Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRỊNH VĂN CHUNG

NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRỊNH VĂN CHUNG

NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN ANH TUẤN

HÀ NỘI – 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các


kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người cam đoan

Trịnh Văn Chung


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của Đề tài............................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu................................................................................. 1
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu Đề tài ................................... 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Đề tài............................................ 3
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 3
6. Điểm mới của Luận văn ............................................................................ 4
7. Kết cấu của Luận văn ................................................................................ 4
Chương 1- KHÁI QUÁT VỀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ ............................................................................................ 5
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng

dân sự ............................................................................................................. 5
1.1.1. Tranh tụng trong tố tụng dân sự ................................................... 5
1.1.2. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự .............. 10
1.1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự............ 11
1.2. Cơ sở của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự ......................... 12
1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân
sự ........................................................................................................... 12
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng
dân sự .................................................................................................... 15
1.3. Mối quan hệ giữa nguyên tắc tranh tụng với một số nguyên tắc
khác trong tố tụng dân sự ............................................................................ 16
1.4. Lược sử hình thành và phát triển các quy định về nguyên tắc
tranh tụng trong tố tụng dân sự ở Việt Nam................................................ 19
1.4.1. Từ năm 1945 đến trước năm 2005 .............................................. 19
1.4.2. Từ năm 2005 đến nay .................................................................. 25
Kết luận Chương 1....................................................................................... 28
Chương 2- CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .............. 29
2.1. Quy định ghi nhận quyền và nghĩa vụ về tranh tụng của người
tham gia tố tụng ........................................................................................... 29
2.1.1. Quy định về quyền bình đẳng trong tố tụng dân sự .................... 29


2.1.2. Quy định về quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập
và thời điểm được bổ sung yêu cầu trong quá trình Tòa án giải
quyết tranh chấp .................................................................................... 29
2.1.3. Quy định về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng
trong việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ; được biết tài
liệu, chứng cứ do người khác xuất trình ............................................... 31
2.1.4. Quy định về quyền bảo vệ và tranh luận ..................................... 35

2.2. Quy định về trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm tranh
tụng trong tố tụng dân sự ............................................................................. 37
2.2.1. Sự độc lập, vô tư của Toà án trong tố tụng dân sự - tiền đề
cần thiết của việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng................................ 37
2.2.2. Quy định về trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm
cho đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp thực hiện
tranh tụng trong tố tụng dân sự............................................................. 39
2.2.3. Quy định về trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm
cho đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp thực hiện
các quyền tố tụng khác .......................................................................... 41
2.3. Các quy định về thủ tục liên quan đến nguyên tắc tranh tụng
trong tố tụng dân sự ..................................................................................... 42
2.3.1. Các quy định về thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự
liên quan đến nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự ................... 42
2.3.2. Các quy định về thủ tục trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
liên quan đến nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự ................... 44
2.3.3. Các quy định về thủ tục tại phiên tòa xét xử sơ thẩm liên
quan đến nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự .......................... 50
2.3.4. Các quy định về thủ tục phúc thẩm liên quan đến nguyên
tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự....................................................... 56
Kết luận Chương 2....................................................................................... 59
Chương 3- THỰC TIỄN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG ........... 60
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ .............................................. 60
3.1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự............ 60
3.1.1. Kết quả đạt được trong thực hiện nguyên tắc tranh tụng
trong tố tụng dân sự .............................................................................. 60
3.1.2. Những tồn tại, hạn chế trong thực hiện nguyên tắc tranh
tụng trong tố tụng dân sự và nguyên nhân ............................................ 63
3.2. Kiến nghị về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự .................... 70
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tranh tụng trong tố tụng

dân sự .................................................................................................... 70


3.2.2. Kiến nghị thực hiện pháp luật về tranh tụng trong tố tụng
dân sự .................................................................................................... 87
Kết luận Chương 3....................................................................................... 92
KẾT LUẬN CHUNG ........................................................................................ 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 96


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Nguyên chữ

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

PLTTGQCTCLĐ

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động

PLTTGQCVADS


Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

PLTTGQCVAKT

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

TTDS

Tố tụng dân sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Xây dựng và hoàn hiện bộ máy Nhà nước, bộ máy cơ quan tiến hành tố
tụng; pháp luật về tố tụng để góp phần bảo vệ quyền con người, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng,
Nhà nước và Nhân dân ta đang hướng tới. Thực hiện chủ trương của Đảng về
cải cách tư pháp nói chung và hoạt động xét xử, giải quyết các vụ việc của Tòa
án nói riêng trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu nhất định, góp
phần quan trọng vào việc đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong lĩnh vực TTDS, vấn đề xây dựng và hoàn thiện nguyên tắc tranh
tụng đang thu hút sự quan tâm rộng rãi của nhiều nhà khoa học cũng như
những nhà hoạt động thực tiễn. Tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong
TTDS là gì? Nội dung, ý nghĩa, vai trò của nguyên tắc này trong điều kiện cải
cách tư pháp được thể hiện ra sao? Việc áp dụng nguyên tắc tranh tụng đối với
pháp luật TTDS và thực tiễn Việt Nam như thế nào? Nghiên cứu một số vấn đề
mang tính lý luận, pháp luật thực định và thực trạng về nguyên tắc tranh tụng
trong TTDS Việt Nam sẽ góp phần mở ra một bước đi mới trong việc hoàn
thiện và thực hiện pháp luật TTDS ở nước ta hiện nay nhằm nâng cao chất

lượng giải quyết các vụ án dân sự, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ các quyết
định, bản án dân sự bị hủy, sửa do vi phạm thủ tục tố tụng. Quá trình nghiên
cứu này cũng không nằm ngoài định hướng cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà
nước ta đang đề cập đến hiện nay. Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Nguyên tắc
tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Quá trình xây dựng BLTTDS năm 2004 và sau khi Bộ luật được ban hành
đã có một số công trình nghiên cứu khoa học pháp lý được công bố có đề cập
tới vấn đề này như: Kỷ yếu hội thảo (của Nhà pháp luật Việt – Pháp ngày
18/01/2002) về “Một số nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh tụng.
1


Kinh nghiệm của Pháp trong việc tuyển chọn, bồi dưỡng, bổ nhiệm và quản lý
Thẩm phán; Luận văn thạc sỹ luật học “Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, một
số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà bảo vệ tại
Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2002; Bài về “Vấn đề tranh tụng trong tố
tụng dân sự” của TS. Nguyễn Công Bình đăng trên Tạp chí Luật học số
6/2003; Bài “Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa” của PGS.TS Trần Văn Độ
đăng trên tạp chí Khoa học Pháp lý số 4/2004; Đề tài cấp cơ sở “Tranh tụng
trong tố tụng dân sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” do Trường Đại
học Luật Hà Nội thực hiện năm 2011; Bài viết “Nguyên tắc tranh tụng trong tố
tụng dân sự” của TS. Mai Bộ đăng trên trang Web của Tòa án nhân dân tối cao
năm 2014 v.v… Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu các
công trình này mới chỉ đề cập đến một số nội dung của đề tài dưới dạng riêng
biệt, chưa nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống các vấn đề liên quan về
nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam.
Ngoài ra, phần lớn các công trình này đều được thực hiện trước khi ra đời
BLTTDS sửa đổi năm 2011. Trong khi đó BLTTDS sửa đổi năm 2011, Hiến
pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, BLTTDS năm

2015 đã có nhiều nội dung mới có liên quan đến vấn đề này đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu kịp thời và đầy đủ về nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu Đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu Đề tài là làm rõ hơn những vấn đề lý luận
về tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam, nội dung các quy
định của pháp luật liên quan đến tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong
TTDS. Phát hiện những bất cập, vướng mắc trong các quy định này và thực
tiễn thực hiện để đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của tranh tụng
trong TTDS theo tinh thần cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta.
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu Đề tài là: Tìm hiểu những vấn đề lý luận về
tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng trong TTDS, các nội dung và yếu tố quyết
định của nguyên tắc tranh tụng trong TTDS; phân tích, nghiên cứu thực tiễn xét
2


xử, giải quyết các vụ án dân sự để phát hiện những vướng mắc, bất cập trong
các quy định của pháp luật liên quan đến tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng;
nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập để từ đó đề ra những giải pháp để
nâng cao vai trò của tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng trong TTDS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Đề tài
Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là những vấn đề lý luận về tranh tụng và
nguyên tắc tranh tụng trong TTDS, thực tiễn thực hiện các quy định của pháp
luật Việt Nam về những quy định này. Liên quan đến Đề tài, có nhiều nội dung
khác nhau, trong phạm vi của một luận văn thạc sỹ không thể xem xét giải
quyết hết mọi vấn đề mà chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu các nội dung
sau:
- Một số vấn đề lý luận về tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng trong TTDS
như khái niệm, nội dung, ý nghĩa, cơ sở, đối tượng và lịch sử các quy định về
tranh tụng để hình thành nên nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam;
- Nội dung và một số quy định liên quan đến tranh tụng trong TTDS hiện

hành, tập trung vào các quy định trong các BLTTDS của Việt Nam (bao gồm
cả BLTTDS năm 2015) chủ yếu ở trong và trước giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án dân sự, có so sánh với các quy định về tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng
của một số nước có nền tố tụng phát triển trên thế giới;
- Những kết quả đạt được và hạn chế, nguyên nhân của các quy định pháp
luật liên quan đến tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam.
Từ đó đưa ra một số kiến nghị về xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật để
hoàn thiện và nâng cao vai trò của tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong
giải quyết vụ án dân sự.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu Đề tài, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng về nhà nước và pháp luật và chủ trương về cải
cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Việc nghiên cứu cũng đã sử dụng các
3


phương pháp truyền thống như: phương pháp logic - lịch sử, phương pháp
thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp...
6. Điểm mới của Luận văn
Đây là công trình nghiên cứu về tranh tụng trong TTDS Việt Nam dưới
góc độ là một nguyên tắc pháp luật nên có những điểm mới như sau:
- Bổ sung, làm rõ và góp phần hoàn thiện khái niệm, ý nghĩa, cơ sở, nội
dung của tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam;
- Trong bối cảnh BLTTDS năm 2015 mới ra đời, chưa có hiệu lực pháp
luật, Đề tài sẽ làm rõ một số nội dung liên quan đến nguyên tắc tranh tụng trong
tố tụng dân sự giúp cho quá trình áp dụng luật và hướng dẫn luật trong thời
gian sắp tới.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các chữ viết tắt và Tài liệu tham

khảo, Luận văn gồm 3 chương như sau:
- Chương 1 - Khái quát về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự.
- Chương 2 - Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về nguyên
tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự.
- Chương 3 - Thực tiễn áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự
và kiến nghị.

4


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng
dân sự
1.1.1. Tranh tụng trong tố tụng dân sự
Đối với việc nghiên cứu đề tài nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt
Nam thì khái niệm tranh tụng trong TTDS là một vấn đề hết sức quan trọng,
khái niệm này giúp hiểu đúng và đầy đủ về nguyên tắc tranh tụng trong TTDS.
Theo các nhà nghiên cứu, tố tụng tranh tụng xuất hiện sớm nhất ở Châu
Âu, cùng với sự xuất hiện của Tòa án nhà nước. Loại hình tố tụng này được áp
dụng tại Hy Lạp cổ đại, sau đó được đưa vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi
đáp liên tục”[10, tr.2]. Cùng với thời gian, tranh tụng tiếp tục được kế thừa,
phát triển và cho đến nay nó được áp dụng ở hầu hết các nước thuộc hệ thống
luật lục địa cũng như hệ thống luật án lệ.
Ở Việt Nam, hiện nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
này. Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo Hán - Việt tự điển thì tranh tụng có nghĩa
là “cãi lẽ, cãi nhau để tranh lấy phải”[12, tr.621]; theo Đại từ điển tiếng Việt
thì tranh tụng có nghĩa là “kiện tụng”[26, tr.1686], đây có thể coi là những
cách hiểu chung nhất về “từ ngữ” tranh tụng. Tại Từ điển luật học thì tranh

tụng được hiểu như sau: “Tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi
các bên tham gia tố tụng, có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa
ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các
quan điểm và lợi ích của phía đối lập”[30, tr.807-808]. Cách hiểu này đã thể
hiện được một số đặc trưng của tranh tụng như: “là hoạt động tố tụng của các
bên tham gia tố tụng”; “có quyền bình đẳng với nhau... để bảo vệ các quan
điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối
lập”. Tuy nhiên, cách hiểu này chưa phân biệt được hoạt động tranh tụng với

5


những hoạt động tố tụng khác và cũng thiếu đi vai trò rất quan trọng của một
chủ thể là Tòa án.
Xung quanh khái niệm tranh tụng trong TTDS còn có nhiều quan điểm
khác, ví dụ như:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “tranh tụng trong TTDS được hiểu là một
phương thức tố tụng để đương sự bảo vệ quyền lợi của mình, toà án xác định
sự thật khách quan của vụ án”[7].
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Tranh tụng là việc các bên đương sự đưa ra
các chứng cứ, các căn cứ pháp lý, lập luận, tranh luận, đối đáp với nhau nhằm
bảo vệ quyền lợi của mình và Tòa án chủ yếu dựa trên kết quả tranh tụng giữa
các bên để ra phán quyết giải quyết vụ án, vụ việc dân sự”[30, tr.19].
Quan điểm thứ ba cho rằng:
“Theo nghĩa rộng, tranh tụng là một quá trình được bắt đầu từ khi có yêu
cầu khởi kiện và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp
luật. Quá trình tranh tụng này không chỉ bao gồm các giai đoạn khởi kiện,
chuẩn bị xét xử, thu thập, trao đổi chứng cứ, tài liệu, quan điểm về việc giải
quyết vụ án, đối chất giữa các bên đương sự, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm mà cả
giai đoạn xét xử theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Thậm chí quá trình

tranh tụng có thể được tiến hành lại từ giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
trong trường hợp khi bản án, quyết định về vụ án bị Tòa án cấp trên hủy để tiến
hành xét xử lại.
Theo nghĩa hẹp, quá trình tranh tụng được tiến hành tại các phiên tòa sơ
thẩm và phúc thẩm, theo đó các bên đương sự dưới sự điều khiển của Hội đồng
xét xử trực tiếp trình bày yêu cầu, chứng cứ, tranh luận và đối đáp với nhau về
chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ, lập luận để chứng minh rằng yêu cầu, phản yêu
cầu, phản đối yêu cầu của mình đối với đương sự phía bên kia là có căn cứ và
hợp pháp. Trên cơ sở kết quả tranh tụng của các bên đương sự, Hội đồng xét
xử ra phán quyết về việc giải quyết vụ án dân sự”[27, tr.6].

6


Nghiên cứu các quan điểm nêu trên, nếu hiểu tranh tụng trong TTDS như
quan điểm thứ nhất thì chưa cụ thể vì mới chỉ coi tranh tụng là một phương
thức (hay phương pháp) tố tụng để đương sự bảo vệ quyền lợi của mình; Tòa
án xác định sự thật khách quan của vụ án, theo cách hiểu này thì chưa xác định
được những đặc điểm của tranh tụng để phân biệt với các phương pháp tố tụng
khác. Đối với quan điểm thứ hai, đã chỉ ra được những đặc điểm của tranh tụng
nhưng lại không nêu được bản chất của tranh tụng, đó là tranh tụng chỉ diễn ra
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự chứ không có trong quá trình giải quyết
việc dân sự; hoạt động tranh tụng phải được chứng kiến, ghi nhận bởi Tòa án.
Đối với quan điểm thứ ba, đã đưa ra hai góc nhìn khác nhau về tranh tụng theo
nghĩa “rộng” và “hẹp”. Tuy nhiên, tranh tụng không đồng nghĩa với quá trình
giải quyết vụ án mà là hoạt động được diễn ra trong quá trình đó.
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa tranh tụng trong TTDS như
sau: “Tranh tụng trong TTDS là phương pháp giải quyết tranh chấp dân sự tại
Tòa án, diễn ra trong quá trình tố tụng, theo đó các bên đương sự xuất trình,
trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho yêu cầu

của mình; phản bác yêu cầu đối lập trước Tòa án và kết quả của quá trình này
được Tòa án sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ án”.
Cũng cần phải phân biệt giữa tranh tụng và tranh luận. Tranh luận có xuất
phát điểm từ tranh chấp, mâu thuẫn, tranh luận là cốt lõi và sự biểu hiện tập
trung của tranh tụng, nếu không có tranh luận thì sẽ không có tranh tụng hoặc
tranh tụng sẽ không được biểu hiện rõ nét nhưng tranh luận chưa phải là tranh
tụng. Tranh tụng là một tổng thể gồm cả tranh luận và quyền, nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ; quyền được biết chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý áp dụng của phía
đối lập, quyền được hỏi những người tham gia tố tụng khác... để bảo đảm cho
việc tranh luận. Như vậy, trong một số trường hợp (như thủ tục giải quyết việc
dân sự, giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng...) vì không có tranh
chấp giữa các bên đương sự với nhau nên không có quá trình tranh tụng.

7


Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, hai loại chủ thể có liên quan chủ
yếu tới việc thực hiện và bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong TTDS
Việt Nam là đương sự (chủ thể tham gia tranh tụng) và Tòa án (chủ thể bảo
đảm tranh tụng).
Chủ thể tham gia tranh tụng được hiểu là những chủ thể mang quyền,
nghĩa vụ tố tụng, tham gia vào quá trình tranh tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình trước Tòa án. Do đó, quá trình tranh tụng luôn có sự tham
gia của hai bên đương sự, là những chủ thể tranh tụng giữ vai trò chủ động,
quyết định kết quả tranh tụng. Bởi vì, họ tham gia tranh tụng xuất phát từ chính
yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích của họ trong vụ án, kết quả tranh tụng ảnh
hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích của bản thân các đương sự. Hơn nữa, các
vụ án dân sự chủ yếu phát sinh do có sự tranh chấp về quyền và lợi ích giữa các
đương sự. Do đó, việc xác định quyền và nghĩa vụ đó có tồn tại hay không phải
thuộc về các đương sự, người biết rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh ra tranh

chấp vì nó không chỉ là con đường ngắn nhất để biết rõ sự thật, mà còn làm các
bên thỏa mãn hơn với kết quả được xác lập lại theo đúng quy định của pháp
luật.
Đương sự trong vụ án dân sự gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng chủ thể tranh tụng trước hết và chủ yếu là nguyên
đơn và bị đơn. Họ là những chủ thể có mâu thuẫn về quyền và lợi ích, họ đứng
ở vị trí tố tụng đối lập nhau. Trong suốt quá trình tranh tụng, nguyên đơn và bị
đơn bình đẳng với nhau và liên tục trao đổi với nhau những chứng cứ, lý lẽ, căn
cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho quyền lợi hợp pháp của mình trước
Toà án trên cơ sở các quy định của pháp luật TTDS.
Ngoài nguyên đơn và bị đơn, tham gia vào quá trình tranh tụng còn có
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong trường hợp này họ cũng được
coi là chủ thể tranh tụng, bởi họ cũng có lợi ích liên quan đến vụ án, tham gia
tranh tụng để bảo vệ quyền lợi của mình. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan cũng có quyền đưa ra yêu cầu, phản đối yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn.
8


Do vậy, họ cũng được đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ và lập luận để
chứng minh cho yêu cầu của mình hay phản đối yêu cầu của các đương sự
khác.
Như vậy, có thể thấy đương sự là những chủ thể giữ vị trí và vai trò trung
tâm trong quá trình tranh tụng. Tuy nhiên, trên thực tế có những đương sự
không thể hoặc không có điều kiện thực hiện tốt nhất quyền tranh tụng của
mình nên việc tranh tụng của các đương sự này do người đại diện hoặc người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện. Việc tham gia tranh
tụng của người đại diện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự xuất phát từ quyền được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự chứ
không phải xuất phát trực tiếp từ lợi ích của họ bởi họ không phải là các chủ
thể tham gia vào các quan hệ pháp luật nội dung.

Người đại diện của đương sự là người thay mặt cho đương sự tham gia
vào quá trình tranh tụng với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự như bảo vệ quyền lợi cho chính mình. Người đại diện có quyền và
nghĩa vụ tố tụng của đương sự khi tham gia vào tranh tụng. Do đó, người đại
diện có quyền được biết tất cả chứng cứ, lý lẽ của bên đương sự đối phương và
được quyền trình bày ý kiến, đối đáp về những vấn đề mà đối phương có yêu
cầu đối với đương sự mà mình đại diện. Người đại diện của đương sự phải có
quyền bình đẳng với bên đương sự đối lập trước Tòa án trong việc thực hiện
tranh tụng.
Trong tranh tụng thì không thể thiếu một chủ thể quan trọng đó là người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Họ là người giúp đỡ đương sự
về mặt pháp lý, đồng thời tham gia tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Người bảo vệ có vị trí pháp lý độc lập với đương sự, có các
quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định chứ không bị ràng buộc bởi quyền và
nghĩa vụ của đương sự như người đại diện. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự thông thường là các Luật sư hoặc là những người am hiểu
pháp luật. Trong quá trình tranh tụng, do người bảo vệ là người có kiến thức
9


pháp luật, kinh nghiệm tham gia tố tụng và kỹ năng tranh tụng nên có thể giúp
cho các bên đương sự bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nhất là
trong việc đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý và các lập luận. Không những thế, ý
kiến tham gia tranh tụng của người bảo vệ còn giúp cho Tòa án trong việc giải
quyết vụ án.
Tòa án có vai trò quyết định bảo đảm cho nguyên tắc tranh tụng trong
TTDS được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và hiệu quả. Để bảo đảm sự công
bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự thì trong quá trình
tranh tụng Tòa án, mà trước tiên là Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án
và HĐXX tại phiên tòa phải thực hiện đúng chức năng của mình là người tài

phán công minh, xem xét, đánh giá toàn diện tất cả các chứng cứ, căn cứ, lập
luận mà các bên đương sự đưa ra trong quá trình tranh tụng. Tòa án điều khiển
quá trình tranh tụng, bảo đảm quá trình này diễn ra một cách rõ ràng, đúng quy
định của pháp luật TTDS và bảo đảm sự bình đẳng của các bên tham gia tranh
tụng, kết quả tranh tụng sẽ là căn cứ để Tòa án ra quyết định giải quyết vụ án.
1.1.2. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự
Từ điển tiếng Việt, khái niệm từ “nguyên tắc” là “điều cơ bản định ra,
nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”[28, tr.694]. Theo Giáo trình
lý luận chung nhà nước và pháp luật của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
thì “nguyên tắc pháp luật” được hiểu là “những tư tưởng chỉ đạo cơ bản, mang
tính xuất phát điểm, định hướng, chịu sự quy định của những quy luật phát
triển khách quan của xã hội, xuyên suốt nội dung, hình thức pháp luật, toàn bộ
thực tiễn pháp luật, hoạt động xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, hành vi
pháp luật, ý thức pháp luật” [34, tr.344]. Còn theo Giáo trình lý luận nhà nước
và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội thì “nguyên tắc pháp luật xã hội
chủ nghĩa” được hiểu là “những tư tưởng chỉ đạo nội dung, quá trình xây dựng,
thực hiện và bảo vệ pháp luật” [33, tr.405]. Đối với lĩnh vực TTDS, theo Giáo
trình luật TTDS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội thì “nguyên tắc”
của luật TTDS Việt Nam được hiểu là “những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định
10


hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS và được ghi nhận trong
các văn bản pháp luật TTDS” [32, tr.36].
Như vậy nguyên tắc tranh tụng trong TTDS được hiểu là: “những tư
tưởng chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật để giải
quyết vụ án dân sự, theo đó các bên đương sự có quyền xuất trình, trao đổi
chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho yêu cầu của
mình; phản bác yêu cầu đối lập trước Tòa án và Tòa án phải căn cứ vào kết
quả tranh tụng để quyết định về việc giải quyết vụ án dân sự”.

1.1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự
- Nguyên tắc tranh tụng đề cao tính chất dân chủ, công khai và minh bạch
trong hoạt động TTDS:
Nguyên tắc tranh tụng trong TTDS là tư tưởng pháp lý chỉ đạo thể hiện rõ
nhất tính chất dân chủ, công khai và minh bạch của TTDS. Trong quá trình
thực hiện việc tranh tụng, các đương sự, người đại diện của đương sự đều được
bình đẳng, chủ động và công khai đưa ra các chứng cứ, căn cứ pháp lý và đối
đáp nhau để làm rõ sự thật khách quan của vụ án dân sự. Tòa án là cơ quan tiến
hành tố tụng đóng vai trò giám sát quá trình tranh tụng, sử dụng kết quả tranh
tụng của các bên để giải quyết vụ án dân sự một cách khách quan, công bằng và
đúng pháp luật.
- Nguyên tắc tranh tụng tạo cơ hội cho các bên đương sự bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án:
Với việc giải quyết vụ án dân sự theo nguyên tắc tranh tụng, các đương sự
có điều kiện trong việc trình bày, đưa ra các chứng cứ, lý lẽ chứng minh cho
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hơn nữa, tranh tụng cũng buộc các đương
sự phải nỗ lực, tích cực hơn trong việc tham gia tố tụng. Kết quả tranh tụng là
cơ sở để Tòa án quyết định giải quyết vụ án nên đương sự phải tìm mọi cách để
thu thập chứng cứ và tìm ra căn cứ pháp lý để chứng minh cho yêu cầu của
mình là có căn cứ và hợp pháp, bác bỏ yêu cầu của đương sự phía bên kia.

11


- Nguyên tắc tranh tụng góp phần bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa
án đã tuyên là có căn cứ và hợp pháp:
Tranh tụng không những tạo điều kiện cho đương sự thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của mình mà qua quá trình tranh tụng Tòa án xác định được sự thật
khách quan của vụ án dân sự. Trên cơ sở đó, Tòa án giải quyết được yêu cầu
của các đương sự, xác định đúng các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên theo quy

định của pháp luật. Vì khi đương sự thực hiện đầy đủ các quyền TTDS của
mình như quyền đề đạt yêu cầu để Tòa án bảo vệ, quyền đưa ra chứng cứ và
chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, quyền được biết
chứng cứ do bên kia cung cấp hoặc do Tòa án thu thập, quyền yêu cầu Tòa án
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyền được tự bảo vệ hoặc nhờ người
khác bảo vệ, quyền tranh luận tại phiên tòa… thì các tình tiết của vụ án được
làm sáng tỏ, Tòa án có đầy đủ chứng cứ để giải quyết vụ án dân sự một cách
chính xác, công minh và đúng pháp luật.
- Thông qua nguyên tắc tranh tụng trong TTDS giúp cho mọi công dân
hiểu biết thêm pháp luật, củng cố thêm lòng tin vào chế độ, vào đường lối,
chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở đó góp phần vào
việc giáo dục và nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống xã hội của Nhân dân, tạo điều kiện cho việc củng cố trật tự pháp luật và
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.2. Cơ sở của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự
1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự
Tranh tụng trong TTDS là loại hình tố tụng đề cao vị trí, vai trò của đương
sự trong việc giải quyết tranh chấp, nó là một loại hình TTDS dân chủ nhất, thể
hiện được sự tiến bộ của nền văn minh nhân loại [7, tr.6]. Tranh tụng phát huy
được tính tích cực, chủ động của các đương sự trong việc thu thập, cung cấp và
đánh giá chứng cứ, thực hiện tranh tụng theo quy định của pháp luật TTDS
nhằm giúp Tòa án nhanh chóng nhận thức được các tình tiết của vụ án để xác
định sự thật, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án dân sự được khách quan, đúng
12


pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án.
Trong quá trình tố tụng, các đương sự trao đổi với nhau những chứng cứ để
chứng minh, biện luận cho quyền lợi hợp pháp của mình trước Tòa án trên cơ
sở của các quy định pháp luật TTDS.

Tranh tụng trong TTDS xuất phát từ bản chất của quan hệ pháp luật nội
dung giải quyết trong vụ án, bao gồm quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh thương mại và lao động. Các chủ thể của quan hệ pháp
luật nội dung này có quyền tự do, tự nguyện, bình đẳng trong việc thiết lập các
quyền và nghĩa vụ phục vụ cho lợi ích của mình phù hợp với lợi ích chung của
xã hội. Các chủ thể có quyền tự định đoạt có tham gia vào quan hệ pháp luật
nội dung hay không, quyết định nội dung của quan hệ gồm các quyền và nghĩa
vụ của các bên, quyết định các phương thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ.
Khi họ lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án thì việc tham
gia tranh tụng để bảo vệ quyền lợi của mình phải thuộc về các đương sự. Hơn
nữa các vụ án dân sự chủ yếu phát sinh do có sự tranh chấp về quyền và lợi ích
giữa các đương sự, do đó việc xác định nghĩa vụ đó có tồn tại hay không phải
thuộc về các đương sự. Việc xét xử vụ án dân sự thực chất là việc giải quyết
xung đột hoặc liên quan đến quyền lợi của đương sự. Đương sự là chủ thể của
quan hệ pháp luật nội dung, là người đưa ra yêu cầu, kết quả của việc giải quyết
vụ án dân sự liên quan đến quyền và nghĩa vụ của chính họ nên họ có quyền và
nghĩa vụ tranh tụng để bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa án. Quá trình giải
quyết tranh chấp trong TTDS đòi hỏi các đương sự phải tranh tụng để làm rõ
được quan hệ pháp luật nội dung tranh chấp, quyền lợi hợp pháp của mình trên
cơ sở các chứng cứ, tài liệu được xuất trình và các lý lẽ, lập luận được sử dụng.
Vì mâu thuẫn về quyền lợi, nghĩa vụ của các bên đương sự là tiền đề và là động
lực thúc đẩy quá trình tranh tụng. Mặt khác để tiến hành tranh tụng, pháp luật
TTDS phải quy định cụ thể quyền hạn, nghĩa vụ của các bên đương sự và Tòa
án trong việc tranh tụng, trình tự và thủ tục tranh tụng. Thẩm phán giải quyết
vụ án phải độc lập, khách quan, có trình độ chuyên môn cao và năng lực xét xử
13


tốt. Các đương sự phải biết được yêu cầu, chứng cứ và lý lẽ của đối phương
đưa ra, phải có sự hiểu biết về pháp luật và những kinh nghiệm tham gia tố

tụng nhất định [7, tr.7].
Tranh tụng thực chất là việc các bên đương sự đưa ra các chứng cứ, các
căn cứ pháp lý, lập luận, đối đáp lại nhau, tranh luận với nhau để bảo vệ quyền
lợi của mình dưới sự chứng kiến của Tòa án. Thông qua việc tranh tụng, các
tình tiết của vụ án được làm sáng tỏ, Tòa án nhận thức được sự thật khách quan
của vụ án. Khi bên đưa ra yêu cầu đã chứng minh được tính có căn cứ và hợp
pháp đối với yêu cầu của mình thì bên phản đối yêu cầu cũng phải đưa ra
chứng cứ, lý lẽ để chứng minh sự phản đối của mình là có căn cứ. Trong tranh
tụng dân sự, các đương sự là người trong cuộc, biết được sự việc, đưa ra yêu
cầu nên họ phải cung cấp chứng cứ cho Tòa án và đương sự đối phương, từ đó
các bên có thể đưa ra quan điểm của mình, giúp Tòa án có thể làm rõ sự việc
tranh chấp. Để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án dân sự được khách quan,
đúng pháp luật giữa các đương sự phải được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
TTDS. Tòa án có nhiệm vụ thực hiện những biện pháp do pháp luật quy định
để tạo điều kiện cho các đương sự được thật sự bình đẳng với nhau trong việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ. Tranh tụng thực chất là việc
các đương sự cung cấp chứng cứ, đưa ra các luận điểm, căn cứ pháp lý để đối
đáp, tranh luận với nhau để bảo vệ quyền lợi của mình, giảm bớt trách nhiệm
xác minh thu thập chứng cứ của Tòa án, tạo điều kiện để Tòa án trở thành cơ
quan tài phán độc lập, bảo đảm khách quan trong quá trình giải quyết vụ án dân
sự. Loại hình tố tụng tranh tụng quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ tố tụng
của các đương sự trong vụ án dân sự để họ có thể tự bảo vệ được các quyền, lợi
ích hợp pháp của mình. Tòa án là cơ quan bảo vệ công lý, với chức năng xét xử
có vai trò bảo đảm cho các đương sự thực hiện tranh tụng để đi đến xác định
được sự thật của vụ án. Các đương sự là chủ thể của tranh tụng nên giữ vai trò
quan trọng trong quá trình tranh tụng, có quyền bình đẳng trong việc cung cấp,
đánh giá chứng cứ, tranh tụng để bảo vệ quyền lợi của mình.
14



Tranh tụng xuất phát từ yêu cầu xét xử đúng pháp luật các vụ án dân sự
của Tòa án. Tranh tụng có ý nghĩa lớn trong việc tìm ra sự thật của vụ án, bảo
vệ quyền lợi của đương sự [7, tr.7]. Để giải quyết đúng pháp luật các vụ án dân
sự, Tòa án phải đánh giá, phân tích các chứng cứ, căn cứ pháp lý mà các đương
sự cung cấp. Tranh tụng yêu cầu phiên tòa dân sự được diễn ra theo hướng các
đương sự thực hiện nghĩa vụ đưa ra chứng cứ, lý lẽ để chứng minh cho yêu cầu
của mình còn Tòa án chỉ thẩm tra các chứng cứ do các đương sự và những
người tham gia tố tụng khác cung cấp. Thông qua tranh tụng Tòa án có điều
kiện thuận lợi trong việc phân tích, đánh giá chứng cứ làm sáng tỏ các quan hệ
pháp luật nội dung mà các đương sự tranh chấp trong vụ án. Mục đích cuối
cùng bảo đảm cho phán quyết của Tòa án được khách quan và đúng pháp luật.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự
Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án cho thấy tỷ lệ các vụ án
dân sự bị hủy, sửa còn cao, do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trong đó có
nhiều trường hợp là khi tiến hành giải quyết các vụ án dân sự Tòa án đã vi
phạm thủ tục tố tụng, đặc biệt là chưa tạo điều kiện cho các đương sự trình bày
chứng cứ, lý lẽ để làm sáng tỏ vụ án. Trước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay việc nâng cao chất lượng xét xử các vụ án dân sự của Tòa án là một đòi hỏi
cấp bách. Vì vậy, phải đổi mới mô hình TTDS trong đó có sự kết hợp những
yếu tố hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng với thẩm vấn. Tranh tụng trong
TTDS là giải pháp làm cho Tòa án gần dân, giúp dân, hiểu dân, tăng cường
hiệu quả công tác xét xử các vụ án dân sự, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ các
vụ án dân sự bị hủy, sửa do lỗi chủ quan hoặc phải kéo dài thời hạn giải quyết.
Tranh tụng trong TTDS cũng xuất phát từ yêu cầu thực hiện chiến lược cải
cách tư pháp của Nhà nước ta. Trước những yêu cầu của việc đẩy mạnh công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực, để hoàn thiện hệ thống pháp
luật nói chung cũng như đổi mới thủ tục TTDS nói riêng trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, ngày
15



24/5/2005 Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020. Tiếp đó, ngày 02/6/2005 Bộ chính trị đã ban hành Nghị
quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cả hai Nghị
quyết này đều xác định nhiều định hướng quan trọng, toàn diện cho việc xây
dựng hệ thống pháp luật và chương trình cải cách tư pháp đến năm 2020, trong
đó trọng tâm là đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nhằm
bảo đảm sự bình đẳng của các chủ thể tham gia TTDS, người dân có cơ hội
được tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thông qua quá trình tranh
tụng góp phần hạn chế các tranh chấp dân sự đang ngày càng gia tăng. Ngày
29/03/2011 khi Quốc hội ban hành BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã bổ sung
thêm Điều 23a về nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận trong TTDS. Tuy vậy,
do tranh luận không phải là tranh tụng nên nguyên tắc này chưa thật sự bảo
đảm được các yêu cầu của tranh tụng. Tiếp đó, khi Hiến pháp năm 2013 được
thông qua, tại Điều 103 khoản 5 Hiến pháp khẳng định: “Nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm”. Đây là quy định mang tính chất bản lề cho
việc xây dựng và hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng trong các luật tố tụng nói
chung và trong luật TTDS nói riêng. Vì vậy, khi BLTTDS năm 2015 được
thông qua thì nguyên tắc tranh tụng trong TTDS đã được khẳng định là một
trong những nguyên tắc chung nhất của luật TTDS.
1.3. Mối quan hệ giữa nguyên tắc tranh tụng với một số nguyên tắc
khác trong tố tụng dân sự
- Nguyên tắc tranh tụng có mối liên hệ với nguyên tắc “Cung cấp chứng
cứ và chứng minh trong TTDS” (được quy định tại Điều 6 BLTTDS năm 2004
và Điều 6 BLTTDS năm 2015). Trên cơ sở của nguyên tắc cung cấp chứng cứ
và chứng minh trong TTDS thì các đương sự biết được các yêu cầu và chứng
cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý cho yêu cầu của mình đưa ra và thông qua đó các
đương sự có thể tranh luận với nhau về các yêu cầu, phản yêu cầu, đưa ra các lý

lẽ để chứng minh cho quyền lợi hợp pháp, viện dẫn các quy định pháp luật làm
16


căn cứ cho những nhận định và kết luận của mình. Thực chất của tranh tụng là
việc các bên đi tìm và so sánh chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình
là xác thực hơn. Bên cạnh đó, các đương sự bình đẳng với nhau trong việc cung
cấp chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh là điều kiện tốt nhất để các
đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, việc tranh tụng
chỉ có hiệu quả khi nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS
được bảo đảm.
- Nguyên tắc tranh tụng có mối liên hệ với nguyên tắc “Bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ trong TTDS” (được quy định tại Điều 8 BLTTDS năm 2004
và Điều 8 BLTTDS năm 2015). Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ dân sự giữa các cá nhân, pháp nhân. Trong TTDS bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ tố tụng là điều kiện thuận lợi để thực hiện việc tranh tụng tại Tòa
án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tranh tụng công bằng nhất là
tranh tụng giữa các bên có vị trí pháp lý ngang bằng nhau. Tòa án bảo đảm cho
các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ TTDS chính là bảo đảm cho các
đương sự bình đẳng trong việc tranh tụng tại Tòa án.

17


- Nguyên tắc tranh tụng còn có mối liên hệ với nguyên tắc “Quyền quyết
định và tự định đoạt của đương sự” (được quy định tại Điều 5 BLTTDS năm
2004 và Điều 5 BLTTDS năm 2015). Theo nguyên tắc quyền quyết định và tự
định đoạt của đương sự trong TTDS, các đương sự có quyền tự quyết định việc
bảo vệ quyền, lợi ích của mình cho phù hợp với yêu cầu của pháp luật như khởi
kiện, thay đổi yêu cầu khi khởi kiện, bổ sung yêu cầu... Như vậy, việc thực hiện

nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong TTDS sẽ
quyết định phạm vi của những vấn đề mà các bên cần tranh tụng để bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngược lại, nếu Tòa án bảo đảm triệt
để tôn trọng và thực hiện nguyên tắc tranh tụng thì quyền tự quyết định việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án mới có ý nghĩa. Mối
liên hệ giữa hai nguyên tắc này cũng là mối liên hệ hai chiều qua lại, bổ sung
cho nhau.
- Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự” (quy định tại Điều 9 BLTTDS năm 2004 và Điều 9 BLTTDS năm
2015) có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc tranh tụng trong TTDS. Đương
sự tranh tụng mục đích là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, vì
vậy, bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cũng tức là bảo đảm cho
tranh tụng. Theo nguyên tắc này, đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ Luật
sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, đối với một số đối tượng yếu thế, có khó khăn sẽ được hưởng
trợ giúp pháp lý theo quy định.
- Nguyên tắc “Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai; Bảo đảm sự
vô tư, khách quan trong TTDS” (quy định tại Điều 15, 16 BLTTDS năm 2004
và Điều 15, 16 BLTTDS năm 2015). Sự công bằng, vô tư, khách quan của cơ
quan, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là yếu tố hết sức cần
thiết cho tranh tụng, có những yếu tố này thì tranh tụng mới trở nên thực chất
và có ý nghĩa. Tranh tụng là sự so sánh chứng cứ, sự so sánh này phải dựa trên
cơ sở là lẽ công bằng chứ không phải gì khác ngoài lẽ công bằng. Tòa án là
18


×