ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN QUỐC TRUNG
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI
CHƢA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG DÂN
SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN QUỐC TRUNG
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI CHƢA
THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành
: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Minh Hằng
Hà Nội – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 3 năm 2016
Tác giả
TRẦN QUỐC TRUNG
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Nội dung
TTDS
Tố tụng dân sự
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự
NCTN
Ngƣời chƣa thành niên
ĐCSVN
Đảng Cộng sản Việt Nam
CƢQT
Công ƣớc quốc tế
QCN
Quyền con ngƣời
TANDTC
Tòa án nhân dân Tối cao
TAND
Tòa án nhân dân
HĐTP
Hội đồng thẩm phán
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI
CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ
8
1.1. Khái niệm bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên
trong tố tụng dân sự
1.2. Đặc điểm, ý nghĩa của bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa
thành niên trong tố tụng dân sự
14
1.3. Quy phạm pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về vấn đề
bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên trong tố
tụng dân sự
16
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
2.1. Bảo đảm quyền khởi kiện của ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng
dân sự
2.2. Bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên trong giai
25
đoạn Tòa án chuẩn bị xét xử sơ thẩm
42
2.3. Bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên trong giai
đoạn Tòa án xét xử sơ thẩm
54
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ
76
3.1. Quan điểm về bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành
niên trong tố tụng dân sự
76
3.2. Một số giải pháp bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành
niên trong tố tụng dân sự
83
KẾT LUẬN
90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
92
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh Đảng và Nhà nƣớc ta đang đẩy mạnh cải cách tƣ pháp
theo hƣớng xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một trong những
nội dung trọng tâm là vấn đề bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân trong
xã hội. Chủ trƣơng đó đƣợc thể hiện rõ nét qua nhiều văn kiện, chính sách của
Đảng nhƣ Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị “Về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Nghị quyết số 49-NQ/TW khẳng
định: “Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao;
các cơ quan tư pháp phải thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ
công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật
và pháp chế xã hội chủ nghĩa…”. Vấn đề bảo đảm quyền con ngƣời cũng đã
đƣợc hiến định từ rất sớm từ bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam cho đến
Hiến pháp 2013, tại Điều 14 nêu rõ “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được tôn
trọng và thể hiện ở các quyền công dân được quy định theo Hiến pháp và pháp
luật”. Vì vậy, bảo đảm quyền con ngƣời ở nƣớc ta hiện nay là một trong những
hoạt động quan trọng nhằm đƣa những đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng vào thực
tiễn.
Quyền con ngƣời đã và đang là một đề tài dành đƣợc nhiều sự quan tâm
nghiên cứu của các nhà luật học bởi nhiều lý do. Thứ nhất, ghi nhận và bảo đảm
quyền con ngƣời ở Việt Nam là chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta đã đƣợc
khẳng định trong Hiến pháp và pháp luật. Xuất phát từ bản chất của chế độ ta là
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, “của dân, do dân và vì dân”, quyền lợi
của nhân dân, quyền con ngƣời của các cá nhân đƣợc đặt lên hàng đầu và đƣợc
pháp luật bảo vệ. Vì vậy, nghiên cứu về quyền con ngƣời có ý nghĩa trong việc
định hƣớng, xây dựng hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm quyền con ngƣời ở
Việt Nam. Thứ hai, quyền con ngƣời là vấn đề luật học – chính trị nhạy cảm và
có tính quốc tế. Không chỉ ở Việt Nam, bảo đảm quyền con ngƣời đã và đang là
mục tiêu hành động của tất cả các Nhà nƣớc ở các quốc gia, các vùng lãnh thổ
1
trên thế giới. Việt Nam đã ký kết nhiều điều ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời và
bảo đảm quyền con ngƣời. Vì vậy, hoạt động bảo đảm quyền con ngƣời ở Việt
Nam trên thực tế có ý nghĩa ghi nhận sự hòa nhập và thể hiện trách nhiệm của
Việt Nam với cộng đồng quốc tế. Đó cũng là cách để Đảng và Nhà nƣớc đấu
tranh với những quan điểm của các thế lực thù địch, lợi dụng vấn đề quyền con
ngƣời để chống phá cách mạng nƣớc ta. Thứ ba, vấn đề quyền con ngƣời trên
phƣơng diện nghiên cứu luật học còn có những quan điểm trái chiều và không
thống nhất. Không riêng ở Việt Nam, các quan niệm về quyền con ngƣời còn có
nhiều mâu thuẫn, chung chung và mơ hồ. Vì vậy, nghiên cứu về quyền con
ngƣời có ý nghĩa thực tiễn nhằm đóng góp những ý kiến khoa học trong lý luận
về quyền con ngƣời. Qua đó nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con ngƣời trên
thực tế.
Tuy nhiên, bảo đảm quyền con ngƣời là một vấn đề sâu, rộng và liên quan
đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Việc nghiên cứu về
quyền con ngƣời phải mang tính cụ thể, chuyên sâu qua đó mới đạt đƣợc hiệu
quả thực tế cho công tác bảo đảm quyền con ngƣời. Bảo đảm quyền con ngƣời
không phải là một biện pháp chung chung, mà phải cần đến nhiều biện pháp,
chiến lƣợc cụ thể đối với từng lĩnh vực pháp lý riêng biệt. Với mong muốn tìm
hiểu và đƣa ra những giải pháp nâng cao chất lƣợng bảo đảm quyền con ngƣời ở
Việt Nam, tác giả dành sự quan tâm đặc biệt đến lĩnh vực bảo đảm quyền con
ngƣời của ngƣời chƣa thành niên (NCTN) trong tố tụng dân sự (TTDS) vì
những lý do sau đây:
Một là, về nguyên tắc, mọi công dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật. Tuy
nhiên, do những đặc điểm khách quan về thể chất, nhận thức, sức khỏe, tâm sinh
lý mà giữa các nhóm đối tƣợng chủ thể của quan hệ pháp luật có năng lực hành
vi khác nhau; từ đó dẫn đến cách thức tham gia quan hệ pháp luật của họ khác
nhau. Điển hình trong số đó là nhóm đối tƣợng người chưa thành niên.
Xuất phát từ thực tế tham gia tố tụng tại Tòa án của ngƣời chƣa thành
niên với tƣ cách đƣơng sự, tác giả nhận thấy việc bảo đảm quyền con ngƣời của
ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng dân sự còn nhiều hạn chế. Vì vậy, việc
2
nghiên cứu đề tài có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong việc bảo đảm quyền con
ngƣời của đƣơng sự là ngƣời chƣa thành niên nói riêng và bảo đảm quyền con
ngƣời ở Việt Nam nói chung.
Thứ hai, hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý về quyền con ngƣời của
ngƣời chƣa thành niên ở Việt Nam, có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Tuy nhiên, tác
giả nhận thấy thực trạng nghiên cứu khoa học về ngƣời chƣa thành niên trong tố
tụng chủ yếu dành sự quan tâm đến đối tƣợng bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành
niên. Đối với vấn đề bảo đảm quyền con ngƣời của NCTN trong TTDS, còn
thiếu nhiều sự nghiên cứu khoa học pháp lý. Điều này cho thấy việc bảo đảm
quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên hiện nay chƣa thực sự đầy đủ. Bởi
trong điều kiện kinh tế - xã hội ở nƣớc ta hiện tại, nhóm đối tƣợng này đang
ngày càng tham gia nhiều hơn vào các quan hệ pháp luật, trong đó có quan hệ
pháp luật dân sự, TTDS. Thực tiễn hoạt động của Tòa án nhân dân cho thấy sự
gia tăng về số lƣợng các vụ việc dân sự có sự tham gia của đƣơng sự là ngƣời
chƣa thành niên, và trong nhiều trƣờng hợp, quyền con ngƣời của họ chƣa đƣợc
bảo đảm.
Từ những thực trạng đó, việc nghiên cứu đề tài: “Bảo đảm quyền con
người của người chưa thành niên trong tố tụng dân sự Việt Nam” có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bảo đảm quyền con ngƣời là đề tài đã đƣợc quan tâm nghiên cứu của nhiều
nhà luật học. Có thể kể ra các công trình nghiên cứu về quyền con ngƣời nói chung
và quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên nói riêng nhƣ:
* Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền con người và bảo đảm quyền
con người nói chung: Giáo trình “Lý luận và pháp luật về Quyền con người”,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009, Nxb. Chính trị Quốc gia;“Quyền con
người – Lý luận và thực tiễn”, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện
nghiên cứu Quyền con ngƣời, 2014, Nxb Lý luận chính trị.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con người của người
chưa thành niên liên quan đến chuyên ngành luật dân sự và tố tụng dân sự:
3
- Nguyễn Phƣơng Lan (2006), “Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định
pháp lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Trƣờng Đại học
luật Hà Nội.
- Lê Thị Phƣơng Nga (2008), “Pháp luật bảo vệ trẻ em ở Việt Nam hiện
nay”, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Vũ Hồng Minh (2010) , “Quyền của người chưa thành niên theo Pháp luật
dân sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Vũ Anh Dũng (2014), “Quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam”,
Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội.
- Trần Đức Thành (2011), “Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện
trong tố tụng dân sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội.
Qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học trên, tác giả nhận thấy
vấn đề bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên trong TTDS mới
dừng ở việc tìm hiểu về quyền, nghĩa vụ của ngƣời chƣa thành niên trong các quy
định pháp luật. Bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng
dân sự cho đến nay chƣa có những công trình nghiên cứu chuyên sâu. Việc nghiên
cứu đề tài hƣớng tới mục đích đóng góp vào việc hoàn thiện các quy định pháp
luật về bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng dân sự thế hệ chủ nhân tƣơng lai của đất nƣớc.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền con
ngƣời của ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng dân sự Việt Nam, tác giả đề xuất
những quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa
thành niên trong tố tụng dân sự đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp nói chung và
hoạt động tranh tụng nói riêng.
Luận văn đƣa ra những quan điểm nghiên cứu lý luận về quyền con ngƣời
nói chung và bảo đảm quyền con ngƣời của NCTN trong TTDS nói riêng. Trên
cơ sở tìm hiểu thực trạng của các quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến
4
bảo đảm QCN của NCTN trong TTDS, kết quả nghiên cứu đề tài nhằm đề xuất
một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa
thành niên trong tố tụng dân sự.
- Phân tích và làm rõ thực trạng các quy phạm pháp luật liên quan đến
bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng dân sự hiện
nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cƣờng bảo đảm quyền con ngƣời
của ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng dân sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền con
ngƣời của ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là hoạt động bảo đảm quyền con ngƣời
của ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng dân sự Việt Nam ở cấp xét xử sơ thẩm.
Luận văn giới hạn nghiên cứu việc bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời
chƣa thành niên theo thủ tục giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân ở cấp
sơ thẩm. Đó là quá trình bảo đảm quyền khởi kiện và bảo đảm quyền con ngƣời
của ngƣời chƣa thành niên ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, giai đoạn xét xử
sơ thẩm. Lý do học viên giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận văn trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tại Tòa án là do các quyền con ngƣời của
NCTN trong TTDS đã đƣợc thể hiện gần nhƣ đầy đủ ở cấp xét xử sơ thẩm, cấp
xét xử phúc thẩm chỉ xét lại những nội dung đã đƣợc xem xét ở cấp xét xử sơ
thẩm có kháng cáo hoặc kháng nghị. Bên cạnh đó, do đề tài quá rộng xuyên suốt
quá trình tố tụng bao gồm cả giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc
thẩm, thi hành án... nên việc giới hạn phạm vi nghiên cứu để thể hiện tính
5
chuyên sâu của luận văn, tránh dàn trải và làm nổi bật vấn đề bảo đảm quyền
con ngƣời của NCTN.
Về không gian và thời gian: Học viên nghiên cứu đề tài này dựa trên cơ
sở thực tiễn hoạt động giải quyết các vụ án dân sự có sự tham gia NCTN của
Tòa án hai cấp trên địa bàn Hà Nội, trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến
tháng 3 năm 2016.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nƣớc
và pháp luật.
- Một số quan điểm của Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế, pháp luật
nhân quyền quốc tế và pháp luật khu vực về bảo đảm QCN của NCTN hiện nay.
- Quan điểm của một số học giả pháp lý, nhà lập pháp và thực tiễn thi
hành luật trên thế giới, khu vực và Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
đồng thời kết hợp với các phƣơng pháp cụ thể, bao gồm: phân tích, tổng hợp,
thống kê, điều tra xã hội học, luật học so sánh, phƣơng pháp tiếp cận dựa trên
quyền (HRBA - A Human Rights-Based Approach),... để luận giải làm rõ mục
tiêu, nhiệm vụ của luận văn cũng nhƣ những vấn đề nghiên cứu đƣợc đặt ra.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn đƣa ra một khái niệm bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa
thành niên dƣới góc độ khoa học pháp lý TTDS; hệ thống hóa các quy phạm
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về bảo đảm QCN của NCTN; Chỉ ra những
mặt hạn chế của thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về vấn đề này; Đề xuất
các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm
QCN của NCTN trong TTDS.
7. Kết cấu của luận văn
6
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chƣơng, 8 tiết.
7
Chƣơng 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1 Khái niệm về bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành
niên trong tố tụng dân sự
Quyền con ngƣời là một khái niệm pháp lý dành đƣợc sự quan tâm nghiên
cứu của nhiều nhà luật học. Tuy nhiên, vấn đề “Quyền con ngƣời” liên quan đến
nhiều lĩnh vực nhƣ: chính trị, kinh tế, pháp lý, đạo đức…vì vậy, có rất nhiều
cách tiếp cận cũng nhƣ tranh cãi về khái niệm “Quyền con ngƣời”. Một số khía
cạnh phổ biến và đƣợc thừa nhận rộng rãi nhất về quyền con ngƣời hiện nay nhƣ
sau:
Một là, thuyết tự nhiên về quyền con ngƣời. Các nhà nghiên cứu về quyền
con ngƣời ủng hộ thuyết tự nhiên đƣa ra quan điểm rằng quyền con ngƣời có
tính chất tự nhiên, có giá trị bẩm sinh. Theo đó, quyền con ngƣời gắn liền với
con ngƣời, xuất hiện ngay từ khi họ đƣợc sinh ra với tƣ cách là một con ngƣời
và đƣợc bảo đảm trong suốt cuộc đời của ngƣời đó. Với tính chất này, thuyết tự
nhiên về quyền con ngƣời có xu hƣớng bác bỏ quyền lực của các thế lực chính
trị nhƣ “vƣơng quyền”, “thần quyền”…
Hai là, thuyết cá nhân về quyền con ngƣời. Các nhà luật học ủng hộ
thuyết cá nhân về quyền con ngƣời cho rằng, quyền con ngƣời mang tính chất cá
nhân tuyệt đối, nhƣ một đặc trƣng của một cá thể riêng biệt, không có bất kỳ sự
phụ thuộc nào vào thế giới xung quanh. Học thuyết này tuyệt đối hóa tính chất
“cá nhân” của quyền con ngƣời, mang xu hƣớng vị kỷ, đề cao con ngƣời cá thể
và bỏ qua bản chất xã hội của con ngƣời. Đây cũng là quan điểm cơ bản của các
nhà nhân quyền học phƣơng Tây, nơi đƣợc cho là có những tƣ tƣởng về quyền
con ngƣời đầu tiên trên thế giới.
Ba là, thuyết xã hội về quyền con ngƣời. Trái ngƣợc với quan điểm thuyết
cá nhân về quyền con ngƣời, thuyết xã hội về quyền con ngƣời chỉ ra quyền con
ngƣời không tách rời với điều kiện kinh tế - xã hội tại một thời điểm, trong một
xã hội nhất định. Theo đó, quyền con ngƣời vừa mang tính chất cá nhân, vừa
8
mang tính chất xã hội, giai cấp. Ngoài ra, việc bảo đảm quyền con ngƣời cần
tƣơng thích với điều kiện kinh tế, xã hội, chế độ chính trị của mỗi quốc gia. Các
nƣớc Châu Á, Châu Phi… không đồng tình với thuyết cá nhân của quyền con
ngƣời của các nƣớc phƣơng Tây đã đƣa ra quan điểm này.
Nhƣ vậy, từ việc có nhiều quan điểm khác nhau khi tiếp cận khái niệm
“quyền con ngƣời”, dẫn đến việc có rất nhiều những định nghĩa về quyền con
ngƣời. Tuy nhiên, hiện vẫn chƣa có một khái niệm thực sự đầy đủ và chính xác
về quyền con ngƣời. Định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc về quyền
con ngƣời là một trong những định nghĩa đƣợc trích dẫn phổ biến nhất. Theo
định nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác
dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại các hành động hoặc sự bỏ mặc
mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con
người. [ 54 tr.8]
Một định nghĩa khác về quyền con ngƣời của Tiến sĩ Chu Hồng Thanh,
trong bài viết Các quan niệm khác nhau về nhân quyền trong thế giới hiện đại,
đó là “Nhân quyền là khả năng tự nhiên và khách quan của con người, với tư
cách là con người và với tư cách là thành viên xã hội, con người được bảo đảm
bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế về các giá trị cao
quý của con người trong các quan hệ vật chất, văn hóa và tinh thần, các nhu
cầu về tự do và phát triển” [6 tr.73]
Dựa trên việc tiếp thu các ý kiến nghiên cứu nêu trên về quyền con ngƣời,
tác giả đƣa ra một khái niệm về quyền con ngƣời nhƣ sau:
Quyền con người là những giá trị cơ bản nhất của mỗi con người, bao
gồm tất cả các giá trị nhân phẩm, sự tự do, lợi ích cơ bản của con người; bình
đẳng và phổ biến giữa mọi cá nhân trong xã hội, được áp dụng trong tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…và được bảo đảm bởi các hệ thống
pháp luật quốc gia và quốc tế.
Từ định nghĩa trên có thể nêu ra các đặc điểm cơ bản của quyền con
ngƣời là tính phổ biến, tính không thể chuyển nhƣợng, tính không thể phân chia
và tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.
9
Thứ nhất, Tính phổ biến của quyền con người: Các nhà nghiên cứu về
quyền con ngƣời theo thuyết tự nhiên cho rằng quyền con ngƣời là bẩm sinh, tồn
tại khách quan cùng với sự tồn tại của con ngƣời. Vì vậy, quyền con ngƣời mang
tính phổ biến. Tính phổ biến của quyền con ngƣời đƣợc thể hiện ở việc, QCN là
quyền bẩm sinh, vốn có của mỗi con ngƣời ngay từ khi sinh ra và bình đẳng
giữa mọi con ngƣời với nhau. Xã hội loài ngƣời trong suốt chiều dài lịch sử hình
thành và phát triển luôn ghi nhận, trân trọng những giá trị nhân văn, những
quyền tự do, quyền hạnh phúc của mỗi con ngƣời. Đó là quá trình đấu tranh với
tự nhiên, đấu tranh với những quyền lực chính trị của con ngƣời nhằm dành lấy
tự do, hạnh phúc, lợi ích cho mình. Do đó, quyền con ngƣời mang tính chất phổ
biến.
Tuy nhiên, thuyết tự nhiên về quyền con ngƣời không loại trừ tính xã hội
của quyền con ngƣời. Hiện nay, về tính chất tự nhiên của quyền con ngƣời, vẫn
còn nhiều tranh luận trái chiều do sự khác biệt quan điểm chính trị giữa các nhà
nghiên cứu. Mặc dù vậy, không thể phủ nhận tính xã hội của quyền con ngƣời,
bởi ngay chính bản thân “con ngƣời” đã mang đặc tính xã hội. Trên thực tế,
pháp luật quốc tế về quyền con ngƣời với ba văn kiện chính là Tuyên ngôn toàn
thế giới về quyền con người, Công ước các quyền dân sự, chính trị và Công ước
các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội cũng đã thừa nhận tính xã hội của quyền
con ngƣời.
Thứ hai, Tính không thể chuyển nhượng (tính không bị hạn chế): Pháp
luật quốc tế và pháp luật quốc gia đều ghi nhận và bảo đảm các quyền con
ngƣời. Vì quyền con ngƣời mang tính tự nhiên, nên mỗi con ngƣời đều có quyền
con ngƣời của bản thân mình một cách bình đẳng. Những quyền con ngƣời của
một cá nhân bất kỳ không thể bị tƣớc đoạt hay hạn chế, trừ trƣờng hợp ngƣời đó
vi phạm pháp luật và phải chịu chế tài về hành vi vi phạm đó. Tuy nhiên, ngay
cả trong trƣờng hợp này, quyền con ngƣời của ngƣời vi phạm pháp luật cũng
không thể bị hạn chế hay tƣớc đoạt cho đến khi họ phải chịu sự phán quyết bởi
một bản án hay quyết định có hiệu lực của Tòa án.
10
Điều 29.2 của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời đã nêu: Khi
hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn
chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng
đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu
cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã
hội dân chủ.
Nhƣ vậy, pháp luật quốc tế ghi nhận tính không thể chuyển nhƣợng (tƣớc
đoạt) của quyền con ngƣời nhƣ một cơ sở của việc bảo đảm quyền con ngƣời
trên thực tế.
Thứ ba, Tính không thể phân chia: Quyền con ngƣời mang ý nghĩa nhân
văn và là giá trị cơ bản nhất của con ngƣời. Vì vậy, quyền con ngƣời không thể
phân chia ra từng lĩnh vực riêng biệt nhƣ quyền chính trị, quyền dân sự, quyền
kinh tế…mà nó là tổng hòa của tất cả các quyền này, nhằm đảm bảo sự tự do và
lợi ích chính đáng của con ngƣời. Bất kỳ một quyền cơ bản, một sự tự do nào
trong cấu thành quyền con ngƣời bị hạn chế cũng tác động tiêu cực đến việc bảo
đảm quyền con ngƣời.
Tuy nhiên, tính chất không thể phân chia của quyền con ngƣời không
đồng nghĩa với việc các nhóm quyền cơ bản của con ngƣời đều phải thực hiện
đồng đều một cách máy móc. Trên thực tế, việc bảo đảm quyền con ngƣời đôi
khi cần ƣu tiên thực hiện một số quyền cơ bản, tƣơng ứng với từng điều kiện
kinh tế - xã hội nhất định. Ví dụ, trong thời gian chiến tranh, các quyền tự do,
quyền chính trị cần phải đƣợc ƣu tiên bảo đảm hàng đầu. Hoặc trong thời kỳ
phát triển kinh tế, các quyền dân sự, quyền kinh tế, quyền văn hóa cần đƣợc ƣu
tiên bảo đảm để con ngƣời có thể phát triển một cách toàn diện và hợp lý trong
từng điều kiện xã hội cụ thể.
Thứ tư, Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: Nhƣ đã trình bày ở trên,
quyền con ngƣời không thể bị phân chia thành những lĩnh vực cụ thể, mà nó là
tổng hòa các quyền cơ bản của con ngƣời nhƣ quyền dân sự, quyền chính trị,
quyền kinh tế, quyền văn hóa…Tuy nhiên, dựa trên những lợi ích cơ bản của
nhân loại, có thể phân quyền con ngƣời theo hai nhóm quyền lớn là nhóm các
11
quyền dân sự, chính trị và nhóm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Giữa hai
nhóm quyền này có sự liên hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau.
Vấn đề bảo đảm quyền con ngƣời phải đƣợc thực hiện một cách toàn diện,
đầy đủ. Không thể nói nhóm quyền con ngƣời nào có giá trị quan trọng hơn, hay
đƣợc ƣu tiên hơn, bởi các quyền con ngƣời vốn dĩ đã là những giá trị cơ bản,
quan trọng nhất và bình đẳng giữa các lĩnh vực. Tùy vào từng điều kiện xã hội
cụ thể, việc bảo đảm quyền con ngƣời có thể chia ra từng giai đoạn và tập trung
phát triển từng nhóm quyền một cách không đồng thời. Tuy nhiên, việc tác động
đến một nhóm quyền có thể gây ảnh hƣởng gián tiếp đến một nhóm quyền khác.
Sự tác động đến một nhóm quyền có thể gây ảnh hƣởng tích cực hoặc tiêu cực
đến nhóm quyền còn lại. Trên thực tế, việc bảo đảm tốt các quyền về dân sự,
chính trị (ví dụ như quyền bầu cử, quyền tham gia quản lý đất nước của công
dân…) sẽ tạo điều kiện cho việc bảo đảm tốt hơn các quyền về kinh tế, xã hội,
văn hóa. Và ngƣợc lại, việc bảo đảm các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa
(quyền được hưởng sự giáo dục, quyền được đảm bảo phát triển thể chất, văn
hóa…) sẽ nâng cao dân trí và tạo tiền đề phát triển các quyền dân sự, chính trị.
Một vấn đề lý luận khác cần xem xét khi nghiên cứu vấn đề bảo đảm
quyền con ngƣời của NCTN trong TTDS là khái niệm đƣơng sự là NCTN.
Đƣơng sự là một chủ thể không thể thiếu đƣợc trong quá trình Toà án giải quyết
các vụ án dân sự. Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đƣơng sự
có quyền tham gia tố tụng qua các giai đoạn tố tụng nhƣ hòa giải, chuẩn bị xét
xử, phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm giải quyết vụ án dân sự. Ngoài ra, khi đƣơng
sự tham gia đầy đủ vào các hoạt động tố tụng cũng tạo cơ sở cho Toà án có thể
giải quyết một cách nhanh chóng và đúng đắn các vụ án dân sự.
Căn cứ để xác định nhóm đƣơng sự ngƣời chƣa thành niên là dựa vào độ
tuổi. Điều 18 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Người chưa đủ mười tám tuổi là
người chưa thành niên”. Quy định này cũng có sự tƣơng thích với pháp luật
quốc tế liên quan. Cụ thể, tại Điều 1 Công ƣớc của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ
em năm 1989 có quy định: “Trong phạm vi của công ước này, trẻ em có nghĩa
là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy
12
định tuổi thành niên sớm hơn”. Nhƣ vậy, có thể hiểu ngƣời chƣa thành niên là
những ngƣời dƣới 18 tuổi.
Điều 57 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004, sửa đổi bổ sung
năm 2011 (Điều 69 BLTTDS năm 2015) quy định: “Năng lực pháp luật tố tụng
dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp luật
quy định”. Nhƣ vậy, mọi đƣơng sự trong quan hệ tố tụng dân sự đều có năng lực
pháp luật tố tụng dân sự nhƣ nhau. Tuy nhiên, khả năng thực hiện các quyền,
nghĩa vụ của các chủ thể này, hay nói cách khác là năng lực hành vi tố tụng dân
sự của họ là khác nhau. Theo đó, đƣơng sự chƣa đủ 18 tuổi thì không có năng
lực hành vi tố tụng dân sự hoặc có năng lực hành vi tố tụng dân sự chƣa đầy đủ.
Do đặc điểm về thể chất, tâm sinh lý của những ngƣời chƣa đủ 18 tuổi
chƣa thực sự phát triển đầy đủ, nên họ chƣa có khả năng tham gia vào các quan
hệ pháp luật một cách toàn diện. Trong trƣờng hợp này, đƣơng sự chƣa đủ 18
tuổi khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự sẽ thông qua ngƣời đại diện
hợp pháp của họ. Tuy nhiên, NCTN có thể tự mình tham gia tố tụng nếu họ từ
đủ 15 tuổi đến dƣới 18 tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc
giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình về những việc có liên quan đến
quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Từ đó, có thể đƣa ra khái niệm:
Đương sự chưa thành niên trong vụ án dân sự là cá nhân bao gồm
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, mà chưa đủ mười
tám tuổi, tính đến thời điểm họ tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Đƣơng sự trong vụ án dân sự là những ngƣời có liên quan đến quan hệ
tranh chấp dân sự đƣợc giải quyết tại Tòa án. Đƣơng sự trong vụ án dân sự có
thể tham gia với nhiều tƣ cách tố tụng nhƣ nguyên đơn, bị đơn hay ngƣời có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đối với NCTN trong TTDS, họ chính là đƣơng sự
trong vụ án dân sự. Tuy nhiên, do đặc thù của NCTN là chƣa có năng lực hành
vi tố tụng dân sự đầy đủ nên họ là nhóm đƣơng sự đặc biệt. Đặc trƣng của
đƣơng sự là NCTN có thể kể ra nhƣ: họ có ngƣời đại diện theo pháp luật tham
gia tố tụng, NCTN có thể tự mình tham gia tố tụng trong một số tranh chấp dân
sự nhất định nhƣng phải có mặt ngƣời giám hộ...
13
“Bảo đảm quyền con ngƣời là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính
trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để các cá nhân, công dân, các tổ chức của
công dân thực hiện đƣợc các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ đã đƣợc
pháp luật ghi nhận” [ 31 ]. Bảo đảm quyền con ngƣời trong tố tụng dân sự là
hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng tạo ra các tiền đề, các điều kiện
pháp lý nhằm bảo đảm quyền con ngƣời của đƣơng sự trong TTDS nói chung và
đƣơng sự là ngƣời chƣa thành niên nói riêng. Từ những phân tích trên, tác giả
đƣa ra khái niệm “Bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên trong tố
tụng dân sự” nhƣ sau:
Bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên trong tố tụng dân
sự là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động tố
tụng nhằm bảo vệ hoặc tạo điều kiện cho đương sự là người chưa thành niên
thực hiện các quyền con người của mình, khi họ tham gia quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự.
1.2. Đặc điểm, ý nghĩa của hoạt động bảo đảm quyền con người của
người chưa thành niên trong tố tụng dân sự
1.2.1. Đặc điểm của hoạt động bảo đảm quyền con người của người chưa
thành niên trong tố tụng dân sự
Một là, chủ thể của hoạt động bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa
thành niên trong tố tụng dân sự là cơ quan tiến hành tố tụng. Hoạt động bảo đảm
quyền con ngƣời của đƣơng sự là ngƣời chƣa thành niên, về bản chất là việc tạo
ra những điều kiện nhằm thực hiện và bảo vệ quyền con ngƣời. Muốn vậy, chủ
thể tiến hành hoạt động này phải mang quyền lực Nhà nƣớc, để bảo đảm sự
cƣỡng chế hoặc sự áp dụng pháp luật có hiệu quả.
Hai là, khách thể của hoạt động bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa
thành niên trong tố tụng dân sự là quyền con ngƣời của đƣơng sự chƣa thành
niên. Ngƣời chƣa thành niên là nhóm đối tƣợng đƣợc sự ƣu tiên và bảo vệ trong
quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ pháp luật tố tụng dân sự nói riêng. Các
quan hệ pháp luật nội dung khác nhƣ luật hình sự, lao động, dân sự, hôn nhân và
gia đình…luôn ghi nhận và bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành
14
niên. Tuy nhiên, giữa các chuyên ngành luật luôn có sự đặc thù riêng biệt trong
hoạt động bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên. Đối với quan
hệ pháp luật tố tụng dân sự, đặc trƣng đó là bảo đảm quyền con ngƣời của
đƣơng sự nói chung và đƣơng sự là ngƣời chƣa thành niên khi họ tham gia tố
tụng tại Tòa án với tƣ cách đƣơng sự trong một vụ án dân sự.
Ba là, bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng
dân sự gắn liền với hoạt động tố tụng của Tòa án giải quyết vụ việc dân sự mà
có sự tham gia của đƣơng sự là ngƣời chƣa thành niên. Các giai đoạn tố tụng khi
giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án bắt đầu từ giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ
án; giai đoạn hòa giải và chuẩn bị xét xử; giai đoạn tranh tụng tại phiên tòa đến
khi có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tƣơng ứng với các
giai đoạn này, các quyền con ngƣời của đƣơng sự nói chung và đƣơng sự là
ngƣời chƣa thành niên nói riêng có thể kể ra nhƣ quyền khởi kiện, quyền đƣợc
xét xử công khai, công bằng bởi một Tòa án có thẩm quyền, quyền bình đẳng
giữa các bên khi tham gia tranh tụng tại Tòa án, quyền kháng cáo…
1.2.2. Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền con người của người chưa thành
niên trong tố tụng dân sự
Bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên trong tố tụng dân
sự có ý nghĩa thể chế hóa chính sách của Đảng vào Hiến pháp và pháp luật:
Quyền con ngƣời là một vấn đề phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội, từ chính trị - kinh tế đến văn hóa – xã hội… Bản chất Nhà
nƣớc Việt Nam là Nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân, quyền lợi hợp pháp của
công dân đƣợc Nhà nƣớc tôn trọng và đặt lên hàng đầu. Vì vậy, quyền con
ngƣời bao gồm những quyền và lợi ích cơ bản nhất của công dân đƣợc Nhà
nƣớc bảo vệ. Bảo đảm quyền con ngƣời ở Việt Nam là một trong những đƣờng
lối, chính sách quan trọng của Đảng và đƣợc thể chế qua Hiến pháp và pháp
luật.
Bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên trong tố tụng dân
sự có sự tương đồng với pháp luật quốc tế:
15
Quyền con ngƣời là một vấn đề pháp lý mang tính rộng rãi và đƣợc tất cả
các quốc gia, nhà nƣớc trên thế giới quan tâm. Vì vậy, đã có nhiều Công ƣớc
quốc tế, các Điều ƣớc quốc tế... về bảo đảm quyền con ngƣời mà Việt Nam là
thành viên. Vì vậy, vấn đề bảo đảm quyền con ngƣời trong hệ thống pháp luật
Việt Nam nói chung và bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên
trong tố tụng dân sự nói riêng còn có ý nghĩa giúp Việt Nam tham gia tích cực
hơn và thể hiện trách nhiệm của mình đối với các Điều ƣớc quốc tế đã ký kết.
1.3. Quy phạm pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về vấn đề
bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng dân sự
1.3.1. Quy phạm pháp luật quốc tế về vấn đề bảo đảm quyền con người
của người chưa thành niên trong tố tụng dân sự
Liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền trẻ em nói chung và bảo đảm quyền
con ngƣời của NCTN trong TTDS nói riêng, hệ thống pháp luật quốc tế đã có
những Công ƣớc quốc tế nhƣ:
- Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em năm 1924
- Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời năm 1948
- Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự - chính trị
- Công ƣớc quốc tế về các quyền kinh tế - văn hóa – xã hội
- Tuyên bố của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em năm 1959
- Công ƣớc Liên hợp quốc về Quyền trẻ em năm 1989
- Công ƣớc về sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột vũ trang năm 2000
- Công ƣớc về buôn bán trẻ em, bóc lột và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ
em năm 2000
- Công ƣớc số 182 về xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất
- Hƣớng dẫn Riyadh về bảo vệ quyền trẻ em và tƣ pháp ngƣời chƣa thành
niên,...
Và ngoài ra là nhiều các tuyên bố, nghị định thƣ, bản khuyến nghị, Điều
ƣớc quốc tế...đƣợc ký kết giữa các quốc gia, các vùng lãnh thổ về vấn đề bảo
đảm quyền con ngƣời của NCTN. Qua nghiên cứu hệ thống các văn bản điều
ƣớc quốc tế này, tác giả nhận thấy vấn đề bảo đảm quyền con ngƣời của NCTN
16
trong TTDS là vấn đề pháp lý nhận đƣợc sự quan tâm của toàn nhân loại. Vấn
đề này có thể xem xét dựa trên các góc độ quyền con ngƣời trong lĩnh vực tƣ
pháp kết hợp với quyền trẻ em.
Quyền con ngƣời bao hàm những quyền, lợi ích cơ bản nhất của con
ngƣời, trong đó có các quyền về dân sự, chính trị. Theo Tuyên ngôn toàn thế
giới về quyền con ngƣời năm 1948 và Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự chính trị năm 1966, các quyền con ngƣời trong lĩnh vực tƣ pháp bao gồm:
- Quyền khởi kiện:
“Mọi người đều có quyền được các toà án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ
bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các quyền cơ
bản của họ mà đã được hiến pháp hay luật pháp quy định.” [25, Điều 8]
- Quyền đƣợc xét xử công bằng bởi Tòa án có thẩm quyền, độc lập và
không thiên vị:
“Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai
bởi một toà án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ,
cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ.” [25, Điều 10]
“Mọi người đều bình đẳng trước các toà án và cơ quan tài phán. Mọi
người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án có thẩm
quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật”[20, Điều 14]
Và các quyền khác nhƣ Quyền đƣợc xét xử công khai; Quyền đƣợc tự bảo
vệ hoặc đƣợc bảo vệ lợi ích hợp pháp; Quyền kháng cáo...
Tƣơng ứng với những quyền con ngƣời này, theo Công ƣớc về quyền trẻ
em 1989, có bao hàm những nội dung về quyền trẻ em trong lĩnh vực tƣ pháp
nhƣ sau: Quyền không bị áp dụng hình phạt tử hình hoặc tù chung thân; Quyền
đƣợc tiếp cận trợ giúp pháp lý; Quyền đƣợc xét xử một cách khách quan, nhanh
chóng bởi một Tòa án độc lập và có thẩm quyền [19, Điều 37]; Quyền đƣợc áp
dụng những biện pháp pháp lý đặc biệt [19, Điều 40].
Nhƣ vậy, hệ thống pháp luật quốc tế đã có những ghi nhận về bảo đảm
Quyền con ngƣời của NCTN trong hoạt động tƣ pháp nói chung và TTDS nói
riêng. Hầu hết các quy định về quyền con ngƣời trong hoạt động tƣ pháp đƣợc
17
thể hiện trong Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự - chính trị. Đây là cơ sở
pháp lý quan trọng của hoạt động bảo đảm quyền con ngƣời của NCTN trong tố
tụng dân sự trên phạm vi pháp luật quốc tế. Bên cạnh đó, hệ thống các công ƣớc
quốc tế về bảo đảm quyền con ngƣời của NCTN trong TTDS cũng là cơ sở để
xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia về vấn đề này.
1.3.2. Hệ thống pháp luật Việt Nam về vấn đề bảo đảm quyền con người
của người chưa thành niên trong tố tụng dân sự
Sự thể chế hóa trong Hiến pháp: Bất cứ một Nhà nƣớc nào, dù với chế độ
chính trị, hình thái kinh tế - xã hội khác nhau thì quyền con ngƣời, quyền công
dân luôn là mục tiêu cơ bản trong hoạt động của Nhà nƣớc. Vì vậy, quyền con
ngƣời, quyền công dân luôn đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật của
mỗi Nhà nƣớc.
Ở Việt Nam, do điều kiện lịch sử đặc thù là luôn phải đấu tranh giữ nƣớc,
cũng nhƣ truyền thống đạo đức, truyền thống tôn trọng các giá trị cao đẹp của
con ngƣời, bảo đảm quyền con ngƣời luôn đƣợc ghi nhận và gắn liền với quyền
lợi của dân tộc. Vì vậy, cách mạng Việt Nam thành công, khai sinh ra nƣớc Việt
Nam dân chủ cộng hòa và sau này là nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
luôn dành sự ghi nhận và bảo đảm quyền con ngƣời. Hiến pháp năm 1946 quy
định về quyền con ngƣời gắn liền với quyền công dân tại chƣơng II. Đây là bƣớc
chuyển to lớn về địa vị của công dân Việt Nam, từ vị thế bị áp bức, bóc lột dƣới
chế độ phong kiến, thực dân trở thành những công dân làm chủ đất nƣớc. Hiến
pháp 1946 ghi nhận các quyền con ngƣời của công dân gồm: Quyền bình đẳng
về mọi phƣơng diện chính trị, kinh tế, văn hóa; Quyền tham gia vào chính quyền
và công việc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh; Quyền bình đẳng nam nữ;
Quyền tự do ngôn luận, xuất bản….;Quyền bất khả xâm phạm về thân
thể…Hiến pháp 1959 ra đời trong hoàn cảnh đất nƣớc đã có nhiều thay đổi về
chính trị, kinh tế, xã hội với những nhiệm vụ mới đặt ra cho Đảng và Nhà nƣớc.
Cùng với việc bổ sung những quy định mới phù hợp với tình hình đất nƣớc, việc
ghi nhận các quyền con ngƣời trong Hiến pháp 1959 đã đƣợc mở rộng với các
18
quyền nhƣ Quyền khiếu nại, tố cáo; Quyền làm việc; Quyền nghỉ ngơi; Quyền
học tập; Quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật…
Hiến pháp 1980 kế thừa các bản hiến pháp trƣớc, tiếp tục khẳng định
quyền làm chủ đất nƣớc của công dân và ghi nhận, bổ sung các quyền, nghĩa vụ
của công dân. Ngoài ra, Hiến pháp cũng có sự gắn kết với nội dung các công
ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời mà Việt Nam đã ký kết.
Hiến pháp 1992 ra đời khi đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ đổi mới toàn diện.
Khác với các bản Hiến pháp trƣớc, Hiến pháp 1992 đã cân nhắc đến tính khả thi
khi xác định quyền và nghĩa vụ của công dân, để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lần đầu tiên, có
một quy định trong Hiến pháp về quyền con ngƣời. Điều 50 Hiến pháp 1992 quy
định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về
dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng và được quy định ở
Hiến pháp và luật”. Điều đó phản ánh nhận thức ngày càng sâu sắc của nhân
dân ta về quyền con ngƣời trong quá trình đổi mới đất nƣớc. Bên cạnh việc mở
rộng các quy định về quyền con ngƣời, Hiến pháp 1992 cũng điều chỉnh lại một
số quyền mà xét trong điều kiện kinh tế - xã hội nƣớc ta chƣa có điều kiện để
thực hiện nhƣ quy định của Hiến pháp 1980 về chế độ khám chữa bệnh, học tập
không phải trả tiền, đƣợc thay thế bởi cơ chế nhà nƣớc và nhân dân cùng làm…
Hiến pháp 2013 đã kế thừa và phát triển chế định quyền con ngƣời khi
dành một chƣơng để quy định về quyền con ngƣời, quyền cơ bản của công dân.
Tại chƣơng II của Hiến pháp 2013, các quyền con ngƣời, quyền công dân về
kinh tế, chính trị, văn hóa...đã đƣợc ghi nhận và bảo đảm.
Có thể nói, qua quá trình thay đổi các bản Hiến pháp, số lƣợng và chất
lƣợng các điều luật về quyền con ngƣời ngày càng nâng cao và phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội ở nƣớc ta hiện nay.
Bên cạnh việc Hiến định các quyền con ngƣời, Pháp luật Việt Nam còn có
sự cụ thể hóa các quyền này vào các luật chuyên ngành cụ thể. Cụ thể, Bộ luật
Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Hôn nhân và gia
đình…luôn ghi nhận và bảo đảm các quyền con ngƣời. Bảo đảm quyền con
19
ngƣời của ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng dân sự cũng là một nội dung nằm
trong hoạt động bảo đảm quyền con ngƣời theo Pháp luật Việt Nam.
Việt Nam đã phê chuẩn các công ước quốc tế về quyền con người:
- Công ƣớc không áp dụng những hạn chế luật định đối với tội phạm
chiến tranh và tội phạm chống nhân loại;
- Công ƣớc về ngăn ngừa và trừng trị tội Apacsthai;
- Công ƣớc về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng;
- Công ƣớc về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc;
- Công ƣớc về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa;
- Công ƣớc các quyền dân sự và chính trị;
- Công ƣớc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ;
- Công ƣớc về quyền trẻ em.
Việc tham gia ký kết và thực hiện các Điều ƣớc quốc tế về Quyền con
ngƣời cũng là cách để Việt Nam hội nhập với thế giới. Đồng thời thể hiện trách
nhiệm của Việt Nam trong công cuộc bảo đảm quyền con ngƣời trên toàn thế
giới.
1.3.3. Lược sử các quy định của Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam ghi
nhận việc bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên
1.3.3.1. Giai đoạn trước khi có Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự
Trong chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn ghi nhận, tôn trọng và bảo
vệ các quyền con ngƣời cơ bản. Có thể nhận ra văn hóa ngƣời Việt Nam luôn
ghi nhận các quyền hạnh phúc, quyền bình đẳng…của con ngƣời qua các truyền
thuyết dân gian nhƣ “sự tích Con rồng cháu tiên”, “sự tích Chử Đồng Tử - Tiên
Dung”…Hay nhƣ trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam - một trong những
loại hình văn hóa dân gian mang tính giáo dục sâu đậm, luôn có những câu tục
ngữ thể hiện giá trị của quyền con ngƣời. Có thể kể ra những câu nói của cha
ông ta nhƣ “Một mặt người hơn mười mặt của”, “Người sống hơn đống vàng”...
Điều đó thể hiện trong văn hóa truyền thống ngƣời Việt luôn trân trọng và phát
huy những giá trị cao đẹp của quyền con ngƣời.
20