Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Đề tài: Mục tiêu và sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.32 KB, 24 trang )



LỜI MỞ ĐẦU
Bước vào thập kỷ  90, tình hình thế  giới có những thay đổi nhanh chóng, 
phức tạp và có những yếu tố khó lường . Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên 
Xô và Đông Âu kéo theo đối đầu với hai cực Xô­ Mỹ  cũng chấm dứt. Duy chì  
hoà bình  ổn định trong môi trường quốc tế  mới và tìm kiếm vị  trí có lợi nhất 
trong đó đang là mục tiêu chiến lược của hầu hết các quốc gia trên thế giới. 
Được đánh giá là một siêu cường còn lại duy nhất sau chiến tranh lạnh,  
bên cạnh những cơ hội, Mỹ cũng đang phải đối mặt với những thách thức mới.  
Vì thế  để  phù hợp với tình hình, tiếp tục triển khai và giành thắng lợi trong 
chiến lược toàn cầu của mình, Hoa Kỳ đã có sự điều chỉnh đáng kể trong chiến  
lược toàn cầu của mình. Sự  điều chỉnh chiến lược của Mỹ  đã  ảnh hưởng toàn 
diện tới chiến lược toàn diện của các nước đặc biệt tới các nước lớn, buộc họ 
cũng phải thay đổi đường lối cho phù hợp với tình hình mới. 
Xét trên nhiều góc độ, sự  điều chỉnh của Mỹ  sau chiến tranh lạnh đã tạo 
ra nhưng thay đổi to lớn mang tính toàn cầu, tác động,  mạnh mẽ đến hệ  thống  
quan hệ  quốc tế  bởi vậy việc nghiên cứu chính sách đối ngoại của Mỹ  sau 
chiến tranh lạnh, Mục tiêu và sự điều chỉnh có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về 
lý luận và thực tiễn trong hoạc định đường lối chính sách đối ngoại của Việt  
Nam hiện nay.
Với lý do đó, tôi đã chọn đề tài “ Mục tiêu và sự điều chỉnh chính sách đối  
ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh” làm nội dung tiểu luận.
Tiểu luận gồm Phần mởi đầu, 02 chương, kết luận danh mục tài liệu  
tham khảo.


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC ĐỐI NGOẠI
1.1. Thế và lực của Mỹ 
Thế  và lực của Mỹ  là yếu tố  quan trọng hàng đầu, chi phối chiến lược  


đối ngoại của Mỹ, 
Mỹ hiện là nền kinh tế lớn nhất thế giới, với 4,7% dân số  thế  giới, GDP 
của Mỹ chiếm 31,2 % GDP toàn cầu. GDP năm 200 đạt 9.996,2 tỷ USD, lớn gần 
gấp đôi so vói nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới là Nhật Bản là 4.619,8 Tỷ, và gấp  
10 lần so với nền kinh tế đang trỗi dậy của Trung Quốc 1.070,7 tỷ tính theo cân  
bằng sức mua (PPP). Như vậy phải mất 30 năm nữa với tốc độ tăng trưởng như 
hiện nay, kinh tế  Trung Quốc mới đạt mức của Mỹ  hiện nay và tổng thu nhập  
quốc dân tình theo đàu người và thấp hơn nhiều. Hơn nữa, thập kỷ đầu của thời 
kỳ sau chiến tranh lạnh lại chứng kiến một thơig kỳ phát trển dài lâu nhất trong 
lịch sử  của nước Mỹ  khoảng cách giữa Mỹ  và các đối thủ  đặc biệt như  Nhật  
Bản và EU vành được mở rộng và sự trờnh lệch lớn trong tộc độ phát triển kinh  
tế. Từ  năm 1990 đến 1998, kinh tế  mỹ  tăng đến 27 % gấn như  gấp đôi so với 
EU  15% và Nhật Bản 9%. Mỹ  có khả  năng duy trì được vị  trí siêu cường của  
mình ít nhất trong nhiều thập kỷ tới . Nền kinh tế Mỹ vẫn là nền kinh tế có sức 
cạnh tranh mạnh nhất trên thế giới . Mỹ giữ vai trò chủ đạo trong các tổ chức tài  
chính, thương mại thế giới như,MF, WTO, WB, ….Nền kinh tế Mỹ là nền kinh  
tế có sức cạnh tranh mạnh nhất trên thế giới. Mỹ cũng là nước đi đầu trong lĩnh 
vực tài chính và tiền tệ  đồng đô la Mỹ  chiếm hơn 60 % giao dịch thương mại 
toàn cầu . Đồng đụla cũng là đồng tiền dự  trữ  của hầu hết các nước trên thế 
giới.Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú tiềm lực kinh tế  của Mỹ  vô 
cùng to lớn . Những yếu tố  thúc đẩy tăng trưởng kinh tế  dưới tác động của 
thành tựu khoa học công  nghệ  toàn cầu hoá và chính sách kinh tế  và vĩ mô có 


hiệu quả  làm cho chu kỳ  tăng trưởng kinh tế  của mỹ  kéo dài và bền vững hơn  
chù kỳ  suy thoái giảm hơn một cách  đáng kể  như  thời gần  đây kéo dài chỉ 
khoảng 2 quý, ngay cả duúi tác động của vụ khủng bố 11­9. Đăc biệt công nghệ 
tin  học và ứng dụng của nó dã góp phần tăng lăng suất lao động đáng kể và làm  
cho “nền kinh tế  mới” của Mỹ duy trì đươc tăng trưởng trong khi một loạt các  
nền kinh tế   ở  châu Á Thái Bình Dương lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Căn 

cứ  vào mức tăng trưởng hiện nay khoảng 3% và dự  báo trong thời gian tới 4% 
Mỹ vẫn tiếp tục là nễn kinh tế lớn nhất thế giới trong vòng mấy thập kỷ tới .
Sức mạnh quân sự  của Mỹ  đứng đầu trên thế  giới. Theo Josph Nye, giáo  
sư trường Đại Học Haward và nguyên trợ lý bộ trưởng quốc phòng Mỹ, về măt 
quân sự, có thể nói thế giới là đơn cực vì Mỹ là nước duy nhất có cả vũ khí hạt  
nhân xuyên lục địa cũng như  sức manh vô địch,về  không quân, hải quân và bộ 
binh. Chỉ tiêu quân sư chiếm 37% chỉ tiêu quân sự toàn cầu năm 20005. Do mức  
giảm chi ngân sách quân sự của mỹ thấp hơn so với các nước khác thời kỳ, sau  
chiến tranh lạnh kết thúc với khoảng 80% toàn bộ chi phí trên thế giới dành cho 
nghiên cứu và phát triển  quân sự, Mỹ là cường quốc duy nhất có một quân sự ở 
cả  năm châu lục và có tầu ngầm nguyên tử  và tầu sân bay  ở  cả  ba đại dương. 
Kho vũ khi hạt nhân lớn nhất của Mỹ  trên thế  giới Mỹ  cũng là nước lãnh đạo  
các liên minh quân sự  xuyên Đại Tây Dương, NaTo và qua đó duy trì sự  phụ 
thuộc của các nước Tây Âu vào Mỹ  về  mặt chính trị  và quân sự. Ở  châu Á hệ 
thống Sanfransisco do Mỹ  thành lập từ  sau chiến tranh lạnh đến nay vẫn được 
duy trì và củng cố về tiềm năng khoa học công nghệ: sức sáng tạo khoa học kỹ 
thuật cua mỹ chiếm 40,6% của tổng chi phÝ toàn cầu là 652,7 tỷ  USD. Chi phí  
cho nghiờn cứu và phát triển khoa học công nghệ của các tập đoàn, công ty Mỹ 
lên tới 200 tỷ  đô la, nhiều hơn ngân sách của toàn bộ  các nước còn lại trên thế 
giới. Bằng phát minh khoa học của mỹ  chiếm hơn 60% toàn bộ  số  bằng phát 


minh khoa học trên thế giới. Mỹ đi đầu ở 20 trong tổng số 29 ngành khoa học và  
công nghệ mũi nhọn trên thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ  tin học. 
Mỹ  nắm giữ  vai trò chủ  đạo trong các thiết chế  tài chính thương mại thế  giới  
như IMF. WTO, WB… Xét về tổng thể, Mỹ đang là siêu cường duy nhất ưu thế 
vượt trội của Mỹ đươc thể hiện rõ nét trong lĩnh vực như kinh tế, quân sự  khoa 
học và công nghệ. Hơn thế  nữa, phạm vi và sức mạnh Mỹ  cã thể  vươn tới là 
phạm vi toàn cầu, khả năng khống chế toàn cầu của Mỹ thông qua sức mạnh áp 
đảo được thúc đẩy bởi một thế  giới toàn cầu hoá và ngày càng phụ  thuộc lẫn  

nhau. Tuy nhiên, ưu thế của Mỹ nằm trong một thế tương quan lực lượng khác  
biệt về cơ bản so vơi thời kỳ sau chiến tranh thÕ giới thứ hai, hơn thế nữa, cho  
dù sức mạnh áp đảo nhưng pham vi triển khai sức mạnh trên toàn cầu của nước 
Mỹ  ngày nay  đang phải   đương   đầu với những  thách thức  phi truyền thống,  
những mối đe doạ  không cân sức mà trong cuộc chơi đó sức mạnh áp đảo của 
Mỹ chưa hẳn là nhân tố quyết định thắng lợi bởi những lý do sau :
Thứ 1: Nước Mỹ không còn ở thế độc quyền vũ khí nguyên tử, kho vũ khí 
hạt nhân của Nga vẫn đứng vị trí thứ 2 thế giới, cho dù mối đe đoạ hạt nhân từ 
Nga giảm đi đáng kể . Kho vũ khí hạt nhân của Nga tuy đã giảm đáng kế nhưng  
vẫn còn đủ  sức tiêu diệt 10 lần nước Mỹ. Ngoài và còn phải kể  dến cường  
quốc hạt nhân khác . 

 

Thứ 2: Những trung tâm quyền lực khỏc đó mạnh lên tương đối so với mỹ 
và khả năng thách thức vị trí của mỹ trong tương lai sau chiến tranh thế giới thứ 
2 tổng thu nhập quốc nội (GDP)của Mỹ  chiếm khoảng 30% (GDP) toàn cầu. 
Sức mạnh kinh tế không còn áp đảo như trước những trung tâm kinh tế như EU,  
Nhật bản đã nổi nên cạnh tranh gay gắt .
Thứ 3: Sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau trong kỷ nguyên toàn cầu hoá không  
mang tính chất một chiều. Sự thịnh vượng kinh tế Mỹ phụ thuộc vào một phần  


vào buôn bán, đầu tư  với các nước khỏc trờn thế  giới . Vì vậy lợi ích của Mỹ 
trong quan hệ kinh tế với các nước khác đòi hỏi của Mỹ cũng phải hợp tác tính 
đến lợi ích của các đối tác khác chứ  không thể  chỉ  có thể  áp đặt những điều 
kiện của mình.
Thứ 4: Những mối đe doạ không cân xứng là một trong những thách thức  
và hạn chế to lớn đối với sức mạnh của Mỹ. Sự biểu dương sức mạnh của Mỹ 
trong cuộc chiến tranh vùng vịnh năm 1991 cuộc không kích Kosovo năm 1999 và  

cuộc chiến tranh Afghamstan là những bức thông điệp mạnh mẽ về “sự vô địch” 
của Mỹ trong cuộc chiến tranh thông thường, chính vì vậy, kẻ thù của Mỹ sẽ sử 
dụng những phương tiện phi truyền thống như khủng bố đe doạ hạt nhân hay vũ  
khí hoá học chiến tranh tin học hay phá hoại môi trường, đây là mối đe doạ 
không cân xứng với Mỹ .
Thứ  5: Tuy là siêu cường duy nhất còn lại sau khi liờn xụ  sụp đổ  nhưng  
nước Mỹ  ngày nay không có đủ  ý chí và khả  năng lãnh đạo thế  giới theo kiểu 
chả bất cứ lúc nào, đi bất cứ nơi đâu, chống lại bất cứ kẻ thù nào và bảo vệ bất 
cứ người bạn nào. Nói một cách khác sự thiếu  nhất chí trong nội bộ của Mỹ về 
vai trò của trong một thế giới mới với những thách thức đa dạng và phức tạp là 
một trong những hạn chế cơ bản đối với khả năng thiết lập bản quyền của Mỹ 
trên toàn thế giới. Henoi Kissilger cho rằng mâu thuẫn giũa ba cách tiếp cận khác 
biệt của ba thế hệ khác nhau là nguyên nhân sâu xa. Tại sao nước Mỹ không đưa 
ra một chiến lược đối ngoại gắn liền với nhất quán trong thời kỳ  sau chiến 
tranh lạnh? Thế hệ của các cựu chiến binh trong chiến tranh lạnh nhìn thế  giới  
với lăng kính của chủ nghĩa hiện thực mà cân bằng quyền lực là khái niệm chủ 
đạo và đối phó với mối đe doạ tiềm tàng là nhiệm vụ hành đầu của chiến lược  
đối ngoại hành đàu của mỹ. Thế hệ của những người phải đối cuộc chiến tranh 
ở Viờt Nam mà Clinton là đại diện tiếp cận thế giới với lăng kính của chủ nghĩa  


lý tưởng thế giới quan của thế hệ sau chiến tranh lạnh thiên  về  chủ nghĩa toàn 
cầu kinh tế  mà việc theo đuổi lợi ích kinh tế  của Mỹ  tất yếu sẽ  dẫn đến hoà  
bình và dân chủ trên thế giới.
1.2. Những xu thế  quốc tế  chủ  yếu tác động đến chiến lược đối 
ngoại của Mỹ
Một là: xu thế  khách quan về  sự  phát triển về  khoa học công nghệ  các 
ngành công nghệ cao phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử tin 
học, truyền thông. Để giữ được hàng đầu trong việc chạy đua này nước Mỹ  sẽ 
buộc phải chạy đua kinh tế  khoa học kỹ  thuật bởi các trung tâm trên thế  giới  

như  Nhật Bản và EU luôn có khả  năng đuổi kịp và thách thức của mỹ, vì vậy 
Mỹ  sẽ  phải tiếp tục chính sách  ưu tiên phát trển kinh tế  đầu tư  mạnh mẽ  vào 
khoa học kỹ thụõt để dảm bảo trong cuộc chiến tranh này .
Hai là : Xu thế hoà bình hợp tác và phát triển đã trở thành su thế chủ đạo 
chi phối quan hệ quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh tuy vậy  ở nhiều khu vực  
trên   thế  giới, xung đột cục bộ  và tình trạng bất  ổn định vẫn tiếp tục sảy ra.  
Xong chanh chấp lãnh thổ xung đột cục bộ khó có khả năng lan rộng, kéo dài sự 
đối đầu trực tiếp của các nước lớn và làm bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới thư 
3. Khả  năng chiến tranh thế  giới khó có thể  xảy ra vỡ  cỏc nước lớn hiện nay  
khó có thề  xảy ra vớ  cỏc nước lớn hiện nay có lợi ích lâu dài và cơ  bản trong 
việc duy trì hòa bình để phát triển kinh tế, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế cao  
tuy không trừ khả năng chiến tranh nhưng có tác dụng giảm khả  năng sung đột 
vì lợi ích đan xen, trồng chéo .
Ba là: Sự chuyển đổi công nghệ tới năm 70 và cuộc cách mạng mạnh mẽ 
tiến trình toàn cầu hoá và khu vực hoá. Một mạng lưới toàn cầu về  mậu dịch,  
sản  xuất thông tin dần được hình thành. Xu hướng toàn cầu hoá là một su thế 
khách quan không thế  đảo ngược. Song hành với xu thế  toàn cầu hoá là xu thế 


khu vực hoá. Ở Châu Âu về quá trình mở rộng của EU được tiến hành đồng thời  
với quá trình phát triển về  chiều sâu kinh tế.  Ở  châu Á Thái Bình Dương tiến 
trình tự  do hoá thương mại của APECH đang tiếp tục tiến triển. Liên kết tiểu 
khu vực cũng được thúc đẩy toàn cầu hoá và khu vực hoá mà hệ quả trực tiếp là 
sự  phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng tăng, là một EU thế giới  
quan trọng có tác động to lớn đến việc hoạch định chính sách đối ngoại của các  
nước hiện nay trên thế giới.
Bốn là: xu thế  đa cực hoỏ, Liờn Xụ  tan rã Mỹ  trở  thành siêu cường duy 
nhất trật tự thế giới hai cực sụp đổ. Thế giới đang chuyển tiếp sang một chật tự 
đa cực. Dù là siêu cường duy nhất Mỹ không thể chi phối toàn bộ cộng việc của 
thế giới và áp đặt ý chí của mình, những vẫn đề bức xúc đòi hỏi phải có sự hợp 

tác của các nước trên thế giới. Sự trỗi dậy của Trung Quốc, sức mạnh còn lại và  
khả  nnăng hồi phục của Nga, tính độc lập ngày càng cao của Nhật Bản và EU 
cũng như  sự  lớn mạnh của  ấn độ  đã làm cho Mỹ  khó có thể  thực hiện đựoc  
tham vọng bá chủ của mình.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI 
CỦA MỸ
2.1. Mục tiêu và trọng điểm chiến lược
Mục tiêu chiến lược đối ngoại bao chùm của Mỹ  là tập trung củng cố 
thực lực và vị trí siêu cường duy nhất của Mỹ, thiết lập một trật tự thế giới mới  
do Mỹ lãnh đạo mà ở đó giá trị của Mỹ được phổ biến, ngăn chặn không cho bất  
cứ  nước nào nổI lên đe doạ  vị  trí của mình. Mục tiêu chiến lược dài hạn bao  
trùm này tiếp tục được thể hiện trong ba mục tiêu cơ  bản: tăng cường an ninh,  
củng cố  thịnh vượng kinh tế  và thúc đẩy dân chủ  nhân quyền. mục tiêu chiến  
lược xuyên suốt và dài hạn và những xu thế quốc tế chủ đạo phân tích ở trên sẽ 
tiếp tục chi phối đường hướng chính sách đối ngoại của Mỹ  sau chiến tranh 


lạnh thúc đẩy kinh tế thị trường, mở rộng tự do hoá thương mại can dự vào thế 
giới. Đú chớnh là những nguyên tắc cơ  bản định hình chính sách đối ngoại của 
Mỹ  trong nửa thế kỷ qua và những nguyên tắc này tiếp tục là cốt lõi cho chính  
sách đối ngoại của Mỹ sau này.
Sự  kiện 11­ 9 và cuộc chiến của mỹ   ơ  Afghamstan là một bước ngoặt 
quan trọng mở ra một thời kì mới, thời kì hậu chiến tranh lạnh theo cách gọi của  
ngoại trưỏng mỹ  Colin Powel. Cuộc chiến chống khủng bố  trở  thành  ưu tiên  
chiến lược hàng đầu của Mỹ. Đối với Mỹ  ở khía cạnh nào đó chống khủng bố 
đã thay thế  mục tiêu “chống cộng sản” thời kì chiến tranh lạnh và trở  thành 
ngọn cờ  tập hợp lực lượng, và danh giới phân định bạn thù. Học thuyết bus  
“hoặc các bạn đứng về phía chúng tôi, hoặc đứng về phía bộn khủng bố” là lời 
tuyên bố  mạnh mẽ  nhất về chính sách của mỹ  đối với các nước khỏc trờn thế 
giới trong cuộc chiến chống khủng bố. Từ góc độ  này có thể  khẳng định trọng 

tâm chiến lược đối ngoại của Mỹ trong tương lai ngắn đến trung hạn sẽ là cuộc 
chiến chống khủng bố. Mục tiêu này sẽ  chi phối và xác   định những  ưu tiên 
chính sách đối ngoại của Mỹ đối với từng vấn đề, khu vực và đối tượng cụ thể.  
Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ thể hiện sự kế thừa, hơn là thay đổi mục 
tiêu cơ  bản then chốt nhất trong chính sách an ninh, đối ngoại cuả  Mỹ. Những  
mục tiêu cốt lỗi cho chính sách đối ngoại của Mỹ như duy trì vị  trí cường quốc  
số  một trên thế  giới, thiết lập một trật tự thế giới do Mỹ lãnh đạo. Ngăn chặn 
không để cho bất kỳ một cường quốc thù địch nào nổi lên đe doạ vị trí và vai trò  
của Mỹ, thúc đẩy một nền kinh tế mở toàn cầu , tự do hoá thương mại, dân chủ 
và nhân quyền trên toàn thế giới.
Châu Âu tiếp tục là một hướng chiến lược quan trọng hàng đầu của Mỹ 
bởi người Mỹ  có những lợi ích sống còn  ở  khu vực này, do đó Mỹ  sẽ  tiếp tục  
tăng cường can dự  với Châu Âu , thúc đẩy quá trình NATO mở  rộng, thúc đẩy 


cải cách kinh tế , chính trị ở Nga và các nước Đông Âu và SNG, lôi kéo các nước  
này vào một cơ cấu chính trị  mới nhằm mục đích lâu dài là xây dựng một châu 
Âu không bị chia cắt, hoà bình và đõn chủ.
So với Châu Âu, tình hình khu vực Châu Á còn nhiều yếu tố bất  ổn định. 
Các vấn đề  an ninh khu vực có khả  năng bùng nổ  thành xung đột, chưa có dấu  
hiệu được giải quyết. Trong các khu vực ở Châu Á chưa có một cơ chế hợp tác 
an ninh hữu hiệu. Quan trọng  hơn hết là sự  trỗi dậy của Trung Quốc và khả 
năng của Trung Quốc đang thách thức đến các lợi ích của Mỹ   ở  khu vực, cũng 
như  vị  trí siêu cường duy nhất của Mỹ  trên thế  giới. Vì vậy, trọng tâm chiến  
lược an ninh cảu Mỹ đang chuyển dịch về châu Á nhằm đối phó với những bất  
trắc trong môi trường an ninh khu vực châu Á Thái Bình Dương. Sự chuyển dịch 
trọng tâm chiến lược đã bắt đầu manh nha từ cuối nhiệm kỳ của BillClinton và 
dưới chính quyền Bush, nó đó được tiếp tục thúc đẩy.



2.2. Nội dung và những hướng chiến lược cơ bản
Từ  sau chiến tranh thế giới thứ hai đến chính quyền G.W.Bush hiện nay, 
trải qua nhiều đời tổng thống Mỹ, nước Mỹ đã có nhiều lần thay đổi chiến lược  
lớn, chiến lược toàn cầu.
Vào năm 1989 G.H.Bush (Bush cha) lên làm tổng thống thay thế cho Rigõn. 
Đứng trước sự thay đổi của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, G.H.Bush đã  
nêu ra chiến lược “vượt trên ngăn chặn” nhằm mục tiêu tiến công toàn diện 
bằng diễn biến hoà bình làm sụp đổ  Liờn Xụ, Đông Âu và các nước XHCN  
khác, tiến tới xây dựng trật tự  thế  giới mới do Mỹ  lãnh đạo. Chiến lược này 
được   thực   hiện   trong   bốn   năm   (1989­1992)   trong   nhiệm  kỳ   của  tổng  thống 
G.H.Bush .
Đầu năm 1993 Billclinton nhận chức tổng thống thứ 42 của nước Mỹ,  sau  
nhiều lần điều chỉnh, bổ  sung chính sách, đến năm 1995 Mỹ  đã công bố  chiến  
lược an ninh   quốc gia cam kết (dính líu) và mở  rộng. Chiến lựơc này vừa có 
tính chất kế thừa những ý tưởng của Busơ  vừa điều chỉnh cho phù hợp thực tế 
nước Mỹ và tình hình thế giới biến chuyển phức tạp trong thập niên cuối thế kỉ 
20. Chiến lược này nhằm mục tiêu: ra sức củng  cố và phát huy sức mạnh mọi  
mặt của Mỹ ở trong nước cũng như trên thế giới, tập trung  chấn hưng nền kinh  
tế  Mỹ, bảo vệ  an ninh và các lợi ích chiến lược của Mỹ, xây dựng trật tự  thế 
giới và ngăn chặn không để xuất hiện  một đối thủ nào có khả năng tranh giành 
quyền bá chủ  của Mỹ  trong thời kì hậu chiến tranh lạnh và đang còn những  
phức tạp mà Mỹ phải đối phó.
cuối năm 1998 chính quyền Billcliton công bố  bản “chiến lược an ninh  
quốc gia của Mỹ  cho thế  giới mới”.  Đõy là bước điều chỉnh chính sách đối  
ngoại mang tính chiến lược, đồng thời là nền tảng định hướng chiến lược đối  
ngoại của Mỹ “chiến lược an ninh quốc gia cam  kết và mở rộng” có điều chỉnh  


một số  nội dung mới: sau khi G.W.Bush lên thay Billclinton lắm chính quyền 
( 2001) về  cơ bản chiến lược đối ngoại vẫn tiếp tục theo định hướng đã được 

xác lập dưới thời Billclinton. Tuy nhiên chính sách đối ngoại trong giai đoạn 
trước sự  kiện ngày 11/9 của chính quyền tổng thống G.W.Bush vẫn đang trong  
qua trình định hình và sẽ  có những điều chỉnh mới cho phù hợp với bối cảnh 
quốc tế  trong giai đoạn hiện nay. Những thách thức đối ngoại mà chính quyền 
G.W.Bush phải đối, mặt  trải rộng từ Châu Âu qua Trung Đông sang Châu Á, các 
vấn đề trong quan hệ quốc tế với các cường quốc lớn như Mỹ ­Nga; Mỹ­ Trung 
Quốc và các đồng minh của Mỹ  vẫn còn tiềm  ẩn  nhiều khó khăn và phức tạp  
cũng như  cựu tổng thống Billclinton,  ông G.W.Bush theo chủ  nghĩa quốc tế.  
Nước Mỹ sẽ tiếp tục can dự tích cực vào công việc quốc tế và trọng tâm chiến 
lược của Mỹ vẫn là châu Âu, Trung Đông, Châu Á, đặc biệt là tăng cường quan  
hệ với các đồng minh chủ chốt của Mỹ,  ủng hộ việc triển khai hệ thống phòng 
thủ tên lửa hạn chế trên mặt đất, trên biển và trên không.
Có thể  khẳng định rằng dù đảng dân chủ  hay đảng cộng hoà lắm chính  
quyền cũng đều chủ  trương một chính sách đối ngoại phục vụ  mục tiêu chiến 
lược toàn cầu của Mỹ  là lãnh đạo thế  giới. Nội dung chiến lược toàn cầu mới 
của Mỹ hiện nay bao gồm những vấn đề chủ yếu sau:
­ Thúc đẩy sự thịnh vượng ở nước Mỹ lấy đối ngoại phục vụ đối nội và 
bảo đảm sức cạnh tranh cuả  nền kinh tế  Mỹ. chiến tranh lạnh đã làm cho nền 
kinh tế Mỹ yếu đi so với các nước khác như Nhật Bản, Đức… chi phớ quỏ tốn  
kém cho cuộc chạy đua vũ trang, ngân sách quân sự và chiến tranh khiến cho nền  
kinh tế  Mỹ  lâm vào suy thoái, tài chính thâm hụt, nợ nần quốc gia tăng lên, cán  
cân  ngoại   thương  không  cân   bằng,  các   tệ   nạn  xã  hội  gia   tăng.  Sự  khuyếch 
trương quá mức của G.W.Bush trên trường quốc tế  càng làm cho nền kinh tế 
Mỹ phải chịu gánh nặng quá tải. 


­ Sau khi thắng cử tổng thống Billclinton đã đặt ưu tiên cho  nhiệm vụ vực  
dậy nền kinh tế  Mỹ   ụng núi “giỏi thì thế  giới ngày nay, chính sách đối ngoại, 
chính sách đối nội có quan hệ  mật thiết với nhau không thể  tách rời nhau nếu 
thực hư bên trong của nước Mỹ không mạnh thì  chúng ta không có cái nhìn để 

phát huy tác dụng lãnh đạo và cống hiến to lớn với thế giới”. Nếu chúng ta thoái 
lưu  ở  các nơi trên thế  giới, xã hội của chúng ta, sẽ  bị  tổn thất (Mỹ  điều chỉnh 
lớn chiến lược toàn cầu của Lý Thực Cốc, trang 31).
­ Chính quyền Mỹ hiện nay nhận thức lợi ích an ninh và kinh tế của Mỹ là 
không tách rời. Họ đã và đang ra sức thực hiện phương hướng tăng cường cạnh  
tranh nền kinh tế, tăng cường thâm nhập thị  trường nước ngoài, đảm bảo an 
ninh về  năng lượng, giảm thâm hụt ngân sách, đầu tư  vàog khoa học kĩ thuật, 
chuyển một phần kinh tế quân sự sang dân sự, cải thiện hệ thống thông tin, tăng 
cường giáo dục, đào tạo… nhờ vậy Mỹ đã cải tạo lên kinh tế một  phần. Mỹ có 
tham vọng về kinh tế, dùng mô hình Mỹ để quy hoạch cục diện kinh tế thế giới.
­ Mở rộng nguồn khai thác tài nguyên và thị trường ra toàn thế  giới để  có 
lợi cho Mỹ với vai trò lãnh đạo nền kinh tế toàn cầu và chi phối cả EU và Nhật 
Bản. ngày 18/1/1993 trong diễn văn nhận chức của tổng thống Billclinton nhấn 
mạnh       (chính sách quan trọng hàng đấu là coi sự  an toàn kinh tế  cảu Mỹ  là 
mục tiêu chủ yếu của chính sách đối ngoại và tìm cách xác định thương mại toàn  
thế  giới) (Mỹ  thay đổi lớn chiến lược toàn cầu của Lý Thực Cốc trang 43) về 
chính trị, Mỹ dùng quan điểm giá trị  của mình để  phổ  biến và chi phối toàn thế 
giới. Từ trước tới nay Mỹ luôn kiêu hãnh với truyền thúng dân chủ  nhân quyền 
và tự  do của mình, tôn thờ  như  thánh thần chế  độ  đa nguyên, đa đảng và  tam 
quyền nhân lập và coi chế độ khác đều là những lý thuyết xa lạ .
2.3. Chủ trương chiến lược của Mỹ đối với thế giới hiện nay 
 Chiến lược “cam kết và mở rộng” của Mỹ với trụ cột như trên thực chất 


là mưu đồ  bá quyền của Mỹ  nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân mới trên toàn 
cầu. Chiến lược đó có tham vọng rất lớn khác hẳn với những tham vọng trước  
đây của Mỹ. Trong thời kỳ  chiến tranh lạnh, Mỹ  vươn lên lãnh đạo cá nước 
phương Tây, cùng với các nước đồng minh Tư  Bản chủ  nghĩa bao vây và tiến  
công Liờn Xụ  và các nước XHCN, nay trong tình hình mới, Liên Xô tan rã, Mỹ 
không còn đối thủ, và Mỹ  đã trở  thành đối thủ  duy nhất, hy vọng vươn lên trở 

thành lãnh đạo toàn cầu với nhiều thủ đoạn và biện pháp mới hòng .
_Thâu tóm trong tay và chi phối tất cả các khu vực trên thế giới .
_Tiếp tục tiến công nhằm xoá bỏ hết các nước XHCN còn lại .
_Vừa liên kết với các đồng minh tư  bản chủ  nghĩa, vừa kiềm chế  cạnh  
tranh với họ, ngăn cản không để Đức, Nhật Bản vươn lên ngang hang cũng như 
không để nước lớn nào trở thành đối thủ nguy hiểm đối với Mỹ. Mỹ muốn xây 
dựng một trật tự thế giới duy nhất một cực do Mỹ lãnh đạo, kiểm soát và khống 
chế toàn thế giới.
Trong chiến lược “cam kết mở rộng” Mỹ đã nói ra tham vọng đó, Mỹ cho  
rằng “sự lãnh đạo của Mỹ  đối với thế giới hiện nay là quan trọng và cần thiết  
hơn bất kì thời kỳ nào trong quá khứ… nếu không có vai trò lãnh đạo và cam kết  
của Mỹ , thì những mối đe doạ  sẽ  phát triển thành u nhọt và những cơ  hội của 
Mỹ thu hẹp lại. Mỹ  có vai trò lãnh đạo toàn cầu để tạo các quan hệ chính trị ổn 
định và thương mại mở  cửa của Mỹ  phải là cường quốc kinh tế  và quân sự 
đứng đầu thế  giới. Chính sách đối ngoại của Mỹ  sau chiến tranh lạnh chứa  
đựng nhiều yếu tố  mất  ổn định toàn cầu vì chính sách đối ngoại chủ  quan, tự 
cho mình là nhất, tự  mình áp đặt các điều kiện cũng như  tiến hành phát động 
chiến tranh đối với bất cứ nước nào mà Mỹ muốn.
2.4. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ sau sự kiện 11­9 
Sự  kiện 11­9 tác động rất sâu sắc đến quan hệ  quốc tế, làm tăng thêm  


những nhân tố  phức tạp, khó lường trong nền an ninh thế giới. Khủng bố quốc  
tế  trở thành mối đe doạ  nghiêm trọng đối với hoà bình thế  giới và ổn định khu 
vực. Khủng bố và chống khủng bố trở thành tiêu điểm của cuộc đấu tranh chính 
trị, quân sự thế giới trong thế kỷ mới.
Đây cũng là bước ngoặt mới quan trọng trong quan hệ  quốc tế  bởi nó 
buộc Mỹ phải điều chỉnh chính sách để ứng phó với tình hình mới, xác định lại 
các quan hệ bạn thù, các tiêu chí tập hợp lực lượng cho phù hợp với thời cơ mới  
trên bàn cờ chiến lược quốc tế. Các  quốc gia khỏc trờn thế giới cũng lợi dụng 

cơ hội này để để cải thiện quan hệ với Mỹ, ủng hộ cuộc chiến chống khủng bố 
để mặc cả có lợi cho quốc gia mình. Một liên minh chông khủng bố do Mỹ cầm  
đầu đã được hình thành. Các nước Tây Âu  ủng hộ  Mỹ  để  khẳng định lại quan 
hệ  đồng minh chiến lược với Mỹ  vốn đã bị  sứt mẻ  trong thời gian gần đây và 
cũng nhân cơ hội này để mở rộng ảnh hưởng. Nhật Bản nhân cơ hội này sửa lại 
hiến pháp cho phép lực lượng phòng vệ của mình được đưa quân ra hoạt động ở 
nước ngoài với danh nghĩa lực lượng hoà bình của Liên Hợp Quốc, để  tăng 
cường hiệp  ước an ninh Mỹ  ­Nhật. Đối với Nga về  lợi ích chiến lược sâu xa,  
ủng hộ Mỹ là góp phần tiêu diệt Taliban mạng lưới khủng bố An­ke­da. Đây là 
những thế lực có móc lối với phiến quân ở Tresnia chống lại Nga.
Thấy rõ được tầm quan trọng của việc tập hợp lực lượng chống khủng  
bố, Mỹ  thực hiện một số  điều chỉnh chớnh sỏch đối ngoại, nhấn mạnh hơn 
khÝa cạnh hợp tác và lợi ích chung, tạm gác những bất đồng tranh chấp hình 
thành một “nền ngoại giao chống khủng bố” theo đó Mỹ  lấy thái độ  khủng bố 
làm sự kiện 11­9 và sự thay đổi mạnh mẽ trong chính sách đối ngoại của Mỹ sẽ 
vạch ra một đường phân giới mới trong nền  chính trị quốc tế .
Chiến dịch chống khủng bố  cần có sự   ủng hộ  và phối hợp của nhiều 
nước vì vậy để tập hợp lực lượng, Mỹ đó cú những điều chỉnh nhất định. Tăng  


cường quan hệ với nhiều quốc gia theo hướng  ổn định và hợp tác vụ  khủng bố 
11­ 9 đã dẫn tới việc xác định lại mối quan hệ  giữa cường quốc số  1 của thế 
giới và một số nước trong đó có nước Châu Âu. Mối quan hệ giữa Mỹ và Châu 
Âu có thể có những thay đổi đáng kể do ảnh hưởng của sự kiện 11­ 9. Một mặt 
cuộc chiến tranh  ở  Kasovo đã khẳng định với bộ  tham mưu liên quân Mỹ  rằng  
NATO có thể là một trở ngại đối với các chiến dịch quân sự do Mỹ chỉ huy vì cơ 
chế  kiểm soát đa phương tỷ mỷ của NATO đối với Mỹ. Mỹ  thấy mình tự  tiến 
hành một cuộc chiến tranh dưới chiêu bài liên quân quốc tế và tự mình lựa chọn 
đồng minh cho mình trong các nước có thể có ích thực sự đối với mình, tốt hơn 
là dựa vào bộ  máy tập thể  của NATO  từ chỗ là một tổ  chức chính trị  quân sự 

NATO đang dần trở  thành một nguồn dự  trữ  các phương tiện cho các nước  
thành viên.
Trước mắt, Mỹ kiềm chế đơn phương hành động và lỗ lực xấy dựng một  
liên minh quốc tế  chống khủng bố. Mỹ  cải thiện quan hệ  với một số  nước  
trước đây đã từng có quan hệ  căng thẳng để  đổi lấy sự   ủng hộ  chống khgủng  
bố, Mỹ  đó xoỏ  bỏ  trừng phạt đối với Pakixtan, Sudan, ẤN Độ  cho Pakixtan, lôi 
kéo Pakixtan vào bàn cờ lực lượng của Mỹ. Đối với các nước Arập, Mỹ hiểu rõ 
hơn ai hết chính sự ủng hộ  quan trọng của Mỹ đối với Isreal đã biến nước Mỹ 
thành kẻ thù cảu cả thế giới Hồi Giáo. Vì vậy ngay sau sự kiện 11­ 9 Mỹ đó cú  
những động thái tích cực đối với tiến trình hoà bình ở  Trung Đông. Nói tóm lại  
Mỹ  đang và sẽ  có những bước điều chỉnh mạnh mẽ, về  mặt an ninh và đối 
ngoại  để tập trung sức cho cuộc chiến chống khủng bố.
Có thể thấy, Mỹ đã có những điều chỉnh chính sách đối ngoại quan trọng. 
Tuy nhiên, Mỹ sẽ khụng vỡ hợp tác quốc tế chống khủng bố mà hoàn thành thay 
đổi chiến lược hiện có của mình. Tuy Mỹ tạm thời làm dịu mâu thuẫn với Nga,  
Trung Quốc và thế  giới thứ  ba nhưng một khi cuộc đấu tranh chống khủng bố 


giành được tiến triển nhất định thì những bất đồng này sẽ  trở  thành mâu thuẫn 
lớn trong quan hệ quốc tế. Do đó những điều chỉnh chính sách nói trên mang tính 
chiến thuật hơn là chiến lược.
Đối với châu Á , ngoại trưởng Mỹ  Colinpowell đã đưa ra tuyên bố  hoàn 
chỉnh nhất về chính sách châu Á của chính quyền Bush và nhấn mạnh tầm quan  
trọng của các mối quan hệ  giữa Mỹ  và các đồng minh Châu Á, thể  hiện lập 
trường tích cực hơn đối với quan hệ Mỹ ­ Trung và cũng đặt ra những điều kiện  
cụ thể cho các cuộc đối thoại có thể có giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên.
Tầm quan trọng của các nước châu Á đối với Mỹ dựa trên các ưu tiên mới  
của Mỹ  tập trung vào nỗ  lực chống khủng bố. Dưới con mắt của chính phủ 
Bush, châu Á trở  thành một mặt trận chống khủng bố, do đó Mỹ  đã dần lỗ  lực  
vào việc củng cố quan hệ và tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực.

Trong quan hệ với các nước châu Á, đặc biệt là Đông Âu và Đông Nam Á,  
các yếu tố  quyết định chính sách của Mỹ  trước ngày 11­ 9 là vấn đề  an ninh, 
quyền lợi thương mại và các quan tâm nhân quyền. Nhưng bây giờ  cuộc chiến 
chống khủng bố  là  ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên Mỹ  vẫn tiếp tục thảo luận về 
vấn đề nhân quyền với các giới lãnh đạo Châu Á.
Tiếp tục chiến lược dựa vào đồng minh ở Châu Á vẫn là trọng tâm trong  
chiến lược Đông Á của chính quyền G.W.Bush. Trong mối quan hệ  ấy quân hệ 
đồng minh  Mỹ ­ Nhật Bản đã được ông Powell đánh giá cao. Mối quan hệ  này  
không chỉ  đóng góp tích cực cho  ổn định khu vực mà còn tạo khuôn khổ  cho  
Nhật Bản đóng góp nhiều hơn vào bảo vệ nền quốc phòng của chính mình cũng 
như nền hoà bình và an ninh trên toàn thế giới. Như vậy Mỹ đang ủng hộ mong  
muốn và khuyến khích Nhật Bản đóng vai trò to lớn trong khu vực. 
Ông Powell cũng đánh giá cao nỗ  lực của các đồng minh Châu Á – Thái 
Bình Dương khác như  Oxtralia, Newdilon, Korea và Philippin trong cuộc chiến 


chống khủng bố. Tuy nhiên trong khi thừa nhận mối quan tâm của các nước  
Châu Á có đông người Hồi giỏo sinh sống sẽ nguy hiểm hơn nếu các nước này 
bỏ qua chủ nghĩa khủng bố và để cho các lực lượng thiểu sè thao túng nền chính  
trị trong nước.
Đặt điều kiện cho việc cải thiện quan hệ  Mỹ  và CHDCND Triều Tiên, 
Mỹ  có thể  duy trì chính sách là sắn sàng gặp CHDCND Triều Tiên vào bất cứ 
lúc nào và ở đâu và không có điều kiện tiên quyết, nhưng rõ ràng Mỹ đã đặt cho 
những tiến bộ có thể có trong quan hệ hai nước.
Mỹ yêu cầu và chỉ  rõ rằng CHDCND Triều Tiên cần phải chấm dứt phổ 
biến vũ khí và huỷ  bỏ  chương trình phát triển tên lửa tầm xa, phải nỗ  lực hơn  
nữa trong việc bảo đảm cuộc sống của người dân kể  cả  việc cho phép người 
nước ngoài giám sát và tiếp cận… Điều này thể hiện lập trường cứng rắn hơn 
của Mỹ đối với các cuộc thảo luận giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên.
Với Liên Bang Nga, Nga được hình thành là biểu hiện quan trọng của 

những thay đổi và liên kết trong quan hệ quốc tế. Cuộc chiến chống khủng bố là  
trung tâm của ngoại giao Mỹ và khiến Mỹ  phải có những điều chỉnh nhất định 
trong quan hệ với Nga. Những điều chỉnh đó bao gồm việc lôi kéo Nga tham gia 
vào liên minh chống khủng bố  của Mỹ. Đổi lại, Mỹ  có lập trường mềm dẻo  
hơn đối với Nga trên một số  vấn đề  như  vấn đề  Tresinia, tăng cường hợp tác 
kinh tế, cắt giảm vũ khí chiến lược… Thực chất là nhân nhượng để đánh đổi sự 
ủng hộ của Nga.
Đối với Trung Quốc, hiện nay Mỹ đang tìm kiếm sự hợp tác trong các vấn 
đề  quốc tế  quan trọng và các vấn đề  an ninh khu vực đề  phòng Trung Quốc có  
tiếng nói chống đối Mỹ. Trung Quốc có sức mạnh kinh tế, quân sự  và  ảnh 
hưởng lớn đến thế  giới thứ  ba. Điều này sẽ  không có lợi cho lợi ích toàn cầu  
của Mỹ. Trung Quốc là một trong năm nước lớn có vũ khí hạt nhân, là một trong 


số ít quốc gia trên thế giới có khả năng gây ảnh hưởng đối với CHDCND Triều  
Tiên, Mianma và tham gia vào hầu hết các cuộc tranh chấp lãnh thổ đã từng xảy 
ra hoặc tiềm  ẩn trong khu vực Đông Á.. Do đó Trung Quốc có  ảnh hưởng lớn  
đến hoà bình ổn định khu vực và có liên quan đến lợi ích của Mỹ. Sự hợp tác với 
Trung Quốc sẽ đảm bảo an ninh và ổn định ở châu Á . Mặt khác thông qua việc 
mở rộng giao lưu và hợp tác quân sự giữa hai nước là Mỹ muốn tìm hiểu, lắm ý  
đồ thực lực của Trung Quốc đồng thời tìm cách ngăn cản Trung Quốc xuất khẩu  
vũ khí, đặc biệt là bán cho những nước bị Mỹ coi là thù địch với họ.
Tóm lại từ  sau sự  kiện 11­ 9 Mỹ  đã bộc lộ  là một siêu cường đầy tham 
vọng, muốn nhanh chóng áp đặt sự  thống trị    “đơn cực” của Mỹ  lên toàn thế 
giới, quốc gia khác, công dân Mỹ được đặc biệt miễn trừ.
Quan điểm về vũ khí hạt nhân trong chiến lược an ninh quốc gia mới của  
Mỹ cũng đã thay đổi cơ bản. Sử dụng vũ khí hạt nhân không còn là quân sự cuối 
cùng khi bị  tấn công bằng vũ khí hạt nhân, mà đã trở  thành vũ khí tiến công  
chiến thuật để đáp trả nguy cơ bị tấn công bằng các loại vũ khí khác như vũ khí  
sinh học và hoá học. Các tổ chức khủng bố cũng đã trở thành mục tiêu tấn công 

của Mỹ bằng vũ khí hạt nhân. Chính sách hạt nhân mới cuả Mỹ đã  đi ngược với  
những quy định cơ bản trong hiệp ước quốc tế về không phổ biến về vũ khí hạt  
nhân. Ngày 17­12­2002 tổng thống G.W.Bush còn tuyên bố  bắt đầu triển khai 
các tên lửa đánh chặn đầu tiên trong hệ thống phòng thủ  tên lửa quốc gia NMD  
vào năm 2004. Những thay đổi trong chiến lược an ninh của Mỹ trong năm 2002  
đã tạo điều kiện cho đảng cộng hoà của tổng thống Mỹ  Bush giành thắng lợi  
trong cuộc bầu cử quốc hội giữa nhiệm kỳ. Vỡ nó đỏnh đỳng tâm lý của cử  tri 
Mỹ  là “cần được bảo vệ  bằng mọi giỏ” nhưng cũng chính quan điểm an ninh 
mới này theo đó đánh động quyền tự do bảo vệ với quyền tấn công nước khác,  
đồng thời đẩy mạnh an ninh và hoà bình thế giới tới gianh giới nguy hiểm nhất.  


Nhưng cái cớ mà Mỹ  không ngớt rêu rao rằng : Iraq tích trữ vũ khí hủy diệt, đe  
doạ an ninh thế giới, rằng chính quyền S.Hussen cấu kết với các tổ chức khủng 
bố  như  Al­Queda đã không hề  thuyết phục được hội đồng bảo an Liên Hợp  
Quốc và hầu hết 200 quốc gia trong cộng đồng quốc tế.Cuộc chiến tranh  mà 
Mỹ  đã tiến hành với  Iraq nằm trong mục tiêu chiến lược  đã được  xác lập:  
Khẳng định quyền bá chủ  thế  giới không ai có thể  cạnh tranh mà Mỹ  đã làm,  
thiết lập trật tự tại Trung Đông theo sự sặp đặt của Mỹ, đồng thời là đòn răn đe 
đối với bất cứ quốc gia nào không tuân theo cây gậy chỉ huy của “ siêu cường”. 
Hiện nay, chi phí quân sự  của Mỹ  chiếm 40% ngân sách quân sự  toàn thế  giới.  
Chiến tranh Iraq dự kiến Mỹ đã tiêu phí hết hơn 100 tỉ USD.
Theo các nguồn tin của Liên Hợp Quốc, các quan chức Mỹ  và Liên Hợp 
Quốc hiện nay đều cho rằng Mỹ đang phá hoại chế độ giải trừ quân bị quốc tế 
thông qua việc trừ bỏ chế độ đa phương và theo đuổi chế độ đơn phương.
Được cổ vũ bởi thắng lợi quân sự trong cuộc chiến Iraq, Mỹ đã công khai 
bác bỏ  các cơ  quan năng lượng nguyên tử  quốc tế  TAEA và uỷ  ban giám sát  
kiểm chứng và thanh tra của Liên Hợp Quốc (UNMOVIC) vốn là cơ  quan hợp 
phát duy nhất của Liên Hợp Quốc có quyền tuyên bố  liệu Iraq có vũ khí giết 
người hàng loạt hay không. Nhà trắng còn tuyên bố Mỹ chống lại việc thanh tra  

vũ khí của Liên Hợp Quốc trở lại Iraq và khẳng định liên minh do Mỹ cầm đầu  
đảm nhiệm và giải giáp vũ khí của Iraq thay cho Liên Hợp Quốc. 
Khuynh hướng theo đuổi của chủ  nghĩa đơn phương của Mỹ  cũng thể 
hiện rõ trong cách xử  sự  của Mỹ đối với các vấn đề  quốc tế. Mỹ  đơn phương  
rút khỏi    “ nghị định Kyoto” từ  chối phê chuẩn “ Hiệp  ước cấm thử hật nhân 
toàn cầu” và từ  chối tham gia đàm phán “ Nghi định thư  công  ước cấm vũ khí 
sinh học”.
Không có bất cứ thay đổi nào mà cũn cú những phát triển mới. Ví dụ : Bất  


chấp sự phản đối rộng rãi của cộng đồng quốc tế, chính phủ  Bush tuyên bố  rút 
khỏi “ Hiệp  ước chống tên lửa đạn đạo” năm 1972, từ  chối tham gia hội nghị 
thúc đẩy hiệu quả ‘hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện của Liên Hợp Quốc”.
Học thuyết quân sự  của Mỹ tự cho mình có quyền tấn công phủ  đầu các  
nước có vũ khí giết người hàng loạt. Chính quyền G. W. Bush cũng núi công  
khai rằng Mỹ đang xem các kế hoạch phát triển các vũ khí hạt nhân nhỏ và chính 
xác hơn có khả năng phá huỷ các hầm ngầm nằm sâu trong lòng đất. Bình luận  
về  vấn đề  này, nguyên cố  vấn an ninh quốc gia Mỹ  Condonuza Rice nói rằng  
cách duy nhất đẻ răng đe “cỏc nước cứng đầu cứng cổ’.
Không tuân theo chiếc gậy chỉ huy của Mỹ là sử dụng vũ khí huỷ diệt với 
việc từ bỏ chế độ thanh sát vũ khí của Liên Hợp Quốc .
Chính quyền G.W Bush đã bỏ  qua cơ  chế  an ninh tập thể  và đã sử  dụng 
sức mạnh quân sự hùng mạnh của mình để tấn công các nước mà Mỹ cho là mối  
đe doạ tiềm tàng. Chiến tranh Iraq đã tạo ra một tiền lệ nguy hiểm và mọi công 
thức sai lầm khi xử lý các thách thức chung của toàn cầu.Với việc tự  cho mình 
tự xâm lược Iraq, Mỹ đã làm dấy lên lo ngại trong nước và nước ngoài rằng: Mỹ 
đã tự coi mình đứng đầu trên pháp luật và các tiêu chuẩn và chi phối các quan hệ 
và cả quốc tế cũng như các thế chế quốc tế.
KẾT LUẬN
Mỹ  đã điều chỉnh chính sách đối ngoại từ  đa phương đến chủ  nghĩa đơn 

phương cực quyền, điều này có thể  thấy rõ trong bản thông điệp liên bang mà 
tổng thống Mỹ đọc ngày 21­2­2002 trước lượng viện quốc hội nhân dân thế giới 
đang phải đối mặt với chủ  nghĩa đơn phương độc đoán kiểu Mỹ. Tự  trao cho  
mình xứ  mệnh lãnh đạo thế  giới, Mỹ  đã và đang áp đặt các cách xử  sự  trong 
quan hệ quốc tế. Nhìn một cách toàn cục, Mỹ dang ép buộc thế giới hướng theo  
giá trị  Mỹ, sống theo giá trị  Mỹ. Nhờ  có  ưu thế  quân sự  và  sức mạnh kinh tế 


vượt trội không ai có thể so sánh nổi trong lịch sử hiện tại, Mỹ đang tìm cách vẽ 
lại bản đồ thế giới, phá bỏ cấu trúc trật tự thế giới hiện hành. Việc Mỹ  là siêu 
cường duy nhất còn lại sau chiến tranh lạnh không phải là điều gì mới mẻ, cái  
đáng nói là họ đã tận dụng khá tốt “ cơ hội vàng 11­ 9” để  áp đặt mọi thứ “dõn 
chủ cưỡng bức” nên phần còn lại là của thế giới. 
Vệc điều chỉnh chính sách đối ngoại, điều chỉnh chiến lược của chính  
quyền G.W.Bush phải phản ánh địa vị,  ưu thế  siêu cường hiện nay của Mỹ  là 
phục vụ  cho việc xây dựng trật tự  mới do Mỹ  lãnh đạo. Nhưng trong quá trình 
thực hiện kinh tế mới này đó gõy nhiều ảnh hưởng đến quan hệ chính trị quốc tế 
làm nảy sinh nhiều xung đột và mâu thuẫn mới, đe doạ nghiêm trọng đến an ninh 
và pháp luật cảu quốc tế. Chính sách và hoạt động ấy đã vấp phải sự phản kháng 
quyết liệt không chỉ  từ  phớa cỏc đối thủ  mà cả  từ  phía không ít các đồng minh 
của Mỹ.
Hiện nay trên thế giới có xu thế mới nổi lên, đó là các nước đều lấy phát 
triển kinh tế  làm trọng tâm, cần có môi trường hoà bình,  ổn định hoà hoãn, hoà  
dịu trên thế  giới. Các nước đều đã điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng 
xây dựng đối tác bạn bè, một xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá, với sự ra đời 
và lớn mạnh của các tổ  chức liên minh quốc tế, các tổ  chức khu vực… tất cả 
đều nhằm xây dựng và phát triển cho mỗi quốc gia thế  kỷ  21, thế  kỷ cảu hoà 
bình , phát triển và hợp tác, phồn vinh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau chiến tranh­Usforeign policy after  

the cold war.
2. Lý thực cốc: Mỹ thay đổi chiến lược toàn cầu.
3. Thông tấn xã Việt Nam : Mỹ  điều chỉnh trong chính sách đối ngoại 
phần I, tài liệu tham khảo số 9/2002.


4. Thông tấn xã Việt Nam : Mỹ  điều chỉnh trong chính sách đối ngoại 
phần II, tài liệu tham khảo số 10/2002.



×