chà đạp, bị đối xử tàn tệ trong xã hội phong  
kiến ác nghiệt, trong chế độ thực dân tàn bạo là yếu tố quan trọng làm cho họ có  
tấm lòng yêu quê hương đất nước. Tuy nhiên, do thế giới quan và nhân sinh quan 
bị  hạn chế  của thời đại lúc bấy giờ, lý tưởng nhân đạo, tư  tưởng nhân văn của 
những sĩ phu yêu nước nói trên thiếu một cơ sở dân chủ vững chắc, phạm những  
thiếu sót rất cơ bản mà chúng tôi sẽ nói kỹ ở phần sau.
13


Lần đầu tiên trong lịch sử   ở  nước ta, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng 
dân tộc và xây dựng CNXH, Hồ Chí Minh đã tỏ rõ  là một nhà nhân văn vĩ đại đã  
có một lý tưởng rõ rệt về lòng nhân ái cộng sản.
Lòng nhân ái, sự  thương người, thương dân của Hồ  Chí Minh đã đặt đúng 
vào những "người cùng khổ" nhất, xấu số  nhất trong xã hội. Đó là những công  
nhân, những người nông dân và các tầng lớp lao động khác bị  áp bức, bị  bóc lột  
tận xương tuỷ ở nước ta và trên thế giới, không phân biệt chủng tộc màu da. Hễ 
ai bị khổ là Người thương.
Tình thương đó của Hồ Chí Minh được biểu lộ từ những năm tháng nhỏ tuổi 
sống  ở  quê hương đất nước bị  đô hộ  bởi chính sách thực dân, trước cảnh đói  
nghèo, lầm than cơ  cực, lam lũ, bị   ức hiếp, bắn giết, tù đày của nhân dân ta. 
Những năm tháng ra nước ngoài hoạt động, Người đã từng chứng kiến cảnh  
người lao động bị  bóc lột, bị  đàn áp dã man. Tình thương của Người đối với 
những người lao động bao giờ  cũng gắn liền với sự  căn thù bọn thực dân, đế 

quốc tàn bạo, kẻ gây nên bao cảnh thống khổ đối với dân lành. Đến Mỹ, Hồ Chí 
Minh không bị choáng ngợp bởi tượng Thần Tự do đồ sộ và nhiều nhà chọc trời,  
mà lại rất chú ý đến nỗi cơ cực của người dân lao động da đen và da trắng, căm 
phẫn thủ  đoạn tra tấn dã man của đảng 3K đối với người lao động da đen Mỹ 
theo kiều hành hình Lin­ sơ.  Ở  giữa Pari tráng lệ, Người không ca ngợi sự  giàu  
sang của nó mà lại viết bài đăng báo Nhân đạo mô tả về cuộc sống điêu đứng của  
xóm nghèo, người nghèo. Đó là một biểu hiện tình thương yêu con người bao la 
của Hồ Chí Minh.
Những năm sau chiến tranh của thế  giới lần thứ  nhất, Nguyễn ái Quốc là 
cây bút tố  cáo mạnh mẽ  tội ác chế  độ  thực dân và bênh vực quyền của các dân 
tộc bị áp bức giành lại nhân phẩm và tự do. Người nói nhiều đến cảnh khổ sở, bị 
bóc lột thậm tệ của người công nhân Ô­ da­ ca, một trong những trung tâm công 
nghiệp của nước Nhật. Người vạch rõ âm mưu và thủ  đoạn dã man của CNĐQ 
và CNTD đối với nhân dân lao động ở các nước thuộc địa. Hình thù của nó là con  
đỉa hai vòi, một vòi hút máu của giai cấp vô sản và nhân dân lao động  ở  chính 
quốc, một vòi hút máu giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước thuộc 
địa. Sự có mặt và sự tác oai tác quái của nó trên trái đất này là cội nguồn của mọi  
thảm hoạ, mọi nỗi đau khổ  đã trút lên đầu lên cổ  nhân dân lao động ở  các nước  
thuộc địa từ mấy thế kỷ nay.
Hồ Chí Minh vạch trần tội ác của thực dân Pháp bóc lột nặng nền và tàn tệ 
người nông dân, người công nhân và nói chung là toàn thể  dân tộc Việt Nam.  
Chúng bóc lột bằng "thuế máu", sưu cao, thuế nặng, bằng chính sách ngu dân và 
đặt ra bao nhiêu luật lệ  vô tội vạ, rất khắc nghiệt cho phép các nhà cầm quyền  
hễ ngứa tay thì phạt vạ, tống tù và thảm sát đẫm máu người dân bản xứ. Người  
thông cảm tình cảnh đau khổ của những người nông dân Nam bộ, bị bọn thực dân 
và địa chủ cướp đoạt ruộng đất, bị thuế má nặng nề. Người tỏ lòng thương tiếc  
những gia đình có con em bị thực dân giết hại và viết: "Dù máu người Việt Nam  
nhuộn đỏ "đồng Mả­ ngụy" có phai đi với thời gian đi chăng nữa, thì vết thương  
14



lòng của những bà mẹ già, những người vợ goá, những đứa con côi không bao giờ 
hàn gắn được" [8, tr.377­378].
Hồ  Chí Minh rất lo lắng đến cảnh ngộ  của những người phụ  nữ và những 
em thiếu nhi. Người đã từng lên tiếng vạch trần hành động dã man của bọn thống 
trị đối với phụ nữ ở các nước thuộc địa: "Không một chỗ nào người phụ nữ thoát 
khỏi những hành động bạo ngược" [8, tr.435] của bọn người xâm lược. Người 
xót xa khi nhìn thấy các cháu bé dân tộc thiểu số ốm yếu xanh xao theo ngườì lớn 
vào chào Đại hội Quốc dân Tân Trào và nói với các đại biểu : Nhiệm vụ  của  
chúng ta là phải làm cho các cháu bé có cơm no, có áo ấm, được đi học, không lam  
lũ mãi thế này.
Trong cuộc đời Hồ Chí Minh, tình thương yêu của Người giành cho đồng bào 
đồng chí thật mênh mông. Người quan tâm không sót một ai với thái độ chân tình, 
cởi mở, gần gũi với mọi người và mọi người cũng dễ  gần gũi với Người. Người  
sắp xếp cho mỗi người vị trí xứng đáng, phù hợp với khả năng của mình, lo lắng  
chu đáo cho mọi người về việc làm, đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc đòi hỏi 
vừa thương yêu, dìu dắt, thắm tình đồng bào, nghĩa đồng chí.
Đối với những kẻ lầm đường lạc lối, Người cũng giành những tình thương.  
Người dạy phải khoan hồng, vui mừng đón những đứa con vì cảnh ngộ  mà lạc 
bầy nay biết hối cải. Người tỏ lòng bao dung độ lượng đối với tù binh bị bắt.
Lòng thương người, thương dân của Hồ Chí Minh phản ánh lập trường của 
giai cấp công nhân nhằm đấu tranh xoá bỏ  giai cấp, xoá bỏ  hình thức người bóc 
lột người, đem lại cuộc sống thật sự  hạnh phúc,  ấm no cho con người. Do đó 
lòng nhân ái, sự thương người của Bác là một động cơ lớn trong hoạt động cách  
mạng. Người quan tâm hết thảy, từ những việc lớn đến việc nhỏ có quan hệ tới 
con người, từ công cuộc đấu tranh, chiến đấu để  giải phóng dân tộc, giải phóng  
con người thoát khỏi ách áp bức bóclột, xoá bỏ  di sản nặng nề  của CNTD, đế 
quốc và phong kiến, biến đổi và cải tạo nền kinh tế, văn hoá lạc hậu của nước ta  
thành nền kinh tế, văn hoá tiên tiến đến những việc có liên quan đến đời sống 
thường ngày như tương cà mắm muối của nhân dân. Người nói: "Dân lấy ăn làm 

trời; nếu không có ăn là không có trời... Vì vậy chính sách của Đảng và chính phủ 
phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và chính  
phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và chính phủ có lỗi [14, tr.260].
Tư  tưởng nhân văn Hồ  Chí Minh coi trọng nhân cách con người, quý trọng  
những người lao động, coi con người không chỉ  là sản phẩm của hoạt động tự 
nhiên và xã hội mà còn là sản phẩm của chính bản thân mình. Đối với Hồ  Chí 
Minh, con người không chỉ  tiếp thu mà còn sáng tạo. Quần chúng nhân dân lao 
động đóng vai trò là động lực của cách mạng, là chủ  thể  của sự  nghiệp giải 
phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng cả  chính mình. Vì thế, tư  tưởng 
nhân văn Hồ Chí Minh làm cho mỗi con người Việt Nam nhận thức được vait rò 
và sứ mệnh cao quý của mình.
Hồ  Chí Minh cho rằng, mọi việc đều do con người làm ra cả. Người quý 
trọng người lao động chân tay và trí óc, từ  nông dân, công nhân, trí thức cho đến 
15


"anh bộ đội Cụ  Hồ", từ  trẻ  đến già, từ  đồng bào miền xuôi đến đồng bào miền  
núi, đồng bào trong nước và đồng bào ngoài nước. Người ân cần, chăm chút,  
khuyến khích, tôn trọng con người, rất coi trọng khả năng trí tuệ của mọi người. 
Hồ Chí Minh đã tập hợp động đảo nhân dân lao động, những người có tài có sức,  
có nhiệt tình ra gánh vác việc nước.
Hai là, quan điểm của  Hồ Chí Minh về cách ứng xử,  niềm tin mãnh liệt vào  
sức mạnh và phẩm giá của con người. Con người  ở đây trước hết là những người  
lao động: công nhân, nông dân và trí thức cách mạng... và nói chung là quần chúng  
lao động.
Niềm tin đó của Người hình thành từ  những ngày niên thiếu và suốt quãng 
thời gian bôn ba nơi hải ngoại tìm đường cứu dân, cứu nước. Chính những năm 
tháng hoạt động  ở  nước ngoài đã tạo cho Hồ  Chí Minh (lúc đó là Nguyễn Ái 
Quốc) niềm tin rằng: "Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu 
một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ  bùng nổ  một cách ghê gớm, khi thời 

cơ đến"[8, tr.10].
Theo Hồ Chí Minh, tin vào sức mạnh quần chúng nhân dân lao động là một 
phẩm chất cơ bản của người cách mạng và cũng là chỗ khác căn bản với các giai 
cấp bóc lột và các sĩ phu phong kiến  ở nước ta. Chúng ta đều biết lịch sử xã hội 
loài người từ xưa đến nay là do bản thân quần chúng xây dựng nên và chính họ là  
động lực thúc đẩy lịch sử tiến lên không ngừng. Nhưng các giai cấp bóc lột vì lợi  
ích giai cấp của mình đã xoá nhoà, làm lu mờ vai trò của quần chúng trong lịch sử.  
Chúng coi quân chúng chỉ là một bầy ngu dại. Kể cả những nhà hiền triết trước 
đây, do địa vị và quan điểm giai cấp của bản thân họ và do sự hạn chế của lịch sử 
nên cũng không thấy đúng vai trò quần chúng. Họ  cho rằng quân chúng là những 
người tiêu cực, bị  động, chịu sự  sai khiến của những nhân tài lỗi lạc.  Họ  tuyệt 
đối hoá, cường điệu vai trò của các cá nhân, anh hùng hào kiệt, còn vai trò của 
quần chúng thì bị bỏ quên, không nói tới.
Lịch sử Việt Nam mấy nghìn năm nay đã khẳng định vai trò quyết định của  
quần chúng nhân dân lao động. Nhân dân ta đã nêu cao tinh thần đấu tranh, đoàn  
kết chống ngoại xâm, chống áp bức xã hội và chống thiên tai. Nhân dân lao động 
là lực lượng quyết định sự mất còn của Tổ quốc, sự hưng vong của các triều đại; 
đó là một sự thật khách quan không phụ thuộc vào bất cứ ai. Sự nghiệp vẻ vang 
là do Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang  
Trung... lãnh đạo chính cũng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhưng dưới  
chế độ phong  kiến, vai trò quần chúng nhân dân nước ta bị lu mờ, chính bản thân 
họ  cũng không nhận thức được sức mạnh của mình. Là lực lượng có tác dụng  
quyết định sự biến đổi của lịch sử nhưng cuối cùng quần chúng vẫn bị áp bức, bị 
bóc lột, bị coi chỉ là những kẻ “thảo dân”.
Dưới thời thực dân, đế  quốc phương Tây xâm lược, nhiều nhà ái quốc có 
tâm huyết với nền độc lập tự  do của Tổ  quốc đã kêu gọi quần chúng đứng lên 
chống lại chúng giành độc lập nhưng họ  quan niệm quần chúng chỉ  là những  
người thụ  động. Họ  thiếu lòng tin vào khả  năng quần chúng mình đứng lên tự 
16



giải phóng. Đó là một trong những nguyên nhân thất bại của các phong trào ái  
quốc trước đầy.
Dưới ánh sáng chủ  nghĩa Mác­ Lênin, những người cộng sản Việt Nam và 
Hồ  Chí Minh nhận thức sâu sắc hơn vai trò của quần chúng, niềm tin vào sức  
mạnh và phẩm giá của họ càng mãnh liệt. Chẳng những Hồ Chí Minh hiểu: "Chỉ 
có chủ  nghĩa xã hội, chủ  nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị  áp 
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ" [15, tr.701] mà còn chỉ 
cho Người thấy rõ cả  những lực lượng cách mạng bảo đảm cho công cuộc giải  
phóng ấy thắng lợi. 
Lực lượng cách mạng  ấy trên phạm vi toàn thế  giới là "vô sản tất cả  các 
nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại". Lực lượng cách mạng ấy đối với từng 
nước có thể khác nhau nhưng bao giờ cũng lấy công nhân, nông dân làm lực lượng  
cơ bản, bao giờ cũng phải được đông đảo quần chúng tham gia. Lần đầu tiên trong  
lịch sử nước ta, vai trò của quần chúng nhân dân lao động đã được hiểu đúng. Cách 
mạng là sự  nghiệp của quần chúng tự  mình giải phóng lấy mình, không có anh 
hùng hào kiệt nào có thể cứu vớt được quần chúng mà chính bản thân quần chúng  
được giác ngộ, được tổ chức, đoàn kết dưới sự lãnh đạo của một đảng tiên phong 
của giai cấp công nhân thì mới giải phóng cho mình được.
Tin vào quần chúng, tin vào con người, Hồ  Chí Minh đã nêu cao vai trò tích  
cực, chủ động sáng tạo của con người, của quần chúng. Người nói, cách mệnh là 
việc chung của cả dân chứ không phải của một, hai người, công nông là gốc của  
cách mạng. Muốn giải phóng, các dân tộc chỉ  có thể  trông cậy vào mình, trông 
cậy vào lực lượng của bản thân mình. Người tự khẳng định, có dân là có tất cả.  
Nhưng để quần chúng có sức mạnh thực sự, Hồ Chí Minh nói phải "đi vào quần 
chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh 
giành tự do độc lập" [8, tr.174]. Với những tư tưởng đó, Hồ  Chí Minh đã tạo cơ 
sở cho việc hình thành và phát triển đạo quân chính trị của cách mạng là điều cơ 
bản, có ý nghĩa quyết định" đối với cách mạng Việt Nam. Trong đội ngũ quân 
chính trị ấy, quần chúng được động viên và lôi cuốn mạnh mẽ, rộng rãi vào cuộc  

đấu tranh từ thấp lên cao, không ngừng giác ngộ chính trị, phát triển đội ngũ ngày 
càng lớn mạnh. Nhờ  đó khi tình thế  cách mạng xuất hiện, Hồ  Chí Minh cùng  
Đảng ta đã phát động quần chúng đứng lên đánh đổ ách thống trị của thực dân và  
phong kiến, chống đế quốc xâm lược, giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến lên 
xây dựng chế độ mới. Trong sự nghiệp sáng tạo xã hội mới, quần chúng nhân dân 
cũng đã phát huy  nhiệt tình cách mạng và tài năng sáng tạo của mình. Cách mạng 
Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo đã chứng minh sức mạnh sáng tạo vĩ đại của nhân 
dân và dân tộc Việt Nam bằng những thắng lợi liên tiếp trong khởi nghĩa, trong 
chiến tranh giải phóng, chiến tranh giữ nước và xây dựng chế  độ  xã hội tốt đẹp  
của dân, do dân và vì dân hiện nay, đánh thắng cả CNTD, phong kiến, đánh Pháp, 
đuổi Nhật, đánh CNTD cũ, đánh bại CNTD mới, từng bước chiến thắng nghèo 
nàn, lạc hậu.
17


Chính vì thấy được sức mạnh dời non, lấp biển của con người, của nhân 
dân, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở, giáo dục cán bộ, đảng viên tin tưởng vào nhân 
dân, phát huy mọi năng lực của nhân dân. Bởi vì như  Người nói "Thắng lợi của 
cách mạng là do sức phấn đấu hy sinh và trí thông minh sáng tạo của hàng triệu 
nhân dân, nhất là công nhân, nông dân và những người trí thức cách mạng" [18,  
tr.58]. Thành công của Đảng ta là  ở  chỗ  Đảng ta tin tưởng vào sức mạnh và trí 
tuệ của quần chúg nên đã tổ chức và phát huy được lực lượng cách mạng vô tận  
của nhân dân, đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu một cách dũng cảm và thông minh  
dưới lá cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác­ Lênin. Do đó, Người căn dặn phải đi sát 
nhân dân, dựa vào nhân dân để hoàn thành mọi nhiệm vụ của cách mạng. Người  
nói, phải nhớ dân là chủ, bao nhiêu lực lượng, bao nhiêu quyền hành là ở dân hết.  
Người cán bộ  phải biết dân tốt, lúc họ  hiểu thì việc gì khó mấy họ  cũng làm 
được. Dễ  trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong. Nhân  
dân ta rất thông minh. Quần chúng lao động có rất nhiều kinh nghiệm và sáng 
kiến.

Lòng tin vào con người của Hồ  Chí Minh vô cùng mãnh liệt và rộng lớn. 
Người tin vào bản chất tốt đẹp của mỗi con người, dù ai đó có nhất thời bị  lỗi  
lầm, dù nhỏ nhen thấp kém. Người nói, trong mấy triệu người cũng có người thế 
này thế  khác, đều dòng dõi của tổ  tiên ta. Điều cốt yếu là phải có lòng khoan  
dung độ  lượng. Người rất quan tâm đến việc giáo dục con người, biết khuyến 
khích cái tốt, khuyên con người làm điều thiện, đẩy lùi cái xấu, cái ác, nâng đỡ 
con người lên. Người từng chỉ rõ, trong con người ta bao giờ cũng có phần tốt và 
phần xấu. Người cách mạng phải giáo dục, cảm hoá họ để cho phần tốt của mỗi  
con người nảy nở phát triển như hoa mùa xuân và đẩy lùi phần xấu của mỗi con  
người.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như trong xây dựng đất nước, Hồ 
Chí Minh không những đã tập hợp được một lực lượng cách mạng rộng lớn mà  
còn lôi kéo nhiều người tiến bộ   ở  các tầng lớp khác trong nước và ngoài nước 
ủng hộ  đoàn kết với nhân dân chống chủ  nghĩa thực dân, chủ  nghĩa đế  quốc.  
Người có sức thu hút và cảm hoá rất lớn là do nhiều lẽ, chúng tôi đồng ý với luật 
sư Phan Anh cho rằng, "cái lẽ sâu xa nhất là từ lòng tha thiết tin yêu nhân dân, tin  
yêu con người và tin yêu cả loài người" tiến bộ. Lòng nhân ái của Hồ  Chí Minh  
vừa là chủ động đấu tranh giải phóng con người. Chính điểm này đã làm cho Hồ 
Chí Minh, nhà hiền triết hành động và chiến đấu. Trong xã hội có đối kháng giai  
cấp và dân tộc, những người lao động chỉ  có hành động, hành động đấu tranh 
cách mạng mới đem lại hạnh phúc cho mình. Dân tộc Việt Nam những năm dưới  
chế độ thực dân, đế quốc sống trong cảnh cực khổ không sao chịu đựng nổi. Độc  
lập, tự  do, hạnh phúc và các quyền dân tộc sơ  đẳng, các quyền con người tối  
thiểu nhất cũng bị  chế  độ  thực dân tước đoạt. Muốn sống cuộc sống của con 
người phải làm cách mạng, kẻ  thù không bao giờ  để  cho dân tộc ta được sống  
yên vui trong hoà bình. C.Mác nói, hạnh phúc là đấu tranh (đấu tranh chống lại 
mọi thế lực áp bức mình, để giải phóng con người và loài người ­ TĐC giải thích  
18



thêm),   khuất   phục   là   sự   đau   khổ   và   quỵ   luỵ,   là   tính   xấu   đáng   gờm   nhất. 
Ph.Ăngghen cũng nêu lên nguyên lý, giai cấp vô sản không chỉ là một giai cấp chịu 
khổ  mà trước hết là giai cấp có sứ  mệnh đánh đổ  chế  độ  áp bức bóc lột, xây  
dựng xã hội mới vì hạnh phúc con người. V.I.Lênin đã làm sáng tỏ hơn vai trò xây 
dựng xã hội mới, đó của những người vô sản và nhân dân lao động. Và nói chung, 
các nhà lý luận của chủ  nghĩa Mác­ Lênin luôn đánh giá cao vai trò lịch sử  của  
quần chúng lao động là người sáng tạo ra xã hội mới bằng cách mạng. Cách 
mạng là ngày hội của những người bị  áp bức, bóc lột và chính trong cuộc đấu 
tranh tự  giác cho một xã hội không có chế  độ  người bóc lột người, mỗi người 
đều có khả năng phát triển đầy đủ năng lực, phẩm chất của mình.
Hồ  Chí Minh là lãnh tụ cách mạng, là chiến sĩ cộng sản và là một nhà nhân  
văn lớn. Lý tưởng và quyết tâm của Người là chiến đấu cho sự  nghiệp giải 
phóng dân tộc và giải phóng con người. Đó là điều khác cơ bản với các tư tưởng 
nhân văn trừu tượng, phi hiện thực và những tư tưởng thương người theo kiểu từ 
bi, bác ái, cầu xin của các tôn giáo. Các nhà tư tưởng trước đây trong xã hội cũng  
xuất phát từ động cơ trong sáng là muốn đem lại cho con người tự do, hạnh phúc, 
xây dựng một xã hội mọi người sống bình đẳng, no ấm, yên vui... nhưng lại đứng  
trên quan điểm duy tâm lịch sử, thổi phồng và cường điệu vai trò của tư  tưởng,  
truyền thống con người trừu tượng, siêu giai cấp. Cho nên, họ  dừng lại  ở  lòng 
thành thật thương yêu nhân quần ở "chính nghĩa vĩnh hằng", ở "lý trí muôn thủa",  
ở những ước mơ tốt đẹp mà không bao giờ trở thành hiện thực.
Các tôn giáo thường nói đến từ  bi, bác ái nhưng cắt nghĩa rằng kẻ  giàu 
người nghèo là do trời, phật định đoạt thì làm sao có tư  tưởng nhân văn chân 
chính. Trong các kinh phật, kinh thánh chứa đựng nhiều nội dung về cuộc đời, về 
số  phận và lòng mong  ước của con người về  cuộc sống hạnh phúc nhưng lại 
khuyên con người hãy chịu đựng, hãy nhẫn nhục ở trần gian và mong siêu thoát ở 
nơi thiên đường hư   ảo. Các thứ  từ  bi, bác ái của tôn giáo thường bị  biến thành  
công cụ  trong tay các giai cấp bóc lột dùng để  đánh lạc hướng hay ru ngủ  quần  
chúng lao động. Chịu  ảnh hưởng nặng tư  tưởng triết học của Khổng giáo, bên 
cạnh mặt tiến bộ  như  đã trình bày  ở  trên, các sĩ phu nước ta quan niệm về  chữ 

"nhân" theo quan điểm phong kiến. Họ  cũng biểu thị  lòng thương dân tha thiết,  
đồng cam số  phận người nghèo khổ, nhưng nhìn chung vẫn  ở  khía cạnh lòng 
thương hại, sự lo lắng của họ chủ yếu là lo cho số phận những người thuộc tầng  
lớp phong kiến quý tộc hơn là quan tâm đến quyền lợi của những người bị  đày 
đoạ  và bị  áp bức nhất. Nếu có đứng lên trị  tội bọn vua quan phong kiến tàn ác, 
hay đấu tranh chống lại những thế lực khắc nghiệt chà đạp quyền sống của con  
người , họ  vẫn bảo vệ  chế  độ  phong kiến, duy trì trật tự  xã hội  ấy. Các quan  
niệm về "trung", "hiếu", "tiết", "nghĩa" của họ tuy có biến đổi theo tư tưởng bình 
dân và tinh thần dân tộc, nhưng về  căn bản vẫn thuộc ý thức hệ  phong kiến lạc  
hậu. Thí dụ, giá trị nhân văn trong tác phẩm Chinh phụng ngâm vẫn còn dừng lại  
ở  mức độ  than thở  hoặc bất bình với chiến tranh làm tan vỡ  hạnh phúc lứa đôi 
19


của tầng lớp thành niên quý tộc chứ chưa phải là những lời kêu gọi đánh đổ chế 
độ phong kiến thối nát, nguyên nhân gây ra các cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Còn tư  tưởng nhân văn tư  sản có nói đến đấu tranh chống chế  độ  phong 
kiến và các thế lực tôn giáo khắc nghiệt, đòi giải phóng cá nhân con người nhưng 
thực chất cũng là bênh vực giai cấp tư sản, đề  cao chủ nghĩa cá nhân, đàn áp bóc  
lột công nhân, nông dân và nhân dân lao động.
Tư  tưởng nhân văn Hồ  Chí Minh cũng khác với tư  tưởng  nhân văn trừu 
tượng của bọn xét lại, cơ hội, cải lương âm mưu đem chủ nghĩa nhân đạo tư sản  
hoà đồng với chủ  nghĩa cộng sản nhằm xoá bỏ  cuộc đấu tranh giải phóng dân 
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Tư  tưởng nhân văn Hồ  Chí Minh là tư  tưởng nhân văn chiến đấu của giai 
cấp  công   nhân   và  những   người   lao   động,  lấy  hạnh   phúc  của   con   người   làm 
nguyên tắc cao nhất. Nhưng hạnh phúc của con người là gì nếu không phải là 
thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột của CNTD, CNĐQ, đem lại cho con người sự làm  
chủ  toàn diện, mọi người cùng nhau lao động xây dựng cuộc sống  ấm no, hạnh 
phúc, yên vui trong tình thương và lẽ  phải; ai nấy đều được phát triển đầy đủ 

nhân cách, sở  trường và năng khiếu trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân, gia  
đình và xã hội. Cho nên, đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người khỏi 
ách thống trị  của thực dân, đế  quốc, đấu tranh đòi tự  do dân chủ, xây dựng và 
phát triển CNXH là tư tưởng nhân văn, là tư tưởng nhân đạo đích thực.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh vì thế nhằm vào hành động và hướng quần 
chúng nhân dân lao động vào cuộc đấu tranh để biến những quan niệm, lý tưởng  
tốt đẹp, khát vọng và  ước mơ  giải phóng nghìn đời của mình thành hiện thực.  
Khát vọng giải phóng của dân tộc Việt Nam, của con người Việt Nam càng thêm 
nung nấu và bùng cháy bởi ách đô hộ  cực kỳ  tàn bạo của bọn phong kiến, thực  
dân và đế  quốc. Lúc bấy giờ, nhân dân Việt Nam ta điêu đứng trong cảnh ngộ 
mất nước, bị áp bức về chính trị, bị bóc lột về kinh tế, bị đầu độc về  văn hoá, bị 
đày đoạ  trong đói rách và bệnh tật.Toàn xã hội Việt Nam, nhất là những người  
lao động, lâm vào số  phận của kẻ nô lệ  bi thảm, mọi quyền sống và quyền làm 
người bị chà đạp. Muốn sống phải đứng lên chiến đấu chống lại kẻ thù đang chà 
đạp nhân phẩm và các quyền thiêng liêng khác của con người. Lịch sử Việt Nam  
hơn 80 năm dưới ách ngoại xâm là lịch sử của những trận chiến đấu oai hùng cho  
công cuộc giải phóng dân tộc. Nhưng các cuộc chiến đấu đó của nhân dân lao  
động nước ta có được mục tiêu tự  giải phóng rõ ràng và cao đẹp, tổ  chức chặt  
chẽ  và khoa học, biện pháp triệt để  và có hiệu quả  từ  khi Hồ  Chí Minh tìm con 
đường cứu nước, cứu dân đúng đắn để  biến ý chí giải phóng con người thành 
hiện thực.
Khác với các sĩ phu yêu nước lớp trước  ở chỗ Hồ Chí Minh đã gắn liền với  
tình cảm yêu nước, thương dân với hành động đấu tranh cứu nước, cứu dân. 
Trong hoàn cảnh nước mất, phải quyết tâm tìm đường cứu nước. Mọi suy nghĩ  
và việc làm của Người đều thể  hiện tinh thần mong muốn cứu giúp đồng bào 
khỏi kiếp trâu ngựa. Người đã gắn  ước mơ, hoài bão, khát vọng, lý tưởng giải  
20


phóng nỗi đau của con người trong cảnh sống lầm than nô lệ với việc giải phóng 

non sông đất nước. Nước đối với Người trước hết là dân, vì thương dân mà phải  
đi tìm đường cứu nước.
Người đã sang Pháp và các nước phương Tây để  nghiên cứu kẻ áp bức dân  
tộc mình, đi đến nơi đang có tư tưởng tự do, dân chủ, dân quyền và khoa học kỹ 
thuật hiện đại đang phát triển để  xem đằng sau những từ  "tự  do", "bình đẳng",  
"bác ái" của bọn thực dân có ý nghĩa gì ? Để  xem nhân dân ở  đó làm thế  nào mà 
trở  nên độc lập và hùng cường nhằm về  giúp đồng bào mình. Tại phương Tây,  
Người tham gia tích cực các hoạt động thực tiễn, đi vào cuộc sống của những  
người lao khổ, tiếp đó là thực tiễn trong phong trào giải phóng dân tộc và phong 
trào công nhân quốc tế.
Các hoạt động xã hội đó từng bước đưa Người vào thế giới cách mạng của  
giai cấp vô sản. Bên cạnh ý thức sâu sắc vốn có về  thân phận người dân nô lệ 
mất nước do CNĐQ, Nguyễn ái Quốc đã nảy sinh ngày càng rõ nét về thân phận  
người nô lệ  trong chế  độ  tư  bản. Từ  đó, ý thức giác ngộ  dân tộc, giác ngộ  giai 
cấp đã nảy mầm và ngày càng lớn lên. Người rút ra điều quan trọng: muốn giải  
phóng, các dân tộc thuộc địa phải làm cách mạng và phải trông cậy vào sức của 
chính mình, không ỷ lại bên ngoài.
Quá trình Hồ Chí Minh hoạt động cách mạng, lặn lội trong phong trào công  
nhân quốc tế  để  cuối cùng tiếp nhận chủ  nghĩa Mác­ Lênin là con đường duy 
nhất đúng để giải phóng dân tộc, là quá trình Người khổ công tìm kiếm, quá trình 
tự giác dấn mình vào cuộc đời, lối sống đầy gian nan nhưng vô cùng cao quý mà 
Người đã lựa chọn.
Cần chú ý rằng, đến với chủ nghĩa Mác­ Lênin, chân lý của thời đại, Hồ Chí 
Minh đã vượt qua mọi sự  hạn chế  của chủ  nghĩa yêu nước cũ của các sĩ phu  
phong kiến và các nhà cách mạng có xu hướng dân chủ    tư  sản và tiểu tư  sản  
đương thời. Cũng đều có tấm lòng yên nước nồng nàn, son sắt nhưng các cụ Phan 
Bội Châu và các nhà yêu nước lúc bấy giờ chỉ nhờ sự chi viện của bên ngoài, còn 
Hồ  Chí Minh thì đi tìm một lí luận cách mạng để  tổ  chức quần chúng đấu tranh  
tự giải phóng.
C.Mác, ph.Ăngghen, V.I.Lênin là các nhà sáng lập ra học thuyết giải phóng 

giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là những nhà nhân văn vĩ đại của giai 
cấp vô sản thế giới. Các ông chủ trương giải phóng con người trên cơ sở  những  
điều kiện lịch sử xã hội của châu Âu, của những nước đã giành được độc lập dân 
tộc từ lâu, những nước công nghiệp đã phát triển, ít ra cũng ở mức trung bình và ở 
đó chủ nghĩa tư bản đã phát triển. Do đó, C.Mác, ph.Ăngghen cho rằng phải làm  
cách mạng vô sản ở tất cả các nước tư bản đã phát triển để giải phóng giai cấp  
công nhân và đồng thời giải phóng luôn cả  những người lao động khác. Khẩu  
hiệu của các ông nêu ra "vô sản toàn thế  giới đoàn kết lại". Còn V.I.Lênin sống  
trong thời đại chủ  nghĩa tư  bản phát triển sang giai đoạn chủ  nghĩa đế  quốc, do  
sự  phát triển không đều của nó, xuất hiện khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền 
của chủ  nghĩa tư  bản. Vì vậy, V.I.Lênin chủ  trương phải đoàn kết giai cấp vô  
21


sản và các dân tộc bị  áp bức chống chủ  nghĩa tư  bản, lật đổ  chính quyền của 
chúng ở một số nước thậm chí ở một nước nơi tập trung nhiều mâu thuẫn nhất  
của chủ nghĩa tư bản, thành lập chính phủ công nông. Và nói chung, các ông đều  
lấy việc giải phóng giai cấp vô sản làm nhiệm vụ trung tâm và điều kiện cho giải  
phóng dân tộc và thuộc địa.
Còn Hồ Chí Minh thì xuất phát từ yêu cầu cấp bách giải phóng dân tộc mình 
rồi từ  đó đi đến ý thức giải phóng tất cả  các dân tộc thuộc địa, giải phóng giai  
cấp vô sản để    đi đến chủ  nghĩa cộng sản. Cần nói thêm rằng ý thức về  giải 
phóng dân tộc mình là vấn đề lớn nhất, bao trùm nhất của Bác.
Khi đã tìm đường cứu nước, cứu dân đúng đắn rồi, người lại chẳng quản gian  
nguy, hoạt động làm cho đường lối đó được thấm sâu vào trong toàn dân, trở thành 
sức mạnh vật chất như Mác nói: "vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay 
thế  được sự  phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể  bị  đánh đổ  bằng  
lực lượng vật chất" [1, tr.553] và đưa cách mạng Việt Nam phát triển theo con 
đường đó.
Muốn vậy, phải tuyên truyền, giáo dục, tập hợp, tổ  chức quần chúng nhân 

dân làm cách mạng. Từ những năm 1926­1927, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào công 
tác tuyên truyền, tổ  chức đội ngũ chiến đấu để  trở  về  nước. Người mở  các lớp 
đào tạo cán bộ cách mạng, đòi hỏi các cán bộ phải thông hiểu lý luận, đưa lí luận 
vào quần chúng bằng cách đi vào quần chúng, đi vào xí nghiệp, hầm mỏ, vào đồn 
điền, vào nông thôn, cùng lao động như  những người lao động, thông cảm nỗi  
khốn cùng của công nông, tổ chức cơ sở cách mạng trong công nông.
Cuộc chiến đấu để "tự giải phóng hoàn toàn và vĩnh viễn" khỏi ách áp bức,  
nô lệ của CNTD cho nhân dân ta do tự tay Hồ Chí Minh nhóm lên và lãnh đạo, đi 
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, trước hết vẫn là cuộc chiến đấu bằng chính 
trị và vũ trang.
Nhân dân Việt Nam vốn yêu chuộng hoà bình, hữu nghị  và chính Hồ  Chí 
Minh tiêu biểu cho những khát vọng hoà bình tha thiết của dân tộc ta. Nhưng chủ 
nghĩa đế  quốc, chủ  nghĩa thực dân chỉ   ưa bạo lực nên bạo lực cách mạng phải  
giáng trả  lại bạo lực phản cách mạng. Chiến đấu bằng mọi hình thức bạo lực  
cách mạng để tự giải phóng dân tộc và giải phóng con người khỏi ách áp bức, đô 
hộ của chúng là tất yếu, là nghĩa vụ của con người biết yêu con người, tôn trọng  
con người. Do đó, Hồ  Chí Minh có quyết tâm chiến đấu rất lớn, có lòng dũng 
cảm phi thường. Cuộc đấu tranh để  giải phóng con người của Hồ  Chí Minh đã  
trở  thành một niềm say mê mãnh liệt: giàu sang không thể  quyến rũ, nghèo khó  
không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục. Cuộc đời của Người là một  
truyền thuyết về  hy sinh và quyết tâm. Người  hoàn toàn cống hiến cho cách 
mạng cho nhân dân. Hồ  Chí Minh là tấm gương đấu tranh không mệt mỏi để 
vượt khó khăn. Người từng nói: người cách mạng, người cộng sản không sợ khó 
khăn, có khó khăn mới phải làm cách mạng, mới cần người cách mạng. Làm cách 
mạng là xoá bỏ cái cũ, dựng xây cái mới vì lợi ích của nhân dân, vì đời sống tự do 
và hạnh phúc của con người,  người trong nước  và người  ngoài nước,  tức là  
22


những người lao động toàn thế giới. Ý chí của Người về giải phóng dân tộc, giải 

phóng con người rất mãnh liệt. Chính vì thế  mà Hồ  Chí Minh đã bất chấp mọi 
khó khăn: "Chúng ta thàn hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất  
định không chịu làm nô lệ" [11, tr.202] và "Hễ  còn một tên xâm lược trên đất  
nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi" [17, tr.723].
Đương đầu với những tên đế  quốc tàn bạo mất hết tính người, mấy chục 
năm hoạt động bí mật, biết bao gian khổ, biết bao thử  thách, nhưng Người dã 
vượt qua và chiến thắng tất cả  cũng vì độc lập của Tổ  quốc và hạnh phục của 
nhân dân. Nhà báo Pháp Le­Cu­tuy­a đã viết: "Trong ngót nửa thế kỷ, ông Hồ lãnh 
đạo một cuộc chiến tranh chưa từng có về  chuyển biến của chiến thuật và tình  
huống, về tính đa dạng của cách xử trí, về những hy sinh phải chấp nhận, về sức  
mạnh yếu khác nhau một trời một vực ở mặt vũ khí. Bị toà án thực dân kết án tử 
hình, 10 lần thoát khỏi lưu đày và máy chém, khi thì mặc áo vàng nhà sư Thái Lan,  
khi thì mặc quân phục Bát lộ quân Trung Quốc. Và, giành được chính quyền rồi,  
ông Hồ  phải liên tiếp đương đầu với hai đế  quốc phương Tây phát triển. Thời 
này, có nhà cách mạng nào đủ  gan lớn mật  để  chống đối trật tự của liệt cường  
với một quyết tâm bền bỉ  đến thế  ? Ông Hồ  hồi sinh một dân tộc, tái tạo một  
quốc gia, lãnh đạo hai cuộc chiến tranh về cơ bản là chiến tranh của người bị áp 
bức. Cuộc chiến đấu của ông chống Pháp đã dẫn đến sự  giải tán một đế  quốc 
thuộc địa lớn. Cuộc chiến đấu của ông chống Mỹ  tỏ  ra cái giới hạn của sức  
mạnh kỹ thuật khi đương đầu với con người" [ 36, tr.238].
Quyết tâm chiến đấu của Người đã trở  thành tinh thần quyết chiến quyết 
thắng của toàn dân tộc, thấm vào mỗi người Việt Nam, tạo nên những chiến 
công rực rỡ lừng lẫy năm châu, chấn động lòng người. Cho đến khi từ giã cõi đời  
này, Người vẫn còn căn dặn "Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến  
thắng lợi hoàn toàn" [17, tr.835].
Không có gì quý hơn độc lập, tự  do. Có độc lập tự  do là có tất cả. Nhưng, 
ham muốn tột bậc của Hồ  Chí Minh là nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta 
được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học  
hành. Cho nên sau khi chiến thắng thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng, Hồ 
Chí Minh kêu gọi nhân dân "ra sức khôi phục và xây dựng, củng cố và phát triển 

lực lượng của chúng ta về  mọi mặt để  thực hiện quyền dộc lập hoàn toàn của 
nước ta, "ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân 
dân, thực hiện dân chủ  thực sự" đưa miền Bắc tiến lên chủ  nghĩa xã hội, vì sự 
nghiệp thống nhất Tổ quốc.
Hồ Chí Minh nhắc nhở mọi người cần có ý thức làm chủ nước nhà, coi việc 
nước như việc nhà, "tự mình lo toan gánh vác, không ỉ lại, không ngồi chờ". Mỗi  
người phải ra sức góp công, góp sức để xây dựng đất nước. Ai cũng phải là một  
chiến sĩ dũng cảm phấn đấu xây dựng chế  độ  mới. Mọi người thực hiện "cần  
kiệm xây dựng nước nhà".
Vì tự  do, hạnh phúc của con người, của nhân dân nên cuộc chiến đấu của 
Hồ  Chí Minh không chỉ  bó hẹp trong phạm vi Việt Nam. Bằng việc tổ chức và 
23


lãnh đạo nhân dân đấu tranh thắng lợi chống CNTD, CNĐQ, nhất là cuộc chiến 
đấu chống Mỹ  cứu nước vĩ đại, Hồ  Chí Minh được coi là vị  lãnh tụ  và người  
cộng sản vĩ đại đã hiến dâng cuộc đời mình cho công lý và nhân phẩm, mãi mãi là 
ánh đuốc soi đường cho các dân tộc bị áp bức đi đến độc lập, tự do và hạnh phúc.
Không chỉ  trong cách mạng, ngay cả  trong cuộc sống đời thường Hồ  Chí 
Minh cũng luôn nêu tấm gương bằng hành động thiết thực như  đồng chí Phạm  
Văn Đồng viết: "Hồ Chí Minh là một nhà triết học hành động, nói đi đôi với làm, 
gắn lý luận với thực tiễn, gắn đạo đức với cuộc sống" [27, tr.32]. Thực hiện  
nhất quán trong cuộc đời mình theo phương châm "lời nói đi đối với việc làm",  
Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương "văn hoá trong hành động" và "văn hoá trong sinh  
hoạt". Hành động để nêu gương bằng nếp sống thanh cao của mình, Hồ Chí Minh 
làm cho nhân dân dễ hiểu và dễ theo, chứ không phải bằng quyền uy. Người kêu  
gọi nhân dân tăng gia sản xuất và chính Người cũng tăng gia sản xuất rất chăm 
chỉ, cần cù  ở  mọi nơi. Hồ  Chí Minh kêu gọi nhân dân thực hành tiết kiệm một  
cách gương mẫu mọi lúc. Và bao trùm lên tất cả là khi Người kêu gọi đồng bào,  
cán bộ, chiến sĩ cả  nước thực hành "cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư" thì 

bản thân Người đã thực hiện suốt cả cuộc đời mình.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại rằng, "Các việc Hồ  Chí Minh nêu lên để 
yêu cầu đồng bào thực hiện đều là những điều Người đã làm bền bỉ  suốt cuộc 
đời. Nếu là những việc bây giời mới đề  ra thì Người gương mẫu làm trước"...  
Hồ  Chí Minh là con người như  vậy đấy, con người đi thức tỉnh các tâm hồn  
không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành động gương mẫu của mình.
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG 
VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC TA GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Xây dựng chế độ chính trị phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu  
quan trọng thể hiện tính nhân văn của chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chế độ chính 
trị phải là chế độ chính trị  dân chủ, do nhân dân lao động là chủ  và làm chủ; Nhà 
nước là của dân, do dân và vì dân. Người nói: “Chủ nghĩa xã hội là do quần chúng 
nhân dân tự mình xây dựng nên” và “Đó là công trình tập thể của quần chúng lao 
động dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Nhà nước có hai chức năng: dân chủ với nhân 
dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó không tách rời nhau,  
mà luôn luôn đi đôi với nhau. Một mặt, Hồ  Chí Minh nhấn mạnh phải phát huy 
quyền dân chủ  và sinh hoạt chính trị  của nhân dân; mặt khác, lại yêu cầu phải 
chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế 
độ xã hội chủ nghĩa.
Hồ  Chí Minh xác định rõ dân chủ  như  một giá trị  phổ  biến mà loài người  
mong muốn và đến chế độ xã hội chủ nghĩa giá trị phổ quát này mới đạt đến mức 
24


độ hoàn bị nhất. Xây dựng chế độ dân chủ chính là thể hiện rõ tư tưởng nhân văn  
của Hồ Chí Minh. Người chủ trương tạo điều kiện cho nhân dân có cơ hội được 
bày tỏ quan điểm, chính kiến, nguyện vọng của mình. Giá trị dân chủ là mục tiêu 
của chủ nghĩa xã hội được Người diễn đạt bằng một ngôn ngữ bình dị, nhưng ẩn 
chứa nhiều điều lớn lao, hệ trọng: dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân; chế 

độ  ta là chế  độ  dân chủ, tức là nhân dân là người chủ; bao nhiêu lợi ích đều vì  
dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở  nơi dân.  
Mặt khác, Người còn xác định dân chủ như một động lực của sự phát triển: thực  
hành dân chủ  là chiếc chìa khóa vạn năng giải quyết mọi khó khăn; dân chủ  là 
chìa khóa của mọi tiến bộ  và phát triển… Khi nền dân chủ  mới được xây dựng  
cũng đồng nghĩa là nhân dân được giải phóng về  chính trị, mọi người thực sự là 
chủ nhân của xã hội. Đó là khát vọng ngàn đời của cha ông ta.
2. Mục tiêu phát triển kinh tế, giải phóng sức sản xuất, tạo ra của cải vật chất  
dồi dào nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân
Trong tư  duy Hồ Chí Minh, nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là nền kinh  
tế  xã hội chủ  nghĩa với công ­ nông nghiệp hiện đại, khoa học ­ kỹ  thuật tiên  
tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được bỏ dần, đời sống vật chất của nhân  
dân ngày càng được cải thiện và nâng cao. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước độc  
lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. 
Do đó, ngay sau khi giành độc lập, Người chủ trương tập trung xử lý những vấn  
đề  cấp bách nhất liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân. Có thể  nói, giành  
độc lập dân tộc, tập trung phát triển kinh tế để phục vụ nhân dân đã thể  hiện tư 
duy mẫn tiệp của Hồ  Chí Minh về  con đường phát triển của đất nước, đó cũng 
chính là con đường thể hiện đầy đủ tư tưởng nhân văn của Người.
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát triển toàn diện các ngành 
mà những ngành chủ  yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó 
“công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà”. Kết hợp các 
loại lợi ích kinh tế  là vấn đề  rất được Hồ  Chí Minh quan tâm. Người đặc biệt  
nhấn mạnh chế  độ  khoán là một trong những hình thức của sự  kết hợp lợi ích 
kinh tế  của các chủ  thể  trên các quy mô khác nhau. Hồ  Chí Minh cũng đặc biệt 
chú ý đến mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể trong mục tiêu kinh  
tế. Người nói: “Lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận 
của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của  
25



×